intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các đập nước và hồ chứa ở thượng nguồn

Chia sẻ: Haivan Haivan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:10

250
lượt xem
62
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong các ngày gần đây, theo thông báo kêu gọi tiết kiệm điện của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam phát hằng ngày trên làn sóng của Đài Truyền hình Việt Nam: hiện nay hầu hết mực nước ở các hồ chứa nước ở Việt Nam giảm từ 20 – 40% so với mực nước trung bình hằng năm ở cùng thời kỳ, đặc biệt hồ chứa Hoà Bình – nơi nhà máy thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, mực nước xuống thấp nhất trong vòng 40 năm qua! Mặc dầu tất cả các hồ chứa ở......

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các đập nước và hồ chứa ở thượng nguồn

  1. CÁC ĐẬP NƯỚC VÀ HỒ CHỨA Ở THƯỢNG NGUỒN: CÓ HAY KHÔNG NGUY CƠ MÔI SINH TIỀM ẨN  CHO HẠ NGUỒN SÔNG MEKONG? Lê Anh Tuấn Đại học Cần Thơ   1. VẤN ĐỀ  Trong các ngày gần đây, theo thông báo kêu gọi tiết kiệm điện của Tổng Công ty Điện lực Việt  Nam phát hằng ngày trên làn sóng của Đài Truyền hình Việt Nam: hiện nay hầu hết mực nước ở  các hồ chứa nước ở Việt Nam giảm từ 20 – 40% so với mực nước trung bình hằng năm ở cùng  thời kỳ, đặc biệt hồ chứa Hoà Bình – nơi  nhà máy thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, mực nước  xuống thấp nhất trong vòng 40 năm qua! Mặc dầu tất cả các hồ chứa ở Việt Nam lấy nước từ các  hệ thống sông khác nhau nhưng quả thật, mùa khô năm 2004 đang diễn ra đặc biệt gay gắt. Đi  dọc theo suốt chiều dài sông Mekong từ Bắc xuống Nam, ta có thể thấy sự khô hạn rất rõ nét. Tại  thủ đô Vientian của nước Lào xuống vùng Savanakhet ­ Champasak, hầu hết các con sông suối  trên các phụ lưu đều khô cạn, người ta có thể đi bộ thong dong giữa lòng sông, các cánh đồng  hữu ngạn phía Thái Lan đều nứt nẻ khô cằn và gần như bỏ trắng, các vùng tả ngạn phía Tây  nguyên Việt Nam, các cánh rừng hiếm hoi còn lại đang có nguy cơ bùng cháy cao độ. Người viết  bài này, từ máy bay từ Bangkok về Saigon vào chiều ngày 11/4/2004, nhìn xuống gần như thấy  toàn một màu trắng xám, không còn mấy màu xanh trên các cánh đồng ở Campuchia. Các tỉnh  duyên hải vùng Đồng bằng sông Cửu Long như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, nước mặn đang  tràn sâu vào đất liền. Hiện tượng này khiến nhiều người nhìn ngược lên các con đập ở phía  thượng nguồn sông Mekong, phía các hồ chứa ở Vân Nam, Trung Quốc, nơi mà các số liệu kỹ  thuật về qui mô khai thác và ảnh hưởng của nó vẫn còn là những thông tin mơ hồ ngay cả những  quốc gia liên quan dọc theo sông Mekong như Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam.    Đập nước DaChaoShan (Đại Triều Sơn) của Trung Quốc ở thượng nguồn sông Mekong (photo Hans Friederich / IUCN) Theo một số tài liệu dẫn chứng, Trung Quốc đã dự kiến 14 ­ 15 bậc  nước tương ứng với hồ chứa tương ứng cho mục tiêu thủy điện kéo dài  dọc  theo  khu vực Vân Nam,  trên thượng nguồn  sông  Mekong  và  đã  hoàn thành hai đập thủy điện là đập Dachaoshan ­ Đại Triều Sơn (dung tích sử dụng/dung tích tối  đa là 240 triệu m3/ 890 triệu m3, công suất phát điện xấp xỉ 1350 MW/năm) và đập Manwan ­  Mạn Loan (dung tích sử dụng/dung tích tối đa là 258 triệu m3/ 920 triệu m3, công suất phát điện  xấp xỉ 1500 MW/năm). Các đập còn lại thì chỉ ở mức nghiên cứu tiền khả thi và khả thi. Cách đây  gần 10 năm, người viết bài này cũng đã từng gặp một số chuyên gia kỹ thuật Trung Quốc đang  khảo cứu thủy văn tại Lào, biết họ có ý muốn tạo một hành lang thủy lộ ở từ Vân Nam xuống Lào  và tiếp tục kéo dài qua thác Khone của tỉnh Champasak của Lào đến Cambodia nhằm tạo điều  kiện cho các con tàu có tải trọng khoảng 150 tấn đi lại dễ dàng. Ngoài ra, còn một một số công  trình hồ chứa nước ở các phụ lưu sông Mekong (không có trên sông chính) cũng đang dự kiến  xây dựng ở các quốc gia duyên hải ở Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam. Một câu hỏi lớn cần 
  2. đặt ra, các đập nước ­ hồ chứa và cả ý đồ tạo các tuyến giao thông thủy này có ảnh hưởng đến  tình trạng lũ lụt ­ hạn hán, hay nói xa hơn có hay không nguy cơ cho một thảm họa môi sinh đối  với các quốc gia hạ nguồn sông Mekong hay không?    Các vấn đề môi sinh có thể hoặc chưa có thể gây hiểm họa trước mắt, sự biến đổi hệ sinh thái  thường diễn ra từ từ ngoại trừ những tai nạn lớn do thiên tai như bão lụt, động đất, núi lửa hoặc sự  bất cẩn của con người như vỡ đập, cháy nổ hóa chất, rò rỉ chất phóng xạ ... nhưng hầu hết việc  khắc phục hậu quả của môi trường suy thoái thường rất khó khăn, lâu dài và tốn kém, nhiều lúc  không hồi phục hoàn toàn được. Do vậy, thái độ thận trọng, có trách nhiệm và có ý thức bao giờ  cũng rất cấn thiết. Chúng ta không thể thờ ơ, vô tâm, vô cảm với các vấn đề hiện tại và tương lai  của đất nước nhưng chúng ta cũng không nên quá hoảng hốt phóng đại sự việc, cảm nhận vấn  đề quá bi quan hoặc đôi khi tạo một cao trào hoảng hốt tỉ như các nước hạ nguồn sông Mekong  như đang đứng trước một kho vũ khí hủy diệt hàng loạt vậy!!!   2. KHÁI QUÁT SÔNG MEKONG VÀ HIỆN TRẠNG KHAI THÁC Chúng ta đã biết, sông Mekong là một trong các con sông lớn nhất và có chế độ thủy văn phức  tạp nhất Đông Nam Á, được xếp hàng thứ 10 về lưu lượng nước, thứ 15 về chiều dài và thứ 25 về  diện tích lưu vực trên thế giới. Sông Mekong có chiều dài tổng cộng 4.350 km, diện tích lưu vực là  795.000 – 810.000 km2, với tổng lượng dòng chảy hàng năm ra đến biển Đông là trên 500 tỷ m 3  nước. Dòng sông là mạch máu quan trọng cho việc phát triển kinh tế ­ xã hội cho một phần Trung  Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam (xem bảng 1). Lưu vực Mekong được  xem là các khu dự trữ sinh quyển và đa dạng sinh học lớn chỉ sau lưu vực sông Amazon, Nam  Mỹ. Tuy vậy, các số liệu địa lý ­ thủy văn dòng sông có thu thập tương đối đầy đủ và có trao đổi  so sánh thường xuyên chỉ được thực hiện ở đoạn từ biên giới Thái Lan ­ Miến Điện ra đến Biển  Đông, chiếm chừng 75% diện tích toàn lưu vực (xem bảng 2). Hợp tác quốc tế thể hiện qua sự  hình thành Ủy hội sông Mekong (MCR) với 4 thành viên là Thái Lan – Lào – Cambodia và Việt  Nam. Các thông tin phía trên thượng nguồn dòng sông, chiếm gần 25%, diện tích lưu vực rất ít ỏi  và thiếu cơ sở kiểm chứng do Trung Quốc và Miến Điện đến nay vẫn không tham gia vào Ủy ban  này và không có sự chia xẻ thông tin đến các quốc gia hạ nguồn. Tuy nhiên, điều này không thể  là cơ sở để Trung Quốc, kể cả Miện Điện, phủ nhận trách nhiệm của mình trong việc gây ảnh  hưởng đến con sông quốc tế này.   Sông Mekong quả xứng đáng là mạch máu chính cho các nước hạ nguồn của nó. Khoảng 70 –  80 % lương thực sản xuất ở các quốc gia Thái – Lào – Miên ­ Việt đều lấy nước từ sông Mekong,  khoảng 50% diện tích lưu vực sông Mekong được sử dụng để sản xuất nông nghiệp và chúng ta  có thể mạnh dạn khẳng định lưu vực sông Mekong là vựa lúa lớn nhất thế giới  với 2 cường quốc  xuất cảng lúa lớn là Thái Lan và Việt Nam. Trên 65 triệu người dọc theo lưu vực sông Mekong sử  dụng nguồn nước này để sản xuất, sinh sống và sinh hoạt hàng ngày. Đây cũng là nơi mà mức  tăng dân số, cả việc tăng dân số tự nhiên và tăng dân số cơ học, thuộc loại cao nhất ở Châu Á: từ  khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt vào giữa năm 1975, dân số ở trung và hạ lưu  lưu vực sông  Mekong tăng gấp đôi! Sức ép tăng dân số, tham vọng phát triển kinh tế nhanh cho kịp các con   rồng, con hổ  trong khu vực khiến dòng sông đang đứng trước một thử thách lớn về sự biến đổi  chất lượng nước và động thái nước chưa từng có trong lịch sử địa lý hình thành con sông từ kỷ 
  3. Tân sinh cho đến nay: hiện nay con sông đang được tận tình chú ý khai thác từ cấp nước cho sản  xuất nông nghiệp, sinh hoạt, hàng loạt các nhà máy, khu công nghiệp hình thành dọc theo hai  bên bờ sông, các trại cá, hồ cá liên tiếp được xây dựng, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm  cũng mau chóng xây dựng, qui mô số lượng phát triển vận tải thủy tăng nhanh, các hồ chứa ­ đập  thủy điện lần lượt xây dựng. Trong khi đó, diện tích rừng đầu nguồn và hai bên dòng sông đang  giảm đi rất nhanh, nhu cầu rất lớn về gỗ xây dựng, chất đốt cho một số đông dân số vẫn là một  áp lực nặng nề cho môi sinh khu vực. Việc phá rừng vẫn còn là một mục tiêu mở rộng diện tích  canh tác khiến sự xói mòn và bạc màu đất ngày càng trầm trọng.                                 Bảng 1: Phân đoạn trên sông Mekong Phân  Diện tích  Chiều dài* Quốc gia Đặc điểm dòng chảy – dân cư đoạn lưu vực* liên quan km2 % km % Thượng  150.000 19 3.100 71 Trung Quốc Dòng chảy mạnh, lòng sông hẹp và  lưu Miến Điện sâu, nhiều ghềng thác, đi lại trắc  Lào trở.  Dân cư thưa thớt. Trung  456.000 57 750 17 Thái Lan,  Lưu vực rộng, lòng sông mở rộng và  lưu Lào sâu hơn, phía Bắc và Trung Lào đi  Cambodia lại dễ, phần giáp Lào – Cambodia  nhiều thác lớn, hiểm trở, đi lại rất  khó khăn. Đoạn này sông có rất nhiều chi lưu  từ 2 phía hữu ngạn (Thái Lan) và tả  ngạn (Lào và Việt Nam). Ở  Cambodia, sông Mekong nối với  sông TongLeSap ­ Biển Hồ là nơi  điều tiết dòng chảy quan trọng nhất  cho phần hạ lưu.  Phần trung lưu là nơi phát sinh chủ  yếu các con lũ ở hạ nguồn. Dân cư tập trung dọc theo 2 bên  triền sông, ở mức độ vừa phải .
  4. Hạ lưu 194.000 24 500 12 Cambodia Từ PhomPenh, dòng sông phân  Việt Nam làm 2 nhánh và chảy về Việt Nam,  đổ ra biển Đông bằng 8 cửa. Dòng  chảy trên sông chậm lại, bề rộng  sông mở rất lớn, nhiều cù lao xuất  hiện, ảnh hưởng của thủy triều từ  biển Đông trên hệ thống sông rất rõ  rệt. Ảnh hưởng của lũ lụt lên cuộc sống  và sản xuất rất lớn. Mật độ dân cư  cao.          Bảng 2:  Lưu vực Mekong qua 6 quốc gia duyên hà Lưu vực  % lượng nước  Quốc gia Mekong  trung bình** (km2)* 1. Trung Quốc 167.000 16 2. Miến Điện 24.000 2 3. Lào 201.000 35 4. Thái Lan 182.000 18 5. Campuchia 156.000 18 6. Việt Nam 65.000 11 (*)        Các số liệu ở các cột này chỉ gần đúng và được làm tròn số để dễ hình dung.  (**)      Tỉ lệ này có thay đổi hằng năm, tùy thuộc lớn vào lượng mưa rơi trong khu vực, mức độ bốc hơi, thấm xuống đất, độ che phủ  mặt đất và hình thái địa lý vùng.                                                                                                                         2. MỘT SỐ NỀN  TẢNG THỰC TẾ   2.1. Mục tiêu của các đập nước ­ hồ chứa Một trong các mục tiêu khai thác thủy lợi các dòng sông là thủy điện. Bằng cách nhân 2 con số  lưu lượng và cao độ mực nước là các nhà thủy học có thể hình dung ra qui mô của một nhà máy  sản xuất điện năng không tốn nhiên liệu, được xem là rẻ tiền, dễ thực hiện và ít gây ô nhiễm môi  trường (?). Các lưu vực sông có lượng nước chảy lớn và bậc nước cao được xem là các vùng có   nhiều tiềm năng về thủy điện. Xây dựng một con đập chắn ngang dòng chảy của một con sông  sẽ hình thành một hồ chứa nước ở phía thượng nguồn. Hồ lớn hay nhỏ tủy thuộc vào nhiều yếu  tố: cao độ của đập chắn, diện tích khu trũng, điều kiện địa chất, địa hình, lượng nước bổ sung và  điều tiết theo thời kỳ, qui mô khai thác nguồn nước, ... Có thể nói, từ giữa thế kỷ thứ 19 và suốt thế  kỷ 20 là thời kỳ phát triển số lượng đập chắn ­ hồ chứa nước nhiều nhất trong lịch sử nhân loại.  Hầu như chưa có hệ thống sông nào trên thế giới chưa được con người xây dựng đập chắn ­ hồ  chứa, khác nhau chỉ ở qui mô lớn nhỏ mà thôi. Nhiều quốc gia có mạng lưới sông ngòi phong  phú, nguồn thủy điện chiếm trên 80% so với các nguồn năng lượng khác và xem đây như là một  một chìa khóa mấu chốt cho động lực phát triển kinh tế quốc gia. Đập nước được xem là một biện 
  5. pháp hữu hiệu để trị thủy, kiểm soát dòng chảy, giữ nước trong mùa mưa để hạn chế lũ lụt ở hạ  nguồn và xả nước ở mùa khô để giảm bớt hạn hán. Từ các hồ chứa này, người ta còn chú ý khai  thác nước cho việc tưới ruộng, cấp nước sinh hoạt, vận tải thủy, nuôi cá trong hồ chứa, sử dụng  các hồ chứa như là một địa điểm điều hòa khí hậu, là nơi tham quan du lịch, hoạt động thể thao  nước, nơi an dưỡng chữa bệnh, ... Trước những năm 1950, hầu như mọi người, ngay cả những  nhà môi trường, đánh giá các mặt tích cực của các hồ chứa nước bao giờ cũng cao hơn các hạn  chế của nó.   2.2. Tác động môi trường có thể có của các đập nước  Bài học của đập Aswan ở Ai Cập – do Liên Xô xây dựng trước đây ­ có lẽ là một bài học điển hình  nhất mà các nhà môi sinh học trên thế giới lấy làm ví dụ cụ thể cho việc đánh giá tác động môi  trường đối với các đập nước gây ra. Trong bài này, tác giả không có ý định tường thuật các điển  hình như vậy chỉ có một số liệt kê chính về tác động môi trường có thể có của các đập nước, như:   • Một lượng lớn phù sa sông bị giữ lại ở trong lòng hồ chứa làm chất lượng ở hạ nguồn  giảm, đồng ruộng sẽ thiếu phù sa màu mỡ bồi bổ khiến nông dân phải  nhập phân bón  hóa học vừa tốn tiền, vừa tác hại cho đồng ruộng, sinh vật chung quanh và cả con người.  • Nhiều loại cá sông không thể tồn tại và phát triển vì đường đi để sinh sản và kiềm ăn của  chúng bị cắt đứt. Một số công trình hồ chứa có hạng mục xây dựng đường đi cho cá  nhưng thực tế nhiều nới có công trình này nhưng lượng cá trên sông vẫn tụt giảm thê  thảm, có nhiều nơi chưa đến 10% so với khi chưa có công trình.  • Nước trong hồ chứa bị tù đọng có thể sẽ là nơi phát sinh nhiều dịch bệnh từ nguồn nước  như sốt rét, sốt xuất huyết, sên sán, tảo độc, ...  • Một lượng lớn diện tích cây rừng bị mất đi do lòng hồ phải ngập nước, ảnh hưởng này có  thể làm giảm nguồn gien thực và động vật quí hiếm, đa dạng. Nếu trong khu vực lòng hồ  có các di tích văn hóa, lịch sử, khảo cổ thì việc mất đi các di tích này là một điều cũng  khá đáng tiếc.  • Việc di dân và vấn đề định cư người dân sinh sống trong khu vực lòng hồ có thể là một  khó khăn, do tác động đến sự an cư, phong tục tập quán người dân, đặc biệt là người dân  tộc thiểu số.  • Các đập nước lớn có thể gây ra nhiều biến động liên quan đến địa chất, địa hình, thổ  nhưỡng. Nước trong lòng hồ có thể thấm qua các tầng đất gây úng nước, tăng mức độ  bão hòa các lớp thổ nhưỡng, có thể ảnh hưởng đến việc ổn định vỏ trái đất ở khu vực.  Một số nơi hiện tượng động đất, đất chuồi xảy ra thường xuyên sau khi có các hồ chứa.  Nếu không khảo sát kỹ địa chất, nước trong lòng hồ có thể thấm và hòa tan các mỏ muối  khoáng dưới đất gây ảnh hưởng xấu đến cây trồng bên trên.  • Sự thay đổi chế độ dòng chảy trên sông có thể tạo ra một hình thái xói lở và bồi lấp mới ở  hạ lưu. Sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng một phần ổn định bờ sông và hệ sinh thái hai bên  bờ sông.  • Nước khi chảy qua các turbine máy phát điện sẽ gia tăng nhiệt độ do ảnh hưởng của hiện  tượng ma sát dòng chảy với đường ống và thiết bị turbine. Nước xả ra có nhiệt độ cao hơn  nhiệt độ nước bình thường của dòng sông cũng gây ra các ảnh hường đến hệ sinh thái và  sử dụng nước ở các vùng cận kề nhà máy phát điện. 
  6.   2.3. Vấn đề vỡ đập và ảnh hưởng đối với hạ lưu Ngay từ thập niên 1950, các nhà thủy lực học đã có các khảo cứu các sự kiện liên quan đến tai  họa do vỡ đập gây ra. Khi một con đập đột ngột bị vỡ, lúc đó, một khối lượng nước lớn tức thời vỡ   oà gây một trận lũ xoáy ập tràn xuống các vùng trũng hạ lưu, có thể làm ngập và phá vỡ nhanh  chóng các công trình, cuốn trôi nhiều sinh mạng, hoa màu, gia súc. Liên đoàn các kỹ sư Quân đội  Mỹ (US. Army Corps of Engineers, theo Anonymous, 1975) đã đếm được trên toàn nước Mỹ có  khoảng 50.000 con đập có chiều cao trên 25 ft (tương đương 7.6 mét) hoặc hồ nước có dung tích  chứa trên 50 acre ft (tương đương 62.000 m3). Trong số này, có khoảng 20.000 đập nước nằm ở  các vị trí nếu có nguy cơ khi vỡ đập sẽ gây ra các tổn thất cao về nhân mạng và tài sản. Các con  đập này hiện đang là những đối tượng được bảo vệ chặt chẽ, phòng ngừa các hiểm họa khủng bố  có thể xảy ra.    Đập nước có thể bị vỡ do các nguyên nhân như nước lũ dồn về quá lớn vượt qua khả năng xả của  đập tràn, áp lực nước lớn có thể phá vỡ kết cấu công trình của đập nước, hoặc do các tác nhân  khác như thấm ngang quá lớn gây sạt lở mái đập, các công trình dẫn nước qua đập bị phá hủy,  hoặc do động đất tại chỗ hoặc các chấn động địa chất tạo sóng cường trong hồ chứa làm trượt  mái đập.    Dự báo tổn thất do vỡ đập thường không chính xác lắm vì nó phụ thuộc vào hoàn cảnh và thời  điểm đập bị vỡ. Trường hợp đập vỡ trùng với thời kỳ mưa lũ, triều cường ở hạ lưu thì tổ hợp các  thảm họa này sẽ nhân cao các tổn thất. Nếu hạ lưu là các vùng đồng bằng hẹp và dài thì nguy cơ  càng tăng và tổn thất sẽ lớn hơn vùng đồng trũng rộng. Nếu trên một hệ thống sông nhiều bậc  nước, kịch bản vỡ nhiều đập nước do nguyên nhân thiên nhiên (như động đất, lũ cực lớn,...) hoặc  do con người (do phá hoại, khủng bố, ...) cần phải xem xét và thực nghiệm cẩn thận trên các mô  hình vật lý hoặc toán học (ví dụ như mô hình toán DAMBRK của Fread, D.L., 1982).    2.4. Tác dụng của Biển Hồ đối với Đồng bằng sông Cửu Long Sông   Mekong   sau   khi  từ   địa   phận  tỉnh   Champasak,   Lào   đổ   xuống   thác  Khone  vào  khu  vực  Stungsteng – Kratíe của Cambodia theo hướng Bắc Nam thì rẽ vào dòng TongLe Sap rồi tách ra  thành 2 dòng riêng biệt và chảy xuôi theo hướng Tây Bắc – Đông Nam xuống Việt Nam qua 2  ngã Tân Châu (sông Tiền) và Châu Đốc (sông Hậu) . TongLeSap là một vùng trũng lớn, có chế  độ thủy văn Sông ­ Hồ. Giữa dòng chảy là một một hồ chứa thiên nhiên lớn, mang tên là Biển Hồ  (Great Lake). Biển Hồ là một hồ điều tiết lớn (hình a, b và c), vào mùa lũ nó có dung tích chứa  hơn 60 tỷ m3 nước trải ra ở một vùng có chiều dài 150 km, bề ngang nơi rộng nhất là 32 km, với  diện tích mặt thoáng là 11.000 km2, chiều sâu có nơi lên đến 8 – 10 m. Mùa khô diện tích mặt  nước bị thu hẹp chỉ còn chừng 3.000 km2, chiều sâu trung bình chỉ còn 0,8 – 2,0 m do nước được  xả tự nhiên xuống hạ lưu. Biển Hồ là nơi cung cấp nguồn cá chủ yếu cho Cambodia và Việt Nam.   Nhờ tác dụng điều tiết của Biển Hồ mà cường độ lũ trên sông Mekong ở Việt Nam không lớn lắm,  lũ của sông Mekong không lên nhanh như các con sông ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam,  trung bình mỗi ngày nước lên ở Tân Châu chừng 20 cm/ngày, tối đa không quá 34 cm/ngày. Tại  Châu Đốc, tốc độ nước lũ lên trung bình chừng 15 cm/ngày và không quá 35 cm/ngày. Đặc điểm  khác biệt lớn nhất về lũ lụt của sông Mekong so với các con sông khác ở Việt Nam là nước lên 
  7. chậm và rút cũng chậm (khoảng 2 tháng). Chính nhờ Biển Hồ mà lũ lụt không phải là một tai họa  thực sự to lớn đối với Đồng bằng sông Cửu Long. Cũng chính nhờ Biển Hồ mà nhiều giống cá  sinh sôi phát triển cung cấp một lượng đạm lớn cho bữa ăn người dân ở đây. Biển Hồ đã được  Liên hiệp quốc công nhận là một trong các khu vực dự trữ sinh quyển lớn của thế giới.     Hình a: Biển Hồ lúc dòng chảy bình thường (theo MCR)  Hình b: Biển Hồ lúc dòng chảy mùa mưa (theo MCR)  Hình c: Biển Hồ lúc dòng chảy mùa khô (theo MCR) Các dự án kiểm soát lũ ở hạ lưu sông Mekong do Ủy ban sông Mekong (1960 – 1981) và Đoàn   Phát triển Đồng bằng (Hà Lan, 1974) cho thấy nếu hình thành một cống đập Tongle Sap nhằm  kiểm tra nước sông Mekong vào Biển Hồ thì có thể có sự can thiệp của con người vào thiên nhiên  ở đây vào việc kiểm soát lũ: mùa lũ lớn thì tích nước vào Biển Hồ, khi lũ bắt đầu rút thì đóng các  cửa cống lại tạo điều kiện cho nước ở Đồng bằng sông Cửu Long rút nhanh hơn. Lượng nước giữ  lại trong Biển Hồ sẽ được tháo dần dần trong mùa khô nhằm bảo đảm cho tưới ruộng, giao thông  thủy và đẩy lùi ranh mặn ra phía biển Đông. Theo tính toán mô hình, với mức lũ như năm 1961,  công trình này có thể làm giảm mực nước lũ tại Phnom Penh là 0,41 m, tại Châu Đốc là 0,2 m và  tại Tân Châu là 0,19 m. Tuy nhiên, dự án này cũng chưa đánh giá hết nguy hại do sự sụt giảm  sản lượng cá ở Biển Hồ, ảnh hưởng giao thông thủy giữa Phnom Penh và Tongle Sap và sự biến  đổi về sinh thái môi trường thực và động vật khu vực.  
  8. 3. THẢO LUẬN  Nông dân Việt Nam có câu nói: “Thượng điền tích nước, hạ điền khan”, nghĩa là ruộng trên cao  giữ nước thì ruộng dưới thấp chịu sự khan hiếm nước. Tuy nhiên, câu này không thể áp dụng cho  một lưu vực rộng lớn như hệ thống sông Mekong. Chúng ta đã biết, nước trên sông Mekong chủ  yếu là do mưa, nước mưa ở thượng nguồn sông góp khoảng 25% tổng lượng nước. Phần còn lại là  từ phần trung và hạ lưu sông.  Đoạn thượng nguồn, lưu vực sông dài và hẹp nên lưu lượng dòng  chảy lớn, tốc độ dòng chảy nhanh, mức độ tập trung nước cao. Còn đoạn trung và hạ lưu, lưu vựa  mở rất rộng nên khả năng tập trung nước chậm hơn rất nhiều. Khả năng tập trung nước vào dòng  chảy sông phụ thuộc vào: (1) diện tích lưu vực, (2) hình dạng lưu vực, (3) lớp phủ thực vật, (4) độ  dốc lưu vực, (5) điều kiện địa chất, thổ nhưỡng và (6) quan trọng là cường độ và thời gian mưa.    Chúng ta thử làm một sơ tính nhỏ, nếu cộng cả hai dung tích tối đa của 2 đập nước Dachaoshan  và Manwan ta sẽ có một lượng nước là 1.810 triệu m 3 nước. Đem lượng nước này rải trên diện tích  lưu vực đoạn trung lưu sông Mekong là 456 triệu km2 (bỏ qua phần hạ lưu), thì được một lớp nước  không quá 4 mm. Như vậy, giả sử có một trận mưa rất nhỏ khoảng 10 mm kéo dài khoảng vài  mươi phút và rơi đều trên toàn lưu vực này, chúng ta sẽ nhận được một lượng nước cao hơn gấp  hai lần tổng lượng nước tối đa của hai đập nước trên. Nếu hệ số tập trung nước trên sông là 50%  thì lượng mưa trên đã đủ tích đầy hai hồ chứa này. Thật sự, trường hợp hai đập này cùng vỡ một  lúc thì tác hại tức thời của nó chỉ xảy ra ở đoạn sông dài khoảng vài chục đến vài trăm km về phía  hạ lưu và không mở rộng trung bình quá 3 km cho hai bên bờ. So với chiều dài trên 3.000 km đến  Việt Nam, ảnh hưởng của đập nước này đối với sự ngập lụt của Đồng bằng sông Cửu Long là rất  nhỏ và gần như không đáng kể.    Ý đồ sử dụng các đập nước này như các quả bom môi sinh để đe dọa các nước hạ lưu là một điều  khá vớ vấn, mang tính tưởng tượng nhiều hơn thực tế. Không thể nào so sánh bom “vật lý” và  bom “môi sinh” trong trường hợp này. Điều khác biệt lớn nhất là bom “môi sinh” này nổ tại chỗ,  nghĩa là bom nổ ngay trên sân nhà của chủ nhân của nó, khác với các loại bom “vật lý” khác là  chúng nổ trên sân đối phương! Họa chăng chỉ có một ít tác hại đối với vùng đầu biên giới Thái –  Lào, đó là chưa nói “trái bom” này sẽ tạo nên tình cảnh “gậy ông đập lưng ông” đối với chính  Trung Quốc! Ngược lại sự phỏng đoán, chính Trung Quốc là người phải lo bảo vệ các quả bom  “môi sinh” này trong sân nhà của mình.   Hạn hán hiện nay ở các quốc gia hạ nguồn sông Mekong chưa hẳn là do các công trình trên  sông. Nhiều con sông ở Đông Nam Á khác với sông Mekong cũng có những hiện tượng tương tự.  Một giả thiết đang được chú ý là Châu Á hiện đang bắt đầu đối phó với sự trở lại của hiện tượng El  Nino (?), hiện tượng này đã tùng xảy ra từ tháng 12/1982 đến tháng 2/1983 với sự hình thành các  dòng nước nóng chạy dọc theo đường xích đạo trên biển Thái Bình dương tạo sự khô hạn trải dài  từ vùng Đông Nam Á đến bờ biển phía Tây của Châu Mỹ mà gần đây có thể là một biểu hiện.  Vấn đề này không dự kiến xem xét sâu ở đây.   Vần đề cần thảo luận ở đây là các đập nước này ảnh hưởng ra sao đối với các hệ sinh thái và việc  điều tiết nước cho các tiểu vùng đầu nguồn của sông Mekong đoạn đầu biên giới Thái – Lào nếu  không có sự phối hợp và thông báo kế hoạch thời gian và qui mô đóng mở cửa van đập nước. 
  9. Như đã nói ở trên, Trung Quốc vẫn chưa đồng ý tham gia vào Ủy hội sông Mekong nên sự trao  đổi, bàn bạc bị hạn chế và việc đánh giá tác động môi trường không thể nào chi tiết và thường  mang tính phiếm diện, chủ quan.   Hiện trạng phá rừng, khai hoang thiếu kiểm soát dọc theo các vùng rừng núi hai bên thượng và hạ  lưu đang là một điều báo động. Người viết bài này, sau nhiều năm công tác phát triển nông thôn  tại Lào, đã đau lòng chứng kiến nhiều cánh rừng nhiệt đới bị tàn phá, khai thác bừa bãi do các  công ty Thái Lan và Lào. Hàng ngày có hàng đoàn xe tải chở đầy các thân gỗ lớn từ Lào nối đuôi  nhau qua Cửa khẩu biên giới Thái – Lào. Trong khi đó, công tác trồng và săn sóc rừng tiến triển  rất chậm chạp. Ở Cambodia, tình trạng khai thác gỗ rừng cũng đã và đang diễn ra tương tự như ở  Lào. Hằng năm, vào mùa mưa lũ, người viết đã quan sát thấy có sự xói lở nghiêm trọng bờ sông  Mekong và bào mòn mãnh liệt các lớp thổ nhưỡng trên các triền dốc nơi mà những năm về trước  còn là những cách rừng phong phú. Nước lũ trên sông Mekong đầy ắp bùn cát và các thân cây  lớn bị đổ ngã cuốn trôi theo dòng chảy. Hiện tượng này, mặt dầu có mặt tích cực là bồi bổ ruộng  đồng cho vùng hạ lưu sông ở Cambodia và Việt Nam, làm mũi Cà Mau ở Đồng bằng sông Cửu  Long mỗi năm kéo dài ra biển từ 80 – 100 mét. Mặt khác, sự bào mòn và bồi lắng này cũng làm  thu hẹp dung tích của Biển Hồ. Tuy nhiên, tiến trình này cũng không phải nhanh chóng vì dòng  chảy mang phù sa có khuynh hướng chảy xuôi về hạ lưu hơn là đổ ngược vào Biển Hồ (xem hình  b). Đến nay, việc đánh giá sự bồi lắp Biển Hồ vẫn chưa có một nghiên cứu nào dài hạn và sâu  rộng nhưng cũng dễ nhận thấy là hiện tượng này đang xảy ra đều đặn. Điều này, cũng khó mà  xây dựng một bức tranh dự báo cho tương lai Biển Hồ. Mặc dầu sự biến đổi về môi sinh do hiện  tượng bồi cạn Biển Hồ diễn ra rất chậm chạp và khó nhận thấy nhưng vẫn là điều cũng cần cảnh  báo cho các nhóm môi trường cần lưu ý.    Có thể người ta sẽ có các dự án khai thác bùn cát trong lòng Biển Hồ bằng xáng thổi, xáng múc  hoặc xáng cạp gì đó. Bùn cát khai thác được sẽ dùng để san lấp các vùng dân cư hoặc sản xuất  khác. Có thể người ta củng có thể xây dựng các cống xả bùn cát đáy kết hợp với cống đập kiểm  soát nước ra vào Biển Hồ. Tuy nhiên, kinh phí cho các ý tưởng này cũng khá lớn.    Một tác động môi sinh có thể tiên đoán được là sự bùng nổ dân số cao ở tiểu vùng sông Mekong  mà các nhà môi trường xem đó như một quả bom: bom dân số. Quả bom này đã làm thu hẹp  nhanh chóng các vùng núi rừng, sản sinh ra một khối lượng rác thải nước thải và khí thải khổng lồ  hàng ngày. Việc giải quyết lương thực và năng lượng để đáp ứng sự gia tăng nhanh dân số khiến  tình trạng môi sinh ngày càng nan giải. Chỉ trong vòng chưa đến 3 thập niên, số người sử dụng  nguồn nước trực tiếp trên sông Mekong đã tăng gần gấp đôi: hiện nay có 20 triệu người Thái, 5  triệu người Lào, 10 triệu người Cambodia và 20 triệu người Việt Nam đang sống nhờ nước sông  Mekong.   Việc hợp tác quốc tế giữa các nhà hoạch định chính sách, các nhà kỹ thuật thủy lợi, các chuyên  gia môi trường, các nhà giáo dục và các nhóm xã hội liên quan bao giờ cũng là điều cần thiết và  quan trọng. Môi trường, đặc biệt là môi trường nước, là một vấn đề nhạy cảm vì nó liên quan đến  cuộc sống hiện tại và tương lai của hàng triệu người.    
  10. Không phải vô cớ mà Tổ chức Liên hiệp quốc đã từng cảnh báo một nguy cơ chiến tranh vì  NƯỚC có thể xảy ra trong thiên niên kỷ thứ ba bên cạnh các xung đột về chính trị, tôn giáo, sắc  tộc và các mâu thuẫn về kinh tế khác.   Vấn đề trên đây vẫn còn bỏ ngõ và gần như chưa có lời giải đáp thỏa đáng cho đến thời điểm  hiện nay và ít nhất việc nghiên cứu cặn kẽ các khía cạnh liên quan đến  sông Mekong còn kéo  dài khoảng vài ba thập kỷ nữa ...                                                                                                           Lê Anh Tuấn                                                                                                    Đại học Cần Thơ                                                                                                            01/5/2004
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2