NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
61
HÀM Ý BIỂU TRƯNG
CỦA TỪ CHÍ HOA
VÀ TÊN HOA
TRONG CA DAO
HÀ THỊ QUẾ HƯƠNG?)
1. Đặt vấn đề
Ca dao là một loại hình văn học dân
gian rất gần gũi và thân thuộc đối với
người dân Việt Nam. Một trong những
đặc điểm nổi bật của ca dao khiến cho
nó có sức truyền cảm mạnh mẽ và đễ đi
vào lòng người là sử dụng những sự
vật, hiện tượng bình thường và quen
thuộc trong đời sống hàng ngày để thể
hiện những tư tưởng, tình cảm, những
tâm tư, nguyện vọng của con người qua
một lối nói giản dị, dễ nhớ... Và khi vào
trong ca dao thì những sự vật, hiện
tượng bình đị đó đã được khái quát hoá
lên và trở thành các biểu tượng với các
cách diễn đạt ngữ nghĩa có đặc thù độc
đáo, riêng biệt,.. Thế giới các biểu
tượng được thể hiện trong ea dao cũng
rất đa dạng và phong phú. Nó có thể
bắt nguồn từ các hiện tượng tự nhiên
như frăng, sao, hoa, ld, bướm, ong,
mưa, mây..., cũng có thể là các vật thể
nhân tạo như (huyền, bến, áo, bhăn,
chăn, chiếu, đình, chùa... Trong bài
viết này chúng tôi chỉ xin tìm hiểu sâu
hàm nghĩa của từ hoa và các tổ hợp có
tên hoa (vốn mang đậm lối nói đậm nét
văn hoá và tư duy người Việt) trong
kho tàng ca dao Việt Nam.
? Viên Ngôn ngữ học.
Theo thống kê của chúng tôi, trong
số 131 tên hoa được chọn làm đối tượng
để phân tích về mặt ngữ nghĩa thì các
tên gọi có lí do chiếm 15,27% (có 90/131
từ), còn lại là những tên gọi chưa thấy
rõ lí do (111/131 từ, chiếm 84,73%).
Những tên gọi là từ đơn tiết chưa rõ lí
do chiếm số lượng lớn (có 83/94 từ đơn
tiết, chiếm 88,3%), ví dụ: hoa uối, hoa
trúc, hoa cậy, hoa riêng, hoa bầu...; còn
lại 11 tên hoa là thấy rõ lí do (chiếm
11,7%), ví dụ: hoa đờo, hoa súng, hoa
mùi... Các tên hoa là từ đa tiết trong ca
dao có 37/131 tên gọi trong đó các tên
gọi chưa rõ lí do là 28 từ (chiếm
75,68%), ví dụ: hoa hài lài, hoa thừu
lựu, hoa tâm xuân, hoa đâm bụt...; còn
các tên gọi rõ lí do là 9 từ (chiếm
24,32%), ví dụ: hoa ííœ (ô, hoa mướp
đống, hoa lục bình,...
Tóm lại, trong ca dao Việt Nam có
rất nhiều các biểu tượng trong đó hình
ảnh hoa và các loài hoa là một trong số
những biểu tượng đó. Để miêu tả hình
anh hoa thì trong ca dao có rất nhiều từ
trong đó từ hoø là từ có tần số xuất
hiện nhiều nhất.
Trong ca dao cũng có rất nhiều tên
hoa (147 tên hoa trong số 131 loài hoa)
và có một số lượng tương đối lớn các tên
gọi đồng nghĩa. Về mặt cấu tạo, tên hoa
có thể là từ đơn, có thể là từ láy, có thể
là từ ghép hay cụm từ cố định. Khi tìm
hiểu những đặc trưng để làm cơ sở định
danh, chúng tôi thấy số lượng tên hoa
tõ lí do còn rất ít (20/131 tên hoa,
khoảng 15,27%). Việc tìm hiểu những
đặc trưng được chọn làm cơ sở định
danh cho các tên hoa trong ca dao cần
phải dựa vào ý nghĩa của các thành
phần được tách ra trong từ nhưng
không phải từ nào cũng có thể xác định
62
HÀ THỊ QUẾ HƯƠNG
được ý nghĩa bên trong của chúng vì
trong số các tên hoa có mặt trong ca đao
có rất nhiều tên hoa là những từ vay
mượn hay là các từ địa phương do đó việc
xác định được lí do của các tên gọi là rất
khó khăn và còn nhiều hạn chế.
2. Hàm nghĩa biểu trưng của tên
hoa trong kho tàng ca dao Việt
Nam
2.1. Trong thơ ca nói chung cũng như
trong ca dao nói riêng, để hình thành nên
một biểu tượng thì nghĩa đen, nghĩa biểu
vật của từ sẽ không được khai thác mà
chúng ta phải dựa vào nghĩa hàm ẩn,
nghĩa biểu cảm của từ.
Kết quả phân tích ngữ nghĩa của từ
hoa trong ca dao cho thấy hoa được
dùng với nghĩa đen xuất hiện 175/433
lần (chiếm 41,47%); hình ảnh hoa được
dùng với phép so sánh xuất hiện 60 lần
(chiếm 14,22%) và được dùng với phép
ấn dụ là 187 lần (chiếm 44,31%).Ví dụ:
- Hoa thơm trồng dựa cạnh rào
Gió nam gió bắc, hướng nào cũng thơm
- Anh chơi hoa mà chẳng biết hoa
Anh hái bhông đúng lúc để uườn ba
chóng tàn
Trong tổng số 131 tên hoa xuất hiện
trong ca đao thì tên hoa được dùng với
nghĩa thực sự chỉ hoa có 121 từ, chiếm
92,37% (trong đó tên hoa chỉ xuất hiện
với nghĩa den, nghĩa biểu vật, không
xuất hiện với nghĩa so sánh hay nghĩa
ân dụ có tới 93 từ), tên hoa được sử
dụng với nghĩa so sánh là 26 từ, chiếm
19,85% (trong đó tên hoa chỉ được dùng
với phép so sánh, không được dùng với
phép ẩn dụ hay với nghĩa thực sự chỉ
hoa chỉ có 3 từ) và có 27 tên hoa được
dùng với phép ẩn dụ, chiếm 20,61%
(trong số đó có tới 7 tên hoa chỉ dùng
với nghĩa ẩn dụ, không được dùng với
nghĩa biểu vật hay trong cấu trúc so
sánh).
Không phải trong mỗi một câu ca
dao thì các từ chỉ hoa và tên hoa chì
xuất hiện với một nghĩa (hoặc chỉ nghĩa
đen, hoặc chỉ với nghĩa so sánh, hoặc
chỉ với nghĩa ẩn dụ của từ) và với một
nét nghĩa nhất định mà chúng ta thấy
có những lời ca dao trong đó các từ này
xuất hiện với nhiều nghĩa khác nhau:
Thân các cô đẹp như bông hoa gạo
hở trên cây
Thân chúng tôi xấu xí như có may
mọc ở bên đường
Tôi chắp tay, tôi lay ông cả gió rung cây
Cái bông hoa gạo rụng xuống, cói
CÓ tay nó xở 0uào
Hoa gạo và có may ö 92 câu trên vẫn
mang nghĩa cụ thể, chưa có sự chuyển
nghĩa. Cô gái đẹp, cao sang được ví với
bông hoa gạo rực rỡ ở mãi trên cao còn
chàng trai với phận thấp hèn, xấu xí
thì được ví như ngọn có bên đường.
Nhưng ở hai câu ca dao sau thì hoa gơo
và có may không còn mang nghĩa đen
nữa mà nó đã có sự chuyển nghĩa và
khi đó thì bông hoa gạo đã mang nghĩa
ấn dụ chỉ cô gái còn có may là tượng
trưng cho chàng trai.
Hay trong lời ca dao sau đây chúng
ta cũng thấy từ hoa xuất hiện không
chỉ với một nét nghĩa duy nhất:
- Thôi thôi buông áo em rq
Để em đi bán bẻo hoa em tàn
- Hoa tàn 0ì bởi mẹ cha
Khi búp không bán để tàn ai mua?
Ö đây, trong lời đối đáp giữa chàng
trai và cô gái đã lấy chuyện hoøư ra để
nói về con người. Từ hoa trong câu đầu
được dùng với nghĩa den, nghĩa định
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
63
danh nhưng ở câu sau »zoø đã có sự
chuyển nghĩa. Ở đây không còn nói về
chuyện tàn nở của những bông hoa
thuần tuý nữa mà chàng trai đã mượn
hình ảnh hoa để nói về thời xuân sắc
của cô gái, do đó từ hoa ở đây đã mang
ý nghĩa hàm ẩn.
Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu ý
nghĩa biểu trưng của từ chỉ hoa và tên
hoa qua so sánh và ẩn dụ trong ca đao.
Như chúng ta đã biết, để tiến hành
so sánh thì ít nhất phải có hai yếu tố và
những yếu tố này bao giờ cũng phải có
những nét tương đồng với nhau. Trong
các cấu trúc so sánh có chứa từ chỉ hoa
và tên hoa trong ca dao thì cái thường
được đem ra làm chuẩn để so sánh là
các từ chỉ hoa và tên hoa đó. Khi đó các
từ chỉ hoa và tên hoa vẫn giữ nguyên
nghĩa vốn có của nó, chúng chỉ được
đem ra đối chiếu với các sự vật, hiện
tượng cần được miêu tả nhờ những nét
tương đồng để nhằm tạo ra những hình
anh dễ liên tưởng. Nhưng khi các từ chỉ
hoa và tên hoa xuất hiện với nghĩa ẩn
dụ thì chúng không còn mang nghĩa
đen, nghĩa biểu vật của từ nữa mà đã
có sự chuyển nghĩa và khi đó sẽ tạo ra
các hình tượng nghệ thuật.
Trong ca dao, có những từ mà thuộc
vào từng văn cảnh cụ thể có thể được
hiểu theo những nghĩa biểu vật khác
nhau. Chẳng hạn mai có khi được hiểu
là cây hoa mai, là bông hoa mai nhưng
cũng có khi nó lại được hiểu theo nghĩa
là cây mai (thuộc cùng họ với cây tre);
đào, mận có lúc được dùng để chỉ hoa
đào, hoa mận, có lúc nó lại có nghĩa là
quả đào, quả mận hay cây đào, cây
mận... Tuy nhiên, không mấy khi tác
gia dân gian dùng biện pháp tả thực
mà họ thường nhắc đến chúng nhằm
mục đích thể hiện các ý nghĩa biểu
trưng khác nhau của các từ đó.
Kết quả khảo sát tư liệu cho thấy,
từ chỉ hoa và tên các loài hoa xuất hiện
trong ca dao được dùng với những
nghĩa biểu trưng eơ bản sau đây:
2.1.1. Nghĩa biểu trưng đầu tiên mà
chúng ta cần phải nói tới của từ hoa và
tên hoa trong Kho tàng ca dao người
Việt đó là biểu trưng cho cái đẹp, cụ thể
là hoz xuất hiện với nghĩa là (ươi, là
duyên khi nó được ví với miệng cười
(nghĩa này xuất hiện cả trong cấu trúc
so sánh lẫn ẩn dụ). Ví dụ :
Cười nụ tôt lại cười hoa
Cười trăng cười gió hay ta cười mình
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
Hoa sen ö trong câu ca đao trên khi
được ví với chiếc khăn đội đầu của cô
gái cũng mang nghĩa là đẹp. Và trong
câu ca đao sau thì hoa cũng có nghĩa là
đẹp, nó được ví với vẻ mặt u buồn của
ngưởơi con gái đẹp:
Ra về ủ đột nét hoa
Bước đi một bước ruột rà quặn đau
Có khi hoa lại mang nghĩa biểu
.trưng là ngon, là đẹp (khi nó được so
sánh với một bát cơm hay với miếng
trầu), hay cũng có nghĩa là nhiều (khi
nói đến chuyện công nợ của một chàng
trai):
...Bát cơm em nấu như hoa
Bát canh em nấu như là mật ong...
2.1.2. Khi nói đến hoa chúng ta
thường liên tưởng tới một hình ảnh vừa
đẹp, vừa mềm mại vì thế chúng ta
64
HÀ THỊ QUẾ HƯƠNG
không lấy gì làm lạ khi thấy hình ảnh
được đem ra để so sánh với hoa mà ta
bắt gặp nhiều nhất và cũng là ý nghĩa
biểu trưng chủ yếu của từ chỉ hoa và
tên hoa đó là hình ảnh người phụ nữ,
những người được mệnh danh là phái
đẹp:
... m như hoa thơm mà mọc góc rừng
Thơm cay di biết, ngát lừng ai hay.
Trong ca dao các từ chỉ hoa và tên
hoa với nghĩa ẩn dụ xuất hiện để chỉ
người con gái rất nhiều và cũng mang
nhiều nét nghĩa phong phú hơn là trong
cấu trúc so sánh thông thường. Chẳng
hạn có khi từ chỉ hoa và tên hoa mang
nghĩa bóng, chỉ người con gái trẻ, đẹp
(Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho
người ta nói chơi):
Đi qua trước cửa uườn đào
Thấy hoa thiên lí muốn uào hát chơi
Có những từ chỉ tên hoa xuất hiện
rất nhiều lần trong ca đao cũng để chỉ
người con gái trẻ đẹp và ý nghĩa này
gần như đã được cố định hóa, trở thành
biểu trưng cơ bản. Chẳng hạn như để
nói về người con gái trẻ đẹp, mảnh mai,
yếu ới chúng ta thường bắt gặp các cụm
từ như sen ngó, đào tơ, đào hồng...
Ngược lại, có những tên hoa cũng
dùng để chỉ người con gái nhưng không
phai với nghĩa tích cực trong thang giá
trị, nói về người con gái trẻ đẹp mà là
với nghĩa đối lập, nghĩa tiêu cực. Thậm
chí, rất nhiều khi hoa dùng để ám chỉ,
để ví với người con gái lầu xanh (thân
phận khốn cùng của người con gái
trong cuộc mưu sinh đầy bất trắc):
Dưới trần mấy mặt làng chơi
Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa
Truyện Kiểu
Ngoài ra hoz được dùng để nói về
nhan sắc của người phụ nữ, hay để nói
về tuổi thanh xuân, nói về tuổi trẻ.
Mẹ em tham giàu, em lấy phối
thăng chồng bé tí tì tỉ
Làng trên chạ dưới thiếu gì trai tơ
¬....
Chị em ơi, hoa nở mấy lần?
Thương ta thì nói 0uởi ta
Khi trăng đang tö, khi hoa đang thì
Từ chỉ hoa và tên hoa được dùng cả
trong cấu trúc so sánh và cả với nghĩa
ấn dụ để nói về (hân phận của người
con gái, đó có thể là một thân phận eao
sang, quý phái nhưng cũng có thể là
một số phận hẩm hiu, éo le:
... Phân thiếp như cánh hoa đào
Đang tươi đang tốt thiếp trao cho chàng
Bây giờ nhụy rứữa hoa tàn
Vườn xuân nó bém, sao chàng lại chê?
... "rách cho căn số phận nghèo
Hoa trôi nước chủy, bọt bèo cũng trôi
Hay cũng là để nói về thân phận
của người phụ nữ, ta thấy chẳng hạn
trong 2 lời ca dao sau đây thì hoa phù
dung và hoa nhài được dùng để chỉ sự
không phù hợp, hoàn cảnh éo le của
thân phân.
Đóa phù dung nở chung 0uườn ngự
Then khoá bịt bùng gìn giữ bướm ong 0ô
Tiếc con gái khôn mắc thăng chồng dại
Tiếc bông hoa rrhài cắm bãi cút trâu
2.1.3. Không chỉ được dành riêng để
nói về “phái đẹp” mà trong ca đao có
những loài hoa được dùng làm chuẩn để
nói về “phái mạnh” (với nghĩa này
chúng ta thấy các tên hoa xuất hiện
chủ yếu frong cấu trúc so sánh).
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
65
——=——————————————
.. Trai ba mươi tuổi như hoa
Gái ba mươi tuổi 0ề già mò thôi.
Có khi hoø còn được dùng để nói về
người đàn ông đã có uợ.
Anh đã có uợ con riêng
Như bông hoa riêng nửa đắng nửa cay
Tên hoa trong lời ea dao trên để chỉ
sự ràng buộc, vất vả, cay đắng của
người con trai đã có gia đình, vợ con. Vì
vậy tác giả đã lấy hoa riểng với những
đặc tính cay của củ riềng để diễn tả nỗi
niềm.
Hay để nói đến vẻ đẹp về trí tuệ,
tỉnh thần hay về sắc mặt của người đàn
ông, trong ca dao đã dùng hoa bông
bụt, hoa mẫu tiên, hoa mặt trời để so
sánh:
.. gọn đèn tươi tốt bằng hoa
Mặt anh lại đỏ như hoa mặt trời...
2.1.4. Trong ca dao, cố nhiều
trường hợp các từ chỉ hoa và tên hoa
không mang rõ nghĩa để nói về người
con trai hay con gái mà chúng được ví
với người tình nhân, để nói về người
tình trong quan hệ yêu đương nam nữ.
Với nghĩa này chúng ta thấy có cả trong
cấu trúc so sánh lẫn ẩn dụ.
Vì hoa nên phai tìm hoa
Vì tình nên phúi uào ra uới tình.
At làm cho bướm lìa hoa
Cho chừn xanh nỡ bay qua uườn hồng
Hay cũng để nói về người tình nhân
với sự cao sang, quyền quý, ca dao cũng
dùng hoa thiên lí, hoa mẫu đơn để so
sánh.
Đó ngọc thì đây cũng ngà
Đó hoa thiên lí, đây là mâu đơn.
Trong ea dao chúng ta thường bắt
gặp các cặp từ sóng đôi như: bướm -
hoa, lan - huệ, sen - quế, quế - quỳnh,
mai - lan, trúc - mai, mận - đào, đào -
lí, đào - liễu, đào - lựu, nguyệt - hoa...,
chúng thường được dùng để biểu trưng
cho nam - nữ trong quan hệ yêu đương.
Trúc nhó mai, trúc buôn ngao ngán
Mai trở uề, mai nhớ trúc chăng?
2.2.1. Hoa trong ca dao còn mang
nghĩa biểu trưng để chỉ con người nói
chung, với nghĩa con người là sản phẩm
tỉnh tuý của tạo hóa, chỉ những đức
tính tốt đẹp, sự nhân hậu của con
người. Trong nghĩa này hoa được dùng
với nghĩa ẩn dụ để chỉ cái đẹp, cái tỉnh
tuý của con người.
Hoa sen hoa hhóo giữ màu
Nắng nồng không nhạt, mưa dầu
hhông phai.
Mẹ anh như cánh hoa nhài
Như chùm hoa sói, như tai hoa hồng
Có khi hoa còn được dùng để nói về
cuộc đời của con người, sự thăng trầm,
biến đổi của con người.
Người đời như cánh phù dung
Sớm còn, tối mất công phu nhẹ nhàng
Cũng để biểu trưng cho con người
nói chung nhưng có khi chúng lại mang
nghĩa ẩn, tượng trưng cho con người có
tấm lòng cao quy, trình bạch, cho sự
phát triển đang lên... (nét nghĩa tích
cực), nhưng có khi chúng lại mang nét
nghĩa đối lập, biểu trưng cho sự héo
tàn, suy giảm:
Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân ởi
Cái già sòng sọc nó thì theo sau
Vì sương cho núi bạc đầu
Vì đâu mưa năng cho rầu rĩ hoa
Hay trong 2 lời ca dao sau đây thì
hoa lại được dùng để biểu thị cho
những con người có địa 0t cao sang, đài
các hay thấp bém.
66
HÀ THỊ QUẾ HƯƠNG
Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy răng lấm láp uẫn mầm hoa sen
Thài lài mọc cạnh bờ sông
Tuy răng xanh tốt uân tông thài lài
Ngoài việc được dùng với nghĩa để
biểu trưng cho con người thì trong ea
dao từ chỉ hoa và tên hoa còn biểu
trưng cho tình cảm, tình yêu đôi lứa,
tình cảm uợ chồng. Với nghĩa này
chúng ta thấy xuất hiện cả trong cấu
trúc so sánh lẫn ẩn dụ :
Đôi ta như cánh hoa đao
Vợ đây chồng đấy ai nào bém ai?
Đôi ta như bông hoa nhài
Vợ đây chồng đấy bém ai trên đời?
Hoa ỏ các câu trên được dùng với
nghĩa biểu trưng để chỉ sự đẹp duyên,
xứng đôi trong tình yêu nam nữ. Hay
trong 2 câu ca dao sau đây thì hoa biểu
trưng cho sự hòa hợp, sự êm ấm, thuận
theo quy luật của tạo hóa.
Đàn ông nằm uới đàn ông
Như gốc như gác như chông như chè
Đàn ông năm uớt đàn bà
Như lụa như lĩnh như hoa trên cành
Không phải lúc nào hoz cũng biểu
trưng cho mối tình cao đẹp mà có khi
nó lại mang nghĩa ẩn để nói về một mối
tình dang dở.
Có sao Hôm mà chẳng có sao Mai
Hai đàng hai đứa, tình phai hoa tàn.
Hay là nói tới một thứ tình yêu trai
gái không đứng đắn:
Trăng rằng trăng chẳng nguyệt hoa
Sao trăng chứa Cuội trong nhà hởi trăng?
Và khi để nói đến người phụ nữ
không chung thủy, nói tới thói lăng lơ
của người con gái thì trong ca dao cũng
thường dùng hai từ zmận - đòo để biểu
thị.
Anh nguyền thưởng bậu một dao
Răn người lòng rrận dạ đào líu lăng.
Ngoài những nghĩa biểu trưng của
từ chỉ hoa và tên hoa đã đề cập tới ở
trên, trong ca dao chúng ta còn bắt gặp
một số nghĩa ẩn khác. Những nét nghĩa
này tuy xuất hiện không nhiều nhưng
chúng cũng góp phần bổ sung thêm ý
nghĩa cho từ chỉ hoa.
2.2.3. Trong số 131 tên hoa có mặt
trong ca dao thì chỉ có 38 tên hoa mang
nghĩa biểu trưng nhưng không phải tất
cả các loài hoa này đều mang những
nét nghĩa tích cực mà có tới 16 tên hoa
là có chứa cả những nét nghĩa tiêu cực,
đó là: hoa sen, hoa nhài, hoa hồng, hoa
đào, hoa mộn, hoa thiên lí hoa cúc,
hoa phù dung, hoa dâm bụt, hoa rau
muống, bông cẩn, hoa riêng, hoa bìm
bìm, hoa thài lài, hoa bần, hoa chiêng
chiếng. Tuy nhiên, không phải nét
nghĩa tiêu cực là nét nghĩa thường trực
đối với tất cả 15 loài hoa này mà có
những loài hoa thì nét nghĩa này chỉ
mang tính lâm thời, chúng xuất hiện
rất ít và chỉ trong những văn cảnh cụ
thể ta mới thấy được nét nghĩa đó. Đó
là các loài hoa: sen, nhài, thiên lí, hồng,
đào, mộn, cúc.
Hoa sen theo quan niệm của Phật
giáo là một loài hoa đẹp, màu sắc trong
trắng bừng nở trinh nguyên trên bùn
nhơ biểu trưng cho sự thuần khiết,
không bị vấy bẩn bởi bụi trần.
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị uùng
Nhị uòng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Theo nghĩa tổng quát thì hoa sen
biểu trưng cho sự trong trắng, tính
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
67
==RZREZ=ễP
kiên định (thân cây cứng rắn), sự thịnh
vượng (cây mọc sum suê), hậu duệ đông
đúc (hạt nhiều), vợ chồng đề huề (hai
hoa trên một thân), thời quá khứ, hiện
tại và tương lai (ta bắt gặp cùng một
lúc 3 trạng thái của cây: nụ, hoa, hạt).
Trong số 37 lần hoø sen xuất hiện
với nghĩa biểu trưng trong Kho tàng ca
dưo người Việt thì ý nghĩa chủ yếu của
hoa sen là biểu trưng cho con người, cho
ngươi con gái hay cho tình yêu lứa đôi,
chỉ có đôi ba lần hoa sen xuất hiện với
hàm nghĩa không hay. Chẳng hạn:
Dưới đời ai tốt bằng sen
Quan yêu dân chuộng, rã bèn cũng hư
Tuy nhiên, về cơ bản sen vẫn được
col là một loài hoa quý, hoa đẹp, ý
nghĩa tiêu cực của loài hoa này chỉ xuất
hiện rất ít và nó không phải là nét
nghĩa chủ yếu (mà chủ yếu ở vài ngữ
cảnh dùng theo dụng ý của tác giải).
Tương tự, cách dùng tương phản hai
hướng đối lập nhau về nghĩa xuất hiện
ở hầu hết các loại hoa, như nhàit (iài),
đâm bụt, mẫu đơn, phù dung, thiên lí
và thậm chí cả hoa hồng (một loài hoa
biểu trưng cho cái đẹp cao quý nhất
trong cách nghĩ của mọi dân tộc trên
trái đất) cũng nhiều khi được dùng xen
lẫn hàm nghĩa khác nhau với sắc thái
tiêu cực, tích cực không đồng đều và với
độ đậm nhạt tỉnh tế của nét nghĩa sử
dụng [X. thêm Hà Thị Quế Hương
2001].
3. Tóm lại, trong số vô vàn các
trường hợp sử dụng trong ca đao (mà
chúng tôi vừa khảo sát) thì các từ chỉ
hoa và tên hoa xuất hiện rất nhiều lần
và mỗi lần lại mang một nét nghĩa khác
nhau, tuy rằng về tổng thể, nghĩa biểu
trưng của mỗi một loài hoa đều đã được
định hình rõ. Chúng đã được khái quát
lên thành một hệ thống biểu trưng về
tên hoa, mang đậm dấu ấn về tư duy
nhận thức, cách cảm cách nghĩ, tư duy
thẩm mĩ và văn hóa phong tục của
người Việt được đúc rút qua ngàn đời. Ý
nghĩa biểu trưng của các từ chỉ hoa và
tên hoa có thể xuất hiện trong các cấu
trúc so sánh hay trong cấu trúc ẩn dụ.
Việc phân tích và lí giải những vấn đề
này có lẽ cần phải tiếp tục với những
bước đi mới, dài hơn, với sự kết hợp
nhiều góc độ nhìn nhận (ngôn ngữ học
xã hội, tâm lí ngôn ngữ học, ngôn ngữ
và văn hoá,...). H1 vọng bài viết này của
chúng tôi sẽ góp ích phần nào cho
hướng đi ban đầu nhưng rất thú vị và
thiết thực này”.
H.T.Q.H
(1) Qua khảo sát 11.825 lời ca dao, dân
ca trong cuốn Kho tàng ca dao người Việt -
(Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật
chủ biên, 3 tập, NXB Văn hoá Thông tin,
H., 1995), chúng tôi đã thống kê được có
935 câu ca dao có từ chỉ hoa và tên các loài
hoa. Các ví dụ trích dẫn trong báo cáo chủ
yếu xuất xứ từ nguồn tư liệu này
(H.T.Q.H.).
(2) Theo J. Chevalier, A. Gheerbrant,
Từ điển biểu tượng uăn hoá thế giới, Nxb
Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du.,
1897, tr.810-811.
(3) Khi thực hiện bài viết này, chúng
tôi đã nhận được sự giúp đở quý báu và sự
chỉ bảo tận tình của TS Hà Quang Năng và
TS Phạm Văn Tình (trong quá trình thu
thập tư liệu, hướng nghiên cứu và đọc lại
lần cuối cùng...). Nhân đây chúng tôi xin
gửi tới hai vị lời cảm ơn chân thành
(H.T.Q.H)
(Xem tiếp trang 84 )
84
HÀM Ý BIỂU TRƯNG....
(Tiếp theo trang 67)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Đỗ Hữu Châu, Từ uựng - ngữ nghĩa
Hếng Việt, NXB Giáo dục, H,1981.
2- Nguyễn Phương Chị, Hoàng Tử
Quân, Tên gọi uà cách gọi tên, "Ngôn ngư”,
số phụ, 1985.
3- Hữu Đạt, Hiện tượng chuyên nghĩa
trong thơ, Văn nghệ, số 33, 1981.
4- Hữu Đạt, Thủ pháp so sánh trong ca
dao 0à trong thơ hiện đại, Văn nghệ, số 18,
1981.
5= Nguyễn Thiện Giáp, Từ uựng học
tiếng Việt, ÄNXB Giáo dục, H,1998.
6- Hoàng Văn Hành (chủ biên), Hà
Quang Năng, Nguyễn Văn Khang, Từ tiếng
Việt, NXB Khoa học xã hội, H, 1998.
7- Lê Anh Hiền, Tìm hiểu nghĩa ẩn của
từ “hoa” trong thơ ca, "Ngôn ngữ”, số 3,
1975.
8- Hà Thị Quế Hương, Nghĩa biểu
trưng của từ chỉ hoa uà tên hoa trong kho
tàng ca dao người Việt, Tiêu luận tập sự
khoa học, Viện Ngôn ngữ học, 2001.
9- Vũ Thị Thu Hương (tuyển chọn và
biên soạn), Ca dao Việt Nam - những lời
bình, NXB Văn hoá Thông tin, H, 2000.
10- Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng
Nhật (Đồng chủ biên), Kho tàng ca dao
người Việt, 3 tập, NXB Văn hoá Thông tin,
H, 1995.
11- Định Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà,
Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục,
H, 1997.
„_ 12- Nguyễn Thế Lịch, Từ so sánh đến
ân dụ, "Ngôn ngư", số 3, 1991.
13- Cao Thị Thu, Đặc điểm định danh
uàò ngữ nghĩa trường từ uựng tên gọi thực
Uật trong tiếng Việt, Luận văn tốt nghiệp
Khoa Ngôn ngữ, ĐHEKHXH&NV -
ĐHQGHN, H,1995.
14- Việt Nam - Những uấn đề ngôn ngữ
Uà uăn hoá, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam -
Trường đại học Ngoại ngữ Hà Nội, H,1993.
lỗ- 3. Chevalier, A. Gheerbrant, Từ
điển biểu tượng uăn hoá thế giới NXB Đà
Năng - Trường viết văn Nguyễn Du - Hà
Nội, 1997.