intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bức tranh thiên nhiên trong Du ký viết về Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

29
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này bước đầu đi vào tìm hiểu hai khía cạnh nổi bật của bức tranh thiên nhiên trong du ký viết về Nam Bộ, đó là thiên nhiên hoang dã và thiên nhiên trù phú xinh đẹp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bức tranh thiên nhiên trong Du ký viết về Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br /> ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br /> Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019)<br /> Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br /> <br /> <br /> <br /> BỨC TRANH THIÊN NHIÊN TRONG DU KÝ<br /> VIẾT VỀ NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX<br /> The picture of nature in Southern travel writing in the first half<br /> of the twentieth century<br /> <br /> ThS. Võ Thị Thanh Tùng<br /> Trường Đại học Thủ Dầu Một<br /> <br /> <br /> Tóm tắt<br /> Du ký là thể loại ra đời khá sớm trong lịch sử văn học dân tộc. Đến đầu thế kỷ XX, khi điều kiện giao<br /> thông thuận lợi, con người có nhu cầu mở rộng tầm nhìn bằng các chuyến đi, do đó du ký cũng có cơ<br /> hội hồi sinh và phát triển. Du ký viết về Nam Bộ là mảng văn học khá lí thú bởi nó cung cấp cho người<br /> đọc nhiều thông tin bổ ích về vùng đất và con người Nam Bộ. Trong các trang viết tỉ mỉ ấy của du<br /> khách bốn phương, thiên nhiên Nam Bộ hiện lên thật sinh động với nhiều màu sắc. Bài viết này bước<br /> đầu đi vào tìm hiểu hai khía cạnh nổi bật của bức tranh thiên nhiên trong du ký viết về Nam Bộ, đó là<br /> thiên nhiên hoang dã và thiên nhiên trù phú xinh đẹp.<br /> Từ khóa: du ký Nam Bộ, thiên nhiên, nửa đầu thế kỷ XX.<br /> Abstract<br /> Travel writing is a literary genre that was born quite early in the history of national literature. At the<br /> beginning of the 20th century, when the traffic conditions became more convenient, people had the need<br /> to broaden their visibility by traveling, so travel writing also had the opportunity to revive and develop.<br /> Travel writing about the South is an interesting piece of literature because it provides readers with a lot<br /> of useful information about the land and people of the South. In the meticulous pages of travelers from<br /> different corners of earth, the nature of the South is very lively and colorful. This article will explore the<br /> two most prominent aspects of the picture of nature in travel writing about the South, including wild<br /> nature and beautiful rich nature.<br /> Keywords: Southern travel writing, nature, the first half of the twentieth century.<br /> <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề phá thiên nhiên đầy khắc nghiệt mà ông<br /> Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống cha ta đã trải qua hàng mấy thế kỷ. Nhưng<br /> gắn bó, hòa hợp với thiên nhiên. Bên cạnh không đơn thuần chỉ là mưu sinh, ông cha<br /> việc dựa vào tự nhiên để tồn tại, cha ông ta ta “Khẩn hoang tận đồng bằng sông Cửu<br /> cũng có ý thức chinh phục, chế ngự thiên Long là tiếp nối bình thường truyền thống<br /> nhiên để tạo nên môi trường sống tốt hơn dựng nước, giữ nước, lần hồi tạo thêm nét<br /> cho bản thân và cộng đồng. Vùng đất Nam đa dạng trong tính thống nhất về văn hóa<br /> Bộ chính là thành quả của công cuộc khai dân tộc” [3, tr.18]. Trong quá trình chinh<br /> Email: thanhtung2212@yahoo.com<br /> 75<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br /> <br /> <br /> phục thiên nhiên nơi vùng đất mới, lưu dân truông, tiếng thường kêu là “khúc cây da<br /> ở đây đã hình thành nên một thái độ văn năm chưn” là một nơi sầm uất và rất hiểm,<br /> hóa, đó là vừa e sợ nhưng cũng vô cùng vì cọp, beo thường khi ra nghểu nghiến<br /> biết ơn. E sợ vì thiên nhiên hoang dã vẫn giỡn chơi, và như phải đều rủi chi tại đây<br /> luôn là một thế lực đầy bí hiểm, đầy sức thì không ai mà tiếp cứu cho được” (Dạo<br /> mạnh đang hiện diện khắp nơi như muốn rảo xứ Thủ Dầu Một) [14, tr.796].<br /> thử thách ý chí và lòng dũng cảm của con Con người nhỏ bé như rợn ngợp trước<br /> người nhưng biết ơn vì thiên nhiên đã chở thiên nhiên mênh mông hoang dại. Đối<br /> che, cưu mang và đem đến nguồn sống cho diện với mối đe dọa thường xuyên, họ<br /> họ. Dấu ấn của thái độ văn hóa ấy đã được thường trực một mối lo sợ “chèo ghe sợ<br /> thể hiện khá rõ trong những trang du ký sấu cắn chưn, xuống sông sợ đỉa, lên rừng<br /> viết về Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. sợ ma”. Nỗi sợ ấy còn được thể hiện qua<br /> 2. Nội dung nghiên cứu cách đặt tên các địa danh. Tác giả Khuông<br /> 2.1. Bức tranh thiên nhiên hoang dã Việt đã không quên ghi lại cái thực tế này<br /> Khi người dân Việt mới đến Nam Kỳ, trong du ký Hai mươi lăm ngày đi tìm dấu<br /> ấn tượng đầu tiên là sự choáng ngợp trước người xưa:“Gọi là Rạch Gầm, theo lời một<br /> một thiên nhiên bao la rộng lớn nhưng vị hương chức nói lại, là vì xưa kia vùng đó<br /> “hoang sơ lạ lẫm” với sông rạch chằng chịt, toàn rừng rú, có nhiều cọp gầm thét tối<br /> rừng rậm nối dài. Điều này được Châu Đạt ngày” [2, tr.976].<br /> Quan viết trong Chân Lạp phong thổ ký Khi cuộc sống của con người vẫn còn<br /> như sau: “Bắt đầu vào Châu Bồ gần hết cả đang phụ thuộc vào thiên nhiên thì mọi<br /> vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những động tĩnh mà thiên nhiên gây ra đều mang<br /> cửa rộng của con sông lớn chảy dài hàng một màu sắc thần bí, khó hiểu. Lưu dân,<br /> trăm dặm với bóng mát um tùm của những những người đang hàng ngày hàng giờ phải<br /> cây mây dài, khắp nơi vang tiếng chim hót đối mặt thường xuyên với sơn lam chướng<br /> và thú kêu. Vào nửa đường trong sông, thấy khí, ma thiêng nước độc, cọp beo rắn rít...<br /> những cánh đồng hoang không có một gốc tin rằng để không bị thiên nhiên làm “nhiễu<br /> cây. Xa hút nữa tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ hại trâu bò của dân sự” (Tây Ninh Vũng<br /> cây đầy rẫy” [11, tr.80]. Thiên nhiên ưu ái Tàu du ký) hay “phá xóm làng” (Cảnh vật<br /> ban tặng cho vùng đất này sự màu mỡ, giàu Hà Tiên), gây khó khăn cho công cuộc<br /> sản vật quý hiếm khiến lưu dân tin rằng đây khẩn hoang và đe dọa tính mạng của con<br /> chính là miền đất hứa cho những thân phận người, họ phải lập miếu thờ và cúng tế<br /> lạc loài, đau khổ. Nhưng họ nhanh chóng đàng hoàng. Theo quan sát của tác giả<br /> nhận ra rằng đây cũng là “xứ sở lạ lùng”, vì Khuông Việt, hiện tượng thờ cúng này đến<br /> “dưới sông” thì “sấu lội” mà “trên bờ” thì giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX vẫn còn tồn<br /> “cọp um”, hoang vu, bất trắc đến nỗi: “con tại:“hiện nay trong làng, mỗi lượt cúng kỳ<br /> chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”. yên đều có chầu heo riêng cho cọp” (Hai<br /> Cái hiểm nguy ấy của thiên nhiên được tác mươi lăm ngày đi tìm dấu người xưa) [2,<br /> giả G.Y ghi lại trong du ký Dạo rảo xứ Thủ tr.976]. Không chỉ thờ mà họ còn tôn cọp<br /> Dầu Một như sau: làm “ông cả” trong làng, do đó mà “tên<br /> “Ngày nay người ta còn chỉ khúc cọp ít khi kêu; kêu tránh là: ông kẹ, ông<br /> <br /> <br /> 76<br /> VÕ THỊ THANH TÙNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> thầy, cáo vàng” (Cảnh vật Hà Tiên) [10, vía đâu mất cả, nhưng phúc đức, khỏi<br /> tr.587] với hy vọng được chúng buông tha. chết”(Một tháng ở Nam kỳ) [11, tr.238].<br /> Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh Những câu chuyện như vậy đã “trở<br /> sinh tồn đầy khắc nghiệt ấy, để tồn tại, con thành truyền thuyết phổ biến sâu rộng và<br /> người không chỉ biết sợ mà còn phải biết bền bỉ trong ký ức người dân. Đó là những<br /> chinh phục tự nhiên, “vì dù sao thú dữ việc làm và những thành tích của tập thể<br /> trước mặt cũng không ác bằng bọn quan lại mà nổi bật là những cá nhân xuất sắc đại<br /> vua chúa nơi quê nhà” [4, tr.21]. Bằng ý biểu cho lòng can đảm và ý chí chiến thắng<br /> chí, sự bền bỉ và lòng dũng cảm, lưu dân đã của người dân Gia Định” [1, tr.13]. Những<br /> biết “làm rọ mà bắt loài thú dữ ấy” (Tây cá nhân không sợ hiểm nguy, quyết tâm<br /> Ninh Vũng Tàu du ký) một mặt là để tự vệ, bảo vệ sự bình yên cho cộng đồng luôn<br /> mặt khác là để “khẳng định quyền làm chủ được nhân dân tôn vinh, ngưỡng mộ như<br /> chân chính của người Việt trên mảnh đất những anh hùng thật sự.<br /> này” [1, tr.14]. Chính hành động ấy đã để Trong những ấn tượng sâu sắc về vùng<br /> lại trong ký ức lưu dân những ấn tượng sâu đất mới, ấn tượng về rừng là dai dẳng nhất.<br /> sắc, khó quên về thời kỳ đầu đi mở cõi. Đối với dân tộc Việt Nam, rừng là hình ảnh<br /> Xung quanh những câu chuyện diệt hổ, giết quen thuộc, gần gũi vì rừng cùng với biển<br /> cọp vẫn thường được bao phủ bởi một màn là nơi đem lại nguồn sống cho con người.<br /> sương huyền thoại. Đó được coi là những Rừng như người mẹ hiền nuôi dưỡng và<br /> chiến công lớn nhất trong hành trình đi mở che chở cho dân tộc Việt Nam từ khi khai<br /> cõi của cha ông ta. Tác giả Phạm Quỳnh thiêng lập địa cho tới tận ngày nay. Là nơi<br /> trong một tháng dạo chơi ở Nam Kỳ đã để con người tưởng nhớ về cội nguồn. Tuy<br /> không quên ghi chép thật tỉ mỉ những câu nhiên đối với lưu dân, từ khi mới tiếp xúc,<br /> chuyện giết hổ, diệt cọp đầy vẻ hoang rừng không chỉ là người bạn hiền mà còn<br /> đường này: chứa đựng trong nó tất cả những lạnh lẽo,<br /> “Rồi ngài kể chuyện một bữa bắn thâm u, hiểm nguy và đáng sợ. Tác giả<br /> được con hổ to lớn lạ thường, khi nó vươn Biến Ngũ Nhy trong một lần đi ngang qua<br /> mình ra từ đầu đến cuối đuôi có tới sáu rừng vẫn còn cảm nhận rất rõ cái đáng sợ<br /> thước tây, nó làm kinh hoảng cả một vùng ấy: “khỏi mấy xóm nhà, thì tới rừng, hai<br /> đó, ăn hại không biết bao nhiêu người và bên cây mọc bí bách. Đường trường vắng<br /> súc vật, người dân đã cho là hổ thần, đành vẻ, chẳng thấy bóng người, dòm xung<br /> chịu không ai bắn nổi. (…) Quả gặp hổ quanh chỉ thấy cây lá điểm dài trước sau<br /> thần thật. Ngài bắn luôn mấy phát trúng, một đường trắng xóa” (Tây Ninh Vũng Tàu<br /> ngã sóng sượt ra, người nhà tưởng chết du ký) [6, tr.3]. Rừng cũng để lại cho con<br /> thẳng rồi, có một anh đánh bạo chạy lại người sự ám ảnh về những mất mát, đau<br /> gần; té ra hổ ta còn ngắc ngoải, vươn tay thương “Đi tới cây số 47 thì gò cao, đất<br /> ra nắm lấy gáy anh chàng! Quan đốc phủ dốc hai bên rừng bụi diềm dà, đường<br /> nhanh mắt và nhanh tay sao, bắn liền ngay quanh co trắc trở. Chỗ đó kêu là truông<br /> một phát vào giữa đầu hổ chết cứng. May Thò Đo, những kẻ cầm bánh xe hơi đều cho<br /> sao là may, nếu chậm một giây phút thì là chỗ hiểm, nên hễ tới đó thì rất cẩn thận”<br /> anh đầy tớ kia đi đời. Khi khiêng về hồn (Tây Ninh Vũng Tàu du ký) [8, tr.4].<br /> <br /> <br /> 77<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br /> <br /> <br /> Rừng rậm sông sâu vẫn luôn là một thế thánh thần. Do vậy, phần lớn các chùa<br /> lực bí hiểm, đầy sức mạnh đang hiện ra với chiền, đền điện đều được xây dựng trong<br /> một dáng vẻ hoang sơ như muốn thử thách rừng, chính vì vậy, những sinh hoạt tôn<br /> lòng can cảm của con người “đường đi giáo cũng thường diễn ra trong ấy, Biến<br /> ngang qua rừng, chỗ lên cao, chỗ xuống Ngũ Nhuy đã ghi chép tỉ mỉ những sinh<br /> thấp, hai bên cây cối mọc dài. Đi qua một hoạt này trong du ký của mình như sau: “đi<br /> cái truông, kêu là truông Hồng Đào. Trong khỏi châu thành chừng 4 ngàn thước, thì<br /> rừng cũng có nhiều thú dữ, như là cọp, tới rừng. Rừng ấy kêu là rừng Độm, rộng<br /> beo, song ít khi ra tới lộ đi tới dựa chân lớn minh mông, ăn vào tận tới chân núi, bề<br /> núi thì cùng đường” (Tây Ninh Vũng Tàu ngang hơn 8 ngàn thước. Cách năm bảy<br /> du ký) [7, tr.4]. năm trước, những thiện nam tín nữ trong<br /> Trong ký ức người dân Nam Bộ, rừng Lục Châu đi lên Điện Bà lấy làm khó nhọc,<br /> và truông thường gắn liền với nhau nên vì chẳng có đường lộ, phải đi xe bò, băng<br /> mức độ nguy hiểm càng tăng lên gấp bội. ngang vào rừng...” (Tây Ninh Vũng Tàu du<br /> Truông chính là sào huyệt của những băng ký) [7, tr.4].<br /> cướp khét tiếng, thường bắt bớ, giết chóc Khi thực dân Pháp xác lập quyền<br /> để cướp của hoặc đòi tiền mãi lộ. Do đó thống trị trên đất Nam Kỳ, một số thành thị<br /> truông luôn là hiện thân của mối đe doạ ra đời. Tuy nhiên, số thành thị này không<br /> khủng khiếp đối với con người. Trong Gia nhiều, còn lại vẫn là nông thôn và những<br /> Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức vùng hoang vu chưa ai khai phá. Thực tế<br /> cũng có viết: “Duy có vùng Toái Đàm này được phản ánh khá rõ trong những<br /> (Đầm Nát) thuộc huyện Long Thành có trang du ký viết về Nam Bộ, tác giả Biến<br /> nhiều kinh mương đan nhau, rừng ao xanh Ngũ Nhy mô tả: “Ra khỏi Trảng Bàng, xe<br /> rậm, đất trống, không có dân cư nên trộm chạy lên Gò Dầu Hạ, đi ngang qua một cái<br /> cướp thường núp ở đấy, khách buôn qua lại gò rất cao, lớn, kêu là xái-cục, thuộc về<br /> thường phải đề phòng (…) Xứ ấy có nhiều làng Phước An. Đường lên dốc, nhiều chỗ<br /> rừng cây sầm uất, nhà ở xa nhau, cho nên quanh co, khi lên cao, như mu rùa, khi<br /> nhiều trộm cướp nổi lên” [3, tr.188]. Ca xuống thấp như lòng chảo. Nơi gò cao, đất<br /> dao xưa cũng từng đề cập: “Thương em hoang cỏ cháy, tre mọc từng chòm; chỗ<br /> anh cũng muốn vô / Sợ Truông nhà Hồ sợ thấp trũng, bưng, báo, ruộng nương thưa<br /> phá Tam Giang”. Do đó truông và rừng thớt, coi phong cảnh não nùng” (Tây Ninh<br /> luôn là những chướng ngại thường xuyên Vũng Tàu du ký) [6, tr.3].<br /> ngăn cản bước chân người lưu dân trên con Tình trạng đất đai vô chủ là tương đối<br /> đường đi tìm miền đất hứa. phổ biến ở Nam Kỳ trong những năm đầu<br /> Tuy nhiên, rừng cũng là nơi thanh tịnh, thế kỷ XX, theo như ghi chép của Phạm<br /> nơi để con người tự đối diện với lòng Quỳnh thì: “Phong cảnh này thật là khác<br /> mình, rủ bỏ mọi ưu phiền khổ não, phủi cái phong cảnh mấy tỉnh Tây Nam mình<br /> sạch bụi trần để trở về với cái bản lai diện vừa đi qua mới rồi. Đất đây cao và khô,<br /> mục của chính mình. Từ trong tiềm thức toàn là đất gò đất núi cả, lắm chỗ đường<br /> của lưu dân, rừng là biểu trưng cho sự xe đi sẻ ngang vào giữa khoảng rừng cỏ<br /> trong sạch của tâm hồn, là nơi yên nghỉ của bãi hoang, cảnh tượng cũng đìu hiu tịch<br /> <br /> <br /> 78<br /> VÕ THỊ THANH TÙNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> mịch như lắm nơi ở Trung kỳ” (Một tháng danh mộc ít nơi dám bì”. Còn Đông Hồ và<br /> ở Nam Kỳ) [11, tr.248]. Nguyễn Văn Kiểm thì không quên liệt kê tỉ<br /> Dấu ấn của thiên nhiên hoang dã ở mỉ những danh mộc của xứ Hà Tiên: “lào<br /> Nam Bộ vẫn còn rất sâu đậm trong những táo, căm xe, cà chất, váng hương, săn đá,<br /> trang viết của các nhà du hành nửa đầu thế tràm, sơn hay giăng, đều là thứ danh mộc<br /> kỷ XX. Điều đó phản ánh một thực tế rằng tốt nhất hạng” (Cảnh vật Hà Tiên) [10,<br /> mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người tr.557]. Và tuy mỗi loại có những đặc điểm<br /> nơi vùng đất hoang sơ này vẫn còn vô cùng khác nhau nhưng tất cả đều là những “thứ<br /> khăng khít. Đối với người dân Nam Bộ, khi gỗ to tốt đẹp, chắc chắn, dùng được nhiều<br /> đời sống của họ phần lớn phụ thuộc vào việc” như “cất nhà, đóng ghe, đóng hòm,<br /> thiên nhiên thì hơn ai hết họ ý thức rất rõ sự v.v…” (Cảnh vật Hà Tiên) [10, tr.557]. Vì<br /> tác động lớn lao của thiên nhiên lên sản là danh mộc nên “thứ nào dùng lâu cũng<br /> xuất, sinh hoạt, do đó xuất hiện tâm lý sùng lên nước láng tốt” (Cảnh vật Hà Tiên) [10,<br /> bái, ngưỡng mộ, tôn trọng và cả nỗi sợ sệt, tr.557]. Về cầm thú thì cơ man nào là cọp,<br /> lo âu, khiếp nhược là điều hoàn toàn có thể rắn, ong, chuột, thỏ, heo rừng, nhím...<br /> lý giải được. Tất cả những biểu hiện hết sức nhiều đến nỗi vào “mùa nước đổ, đồng<br /> phong phú này của tâm lý con người trước ruộng ngập hết, heo, mang lên núp trên gò.<br /> thiên nhiên hoang dã đã được du ký ghi lại Khi ấy không cần bắn súng hay đánh bẫy.<br /> một cách tỉ mỉ, sinh động. Đọc du ký viết Cứ bơi xuồng ra gò, lấy cây lấy đá liệng nó<br /> về Nam Bộ ta có thể hiểu thêm một khía cũng chết” (Cảnh vật Hà Tiên) [10,<br /> cạnh nữa trong cách ứng xử của người Nam tr.557]. Những quan sát và ghi chép về<br /> Bộ xưa trước tự nhiên, đồng thời bộ phận rừng của các tác giả du ký Nam bộ đã góp<br /> văn học này còn góp phần làm cho mảng phần lột tả được vẻ đẹp hoang sơ cũng như<br /> văn học viết về Nam Bộ trở nên phong phú sự trù phú của một vùng đất mới.<br /> và hấp dẫn hơn. Nam Bộ xưa nổi tiếng là nơi: “Ruộng<br /> 2.2. Bức tranh thiên nhiên trù phú, đồng mặc sức chim bay/Biển, hồ lai láng<br /> xinh đẹp cá bầy đua bơi”. Nơi đây không chỉ có<br /> Không chỉ có thâm sâu, nguy hiểm, “rừng vàng” mà còn có “biển bạc”. Biển<br /> rừng còn chứa đựng trong nó nguồn sống cũng đem lại nguồn lợi đáng kể cho người<br /> dồi dào đủ sức làm ấm lòng những người dân Nam Bộ. Đặc biệt, các tỉnh như Kiên<br /> con xa xứ bằng một cuộc sống ấm no, đầy Giang, Vũng Tàu có bờ biển dài nên cá<br /> đủ. Vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu, lưu dân tôm lúc nào cũng nhung nhúc với đủ thứ<br /> đã có thể tự tin đến với rừng để khai thác loại:“Cá vồ, cá chan, cá vược, cá mú, cá<br /> nhiều sản vật quý hiếm mà rừng đã hào ngừ, cá chét gộc là mấy thứ cá ngon”,<br /> phóng ban tặng. Rừng từ xưa đến nay được (Cảnh vật Hà Tiên) [10, tr.598-602]. Từ đó<br /> coi là nơi quy tụ nguồn lợi dồi dào, đa hình thành nên “nghề đánh cá, làm nước<br /> dạng. Là người con của xứ Nam Kỳ, khi mắm đã phát triển với kinh nghiệm cao về<br /> đứng trước sự giàu có của rừng phương kỹ thuật” [5, tr.19] từ “cá cơm để làm nước<br /> Nam, tác giả của Cuộc du lịch Châu-Đốc mắm, cá bạc má làm cá mặn, mỗi năm bán<br /> Hà-Tiên Kam-pot Phú-quốc đã tự hào được mấy trăm vạn đồng” (Cảnh vật Hà<br /> khẳng định:“Nam Kỳ này có nhiều loại Tiên) [10, tr.595], đến các loại hải sản khác<br /> <br /> <br /> 79<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br /> <br /> <br /> có giá trị kinh tế cao như:“tôm càng, tôm Bên rặng núi mờ xanh, nhởn nhơ đàn nhạn<br /> bạc, tôm gộng, tôm tích, tôm vỗ ngực, tôm lạc, tạc thành một bức tranh ảnh khổng lồ<br /> sú... ” (Cảnh vật Hà Tiên) [10, tr.597] đã tuyệt đẹp” (Chơi Phú Quốc) [10, tr.384].<br /> góp phần đem đến sự phát triển thịnh Còn kia là “bãi Mũi Nai, núi Tô Châu, đảo<br /> vượng chung cho vùng đất Nam Bộ này. Phú Quốc, núi Thạch Động, Đông Hồ, mỗi<br /> Trong quá trình chinh phục tự nhiên, cảnh đẹp riêng một thế” (Cảnh vật Hà<br /> lưu dân đã vô tình khám phá ra vẻ đẹp Tiên) [10, tr.520]. Quả là “một cảnh thần<br /> quyến rũ làm say lòng người của cảnh vật tiên linh hoạt” (Tôi ăn Tết ở Côn Lôn) [4,<br /> nơi đây. Tác giả của Cảnh vật Hà Tiên đã tr.982] khiến khách du không khỏi mơ<br /> khám phá ra“bên cạnh những bức tranh màng trước cái “vẻ nước, màu trời, bóng<br /> đẹp của làng quê, còn có những khung trăng, sắc núi, hơi gió thì thào, tiếng sóng<br /> cảnh hùng vĩ của núi non hang động” mà dào dạt” (Tết chơi biển) [12, tr.303]. Cảnh<br /> “càng ngắm lại càng không tin là cảnh như mê như hoặc làm rung động, gợi cảm<br /> thiên tạo” vì “thiên tạo là ai là người ngồi hứng cho những tâm hồn nhạy cảm, biết<br /> tò mò xây đặt từng bậc đá, tỉ mỉ từng nét say mê cái đẹp: “ước chi tôi là một họa sĩ<br /> hoa, dẫu nhơn công cũng vị tất là khéo tài hoa hầu ghi lại trên vuông lụa trắng<br /> bằng” (Cảnh vật Hà Tiên) [10, tr.629]. những màu sắc mà thợ trời kéo tô điểm cho<br /> Cảnh vật đẹp đẽ khiến tác giả Marie mây nước bao la. Ước chi tôi là một thi<br /> Nguyễn Sử cứ “nhìn hoài không chán, nhân lỗi lạc hầu lựa những vần tuyệt tác để<br /> càng nhìn lại càng làm cho mê mết tâm ca tụng cái đẹp thiêng liêng huyền diệu của<br /> hồn” làm cho “bao nhiêu sự mệt nhọc nhờ hóa công” (Tôi ăn Tết ở Côn Lôn) [2,<br /> ngọn gió tốt nên tiêu tan đi hết” (Cuộc du tr.982].<br /> lịch Châu-Đốc Hà-Tiên Kam-pot Phú- Các nhà du hành nửa đầu thế kỷ XX<br /> quốc) [11, tr.177]. Và nói như tác giả Đông đã dành nhiều trang viết sinh động nhất khi<br /> Hồ thì chỉ khi nào“người ta được đặt mình viết về thiên nhiên Nam Bộ. Thiên nhiên<br /> vào những cảnh vắng vẻ êm đềm thì tâm không chỉ là bạn của con người mà còn là<br /> hồn mới thấy tỉnh táo nhẹ nhàng, di được nguồn mạch của sự sống, nơi nuôi dưỡng<br /> tinh, dưỡng được tình là ở những cảnh này, những vùng đất trù phú: “Người ta thường<br /> chớ lăn lóc ở trong bụi xe ngựa, chen chúc nói: “Đất Nam Kỳ là sản nhi của sông Mê<br /> trong án phồn hoa chỉ tổ làm cho người ta Kông”. Mà thiệt thế. Nhờ có sông Mê<br /> quay cuồng xuẩn động mà thôi” (Cảnh vật Kông đào đất tự trên cao nguyên Tây Tạng<br /> Hà Tiên) [10, tr.627]. (Tibet), chảy qua mấy nghìn dặm mang tới<br /> Thật là một bức tranh thiên nhiên đầy đây, đời ấy sang đời khác, phụ đắp mãi<br /> sự tương phản, không chỉ là chốn “cọp beo vào, mới thành ra cái đồng bằng lớn đất<br /> chẳng thiếu chi” (Tây Ninh Vũng Tàu du Nam Kỳ: cho nên ngày nay hình như sông<br /> ký), mà còn là nơi có nhiều phong cảnh kia vẫn thương yêu riêng chốn đất này, hai<br /> hữu tình như những bức tranh sơn thủy. tay dương ra ôm ấp lấy, như người mẹ<br /> Đây là cảnh biển với “bãi cát trắng phau, hiền ãm đứa con quí của mình”, (Một<br /> chạy dài hàng mấy nghìn thước. Ngoài tháng ở Nam Kỳ) [11, tr.199].<br /> khơi xa, lác đác mấy chiếc thuyền đánh cá, Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên là một<br /> cánh buồm trắng in vào đám mây hồng. trong những nội dung hấp dẫn của du ký<br /> <br /> <br /> 80<br /> VÕ THỊ THANH TÙNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> viết về Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX. Cảnh góp lớn lao vào quá trình hiện đại hóa nền<br /> đẹp ấy vừa có cái hùng vĩ, vẻ tươi tắn, sự văn học dân tộc trong buổi đầu còn nhiều<br /> yển chuyển đầy mê hoặc sông nước mây bỡ ngỡ.<br /> trời, vừa có cái sung túc của “rừng vàng Thiên nhiên là một trong những nội<br /> biển bạc”, cái màu mỡ, phì nhiêu của dung quan trọng của du ký viết về Nam Bộ<br /> những cánh đồng “cò bay thẳng cánh”.v.v. nửa đầu thế kỷ XX. Các nhà văn dành cho<br /> Phải là những con người thật sự gắn bó thiên nhiên một sự ưu ái đặc biệt bởi thiên<br /> máu thịt với quê hương xứ sở thì mới có nhiên muôn đời vẫn luôn có một sức hấp<br /> thể có những quan sát tỉ mỉ và những cảm dẫn mãnh liệt đối với con người, dù đó là<br /> nhận tinh tế về thiên nhiên như vậy. Những thiên nhiên hoang dã hay thiên nhiên trù<br /> trang du ký không chỉ thấm đượm tình quê phú xinh đẹp. Hai bức tranh thiên nhiên<br /> hương mà còn thể hiện ý chí tiến thủ, sức mới nhìn có vẻ tương phản nhưng kỳ thực<br /> sống mãnh liệt, lòng tự hào của lưu dân nơi là hai mảnh ghép không thể thiếu bổ sung<br /> miền đất mới. Chính những bức tranh thiên cho nhau làm cho bức tranh toàn cảnh của<br /> nhiên tươi đẹp được dệt nên từ ngôn từ như thiên nhiên Nam Bộ trở nên hoàn thiện.<br /> thơ như nhạc đó đã phần nào cho ta thấy Hai bức tranh cũng là hai dấu ấn quan<br /> được cái tâm sự yêu nước của các nhà văn, trọng trong hành trình đi mở cõi của người<br /> tuy không trực tiếp, quyết liệt nhưng có lưu dân nơi vùng đất mới. Dấu ấn đầu tiên<br /> sức ám ảnh ghê gớm. Cái phong vị thiên là nỗi khiếp sợ của những con người nhỏ<br /> nhiên đất nước ấy như đánh thức dậy trong bé trước cái hoang sơ, lạnh lẽo của thiên<br /> tâm hồn mỗi người cái bản năng gần với nhiên rộng lớn, nhưng vượt qua nỗi sợ ban<br /> bản năng sinh tồn, đó là bản năng bảo vệ đầu, khi đã quen và gần gũi là sự ngưỡng<br /> quê hương đất nước. mộ rồi gắn bó sâu nặng. Tình yêu vĩnh cửu<br /> 3. Kết luận với thiên nhiên là một trong những nguồn<br /> Du ký viết về Nam Bộ nửa đầu thế kỷ mạch chính của văn chương phương Đông.<br /> XX có những đóng góp không nhỏ trong Khi viết về thiên nhiên Nam Bộ là lúc các<br /> việc hoàn thiện thể loại du ký nói chung nhà du hành đang tiếp nối mạnh nguồn tươi<br /> cũng như khắc họa một phần lịch sử, địa mát của truyền thống văn chương dân tộc,<br /> lý, văn hóa, cảnh vật, con người Nam Bộ góp phần khơi gợi tình yêu, sự trân trọng<br /> trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, đối với di sản văn học nước nhà.<br /> khi các thế lực thực dân phương Tây đang TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> bắt đầu quá trình bành trướng sức mạnh<br /> 1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên),<br /> của mình đối với các dân tộc “nhược tiểu”<br /> Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh,<br /> phương Đông, trong đó có Việt Nam. Du tập 2: Văn học, báo chí, giáo dục, NXB TP<br /> ký Việt Nam nói chung và mảng du ký viết Hồ Chí Minh, 1998.<br /> về Nam Bộ nói riêng còn được coi là một<br /> 2. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên), Văn học Việt<br /> bộ phận văn học của những nhà tiền phong<br /> Nam thế kỷ XX, Tạp văn và các thể ký Việt<br /> mang sứ mệnh của những người đi khai Nam 1900 – 1945, Quyển ba, tập IV, NXB<br /> phá, mở đường “làm tài liệu cho một nền Văn Học, H, 2007.<br /> văn học Việt Nam” (Phạm Thế Ngũ).<br /> 3. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí<br /> Không những thế nó còn có những đóng (Tái bản lần thứ nhất), NXB Tổng Hợp<br /> <br /> <br /> 81<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br /> <br /> <br /> Đồng Nai, 2006. Du ký Việt Nam, Tạp chí Nam Phong 1917<br /> 4. Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, NXB TP Hồ – 1934, (Tập I), NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh,<br /> Chí Minh, 1993. 2007.<br /> 5. Sơn Nam, Đồng bằng Sông Cửu Long – nét 11. Nguyễn Hữu Sơn (Tuyển chọn, giới thiệu),<br /> sinh hoạt xưa & Văn minh miệt vườn, NXB Du ký Việt Nam, Tạp chí Nam Phong 1917 -<br /> Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2004. 1934, (Tập II), NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh,<br /> 2007.<br /> 6. Biến Ngũ Nhy, “Tây Ninh Vũng Tàu du<br /> ký”, Công Luận Báo, số 420, trang 3 1921. 12. Nguyễn Hữu Sơn (Tuyển chọn, giới thiệu),<br /> Du ký Việt Nam, Tạp chí Nam Phong 1917 -<br /> 7. Biến Ngũ Nhy, “Tây Ninh Vũng Tàu du<br /> 1934, (Tập III), NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh,<br /> ký”, Công Luận Báo số 422, trang 4, 1921<br /> 2007.<br /> 8. Biến Ngũ Nhy, “Tây Ninh Vũng Tàu du<br /> 13. Marie Nguyễn Sử, “Cuộc du lịch Châu-Đốc<br /> ký”, Công Luận Báo số 425, trang 4, 1921<br /> Hà-Tiên Kam-pot Phú-quốc”, Nam Kỳ Địa<br /> 9. Châu Đạt Quan, Chân Lạp phong thổ ký, Phận số 1442, trang 177, 1937<br /> Bản dịch Lê Hương, Sài Gòn, 1973.<br /> 14. G.Y, “Dạo rảo xứ Thủ Dầu Một”, Nam Kỳ<br /> 10. Nguyễn Hữu Sơn (Tuyển chọn, giới thiệu), Địa Phận, số 514, trang 796, năm 1918.<br /> <br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 22/10/2018 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 82<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2