NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
59


@Ê0⁄40 70) 10 N@/
AÔW(¿ 3Â 1ÊJ 4M
ĐINH HỒNG HẢI”)

ữ thuở còn trong nôi cho đến lúc trưởng thành, ai đã từng được nghe lời ru của bà, của mẹ qua những "khúc dân ca quê mùa". Từ những khúc ca ấy mọi người đều như thấy hình ảnh quê hương hiển hiện ngay trước mắt mình. Có những hình ảnh làng quê quá đỗi thân thuộc như cánh võng, như chiếc chõng tre mới chỉ thoáng nghe đã hình dung ngay được. Cũng có những hình ảnh tuy đã nøøhe nhiều nhưng chỉ được nhìn trong tưởng tượng, đơn giản vì chúng dường như đã lùi vào dĩ vãng xa xăm - một trong những hình ảnh đó là chiếc áo tơi.
Áo tơi là một vật dụng thường ngày của người nông dân Việt Nam khi xưa, cũng như con trâu - cái cày, chiếc áo tơi từng gắn bó với người nông dân trong suốt cuộc đời lao động. Thế nên, gọi là đo nhưng áo tơi không được xem là một loại rang phục, cho dù tính năng và tác dụng của chúng đã vượt trội hơn những chiếc áo, chiếc bhố làm bằng vỏ cây của "đồng bào vùng thượng". Thậm chí, áo tơi còn bị gán cho những lời lẽ có tính chất miệt thị sự nghèo đói như: Người ta áo lụa áo là, Còn mình áo rách như là áo tơi, Nghèo rớt mùng tơÈ... Vậy nên khi nói đến áo tơi, người ta thường hình dung ra một cái gì đó rách rưới, khổ sở, hèn kém. Có lẽ cũng vì vậy mà từ trước tới nay, áo tơi chỉ có mặt trong ca đao, đân ca với tư cách là một ký ức trong quá bhứ mà chưa hề có một công trình nghiên cứu nào xem xét áo tơi với tư cách là
°? Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu văn hóa dân g1]an.
một sản phẩm uăn hoá của người dân nông nghiệp. Chính vì lẽ đó mà trong bài viết này chúng tôi muốn có một cách tiếp cận riêng đối với áo tơi, bằng cách nhìn nhận chúng như một sản phẩm văn hoá có giá trị trong lịch sử phát triển của nền sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung.
Áo tơi là một sản phẩm của "kĩ nghệ dân gian" được hình thành trong dòng chây của văn hoá dân gian nên câu hỏi: Chúng ra đời bao giờ? Ở đâu? Ai là chủ nhân đâu tiên? sẽ không thể có được câu trả lời chính xác. Do đó, để tìm hiểu vật dụng này chúng ta chỉ có thể dựa trên công năng sử dụng và kĩ thuật tạo tác của chúng. Nói cách khác: áo tơi là một trong những sởn phẩm uăn hoá tiêu biểu của cư dân nông nghiệp ở Việt Nam. được sản sinh trong quá trình lao động, nhằm thích ứng với những điều kiện tự nhiên (nắng lắm, mưa nhiều...) của vùng khí hậu nhiệt đới - gió mùa. Có thể nói, áo tơi là sự kết hợp hài hoà giữa tính khoa học và thực tiễn trong đời sống của cư dân nông nghiệp. Nói một cách ví von: Cùng với con trâu (đại diện cho iực lượng lao động), cãi cày (đại diện cho công cụ lao động), chiếc áo tơi là một loại frang phục bao hộ lao động hoàn thiện nhất mà người nông dân Việt Nam đã sáng tạo nên để chống lại cái nắng gắt của mùa hè, cái rét buốt của mùa đông và những cơn mưa bất chợt có thể ập xuống bất cứ lúc nào.
Để hiểu sâu hơn về những giá trị của chiếc áo tơi với người nông dân Việt Nam, thiết nghĩ, chúng ta nên từng bước khám phá tính khoa học và thực tiễn của chúng, bắt đầu từ việc tìm nguyên liệu, dựng khung (xương), kết áo... cho đến cách thức sử dụng loại trang phục bdo hộ này.
Nguyên liệu
Để làm được một chiếc áo tơi cần phải có tối thiểu hai loại vật liệu để làm khung 60
ĐINH HỒNG HẢI
=————————ễễễ>ễễễễEEE _ ——
và để kết áo. Vật liệu làm khung được lấy từ nan tre cật, song mây hoặc cuống lá cọ. Tuy là những vật liệu giản đơn nhưng chúng phải đảm bảo các yêu cầu tối thiểu như: Độ bền, độ đàn hồi, chịu được mưa nắng và không bị mối mọt. Vì vậy, các loại vật liệu này thường được sơ chế trước khi dùng bằng cách ngâm trong nước ao vài tháng, luộc bằng nước lá đắng hoặc đơn giản là gác lên giàn bếp để được xông khói. Nhờ có giai đoạn sơ chế này mà bộ khung áo tơi có thể sử dụng nhiều năm mà vẫn không hỏng.
Vật liệu kết áo thường dùng là lá nón, lá cọ (thậm chí có nơi làm bằng rơm rạ. Tuy nhiên loại vật liệu này chỉ dùng được không quá một mùa). Trước khi kết, lá được chọn lọc kĩ lưỡng và ép phẳng, lá càng phẳng thì áo tơi càng nhẹ và kín.
Dựng khung
Có thể hình dung bộ khung áo tơi giống như một chiếc zơm không khép kín. Chu vi phần cổ áo vừa đủ quây kín vòng cổ người sử dụng, phần thân phình to, kéo thẳng xuống dưới. Các nan đứng được nối với nhau tại điểm kết thúc dưới cùng tạo thành một bộ khung hết sức vững chãi, có tính đàn hồi và có thể cuộn tròn lại theo chiều đứng.
Kết áo
Lá áo được kết từ dưới lên, lớp trên chồng lên lớp dưới với nhiều kiểu kết khác nhau, nhưng thông dụng nhất vẫn là kiểu kết lóng đôi. Kiểu kết này cùng một lúc phải dùng hai nan đan một lên một xuống, vừa đảm bảo độ chắc chắn, vừa không tạo ra mấu cuống lá trong thân áo. Các lớp lá trên cùng được làm nhỏ dần, lớp kết thúc tại vòng cổ được chuốt mềm và lồng thêm một sợi dây mây hoặc đây đay để thắt chặt cổ áo khi sử dụng.
Khác với chiếc ớo mưa (chỉ để tránh mưa), đo gió (chỉ để tránh gió) mà chúng ta
đang sử dụng như hiện nay, chiếc áo tơi của người nông dân xưa có thể sử dụng trong suốt. bốn mùa:
Mùa xuân, trời lâm thâm mưa phùn, người nông dân bước vào vụ cấy suốt ngày dâm chân trong nước lạnh. Chiếc áo tơi có tác dụng như một mới nhà di động vừa để tránh mưa, tránh gió, lại giữ thân nhiệt giúp cho họ vượt qua cơn mưa gió, cái rét buốt của thời tiết.
Mùa hè, cái nắng như thiêu như đốt đến cháy da xém tóc, không có loại trang phục bảo hộ nào có thể vừa đảm bảo chống nắng, cách nhiệt, lại vừa thoáng khí tốt hơn áo tơi. Đơn giản chỉ vì áo tơi không bó sát cơ thể, tạo một khoảng đối lưu đẩy khí nóng ra ngoài.
Mùa thu, những cơn mưa rào sầm sập đổ xuống như trút. Với những trận mưa như vậy, người nông dân thu mình trong chiếc áo tơi, vừa có thể tránh được những "chiếc roi nước" quất tứ phía, vừa vững tay cày nốt thửa ruộng đón cơn mưa về tưới cho xanh tốt đồng ruộng.
Mùa đông, gió bấc rít từng cơn lạnh, áo tơi như chiếc chăn cuốn tròn quanh mình, ủ hơi ấm trong từng kẽ lá giúp người nông dân vượt qua cái buốt giá, lạnh lẽo trên những cánh đồng trống trải hay trên những nẻo đường heo hút.
Như vậy, qua tìm hiểu việc sử dụng chiếc áo tơi của người nông dân, chúng ta có thể thấy rõ một điều: áo tơi không chỉ đóng vai trò là một vật dụng quan trọng trong đời sống thường nhật của người dân nông nghiệp khi xưa, mà còn là một đại diện tiêu biểu của nền uăn minh thực uật trong quá trình phát triển nền văn minh nông nghiệp ở Việt Nam - một đất nước có trên 80% dân số làm ruộng. Dưới đây chúng tôi xin lí giải vấn đề này trên cơ sở những lí thuyết cơ bản mà học giả người NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
61
—==-———————————— ẦX
Pháp Pierre Gourou đã đúc kết qua các công trình nghiên cứu của mình.
Theo P.Gourou, nền văn minh là 'fáp hợp các hĩ thuật thông qua đó con người điều chỉnh các môi quan hệ của mình uới môi trường tự nhiên uà các mối quan hệ giữa con người 0uới con người; những bĩ thuật sản xuất bảo đảm đời sống uật chốt, những bĩ thuật khúc biếm soát không gian". Có thể thấy rằng, áo tơi là một sản phẩm văn hoá tập hợp rất nhiều yếu tố kĩ thuật: kết cấu tạo hình, thủ công mĩ nghệ, thậm chí có thể xem áo tơi là một "sản phẩm dệt sơ khai" của người Việt bằng những vật liệu tự nhiên ở giai đoạn sơ chế. Thế nên chúng hàm chứa rất nhiều yếu tố văn hoá bản địa. Vì vậy, nếu nói rằng chiếc áo tơi giản đị kia đại diện cho một giai đoạn lịch sử của nền văn minh nông nghiệp thì chắc cũng không quá lời. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng, bất cứ sản phẩm nào của nền văn minh cũng chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Vì lẽ đó, sự ra đi khỏi đời sống người dân nông nghiệp ở Việt Nam của chiếc áo tơi (vào nửa cuối thế kỉ XX) cũng là một điều hoàn toàn dễ hiểu. Ở giai đoạn này, nền khoa học nông nghiệp ở Việt Nam đã có những thay đổi hết sức lớn lao trên các phương diện công nghệ, quản lí, chế biến...
Về công nghệ, với sự góp mặt của các nhà khoa học đứng đầu là nhà khoa học nông nghiệp nổi tiếng Lương Định Của, nông thôn Việt Nam đã chuyển từ một nền nông nghiệp lạc hậu, yếu kém sang một nền nông nghiệp tiên tiến với sự trợ giúp của máy móc, công nghệ øen, công nghệ sinh học... khiến cho năng lực sản xuất tăng lên hàng chục lần. Về phương diện quản lí, hình thức khoán sản phẩm đến người lao động đã tập trung phần lớn các nguồn lực lao động trong xã hội. Hầu hết những người nông dân đều tự đầu tư máy móc và thay đổi phương thức sản xuất cũ.
Chính vì vậy mà những loại frang phục bảo hộ lao động công kênh vướng víu như áo tơi không còn phù hợp nữa. Bên cạnh đó hàng công nghiệp tràn ngập thị trường với áo mưa, áo gió các loại vừa gọn nhẹ, vừa tiện lợi, giá cả lại "phải chăng" đã nhanh chóng chiếm lĩnh đôi vai của người nông dân, đẩy chiếc áo tơi ra khỏi đời sống của họ, khiến cho chúng không kịp biến đổi để thích ứng với hoàn cảnh mới. Thậm chí, các bảo tàng cũng không kịp giữ lại một chiếc để làm hiện uật trưng bày nên bây giờ chúng chỉ còn lại trong những bức ảnh tư liệu mà thôn.
Giờ đây, mỗi khi nghe câu hát ngọt ngào âm hưởng của điệu dân ca:
Cùng em bhoác chiếc áo tơi ra đồng
Dù trời đổ nắng chang chang uẫn quảng... ta lại thấy như tiếc nuối một hình ảnh thơ mộng của làng quê xưa() với con trâu - cái cày, với áo tơi - nón lá giản đị, yên bình, trong cái xô bồ, náo nhiệt của đời sống kinh tế thị trường hôm nay.
Đ.H.H
(1) Câu thành ngữ này có thể hiểu theo 2 cách: Cách 1 - Nghèo rớt mùng tơi - Nghèo đến mức mùng (màn) và ứơi (áo tơi) cũ nát rới (rơi) xuống mà không có cái mới để thay thế; Cách 2 - Nghèo rớt mồng tơi - Nghèo đói nên luôn trong tình trạng thiếu ăn, thấy cái gì cũng thèm chảy dãi (giống như nước của cây rau mồng tơi). Tuy nhiên, cách gọi rau mồng tơi không phổ biến bằng mùng tơi. Vì vậy, trong bài viết này, chúng tôi sử dụng cách thứ nhất.
(2) Chữ dùng của Plierre Gourou, chỉ các yếu tố văn hoá nảy sinh trong quá trình khai thác và thích ứng với thiên nhiên của cư dân nông nghiệp - trồng trọt ở Đông Nam Á. Xem P. Gourou, U/iHsation du soÌ en Indochine f[rancaise, Paris 1940, tr. 192.
(3) Xem Plerre Gourou, œsie, Paris 1953, tr. 47.