CẢI CÁCH KINH TẾ Ở ẤN ÐỘ TRONG NHỮNG NÃM GẦN ÐÂY VÀ<br />
NHỮNG VẤN ÐỀ CỦA NÓ<br />
Nguyễn Tiến Lực<br />
Mở ðầu<br />
Ấn Ðộ là nước lớn và đông dân bậc thứ nhì của châu Á và thế giới. Sau khi<br />
giành độc lập, kinh tế Ấn Ðộ nói chung không bị khủng hoảng lớn, nhưng phát<br />
triển với tốc độ chậm, các nhà kinh tế gọi là sự phát triển kiểu Hindu (Hindu rate<br />
of growth). Từ những năm đầu thập kỉ 1990 đến nay, nhờ những cải cách tương<br />
đối mạnh mẽ của các chính phủ Narasimha Rao, Atal Bihari Vajpayee và<br />
Manmohan Singh nên kinh tế Ấn Ðộ tãng trưởng với tốc độ nhanh và trở thành<br />
một nền kinh tế lớn, đứng vào hàng ngũ các nước có GDP 1.000 tỉ USD của thế<br />
giới. Sự phát triển của kinh tế Ấn Ðộ do những yếu tố nào chi phối, những cuộc<br />
cải cách kinh tế ở Ấn Ðộ trong những nãm gần đây được tiến hành như thế nào<br />
và những vấn đề của nó là những vấn đề được giải quyết trong bài viết này.<br />
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của Ấn Ðộ<br />
1.1. Yếu tố lịch sử<br />
Ấn Ðộ chưa bao giờ là một nước thống nhất. Do điều kiện tự nhiên phức tạp<br />
nên từ xa xưa, Ấn Ðộ thường xuyên bị chia cắt. Từ đầu thế kỉ XVI đến giữa thế<br />
kỉ XVIII, ở Bắc Ấn có sự thống trị của vương triều Mughal theo Hồi giáo, còn ở<br />
miền Nam Ấn Ðộ là các tiểu vương quốc, chịu ảnh hưởng Ấn Ðộ giáo. Hai miền<br />
có văn hoá, ngôn ngữ và tôn giáo khác nhau. Khi thực dân Anh vào xâm lược và<br />
thôn tính Ấn Ðộ, nhiều khu vực địa phương vẫn còn chịu ảnh hưởng của các tiểu<br />
vương. Vì vậy, Ấn Ðộ không có truyền thống thống nhất về lãnh thổ và thị<br />
trường, không có truyền thống giao lưu kinh tế trên phạm vi cả nước. Ðiều này<br />
có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển kinh tế của Ấn Ðộ sau này.<br />
Tuy nhiên, trong thời kì thuộc địa, thực dân Anh cũng xây dựng được một hệ<br />
thống hành chính và đào tạo công chức quản lí kinh tế hiện đại. Vì thế, trình độ<br />
quản lí kinh tế của người Ấn Ðộ cao hơn so với các nước châu Á khác. Ðó là cơ<br />
sở khiến nhiều người cho rằng Ấn Ðộ có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển<br />
kinh tế một cách nhanh chóng sau khi tuyên bố độc lập.<br />
1.2. Yếu tố chính trị<br />
Về chính trị thì sau khi giành được độc lập, Ấn Ðộ đi theo chế độ dân chủ và<br />
chính quyền liên bang. Chế độ dân chủ và liên bang là cơ chế thích hợp, đủ để<br />
giải quyết các mâu thuẫn chính trị xã hội của đất nước phức tạp này. Việc thay<br />
<br />
<br />
<br />
TS, Khoa Đông phương.<br />
đổi đảng cầm quyền, nhà lãnh đạo và chính sách thường diễn ra tương đối êm<br />
thấm, không gây xáo động lớn như ở nhiều nước đang phát triển khác. Tuy<br />
nhiên, yêu cầu cần phải tạo sự đồng thuận trong các cấp chính quyền từ liên bang<br />
đến tiểu bang (có nhiều quyền tự quản) đã tạo ra bộ máy hành chính nặng nề, gây<br />
khó khăn cho giới kinh doanh. Thể chế chính trị và cơ chế công quyền này đã<br />
gây ra rất nhiều khó khãn và chậm trễ trong việc ban hành và áp dụng các biện<br />
pháp kinh tế hợp lí. Chính sách, nhất là chính sách kinh tế, tài chính cũng dễ bị<br />
thay đổi nên khó được áp dụng một cách liên tục trong thời gian dài để có tác<br />
dụng đến sự phát triển kinh tế. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vì theo chế ðộ<br />
dân chủ và liên bang nên Ấn Ðộ rất khó thực hiện cải cách kinh tế mạnh mẽ như<br />
Trung Quốc hay Việt Nam để đưa đất nước tiến lên nhanh chóng.<br />
1.3. Yếu tố chính sách kinh tế<br />
Trước đây, kinh tế Ấn Ðộ phát triển theo mô hình “nửa TBCN, nửa xã hội chủ<br />
nghĩa”, phát triển bằng kế hoạch hoá kinh tế với các kế hoạch năm năm. Trong<br />
cơ cấu kinh tế thì ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, khuyến khích, bảo hộ cơ<br />
sở sản xuất gia đình hay cá thể trong nông nghiệp, tiểu công nghệ và dịch vụ.<br />
Ngoài ra, dùng mọi cách để hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp tư sản.<br />
Chính phủ còn hạn chế nhập khẩu hàng sản xuất và hàng tiêu dùng qua hệ thống<br />
giấy phép và thuế nhập khẩu. Xuất khẩu nhằm vào thị trường các nước xã hội<br />
chủ nghĩa hay các nước thế giới thứ ba. Chính phủ cũng triệt để giới hạn doanh<br />
nghiệp nước ngoài đầu tư trục tiếp hay mua doanh nghiệp Ấn Ðộ. Ngân hàng<br />
quốc doanh ưu tiên phân phối tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh. Sau<br />
vài thập kỉ thi hành chính sách kinh tế nói trên, ngành công nghiệp nặng tuy được<br />
nhà nước ưu tiên nhưng không phát triển nhiều và đã trở nên lạc hậu, hàng hoá<br />
chất lượng kém, mẫu mã xấu vì không được tiếp cận với kinh tế và công nghiệp<br />
tiên tiến trên thế giới. Khu vực kinh tế gia đình và cá thể tuy sử dụng lao động<br />
nhiều nhưng manh mún và năng suất thấp, còn doanh nghiệp tư sản thì ít và<br />
không đủ lực để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thêm vào đó, bộ máy hành<br />
chính nặng nề được tạo ra để điều hành nền kinh tế kế hoạch hoá và các doanh<br />
nghiệp quốc doanh, đã làm cho môi trường kinh doanh ở Ấn Ðộ rất khó khăn,<br />
không có tính cạnh tranh cũng như sức sáng tạo.<br />
2. Cải cách kinh tế ở Ấn Ðộ từ thập niên 1990 ðến nay<br />
2.1. Những cải cách kinh tế trước thập niên 1990<br />
Sau khi giành độc lập, Ấn Ðộ bắt tay vào những cải cách, phát triển kinh tế.<br />
Từ thập kỉ 1950 đến đầu thập kỉ 1990, Ấn Ðộ tiến hành rất nhiều cuộc cải cách<br />
kinh tế nhưng mang tính chất lẻ tẻ và dè dặt chứ không phải một chương trình cải<br />
cách rộng rãi và đồng bộ, và nhất là không thay đổi tư duy về chính sách kinh tế.<br />
Nổi bật nhất trong cuối thập kỉ 1960 là cuộc “cách mạng xanh”, Ấn Ðộ đã thành<br />
công trong việc đưa giống lúa mới cao sản vào nông nghiệp. Nhưng vì suất tăng<br />
trưởng chậm (khoảng 3%) trong nhiều nãm, từ cuối thập kỉ 1960 và giữa thập kỉ<br />
1970, dưới thời Thủ tướng Indira Gandhi (1966 - 1977), đã có một số cải cách để<br />
nới rộng và mềm dẻo hơn trong việc cấp giấy phép nhập khẩu một số hàng và<br />
giấy phép kinh doanh trong một số ngành nghề. Trong nhiệm kì cuối cùng (1980<br />
- 1984), bà Indira Gandhi lại quốc hữu hoá hệ thống ngân hàng ở Ấn Ðộ, bà cho<br />
rằng giới tài chính đã ủng hộ Ðảng Ðối lập chống Ðảng Quốc đại. Nói chung,<br />
những cải cách “nửa vời” này không mang lại kết quả như ý muốn. Dưới thời<br />
Thủ tướng Rajiv Gandhi (1984 - 1989), lại tiếp tục những cải cách như trên,<br />
nhýng tương đối mạnh tay hơn. Cụ thể là giảm giá hối xuất đồng Rupee để<br />
khuyến khích xuất khẩu, tự do hoá một phần ngoại thương và thu hẹp lĩnh vực<br />
cần xin giấy phép đầu tư. Kết quả là suất tãng trưởng trung bình có cao hơn,<br />
nhưng biên độ dao động cũng tăng. Ðến đầu thập kỉ 1990, do vay mượn nước<br />
ngoài để tăng nhập khẩu, Ấn Ðộ lâm vào khủng hoảng cân thanh toán quốc tế.<br />
Ðiều quan trọng là cải cách kinh tế phải đi đôi với thay đổi cơ bản tư duy kinh<br />
tế, Ấn Ðộ đã ý thức là cần phải yểm trợ sự phát triển của doanh nghiệp tư và thị<br />
trường, giảm bớt vai trò của chính phủ trong hoạt động kinh doanh, sự quản lí và<br />
can thiệp của chính phủ vào kinh tế cần phải được biện minh rõ ràng.<br />
Như đã đề cập, từ khi độc lập cho đến những năm 1990, Ấn Ðộ phát triển<br />
theo mô hình “nửa TBCN, nửa xã hội chủ nghĩa”, phát triển bằng kế hoạch hoá<br />
kinh tế với các kế hoạch năm năm, tập trung xây dựng công nghiệp nặng qua các<br />
xí nghiệp quốc doanh, nhằm thay thế nhập khẩu. Việc sản xuất hàng tiêu dùng<br />
như bông vải v.v.. gần như độc quyền cho khu vực cá thể, hộ gia đình với qui mô<br />
nhỏ bé, theo truyền thống “dệt vải của thánh Gandhi”. Doanh nghiệp tư nhân từ<br />
nhỏ, vừa cho đến lớn thì bị hạn chế gắt gao qua nhiều hình thức, từ việc phải xin<br />
đủ loại giấy phép đầu tư và kinh doanh cho đến luật lệ lao động khắt khe và khó<br />
vay tiền từ các ngân hàng quốc doanh. Ấn Ðộ nghi ngờ và dè dặt khi mở cửa hội<br />
nhập với kinh tế thế giới. Nói chung, tình trạng này góp phần làm trì trệ nền kinh<br />
tế Ấn Ðộ, và làm giảm sự đồng thuận trong xã hội đối với chủ trương cải cách.<br />
2.2. Cải cách kinh tế ở Ấn Ðộ từ thập niên 1990 đến nay<br />
a) Cải cách dưới thời Thủ tướng Narasimha Rao<br />
Bước vào thập niên 1990, sau khi “chiến tranh lạnh” chấm dứt, các nền kinh<br />
tế kế hoạch hoá - xã hội chủ nghĩa ở châu Âu và châu Á đều chuyển đổi sang nền<br />
kinh tế thị trường bằng những cải cách mạnh mẽ. Ðiều này tác động mạnh mẽ tới<br />
Ấn Ðộ, thúc đẩy chính phủ P.V. Narasimha Rao (1991 - 1996) thực hiện một<br />
chương trình cải cách tương đối rộng rãi.<br />
Thủ tướng Narasimha Rao, người được coi là “cha đẻ của cải cách kinh tế Ấn<br />
Ðộ” đã công bố chương trình cải cách kinh tế Ấn Ðộ gồm có bảy điểm quan<br />
trọng:<br />
1- Cải cách ngân sách để giảm thiếu hụt bằng cách giảm chi tiêu, nhưng giảm<br />
thuế suất để khuyến khích sản xuất. Thuế suất lợi tức biên tế tối đa giảm xuống<br />
còn 80% và thuế suất doanh nghiệp giảm còm 35%. Cải cách ngân sách tiếp tục<br />
là thử thách quan trọng đôi với Ấn Ðộ, vì tỉ lệ thu thuế trên GDP ở Ấn Ðộ rất<br />
thấp, chỉ có 11% so với 16% ở Trung Quốc, tỉ lệ thu thuế thấp làm cho ngân sách<br />
nhà nước luôn luôn thiếu hụt và không có khả năng đầu tư vào hạ tầng cơ sở hay<br />
giải quyết các vấn đề xã hội.<br />
2- Cải cách chính sách công nghiệp, chủ yếu là bãi bỏ chế độ xin/ cho giấy<br />
phép và mở cửa 15 ngành công nghiệp, vốn trước đây chỉ dành riêng cho quốc<br />
doanh, cho các doanh nghiệp tư nhân. Hiện nay chỉ còn một số ngành công<br />
nghiệp vẫn do quốc doanh độc quyền: quốc phòng, phi cơ và tàu chiến, năng<br />
lượng hạt nhân và đường sắt. Ngoài ra, bãi bỏ chế độ giấy phép đầu tư đối với<br />
doanh nghiệp, và thay vào đó là luật lệ và cơ quan chống độc quyền.<br />
3- Cải cách chính sách thương mại, chủ yếu là bãi bỏ chế độ giấy phép đối<br />
với việc nhập máy móc và hàng trung gian dùng trong sản xuất. Ngoài ra, cắt<br />
giảm suất thuế quan, trung bình từ 72,5% xuống còn 24,6% (năm 1996/ 1997).<br />
Hiện nay, suất thuế quan cao nhất cho các loại hàng phi nông nghiệp là 12,5%.<br />
Tuy nhiên, thuế suất ở Ấn Ðộ vẫn còn cao hơn thuế suất trung bình 10% ở Trung<br />
Quốc.<br />
4- Tự do hoá chế độ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): doanh nghiệp nước<br />
ngoài được đầu tư 51% trong mọi ngành công nghiệp, trừ ngân hàng, bảo hiểm,<br />
viễn thông, hàng không và cửa hàng bách hoá. Ngoài ra, nhà đầu tư có tổ chức<br />
(institutional investors) ở nước ngoài được phép đầu tư vào thị trường chứng<br />
khoán Ấn Ðộ từ 1993.<br />
5- Xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành viễn thông, góp phần vào sự thành công<br />
vượt bậc của công nghiệp tin học Ấn Ðộ.<br />
6- Cải cách lĩnh vực tài chính bằng cách bỏ việc các ngân hàng thương mại<br />
phải xin phép Ngân hàng Trung ương trước khi thực hiện các vụ cho vay lớn.<br />
7- Trong lĩnh vực nông nghiệp không có cải cách nào đáng kể, tuy nhiên các<br />
cải cách nói trên đã góp phần giảm tỉ giá so sánh giữa hàng công nghiệp và nông<br />
nghiệp, mang lại phần nào lợi ích cho nông dân.<br />
Nhờ những cải cách đó mà năm 1991 GDP của Ấn Ðộ tăng 5,68%; từ 3/1992<br />
- 3/1998 tăng 6,5%; đặc biệt từ 3/1994 - 3/1997 tăng 7,5%. Lúc bấy giờ, thế giới<br />
bắt đầu nói đến sự chuyển mình vĩ đại của quốc gia khổng lồ ngủ quên nhiều<br />
thập kỉ. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế Ấn Ðộ không vững chắc, bấp bênh. Năm<br />
1998, mức tăng GDP tụt xuống 5,1%.<br />
b) Cải cách dưới thời Thủ tướng Atal Bihari Vajpayee<br />
Lên cầm quyền tháng 3/1998, chính phủ liên hợp của Thủ tướng Atal Bihari<br />
Vajpayee (Ðảng BJP) phải đối phó với rất nhiều khó khăn: môi trường quốc tế<br />
bất lợi do khủng hoảng kinh tế tài chính Ðông Á, nhiều nước cấm vận Ấn Ðộ sau<br />
vụ thử hạt nhân tháng 5/1998, đà suy giảm kinh tế còn tiếp diễn, tình hình nội bộ<br />
còn phức tạp.<br />
Nhiều nhà kinh tế cho rằng Ấn Ðộ có tiềm năng to lớn để phát triển nhanh<br />
trong 20 năm tới, có thể ngang tốc độ phát triển của Trung Quốc. Vấn đề cốt lõi<br />
là phải có một chiến lược phát triển thích hợp. Chiến lược thích hợp cho Ấn Ðộ<br />
là sản xuất hướng về xuất khẩu, cải thiện nông thôn, duy trì ổn định kinh tế vĩ<br />
mô.<br />
- Hướng về xuất khẩu: Chiến lược hướng nội, kể cả với các nước đông dân<br />
như Ấn Ðộ, đã tỏ ra kém hiệu quả. Ngày nay, tất cả các nền kinh tế phát triển cao<br />
đều thành công trong xuất khẩu. FDI chỉ phát huy tác dụng lâu bền nếu kèm tăng<br />
xuất khẩu, vì không phải giảm giá bản tệ khi trả nợ. Ấn Ðộ chưa đẩy mạnh được<br />
xuất khẩu vì chưa có chiến lược cơ bản, thiếu chính sách khuyến khích xuất<br />
khẩu, khu chế xuất bị lãng quên, môi trường xuất khẩu có những điểm yếu, luật<br />
lao động làm cho giá lao động ở các xí nghiệp thuê trên 100 công nhân bị đắt,<br />
khó có thể thành lập các xí nghiệp lớn cho các mặt hàng xuất khẩu mà Ấn Ðộ có<br />
thế mạnh như quần áo, đồ chơi, giày dép, đồ da... Biểu thuế của Ấn Ðộ gây khó<br />
khăn cho xuất khẩu....<br />
- Cải thiện nông thôn: Nông thôn Ấn Ðộ cần một hợp đồng xã hội mới trong<br />
đó có cơ sở hạ tầng đáng tin cậy. Nhà nước phải đảm bảo làng nào cũng có nước<br />
sạch, có đường sá dẫn đến huyện, có điện và điện thoại. Dùng tiền thu được của<br />
dịch vụ cơ sở hạ tầng vào việc phát triển công nghiệp nông thôn.<br />
- Ổn định kinh tế vĩ mô: Rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính, kinh<br />
tế châu Á, cần kết hợp chiến lược tăng trưởng với ổn định kinh tế vĩ mô: phải cẩn<br />
thận với việc vay ngắn hạn; thận trọng trong việc tự do hoá thị trường tài chính,<br />
song vẫn đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, tư nhân hoá các ngân hàng nhà<br />
nước, mở rộng cửa cho FDI.<br />
Trong bài phát biểu đầu tiên khi nhậm chức, Thủ tướng Atal Bihari Vajpayee<br />
đã nêu mục tiêu của chính phủ mới: trong 10 năm sẽ xoá nạn đói, tăng gấp đôi<br />
sản lượng lương thực; mở rộng và cải thiện cơ sở hạ tầng xã hội: trong năm năm<br />
đưa nước sạch về mọi miền đất nước, chú ý vấn đề nhà ở, giáo dục, y tế, chăm<br />
sóc bà mẹ, trẻ em; nhanh chóng mở rộng và cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất: các<br />
nguồn năng lượng, điện, xăng dầu..., đường sá, sân bay, bến cảng, viễn thông,<br />
dịch vụ tài chính. Trong 10 năm biến Ấn Ðộ thành cường quốc về kĩ thuật thông<br />
tin, và là một trong những nước sản xuất và xuất khẩu phần mềm lớn nhất.<br />
Trong năm 1998, sau nhiều lần xem xét các mục tiêu phát triển kinh tế dài<br />
hạn và ngắn hạn, chính phủ đã nêu chủ trương: phấn đấu để đến năm 2010 biến<br />
Ấn Ðộ thành một siêu cường quốc kinh tế. Ngày 09/01/1999, chính phủ đã thông<br />
qua chỉ tiêu của kế hoạch năm năm lần thứ chín (1997 - 2002): GDP tăng 6,5%<br />
(trước đây dự kiến tăng 7%, song 1997 - 1998 chỉ tăng 5,1%, 1998 - 1999: 6%).<br />
Chính phủ đã tiến hành nhiều biện pháp để thực hiện những mục tiêu nêu trên,<br />
đặc biệt, đưa cải cách vào giai đoạn hai theo hướng đẩy mạnh tự do hoá, tư nhân<br />
hoá, thúc đẩy ngoại thương.<br />
Ngày 31/10/1998, Tổng thống K.R. Narayanan đã kí sắc lệnh cho phép các<br />
công ti mua lại cổ phần của họ tới 25% vốn cổ phần đầy đủ và mức dự trữ tự do,<br />
được tham gia đầu tư giữa các tập đoàn. Các công ti có thể đầu tư, cho vay tới<br />
60% giá trị của mình, hoặc mua lại 100% vốn của công ti khác mà không cần xin<br />
phép chính phủ như trước.<br />
Ấn Ðộ tiếp tục cải cách hệ thống ngân hàng, xây dựng ngân hàng đa quốc gia;<br />
quyết định xây dựng xa lộ Bắc - Nam và xa lộ Ðông - Tây, năm sân bay quốc tế,<br />
trong đó vốn của nước ngoài có thể lên tới 100%, lắp đặt một hệ thống viễn<br />
thông quốc gia, đẩy mạnh dịch vụ điện thoại ở nông thôn, thực hiện chính sách<br />
mới về internet, cho tư nhân mở dịch vụ internet, lập mạng lưới internet thống<br />
nhất trong toàn quốc. Chính phủ mời thầu khai thác dầu, thông qua kế hoạch tăng<br />
thêm 80.000 MW điện trong 10 năm tới, phấn đấu để đến năm 2020 có 200.000<br />
MW điện hạt nhân. Ấn Ðộ cũng xúc tiến các biện pháp để xây dựng công nghiệp<br />
hiện đại, đủ sức cạnh tranh trên thế giới.<br />
Ấn Ðộ tăng cường thu hút vốn đầu tư của nước ngoài: cho nước ngoài đầu tư<br />
tới 100% vào cơ sở hạ tầng, 26% vào bảo hiểm, 49% vào internet, vượt trần đầu<br />
tư sau khi các công ti mua lại cổ phần. Chính phủ cũng tìm cách thúc đẩy ngoại<br />
thương, chú trọng các nước OECD, và tìm thị trường mới: Mĩ La Tinh, châu Phi,<br />
Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS), giảm thuế nhập khẩu cho các hàng phục<br />
vụ sản xuất hàng xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư vào các ngành xuất khẩu chính,<br />
đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nâng cấp khu chế xuất, đặc biệt nâng cấp cơ sở<br />
hạ tầng phục vụ xuất khẩu.<br />
Trong thời gian này, kinh tế Ấn Ðộ đã tăng trưởng nhanh hơn, GDP đạt mức<br />
hơn 6%, vị trí của Ấn Ðộ trên trường quốc tế được nâng cao.<br />
c) Cải cách dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh<br />
Trong bài diễn văn trên truyền hình toàn quốc lần đầu tiên kể từ khi nhậm<br />
chức ngày 24/6, Thủ tướng Ấn Ðộ Mammohan Singh đã đề cập tới các ưu tiên<br />
trong chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ mình.<br />
Trên lĩnh vực đối nội, sau khi kêu gọi tất cả các chính đảng tôn trọng Quốc<br />
hội, Thủ tướng Mammohan Singh đã nhấn mạnh tới những ưu tiên phát triển và<br />
khẳng định rằng bản thân sự phát triển không phải là mục tiêu mà chỉ là phương<br />
tiện nhằm tạo ra thêm công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo và cải thiện mức<br />
sống nhân dân<br />
Thủ tướng Mammohan Singh tuyên bố chính phủ Ấn Ðộ sẽ theo đuổi các cải<br />
cách kinh tế và tạo điều kiện rộng rãi cho các sáng kiến của các cá nhân và doanh<br />
nghiệp.<br />
Thủ tướng Mammohan Singh cho biết chính phủ sẽ tập trung ưu tiên cho<br />
nông nghiệp với một loạt các biện pháp, từ tăng cường đầu tư, đẩy mạnh công tác<br />
nghiên cứu và đào tạo đến thực hiện các chương trình lao động đổi lương thực,<br />
tạo thị trường nông sản thống nhất trong toàn quốc.<br />
Trên lĩnh vực đối ngoại, Thủ tướng Ấn Ðộ tuyên bố một chính sách đối ngoại<br />
tích cực: theo đuổi tiến trình đối thoại hòa bình với Pakistan; cải thiện quan hệ<br />
với Mĩ và Trung Quốc, nâng tầm quan hệ với Nhật Bản và châu Âu, thực hiện<br />
chính sách “hướng Ðông” với ASEAN...<br />
Từ năm 2004 đến nay, kinh tế Ấn Ðộ đạt mức tăng trưởng cao, khoảng 7%.<br />
Ðặc biệt, năm 2006, kinh tế Ấn Ðộ cũng đạt mức tăng trưởng cao nhất kể từ khi<br />
nước này tiến hành các cải cách kinh tế vào những nãm 1990. Nền kinh tế Ấn Ðộ<br />
với qui mô 780 tỉ USD đã đạt tốc độ tăng trưởng hơn 8% trong hai năm qua.<br />
Riêng năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 8,3%, đưa Ấn Ðộ trở<br />
thành nước thứ hai sau Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong số các<br />
nền kinh tế lớn trên thế giới. Mấy ngày vừa qua, giới chính trị và kinh tế đang<br />
bình luận về sự kiện Ấn Ðộ đã gia nhập câu lạc bộ 1.000 tỉ USD, biểu thị sự<br />
vươn mình của nền kinh tế khổng lồ này. Theo đánh giá của Chính phủ Ấn Ðộ,<br />
nguyên nhân chủ yếu của sự tãng trưởng kinh tế cao là do sự tăng mạnh của khu<br />
vực dịch vụ (14%) và khu vực chế tạo (12%). Mặc dù kinh tế tăng trưởng cao,<br />
nhưng chính phủ vẫn kiểm soát được lạm phát thông qua "quản lí phần cung"<br />
trong các nỗ lực nhằm tránh dẫn đến việc tăng tỉ lệ lãi suất.<br />
3. Những vấn đề của sự phát triển kinh tế Ấn Ðộ<br />
Trong năm 2006, GDP của Ấn Ðộ đã tăng với một con số ấn tượng là 8,3%.<br />
Nhưng dù sự tăng trưởng của Ấn Ðộ bứt phá trong những năm vừa qua, nhịp độ<br />
thực sự của nó vẫn thấp hơn của Trung Quốc, là điều đã đẩy nền kinh tế nước<br />
này ở mức rủi ro cao hơn đối với việc phát triển quá nóng và tăng lạm phát. Nền<br />
kinh tế Ấn Ðộ biểu lộ một con số đáng báo động: lạm phát giá tiêu dùng đã tăng<br />
đến gần 7%, cao hơn rất nhiều so với tỉ lệ trung bình của châu Á là 2,5%; nạn<br />
khan hiếm lao động trong các xí nghiệp cũng là điều đáng lo ngại. Trong một<br />
điều tra 600 công ti, được thực hiện bởi Hội đồng Quốc gia về nghiên cứu ứng<br />
dụng kinh tế, có đến 96% số công ti báo cáo rằng họ đang hoạt động ở mức gần<br />
hoặc trên mức tối ưu của khả năng sử dụng lao động. Các công ti cũng đang trải<br />
qua một sự thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng lao động có kĩ nãng và mức lương<br />
đang tăng cực nhanh. Tài khoản vãng lai của Ấn Ðộ đã chuyển sang mức thâm<br />
hụt dự báo là 3% GDP trong năm 2006; tổng số vay ngân hàng đã tãng đến 30%<br />
trong năm 2006; thị trường nhà ở và cổ phiếu của Ấn Ðộ xem ra cũng đang sôi<br />
sùng sục. Giá cổ phiếu tăng gần gấp bốn lần so với mức của chúng vào năm<br />
2003. Tỉ lệ giá trên thu nhập của Ấn Ðộ là 20, cao hơn rất nhiều so với mức trung<br />
bình là 14 đối với tất cả các thị trường châu Á mới nổi. Giá nhà cũng tăng đến<br />
điểm đỉnh, ở các thành phố lớn đã tăng gấp đôi trong vòng hai năm qua. Các<br />
khoản vay cho kinh doanh nhà tăng 54% trong năm tính đến tháng 6 (có những<br />
con số mới nhất) và những khoản vay cho kinh doanh bất động sản thương mại<br />
tăng 102%.<br />
Các nhà hoạch định chính sách của Ấn Ðộ thừa nhận rằng tăng trưởng kinh tế<br />
đã vượt quá giới hạn tốc độ của nó trong ba năm vừa qua nhưng họ vẫn lạc quan<br />
cho rằng nền kinh tế Ấn Ðộ sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức hơn 8% trong một vài<br />
năm tới. Sự tăng trưởng của Ấn Ðộ chắc chắn là sẽ tăng nhưng còn xa mới gần<br />
mức cao như của Trung Quốc. Sự tăng trưởng đó chứa đựng tính không ổn định,<br />
chưa bền vững. Sự tăng tốc mới đây của Ấn Ðộ chủ yếu phản ánh một sự bùng<br />
nổ theo chu kì, nhờ có chính sách tiền tệ và tài chính mềm dẻo. Ngân hàng Dự<br />
trữ Ấn Ðộ đã tăng một trong những tỉ lệ lãi suất chủ yếu của nó lên nửa phần<br />
trăm điểm đến 6% trong vòng hai năm qua, nhưng lạm phát cũng tăng nhiều hơn.<br />
Vì vậy, lãi suất giảm và đang ở mức thực sự thấp, điều này làm cho nền kinh tế<br />
càng dễ bị tổn thương hơn trước những cú sốc.<br />
Ấn Ðộ không thể tăng trưởng nhanh như Trung Quốc mà không kích thích<br />
lạm phát vì tỉ lệ đầu tư thấp hơn của nó, đặc biệt là trong cơ sở hạ tầng, và sự bế<br />
tắc về lao động. Những con số của chính phủ cho năm tài chính kết thúc vào<br />
tháng 3/2005, đã đặt tổng số đầu tư chiếm 30% GDP, so với hơn 45% được báo<br />
cáo chính thức ở Trung Quốc. Một báo cáo mới đây của một công ti nghiên cứu<br />
kinh tế và quĩ tự bảo vệ, đã gây ra một sự náo động bởi ước tính rằng đầu tư<br />
trong năm kết thúc vào tháng 3/2007 sẽ đạt được con số giữa 38% và 42% GDP.<br />
Và như vậy, báo cáo kết luận sẽ cho phép Ấn Ðộ duy trì 10% tăng trưởng GDP<br />
hàng năm. Tuy nhiên, tính toán đó chắc chắn là quá cao. Trừ khi tiết kiệm (29%<br />
GDP trong nãm 2004 - 2005) cũng tăng trong hai năm vừa qua, một tỉ lệ đầu tư<br />
40% sẽ có nghĩa là một thâm hụt tài khoản vãng lai (bằng khoảng cách giữa tiết<br />
kiệm và đầu tư) tới gần 10% GDP. Ðiều này không phải là một dấu hiệu kinh tế<br />
lành mạnh. Một sự tăng đáng kể trong tiết kiệm có vẻ sẽ không mang đến một sự<br />
chi tiêu mạnh mẽ, co thể kích thích tăng trưởng kinh tế được.<br />
Kết luận<br />
Với đà phát triển như hiện nay, đến năm 2050 nền kinh tế Trung Quốc sẽ lớn<br />
nhất thế giới, chiếm 28% GDP toàn cầu. Mĩ đứng thứ hai với 26%, và Ấn Ðộ thứ<br />
ba với 17%. Như thế, ba nước Mĩ, Trung Quốc và Ấn Ðộ sẽ chi phối kinh tế toàn<br />
cầu với tỉ trọng 71%. Dù suất tăng trưởng của Ấn Ðộ có thể biến động và không<br />
nhanh như những năm vừa qua, rõ ràng là nước này sẽ ngày càng trở nên quan<br />
trọng hơn đối với kinh tế thế giới. Nếu Ấn Ðộ tiếp tục phát triển, thì kinh tế thế<br />
giới sẽ tăng trưởng một cách ổn định. Nếu nước này gặp khó khăn hay khủng<br />
hoảng, thì nền kinh tế thế giới cũng gặp khó khăn. Vì vậy, sự phát triển của Ấn<br />
Ðộ đã trở thành mối quan tâm của các nhà lãnh đạo và kinh doanh trên thế giới -<br />
nhất là ở các nước châu Á.<br />
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Ấn Ðộ sẽ tiếp tục phát triển kinh tế, nhưng<br />
không thể đạt tốc độ nhanh như Trung Quốc vì thể chế dân chủ và nhu cầu phải<br />
tạo ra sự đồng thuận trong xã hội không cho phép Ấn Ðộ huy động và tập trung<br />
tài nguyên xã hội vào việc tăng trưởng kinh tế. Vì thế, Ấn Ðộ có thể trở thành<br />
một cường quốc, tuy nhiên khó trở thành một siêu cường.<br />
Ðối với Việt Nam, kinh nghiệm phát triển của Ấn Ðộ và một số nước khác ở<br />
châu Á cho thấy chính sách kinh tế đúng đắn và bộ máy nhà nước có hiệu quả là<br />
các yếu tố quan trọng hơn yếu tố thể chế chính trị trong việc kích thích tăng<br />
trưởng, nhất là trong thời kì mới phát triển. Nhưng đến một trình độ phát triển<br />
kinh tế khá hơn, và điều này thường đi đôi với việc hội nhập nhiều hơn với kinh<br />
tế thế giới, thì nhu cầu cần phải có hệ thống và cơ chế pháp luật rõ ràng minh<br />
bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, ngày càng trở nên bức xúc hơn. Nếu xây<br />
dựng được hệ thống pháp luật và cơ chế thị trường hoàn chỉnh hơn để tiếp tục<br />
phát triển, thì đó cũng là những bước cải cách về chính trị, một nền chính trị đảm<br />
bảo cho Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Ấn Ðộ trong www.vi.wikipedia.org.<br />
2. Chu Văn Chúc, 2005, Vài nét về kinh tế Ấn Ðộ trong thời gian gần đây, Tạp<br />
chí Nghiên cứu Quốc tế, Hà Nội<br />
3. Ðinh Trung Kiên, 1995, Ấn Ðộ hôm qua và hôm nay, Nxb. Khoa học xã hội,<br />
Hà Nội.<br />
4. Ðỗ Ðức Ðịnh, 1999, 50 năm kinh tế Ấn Ðộ, Nxb. Thế giới, Hà Nội.<br />
5. Tseng Wanda and David Cowen, 2005, India’s and China’s Recent<br />
Experience with Reform and Growth, IMF.<br />
6. Trần Quốc Hùng, 7/2006, Dân chủ và phát triển - Kinh nghiệm Ấn Ðộ và<br />
Trung Quốc, Thời đại mới, Số 8.<br />
7. Trần Thị Lý (chủ biên), 2002, Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Ðộ<br />
từ 1991 đến 2000, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.<br />
8. VCCI, Kinh tế Ấn Ðộ, 25/12/2006 dẫn theo The Economist<br />
9. Võ Xuân Vinh, ASEAN trong chính sách hướng Ðông của Ấn Ðộ, Mục Bình<br />
Luận, 3/2007, www.tapchicongsan.org.vn, Số 125.<br />