NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
17
HÌNH TƯỢNG
BÁT BỬU TRONG
NGHỆ THUẬT TRANG
TRÍ NGƯỜI VIỆT
ĐINH HỒNG HẢI?
(ˆ như nhiều quốc gia có bề dày
lịch sử văn hoá ở Châu Á, nghệ
thuật trang trí của người Việt là hệ
thống biểu tượng (Idol) bắt nguồn từ
những tư duy mang tính ẩn dụ, siêu
thực. Cùng với các biểu tượng khác như:
tam đa, tứ linh, ngũ phúc, bát tiên Bát
bửu là một môtip trang trí bắt nguồn từ
Trung Hoa du nhập vào Việt Nam trong
quá trình giao lưu văn hoá. Sự ảnh
hưởng của văn hoá Trung Hoa tới nghệ
thuật trang trí ở Việt Nam, Triều Tiên,
Nhật Bản là một kết quả tất yếu trong sự
hình thành những nền văn hoá đồng văn
Trung Hoa. Tuy nhiên, tuỳ từng nơi,
từng lúc sự tác động của các yếu tố văn
hoá Trung Hoa lúc đậm lúc nhạt, có lúc
còn có tác động trở ngược '”do nền văn
hoá của các quốc gia này đều có những
đặc thù riêng.
Việt Nam là một quốc gia có nền văn
hoá lâu đời đã phát triển rực rỡ qua hàng
nghìn năm lịch sử, nơi giao lưu của hai
nền văn minh lớn Trung Hoa và Ấn Độ.
Các yếu tế văn hoá du nhập từ bên ngoài
vào đã dung hợp với văn hoá bản địa tạo
nên những sản phẩm trang trí mang
phong cách riêng mà bát bửu là một mô
tip đặc trưng cho qúa trình tiếp biến văn
hoá đó. Hiện tượng “hỗn dung tôn giáo” ở
'} Viên Nghiên cứu văn hóa dân gian.
Việt Nam được thể hiện khá rõ nét qua
hình tượng bát bưu trong nghệ thuật
trang trí. Đây cũng là nội dung chính mà
chúng tôi muốn đề cập đến trong bài viết
này.
1. Hình tượng bát bửu trong tôn
giáo - tín ngưỡng ở Việt Nam
Hình tượng bát bửu được đưa vào
Việt Nam vào khoảng thời gian: khi chế
độ quân chủ Phật giáo Lý - Trần không
còn giữ được vị trí thống soái về văn hoá.
Niên đại sớm nhất của mô tip này được
xác định là 1647 trên lan can đã và bệ
tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt
nghìn tay chùa Bút Tháp thời Lê Trịnh ”.
Ở giai đoạn này nhiều giáo lí chính thống
của Nho giáo được đặt ra, nhiều hình
thái kinh tế, chính trị rập khuôn Trung
Hoa được thiết lập. Đến thời Nguyễn,
hình tượng bát bửu đặc biệt phát triển,
từ kiến trúc cung đình đến những vùng
thôn dã, từ những vị trí trang trọng, bề
thế đến ngóc ngách chi tiết phụ. Dường
như các mô thức trang trí này đã định
hình trong tâm trí của nghệ nhân để rồi
mọi lúc, mọi nơi thông qua đôi bàn tay
khéo léo của họ, chúng được diễn tả một
cách hết sức sinh động và lặp đi lặp lại,
tạo nên một hệ thống trang trí gần như
có cùng một nội dung. Tính chất lặp lại
này không chỉ có ở bát bửu mà còn hiện
hữu trên nhiều mô tip khác: “Nếu ta
chuyển từ ngôi đền tôn giáo sang toà lầu
công cộng, và từ toà lầu công cộng sang
ngôi nhà tư nhân, ta sẽ cảm thấy một ấn
tượng đồng nhất khi nhìn vào những
trang trí của nó. Và ấn tượng này lại
càng đậm nét nếu sau khi xem xét chúng
ta lại đi sâu vào chi tiết. Những mô tip
trang trí đều như bị nhắc lại, các nguyên
lí đều như có họ hàng với nhau”?”,
18
ĐINH HỒNG HẢI
——Ƒ Š£ ______ễễEEEEEEEEỄỄễỄễỄễỄễẼỄẼŸẼŸẼŸỶŸỶŸỶŸỶŸỶŸỶŸỶŸỶŸỶŸEỶEỶẼÝỶŸEŸẼEẼEẼŸẼỶŸẼỄễÃÃễễEễEễEễEễẼEEE
Tuy nhiên, ta vẫn có thể phân chia
hình tượng bát bửu làm những loại sau:
- Bát bửu mang ý nghĩa Phật giáo.
- Bát bửu mang ý nghĩa Đạo giáo.
- Bát bứửu mang ý nghĩa Nho giáo.
Ngoài ra còn một loại bát bửu mang ý
nghĩa sức mạnh quyền lực ít được nói tới.
Hiện nay, loại bát bửu này gần như bị
lãng quên trước ưu thế độc chiếm của các
loại bát bửu đã nói ở trên.
2. Hình tượng bát bửu trong nghệ
thuật trang trí của người Việt
2.1. Bát bửu mang ý nghĩa Phật
giáo. Trước hết cần phải khẳng định
rằng, hình tượng bát bửu không nằm
trong giáo lí Phật giáo nhưng sự ảnh
hưởng của hệ thống lí thuyết này tới các
hình tượng trang trí trên lại là một kết
quả tất yếu. Đặc biệt, hiện tượng “tam
giáo đồng nguyên” ở Việt Nam đã tạo một
mảnh đất tốt cho hình tượng bát bửu
trong nghệ thuật trang trí phát triển một
cách hết sức thuận lợi. Có thể nhận thấy,
ở những quốc gia láng giềng độc tôn Phật
giáo như Thái Lan, Lào, Campuchia
không hể có hình tượng bát bửu trong
trang trí. Do đó, có thể coi hình tượng
này là một đặc trưng của nghệ thuật
trang trí Phật giáo Việt Nam giai đoạn
Lê - Nguyễn. Hình tượng bát bửu xuất
hiện nhiều trong các kiến trúc cũng như
điêu khắc Phật giáo ở Việt Nam được tạo
bởi một thứ ngôn ngữ cô đọng, dễ hiểu đó
là ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình và
hình tượng bát bửu có niên đại sớm nhất
như hiện biết, nằm ở một kiến trúc Phật
giáo (chùa Bút Tháp) chứ không phải một
kiến trúc tôn giáo nào khác. Điều đó cho
thấy Phật giáo ở Việt Nam luôn có sự tác
động của các yếu tố văn hoá dân gian bản
địa để hình thành nên “dòng nghệ thuật
Phật giáo mang tính dân gian”. Mặt
khác, xét trên bình diện chung, trong quá
trình chuyển tải nội dung những giáo lí
Phật giáo thành dạng ngôn ngữ hình
tượng, người xưa do vô tình hay cố ý đã
“đân gian hoá” những lí thuyết Phật giáo
mang tính triết lí để rồi biến chúng
thành một thứ “triết lí dân gian” mà mọi
người đều có thể cảm thụ được. Có lẽ,
cũng vì thế mà Phật giáo dân gian Việt
Nam dễ dàng đến với người dân ở mọi
tầng lớp xã hội giai đoạn này. Và hình
tượng bát bửu trong nghệ thuật tạo hình
có tác dụng như một trung gian chuyển
tiếp các tư tưởng của Phật giáo đến với
người dân.
Ở các chùa, bát bửu được mô tả dưới
các hình thức :
- Lá đề, tù và, tàn lọng, cờ, hoa sen,
nậm hình quả bầu, cá và dây kết nút??.
- Bánh xe chuyễn luân, tù và ốc, tàn
lọng, hoa sen, cặp chữ vạn, độc lư bốn
chân và dây kết nút”).
Trong các biểu tượng nói trên ta có
thể thấy: hình lá để, hình hoa sen, hình
bánh xe chuyển luân, hình chữ vạn và
nút dây thường được sử dụng trong nhiều
thành phần trang trí, bởi chúng mang
nhiều hàm nghĩa rộng trong lí thuyết
Phật giáo. Có thể kể ra đây một vài ý
nghĩa trong vô vàn ý nghĩa tượng trưng
của các biểu tượng này:
- Hình lá đề, tượng trưng cho cõi niết
bàn nơi đức phật Thích Ca Mâu Ni giác
ngộ. Hình thức trang trí này cũng có ở
nhiều thành phần trang trí như: tượng
Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay —
chùa Bút Tháp, các bức trang trí vì nóc
chùa €ói, chùa Mui, các đải trang trí ở
nhiều chùa khác.
- Hình hoa sen tượng trưng cho miền
cực lạc. Hình thức này thường gắn với
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
19
—=—————————=-_— “TT _-GBGGGCCCCCCCCCCCPEŸEŸEŸEŸỶEỶEỶEỶEỶEỶEŸEEEỂEỂEEEEEEECCCEỄEEEEEE-ễ
hình tượng toà sen, được trang trí ở hầu
hết các bệ tượng A Di Đà, Quan Âm Bồ
Tát và nhiều chỉ tiết khác.
- Hình bánh xe chuyển luân, tượng
trưng cho kiếp luân hồi. Hình thức này
khởi nguyên nằm trong tay các tượng
phật, sau được chuyển sang nhiều mô tip
trang trí khác mà bát bửu là một trong
những hình thức đó.
- Hình chữ vạn, tượng trưng cho
nghiệp qua. Ban đầu được đặt trên ngực
tượng giữa hai nếp áo cà sa gắn với chữ
“tâm” của đức Phật từ bi độ lượng. Về sau
hình thức này được thấy ở nhiều chỉ tiết
khác nhau làm nền hoạ tiết, hoa văn,
đường điểm, bát bửu.
- Nút dây là một hình thức trang trí
đẹp, hình dây kết nút có bố cục chặt chẽ,
hoạ tiết mềm mại. Tuy nhiên, hình thức
này ít thông dụng như các hình tượng nói
trên và ý nghĩa của nó rất khó đoán định.
Có tác giả cho rằng đó là biểu tượng của
hồ nước. ',
Còn các hình : tù và ốc, tàn lọng, quả
bầu, cá, độc lư 4 chân...không phải chỉ có
bát bửu Phật giáo mới có mà các hình
thức này cũng có mặt ở rất nhiều thành
phần trang trí khác cùng với các biểu
tượng của Đạo giáo, Nho giáo và tín
ngưỡng dân gian
3.2 Bát bửu mang ý nghĩa Đạo
giáo. Bát bửu mang ý nghĩa Đạo giáo của
Trung Hoa gồm rất nhiều hình thức, có
thể điểm qua một số loại mà các nhà
nghiên cứu đã thống kê:
- Theo Bushell” trong Les œrfs
Chỉnga, thì bát bửu của những người bất
tử gồm có: Cái quạt của Tshou Lïi Siuan
dùng để gọi hồn người chết, cái nậm thần
của nhà hành hương L1 Tie Kouoal, bộ
sênh tiền của Tsso Kouotsin, cái lẵng hoa
của Lan Tssi Ho, ống sáo trúc và cặp roi
của Han Siang Tseu, bông hoa sen của
Ho Hien Ko.
- Theo Antissot!” trong Co? sugeriur
đˆ Annamite, có ghi, bát bửu gồm: Pho
sách, gậy như ý, cuốn thư, lẵng hoa, bầu
rượu, đàn, quạt, phất trần.
- Theo Petrus Của trong Đistionnaire
Annamite, gồm: Bầu trời, quạt và, gươm,
đàn, hòm sách, bút lông, sáo đôi, chủ
phất.
Mặc dù vậy, bát bửu mang ý nghĩa
Đạo giáo của Trung Hoa đã không phát
triển được ở Việt Nam mà cuối cùng còn
bị hoà lẫn vào Phật giáo, Nho giáo và tín
ngưỡng dân gian giống như chủ thể đã
tạo ra nó, đó là Đạo giáo.
Đạo giáo là một trong các tôn giáo
chiếm ưu thế ở Trung Hoa, tuy nhiên, sự
anh hưởng của Đạo giáo vào Việt Nam
không thuận lợi như Phật giáo và Nho
giáo. Sự phát triển của Đạo giáo ở Việt
Nam rất mờ nhạt bên cạnh sự hưng thịnh
của Phật giáo và Nho giáo. Giai đoạn
phát triển cao nhất của Đạo giáo là vào
thế kỷ XVI với một số quán đạo lớn như:
Linh Tiên quán, Hưng Thánh quán, Hội
Linh quán, Lâm Dương quán......
Đây là một giai đoạn mà nền chính
trị phong kiến nước ta có nhiều thay đổi
lớn lao. Nhà Mạc lật để chính quyển Lê
sơ - một triều đại “độc tôn Nho giáo”.
Nhiều chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội
được thay đổi, việc quản lý có phần nới
lông, “tuy lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng
chính thống nhưng nhà Mạc cũng không
hạn chế những tư tưởng phi Nho
khác”.””` Chính trong điều kiện như vậy,
những tôn giáo phi Nho được du nhập từ
bên ngoài ( cả trước và trong giai đoạn
này) phát triển nở rộ trong dân gian,
trong đó có Đạo giáo. Tuy nhiên, sự phát
20
ĐINH HỒNG HẢI
Z—————————
triển của tôn giáo này cũng ngắn ngủi
như sự tổn tại của vương triều Mạc. Sau
khi nhà Lê với liên minh Lê - Trịnh tiêu
diệt Mạc, thì Đạo giáo ở nước ta cũng dần
dần bị dung hợp vào các tôn giáo khác
chiếm ưu thế hơn. Các quán Đạo lần lượt
được * chùa hoá” trở thành: chùa Mui tức
Hưng Thánh quán, chùa Sổ tức Hội Linh
quán, chùa Linh Tiên tức Linh Tiên
quán, chùa Lâm Dương tức Lâm Dương
quán Các vị tiên của Đạo giáo biến
thành những vị thần - thánh được đưa
vào thờ ở đền, đình, miếu và hậu chùa
cùng các vị thần bản địa. Sau khi Đạo
giáo và các quán đạo bị “dân gian hoá”,
hình tượng bát bửu của tôn giáo này
không còn lí do để tồn tại mà chúng được
hoà chung vào nghệ thuật trang trí của
Phật giáo và Nho giáo bằng các sản phẩm
tạo hình thông qua tư duy của những
người nghệ sĩ dân gian. Kết quả là các
biểu tượng của Đạo giáo như: quạt, nậm,
lẵng hoa, sáo trúc, phất trần xuất hiện
ngày càng nhiều ở các đình, đền, chùa,
cung điện trong các gial đoạn sau này .
2.3. Bát bửu rmmang ý nghĩa Nho
giáo. Cũng như vai trò thống soái của
Nho giáo đối với văn hoá Việt Nam trong
các triều đại Lê - Nguyễn, hình tượng bát
bửu mang ý nghĩa Nho giáo có mặt ở hầu
khắp mọi nơi với nhiều cách biểu hiện
khác nhau. “Bát bưu là vũ khí của ông
tiến sĩ, từ ông tiến sĩ tiến lên thành nhà
bác học rồi lên nữa thành nhà hiển triết.
Ý nghĩa của nó ngày càng mở rộng đến
mọi thứ gì gọi là thông minh, uyên bác,
hạnh phúc ”??, Chính các loại “vũ khí của
ông tiến sĩ” này giúp ta phân biệt được
bát bửu mang ý nghĩa Nho giáo với bát
bứu mang ý nghĩa Đạo giáo và Phật giáo.
Bát bửu mang ý nghĩa Nho giáo được
các nhà nghiên cứu thống kê như sau:
- Theo Dumoutier,3 bát bứu gồm:
cặp sáo, cây đàn, lẵng hoa, quạt, cuốn
thư, hương án bày sách, chuông đá
(khánh) và quả bầu.
- Theo Cadiere,!? thì bát bửu gắn
với sự giàu có gồm : đồng tiền, ô trám,
gươm, đàn, sáo, sách, tù và, quạt vả,
khánh.
Theo Bernanos,'” bát bửu bao
gồm: cặp cánh chuồn, đôi bút lông, bó
sách và cây gươm, bầu rượu, nhạc cụ,
lãng hoa, kim khánh, quạt.
Như vậy, ta có thể nhận thấy rằng:
các hình tượng sách, đàn, quạt, khánh, là
những cái có mặt nhiều nhất trong các
loại bát bửu mang ý nghĩa Nho giáo đã
thống kê trên đây. Ÿ nhĩa của chúng được
lí giải như sau:
Sách tượng trưng cho tư chất
thông minh, uyên bác của nhà nho. Sách
đi kèm với cuốn thư, bút lông được trang
hoàng ở những vị trí trang trọng nhất và
có mặt trong rất nhiều kiến trúc tư gia,
đình làng, cung điện...
- Đàn, tượng trưng cho thú vui tao
nhã của kẻ sĩ với bầu rượu, túi thơ, cây đàn.
Hình tượng này thường được trang trí trên
các thành tố trang trí của cung điện, đình
làng... tuy nhiên, không có nhiều.
- Quạt, ý nghĩa tượng trưng của vật
dụng này được lí giải rất khác nhau. Một
số người cho rằng đó là biểu hiện của thú
tiêu dao, nhàn tàn của nho sĩ nhưng cũng
có người cho rằng đó là biểu hiện cho
phong thái của bậc vương giả. Mặt khác,
có thể thấy rằng quạt là một biểu tượng
chính của bát bửu mang ý nghĩa Đạo giáo
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
21
—===========——————— E——ETT ————ễ
nên rất khó xác định hình quạt bắt
nguồn từ ý nghĩa Nho giáo hay Đạo giáo.
- Khánh, tượng trưng cho sự giàu có.
Hình thức này cố nhiều trong các đình,
chùa, cung điện. Nó không chỉ là một hình
thức trang trí trên các chạm khắc mà còn
là một vật dụng mang tính độc lập.
Còn lại các biểu tượng khác như lẵng
hoa, ô trầm, sáo, tù và,bầu rượu là những
biểu tượng đã được dung hợp với các loại
bát bưu của Đạo giáo, Phật giáo và tín
ngưỡng dân gian, nên chúng được sử dụng
một cách khá phổ thông tuỳ theo quan
niệm của từng địa phương nơi chúng xuất
hiện hoặc được tạo ra theo lối tư duy riêng
của từng người thợ - nghệ sĩ.
9.4 Bát bứu mang ý nghĩa sức
mạnh quyền lực. Cùng tôn tại với các
loại bắt bửu nói trên còn có một loại bát
bửu mang ý nghĩa về sức mạnh quyền
lực, chúng tượng trưng cho pháp quyền,
thể hiện dưới tám đồ binh khí cắm thành
hình rẻ quạt trên một chiếc đế gọi là fog
hích trưng bày ở những nơi phủ đường.
đưa vào đình,
.cùng với những vật trang trí khác.
Về sau chúng được
chùa..
Khởi nguyên của tám đồ binh khí này là:
thương, đao, mâu, mác (hoặc phủ), chấp,
kích, chuỳ, trượng. Loại bát bửu này được
gọi bằng nhiều tên khác nhau: lỗ bộ, lộ
bộ, bộ chấp kích... Tên gọi bát bửu có lẽ
được dùng về sau (khi chúng được đem
trưng bày ở đình, chùa).
Tuy là những đồ binh khí nhưng khi
được cắm đông loạt thành một hình rẻ
quạt, bên cạnh các đồ trang trí khác
chúng nổi bật lên giữa những tàn, lọng,
trống, cờ...tạo nên một thành phần trang
trí có giá trị nghệ thuật cao ở các di tích.
Cũng như các loại bát bửu nói trên, loại
bát bửu này cũng không tuân theo một
nguyên tắc thống nhất, ở mỗi nơi lại có một
vài sự thay đổi. Tuy nhiên có một số loại
binh khí được sử dụng khá phổ biến trong
trang trí đó là: đao, mác, chấp, kích, chuy,
mâu được thấy ở đa số những bộ còn
nguyên vẹn tính tới thời điểm hiện nay.
Hình thức của mỗi loại này mang
những nét tạo hình riêng, được biểu hiện
như sau:
- Đao là một loại binh khí móng dẹt,
bản rộng uốn cong về một phía, mũi
nhọn.
- Mác là loại binh khí hình thoi mài
cạnh, đầu nhọn.
- Chấp là loại binh khí có một mũi
vuông, nhọn ở giữa, hai bên có hai mũi
phụ nhọn bai đầu.
- Kích là loại bình khí tương tự như
chấp nhưng chỉ có một mũi phụ ngắn.
- Chuy là loại binh khí có một quả
cầu kim loại, thường gắn thêm một mũi
nhọn ở phía trên.
- Mâu là loại binh khí có dạng uốn
thân rắn phía dưới, vuốt nhọn đầu về
phía trên (còn gọi là xà mâu).
Loại bát bửu này hiện nay chỉ còn lại
rất ít, không phổ biến rộng như các loại
khác.
chúng tôi mới chỉ tìm thấy ba bộ còn khá
nguyên vẹn: một ở đình An Hoà (Thanh
Liêm - Hà Nam), một ở chùa Keo (Vũ Thư
- Thái Bình) và một ở đền Bạch Mã
(Hoàn Kiếm - Hà Nội) có niên đại ước
đoán khoảng trên dưới 200 năm. Còn đa
Khảo sát ở nhiều nơi hiện nay
số đều đã mất mát hoặc làm lại trong thời
gian gân đây.
22
ĐINH HỒNG HẢI
——__—__—_——___————————————————ễ————————————————--——————
3. Một vài giá trị lịch sử - văn
hoá của hình tượng bát bửu trong
nghệ thuật trang trí của người Việt
Xét về giá trị lịch sử, hình tượng bát
bửu trong trang trí người Việt đánh dấu
một giai đoạn phát triển mạnh mẽ của nền
văn hoá Việt Nam được dung hợp bởi nhiều
yếu tố tôn giáo —- tín ngưỡng. Đặc biệt là
hiện tượng “tam giáo đồng nguyên” ra đời
và phát triển ở thời kì này đánh dấu một
giai đoạn bản lề của quá trình “hỗn dung”
tôn giáo đã tạo nên một nét độc đáo trong
trong bản sắc văn hoá Việt Nam, đó là sự
hoà đồng của các tôn giáo.
Nghệ thuật trang trí người Việt nói
chung và hình tượng bát bửu nói riêng đã
phản ánh bộ mặt xã hội đương thời một
cách rõ nét. Theo Berrnanos: “Một xã hội
vốn tôn trọng quyền lực với giai cấp nào
thì thích ứng với loại trang trí đó”.?®'` Có
thể thấy, so với hình tượng bát bửu mang
ý nghĩa Đạo giáo và Phật giáo, hình
tượng bát bửu mang ý nghĩa Nho giáo đã
chiếm một số lượng vượt trội trong nghệ
thuật trang trí của người Việt. Điều đó
cho thấy tư duy của những người làm
nghệ thuật giai đoạn này luôn có sự ảnh
hưởng của giáo lí Nho giáo. Cũng theo
Bernanos : “Họ tôn trọng một cách sâu
sắc những chức vị, họ thích sự danh giá
và công việc trong làng, ngoài xã, trang
trí An Nam luôn bày ra những cảnh vũ
khí của quan tiến sĩ: bút nho, hộp đựng
bằng sắc. Họ bị hấp dẫn bởi tính khí điềm
đạm của nhà hiển triết và cách xếp đặt
cân đối”??°”. Sự “cân đối” này đã thể hiện
rất rõ qua nghệ thuật xếp đặt theo lối
“cân bằng tĩnh” của bát bửu - chúng luôn
đăng đối, chặt chẽ và lôgich. “Chỉ chừng
nào hiểu được ý nghĩa những biểu tượng
này ta mới có thể thưởng thức được một
vật trang trí của người An Nam và cái
đẹp của nó”#3,
Ở một khía cạnh khác, hình tượng
bát bửu trong trang trí người Việt đã thể
hiện “sức để kháng” với các sản phẩm
văn hoá du nhập từ bên ngoài. Yếu tế này
anh hưởng một cách rõ nét thông qua
việc “dân gian hoá” những giáo lí của
Nho - Phật - Đạo: “Họ không để ý nhiều
đến hệ thống triết thuyết tôn giáo hay
thần linh cụ thể nào. Đối với họ, tất cả
đều là thần thánh, có quyền năng siêu
nhiên nên đều là đối tượng để họ cầu xin
an lành - hạnh phúc, giải trừ bất hạnh -
tai ương”.!? Có lẽ vì vậy mà trong bát
bửu Phật giáo có những sản phẩm hình
thành từ lí thuyết Đạo giáo, Nho giáo và
ngược lại.
Về giá trị nghệ thuật, hình tượng bát
bửu tuy không chiếm một số lượng lớn,
dày đặc như tứ linh, tứ quí và hình thức
chế tác cũng không quá cầu kì nhưng
chúng lại đống vai trò rất quan trọng
trong việc biểu đạt nội dung của tác
phẩm nghệ thuật cả về nội dung lẫn hình
thức. Về điểm này, có thể thấy rằng, hình
tượng nghệ thuật trong trang trí của bát
bửu đã tiến gần đến “nghệ thuật mang
tính bác học” khá phổ biến ở Châu Âu
trước đó với hai dòng nghệ thuật lớn là
Romanece và Gothie?
. Tuy nhiên, tính
chất dân gian của nghệ thuật dưới thời
phong kiến nói chung và với bát bửu nói
riêng, luôn mang ý nghĩa chủ đạo, bởi
chúng luôn luôn là những mô tip lặp đi
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
23
— Dễ Ÿẽễ
lặp lại. Tính chất này hạn chế khả năng
sáng tạo của người thợ - nghệ sĩ, nhưng
lại tạo nên những sản phẩm hoàn hảo về
phương diện chế tác và ta có cảm giác:
“Mọi thứ đều tập trung vào để trang trí
cho một tác phẩm duy nhất. Chính
những cố gắng tập thể này đẻ ra sự nhất
trí và sự hài hoà dễ gây cho ta niềm xúc
”# khị các hình tượng
trang trí này lại được đặt trong không
động đầu tiên
gian của một toà kiến trúc cũng với
những mô tip trang trí mang tính hệ
thống.
Cùng với sự suy tàn của chế độ phong
kiến ở Việt Nam, nghệ thuật trang trí
giai đoạn phong kiến nói chung và hình
tượng bát bửu nói riêng đã kết thúc cùng
với dòng nghệ thuật thời Nguyễn. Nghệ
thuật trang trí Việt Nam chuyển sang
một giai đoạn mới với sự tác động của
văn hoá Phương Tây mạnh mẽ và sôi
động. Nửa thế ki trôi qua, cơn khát văn
hoá của các dòng nghệ thuật dường như
lắng dịu. Người ta cảm thấy hụt hãng,
tiếc nuối trước những ngôi đình, ngôi
chùa đổ nát, trống vắng và một cuộc hồi
sinh bắt đầu trở lại. Khắp nơi đình, chùa,
đền, miếu, nhà thờ...được tôn tạo làm
mới. Các loại cở, quạt, tàn, lọng, kèn,
trống, bát bửu... được sản xuất hàng loạt
và bán với giá rất rẻ. Điều chúng tôi
muốn nói ở đây là sự “rẻ tiền” và phổ cập
của những sản phẩm này hoàn toàn
không tương xứng với những gì mà nghệ
nhân xưa đã tạo ra. “Nghệ thuật không
phải là thứ đem ra quốc tế hoá. Phải có
những nghành nghệ thuật nguyên chất,
hạn chế ở nòi giống nhất định.”?” Do đó,
theo chúng tôi, những sản phẩm được
làm hàng loạt như vậy sẽ làm mất đi
những giá trị nghệ thuật và ý nghĩa văn
hoá của chúng. “Trong môi trường như
vậy, người thợ làm mĩ nghệ...chỉ có thể
trở thành một gã lái buôn giỏi nhưng là
một anh nghệ sĩ tổi...anh ta chỉ bắt chước
một cách vụng về, trở thành kế lang
thang mất hướng."“”
Đ.H.H
(1) Đình Gia Khánh, Văn hoá dân gian
Việt Nam trong bối cảnh ăn hoá Đông
Nam A. Nxb Khoa học xã hội, H 1995, trã9.
(2) Nhiều tác giả, My thuật Huế, Viện
mỹ thuật và trung tâm bảo tồn di tích cố
đô Huế xuất bản, 1999, tr.79.
(3) Macel Bernanoss, Nghệ thuật trang
trẻ Bạc Eị, Nxb Henry Laurena, Parls,
1999, tr18.
(4), (5), (6) Nhiều tác giả, Sđd, tr 73-
74.
(7) Macel Bernanoss, Sđd, tr20 — 35.
(8), (9) Nhiều tác giả, Sđd, tr74.
(10) Viện mỹ thuật, Mỹ thuật thời Mạc,
Nxb Văn hoá, 1993, tr13.
(11) Chùa Lâm Dương (Xã Đa Sĩ, Thị
xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây) nay vẫn còn tấm
bia “Lâm Dương quán tự” khắc năm 1962.
(12), (18) Macel Bernanoss, Sđd, tr24.
(14) Nhiều tác gia, Sđd, tr74.
(15), (16), (17), (18) Macel Bernanoss,
Sđd, tr19 —25.
(19) Hồng Trần, Về một số quán đạo
lao ở Hà Táy, Văn hoá nghệ thuật số 5-
1999,tr47.
(20) Gothic và Romance là hai phong
cách nghệ thuật ở Châu Âu sử dụng các mô
tip nghệ thuật mang tính hệ thống làm
sống lại các phong cách cổ điển.
(21), (32), (33) Macel Bernanoss, Sảd,
tr14-17.