intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cái chết, Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh trong ca khúc của Trịnh Công Sơn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

5
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đã có rất nhiều lời giải thích về sự nổi tiếng của các ca khúc và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS) qua những đề tài như: ca từ đầy chất thơ, khác với dòng nhạc tiền chiến, mang chủ đề phản chiến, và cả việc ông đã khám phá ra những giọng hát nữ tài năng, và còn nhiều điều khác nữa. Nhưng chủ đề Phật giáo trong những bài hát của ông lại rất ít khi được nhắc đến, phải chăng, đây là điều mà những học giả Việt Nam cho là hiển nhiên. Bài viết này nói đến chủ đề Phật giáo trong nhạc Trịnh và chứng minh rằng chủ đề này góp phần vào việc giải thích hiện tượng TCS. Ngoài ra, bài viết cũng đề cập đến chủ nghĩa hiện sinh Ãu châu, điều mà tác giả bài viết cho là đã thu hút TCS nhưng không có ảnh hưởng lớn đến những sáng tác của ông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cái chết, Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh trong ca khúc của Trịnh Công Sơn

  1. TẠP CHÍ VHDG s ó 6/2008 51 biết trong cuộc chiến, những bài hát nàỵ là "thánh ca", chúng thể hiện lòng khát khao CÁI CHẾT, PHẬT GIÁO hoà bình và tình yêu quê hương của họ. VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH Sau năm 1975, TCS ở lại Việt Nam, và tiếp tục sáng tác. Đã có một thời, chính TRONG CA KHÚC quyền mới e ngại ông: họ không chấp nhận thái độ phản chiến của ông, vì ông lên CỦA TRỊNH CÔNG SƠN tiếng chống lại mọi hình thức chiến tranh kể cả chiến tranh kháng chiến của họ. Hiện JOHN c. SCHAFER nay, những bài hát phản chiến của ông vẫn không được cho hát và phổ biến tại Việt ã có rất nhiều lời giải thích về sự nổi Nam(2). Ngày 1 tháng 4 năm 2001, ông qua tiếng của các ca khúc và nhạc sĩ đời; tôi có dịp ở Việt Nam và khi được Trịnh Công Sơn (TCS) qua những đề tài chứng kiến tình cảm và sự tiếc thương của như: ca từ đầy chất thơ, khác với dòng mọi người trước sự ra đi của ông, tôi bắt nhạc tiền chiến, mang chủ đề phản chiến, đầu quan tâm đến những lí do vì sao ông và cả việc ông đã khám phá ra những lại quá nổi tiếng như vậy. Tôi nghiên cứu về giọng hát nữ tài năng, và còn nhiều điều những điều này trong một bài viết khác< ). 3 khác nữa. Nhưng chủ đề Phật giáo trong Riêng trong bài viết này, tôi chú trọng hơn những bài hát của ông lại rất ít khi được về triết lí sống của TCS. nhắc đến, phải chăng, đây là điều mà Những người biết nhạc TCS có thể sẽ những học giả Việt Nam cho là hiển nhiên. khó chấp nhận cụm từ "triết lí sống". Nhiều Bài viết này nói đến chủ đề Phật giáo trong sáng tác của ông mang những hình ảnh nhạc Trịnh và chứng minh rằng chủ đề này siêu thực, ca từ lạ và không theo quy tắc. góp phần vào việc giải thích hiện tượng Có thể, chúng ta sẽ phải hỏi rằng, làm sao TCS. Ngoài ra, bài viết cũng đề cập đến những sáng tác như vậy lại được coi là chủ nghĩa hiện sinh Ãu châu, điều mà tác những lí luận triết học? Mặc dù các bài hát giả bài viết cho là đã thu hút TCS nhưng của ông có những đặc điểm vừa nêu trên, không có ảnh hưởng lớn đến những sáng tôi vẫn nghĩ rằng, trước sau như một, chúng tác của ông. mang một triết lí khá kiên định. TCS đã Trong thời gian chiến tranh (ở Việt từng theo học triết học tại một trường trung Nam), tôi dạy Anh ngữ tại miền Nam Việt học của Pháp ở Sài Gòn, và ông từng nói Nam và trở thành một người hâm mộ các rằng ông "vốn thích triết học và vì thế [ông] ca khúc và nhạc sĩ TCS. Vào những năm muốn đưa triết học vào ca khúc của mình, cuối thập niên 1960 và đầu 1970, ở các một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng thành thị miền Nam, mọi người, đặc biệt là C thể hiểu được"< ). Trong bài viết này, tôi Ó 4 giới sinh viên, đểu nghe và hát nhạc Trịnh - sẽ miêu tả cái triết lí "nhẹ nhàng" đó và sẽ họ hát những bài hát như "Gia tài của mẹ", minh chứng rằng triết lí này chính là triết lí "Tình ca người mất trí", và "Đại bác ru Phật giáo và cũng phần nào liên hệ đến đêm"(1). Với những người trẻ mà tôi đã được chủ nghĩa hiện sinh Âu châu, một triết lí đã
  2. 52 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl mê hoặc TCS và giới trí thức miền Nam trong nhiều bài hát của TCS. Ví dụ, trong trong những năm cuối thập niên 1950, đầu bài "Đóa hoa vô thường", ông hát về những thập niên 1960. giai đoạn của một cuộc tình - niềm vui khi “Triết lí nhẹ nhàng” của Trịnh Công tình yêu chớm nở và sau đó là một kết cục Sơn buồn không thể tránh khỏi: Triết lí của TCS, qua những sáng tác Từ đó ta nằm đau của ông, dựa trên nhận thức rằng cuộc Ổi núi cũng như đèo sống tuy có những niềm vui, nhưng cũng Một chút vô thường theo đầy những u buồn. Trong bài "Gọi tên bốn Từng phút cao giờ sâu mùa", ông thốt lên rằng "Tin buồn từ ngày Từ đó ta ngồi mê mẹ cho mang nặng kiếp người". Trong bài Để thấy trên đường xa này và một số bài khác, ông miêu tả tuổi Một chuyến xe tựa như trẻ, nhất là những năm tháng của tuổi đôi Vừa đến nơi chia lìa. mươi, là thời gian đặc biệt buồn bã của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người cuộc đời. Trong bài "Nhìn những mùa thu bạn của Trịnh Công Sơn, cho rằng các bài đi", ông hát: tình ca của TCS là những lời khẳng định siêu hình rằng những chia lìa, tan vỡ của Nhìn những mùa thu đi những cuộc tình không phải là những Tay trơn buồn ôm nuối tiếc chướng ngại trên đường đời vốn cơ bản là Nghe gió lạnh về đêm vui. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, những Hai mươi sầu dâng mắt biếc bài hát đó là "bài kinh cầu bên vực thẳm"(5). Thương cho người rồi lạnh lùng riêng. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói, "Yêu là Đời sống đầy u buồn vì nó tạm bợ. Tất chết ở trong lòng một ít"; đây là câu thơ mà cả - chim trời, hoa lá, niềm vui, những cuộc tất cả những sinh viên đại học tôi dạy hồi tình, và chính đời sống mỗi con người - chỉ chiến tranh đều biết< ). Sự chia lìa không 6 là những điều tạm bợ, phù du như sương tránh được trong tình ca TCS là những cái mù. Trong bài "Ở trọ", TCS nhấn mạnh chết, là sự chuẩn bị chuyến ra đi cuối cùng rằng, vạn vật chỉ là kẻ ở trọ nơi cõi trần: khỏi kiếp này của ngưòi tình và của chính Con chim ở đậu cành tre mình. Chúng gợi nhắc ta về cõi tạm thời. Con cá ở trọ trong khe nước nguồn Trong những bài hát của TCS, cái chết, Tôi nay ỏ trọ trần gian chuyến ra đi cuối cùng, không bao giờ là Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời... điều xa xôi. Trong một số bài hát, ông nói đến cái chết của chính mình(7), như trong Trong một số bài hát của TCS, tình yêu bài "Bên đời hiu quạnh": chính là nơi nương náu quyến rũ của con người ở cõi thế u buồn này. Nhưng vì tình Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời yêu, cũng như vạn vật, chỉ là tạm bợ nên Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy tình yêu không phải là nơi nương náu vững Giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi. vàng cho mỗi người. Tình yêu tuyệt đẹp Trong các bài khác, ông nói đến cái nhưng phù du, là chủ đề được tìm thấy chết một cách mơ hồ hơn - như là hành
  3. TẠP CHÍ VHDG s ố 6/2008 53 trình về "nơi cuối trời"(8). Dù bằng hình ảnh những điều đối nghịch, lại được TCS dùng nào đi nữa, nhạc TCS luôn hướng đến sự đến, không phải để phân biệt và đối lập vĩnh hằng, như trong bài hát với tựa để "Lời các giá tri và phạm trù, mà ngược lại, để thiên thu gọi": làm nhòe và mờ đi, một nghệ thuật Cao vể chân núi thăm nấm mổ Huy Thuần gọi là "đối hợp"< 1 Ví dụ: "Tình 1 ). Giữa đường trưa có tôi bơ vơ không xa nhưng không thật gần", "Không Chợt tôi thấy thiên thu xa đời và cũng không xa mộ người", và "Một phố hồng, một phố hư không"(12). Là một đường không bến bờ... Tuy cấu trúc không song song, nhưng Và trong bài "Còn có bao ngày", ông có những câu nhạc của TCS hiển nhiên hát: không muốn phân biệt chất lượng cũng như Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm phạm trù: "Có chút lệ nhoà trong phút hôn Gọi thì thầm, gọi thì thầm, gọi thì thầm... nhau" và "Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình Triết lí nhẹ nhàng của TCS còn bao vẫn còn đầy"(13). gồm cả vũ trụ học. Có hai thế giới: một thế Nhạc TCS cho ta hình ảnh một người đi giới thực, là "trần gian" hay "nhân gian", và xuyên suốt một thế giới nửa hư nửa thực. một thế giới phi thực, là "thiên thu", "đất Người ấy mệt mỏi và buồn bã. Dù biết ơn muôn đời", "thiên đàng" hay "vườn địa cuộc đời này, đặc biệt là tình yêu, ông(1 ) 4 đàng". Nhưng thế giới thực luôn hòa lẫn với vẫn không hoàn toàn thuộc về chốn nhân cái thế giới phi thực, cho nên thế giới của gian này; trong một số bài hát, ông nhắc nhạc TCS là nơi mà Bùi Vĩnh Phúc gọi là đến mình như kẻ lưu đày(15). Vậy con người thế giới "nhoè nhạt" hay "lai"(9), là chốn này sẽ đi về đâu? Và ông đang ra đi, hay giữa thực và siêu thực; một thế giới mà đang trở về? ông ra đi từ trần gian này, trong bài "Đời cho ta thế", TCS đã hát rằng hay đang trở về từ một chốn nào khác? Kẻ "Không xa trời và cũng không xa phận lữ hành đó không thể trả lời những câu hỏi người". Cái mờ ảo giữa thực và phi thực, có này. Trong bài "Có một ngày như thế", ông thể được coi là cõi mò ảo giữa sự sống và hát: sự chết, giữa thực thể trần gian và chốn Có một ngày... có một ngày như thế vĩnh hằng bao trùm khắp và là sự pha trộn Anh đi... Anh đi đâu?... về đâu? của những hình ảnh đối lập quan trọng Và trong bài "Tiến thoái lưỡng nan" ông nhất trong nhạc TCS. hát: Nhưng còn có những mờ ảo khác, Tiến thoái lưỡng nan thường trong cùng một dòng. Theo Cao Đi về lận đận Huy Thuần, nhạc TCS thường có một Ngày xưa lận đận thoáng của cái này trong cái kia và ngược Không biết về đâu lại: "Một chút xuôi trong ngược. Trăm năm Về đâu cuối ngõ? trong xuân thì. Chân như trong hạt lệ"(10). Về đâu cuối trời? Nhiều câu chữ có cấu trúc song song, một Xa xăm tôi ngồi hệ thống thường được dùng để trung hòa Tôi tìm lại tôi.
  4. 54 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl Trong nhiều bài khác, ông lại hát lên TCS đã trải qua thời thơ ấu gắn liền với nỗi nhớ nhà: cuộc chiến thứ nhất và trưỏng thành trong Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên thời gian xảy ra cuộc chiến thứ hai ở Đông dưới mái nhà Dương; một trải nghiệm chắc chắn đã giúp ông thấy rằng thế giới này ngập tràn những ("Lài thiên thu gọi") khổ đau và sự sống rất mong manh. Cha Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa ông tham gia kháng chiến và đã bị bỏ tù ở Giọng người gọi tôi nghe tiếng rất Buôn Ma Thuật; năm 1949, khi mới lên nhu mì mười, TCS đã phải sống với cha ông một ("Bên đời hiu quạnh") năm trong Lao Thừa Phủ. Năm năm sau, Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà cha ông qua đời trong một tai nạn xe trên Từ những phố kia tôi về đường từ Quảng Trị vể nhà ở Huế(17). Trong ("Đêm thấy ta là thác đổ") một cuộc trả lời phỏng vấn, TCS có lần đã Nhưng khi nhắc đến "nhà", "quê nhà" nói rằng từ những năm của thời thơ ấu mãi đến tận bây giờ (1998), với ông, cái chết và "quê quán", vậy ông đang nhắc đến quê vẫn luôn là "ám ảnh lớn nhất" và cho rằng quán của mình, hay đang nói nơi yên nghỉ "biên giới giữa cái chết và cái sống hình cuối cùng của mình - cái chết, sự vĩnh như chỉ là một sợi tóc mong manh"< 8 1 ). hằng? Về điểm này, ông có vẻ cũng không Nhiều tác giả khác đã viết rất nhiều bài về rõ - như trong bài "Tiến thoái lưỡng nan", thời thơ ấu và những trải nghiệm chiến rằng ông đang đi về "cuối ngõ" nơi quê nhà tranh của ông(19), nên ỏ đây, tôi sẽ chỉ tập hay về "cuối trời" của cõi vĩnh hằng. Trong trung nói về những ảnh hưỏng của Phật bài hát "Một cõi đi về"< 6 rất nổi tiếng của 1) giáo và chù nghĩa hiện sinh. ông, TCS viết "Chẳng biết nơi nao là chốn Sau khi ông qua đời, trong rất nhiều quê nhà", và vì vậy người nhạc sĩ cứ mãi loanh quanh: những bài viết về TCS, người ta thường nhắc qua về ảnh hưởng của Phật giáo Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi trong các sáng tác của ông(20). Những Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt người say mê TCS thường không đi sâu Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt vào những ảnh hưỏng này, theo tôi, là vì Rọi xuống trăm năm một cõi đi về. trong một nên văn hóa vốn đã quá thấm Những ảnh hưởng của Phật giáo nhuần tư tương Phật giáo như ở Việt Nam Như hầu hết các triết lí khác, "triết lí những người viết về TCS tự thấy không cần nhẹ nhàng" của nhạc TCS để lại cho chúng thiết phải đi sâu vào chủ đề này thêm nữa. ta rất nhiều thắc mắc. Tuy vậy, triết lí của Tuy vậy, trong những lần trả lời phỏng vấn, TCS và những sáng tác của ông, thật ra chính TCS thỉnh thoảng đã nhắc đến không khó hiểu như khi vừa tiếp cận, một những ảnh hưởng của Huế, quê hương khi chúng ta nhìn chúng từ tư tưởng Phật ông, và của Phật giáo. "Huế và Đạo Phật giáo. Hiển nhiên, biết thêm về cuộc đời của ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ người nhạc sĩ này cũng phần nào giúp ấu của tôi", ông đã nói với một người phỏng chúng ta hiểu thêm. vấn ông như vậy< 1 Huế và Phật giáo gắn 2 ).
  5. TẠP CHÍ VHDG s ố 6/2008 55 kết với tâm hồn của TCS cũng như nhiều những di sản văn hóa Đông Tây góp nhặt người Việt Nam khác. Huế là đất của Phật được, còn có lời kinh kệ vô tình nằm ỏ giáo với rất nhiều chùa chiền. Tháng 5 năm đấy’^ 3). 1963, khi những đại diện của vị Tổng thống Nhưng bằng chứng vể những ảnh theo đạo Công giáo Ngô Đình Diệm cấm hưởng của Phật Giáo xuất hiện rõ nhất Phật tử treo cờ mừng lễ Phật đản lần thứ trong các bài hát của ông. Chân lí trước 2527, nhiều người đã tập trung biểu tình tiên của Phật giáo là "Đời là bể khổ"< 4 . 2> hoà bình gần Đài phát thanh Huế. Một sĩ Một chân lí khác là tính tạm bợ của cõi quan cảnh sát đã ra lệnh cho bắn vào đám nhân gian, đã được diễn đạt rõ ràng và thi đông biểu tình, giết chết một phụ nữ và tám vị trong Kim cương kinh (Kim cương bát trẻ em. Sự kiện này đã làm tăng những nhã ba la mật kinh), một trong những bộ cuộc biểu tình của Phật tử và phần nào là kinh quan trọng nhất của Phật giáo: nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chính Tất cả các pháp hữu vi quyền Ngô Đình Diệm. Huế cũng được biết Như cơn mộng, như ảo ảnh, đến với nhiều khu lăng tẩm vua chúa nằm như bọt nước, như bóng ở những vùng yên lắng ở ngoại ô thành Như sương mai, như ánh chớp phố. Khi được hỏi về những ảnh hưởng của Nên nhìn nhận chúng như thế2 > 5. Huế, TCS đã nhắc đến những lăng tẩm - những cơn mưa dầm, và con đường mang Cả hai chân lí này - rằng đời sống là tên "Âm hồn" ở Huế! TCS đã nói "Tất cả khổ đau và không có điểu gì là vĩnh cửu - là những bài hát của tôi đều viết về Huế", hai điều chúng ta sẽ thấy được lặp đi lặp lại điều này cho thấy quê quán phần nào là nhiều lần trong nhạc TCS. Hai điều này liên nguyên nhân của nỗi buồn và ám ảnh về quan chặt chẽ với nhau: con người khổ đau cái chết mà mọi người tìm thấy trong những vì không có điều gì vĩnh cửu. Peter Harvey bài hát của ông(22). cho rằng Phật giáo "chẳng những không khước từ hạnh phúc tồn tại ở cõi trần mà Trong bài viết năm 2001 trên tờ Nguyệt còn cung cấp nhiều cách để đạt thêm hạnh san Giác Ngộ, TCS đã nói trực tiếp về phúc nữa, nhưng cũng nhấn mạnh rằng, tất những ảnh hưởng của Phật giáo đến cuộc cả mọi hình thái của hạnh phúc đều không đời và những sáng tác của ông: "Tôi là một vĩnh cửu (trừ cõi niết bàn). Sớm muộn gì, Phật tử ỏ trong một gia đình có tôn giáo những niềm hạnh phúc này rồi sẽ tuột khỏi chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tay của mỗi con người, và để lại những dư tôi đã học kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé vị của mất mát và khao khát"< 6 Những 2 ). tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có "dư vị của mất mát và khao khát" đó rất rõ những năm thảng nằm bệnh, đêm nào mẹ trong nhạc TCS, là bằng chứng cho thấy tôi cũng nhờ một thầy đến nhà tụng kinh ông đã trăn trở để chấp nhận một chân lí cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm khác rằng con đường để chấm dứt khổ đau đềm giữa những câu kinh đó. Có thể vì một là hãy bớt đi những si mê với cõi đời này. tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng Điều này, TCS biết ông sẽ khó làm được, vì nhà Phật nên trong vô thức, bên cạnh ông đã hát trong bài "Mỗi ngày tôi chọn
  6. 56 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl một niềm vui" rằng "Đã yêu cuộc đời này Những ngày ngồi rũ tóc âm u bằng trái tim của tôi". Điểu này không có Nghe tiền thân về chào tiếng lạ. nghĩa rằng TCS cảm thấy mâu thuẫn giữa ("Cỏ xót xa đưa") niềm tin vào Phật giáo và tình yêu của ông với cuộc đời. Ông đã từng nói, "Với tôi, Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng Phật giáo là một triết học làm cho ta yêu buồn cỏ khô đời hơn chứ không phải làm cho ta lãng Ta thấy em đang ngồi khóc khi quên cuộc sống"(27). Nhưng Phật giáo cũng rừng chiều đổ mưa. dạy về sự quan trọng của việc không ("Rừng xưa đã khép") quyến luyến, không bám víu vào những vui thú của cuộc đời. Trong một số bài hát, Có những ai xa đời quay về lại chúng ta thấy TCS đã trăn trở nhưng chưa Về lại nơi cuối trời thôi quyến luyến cuộc đời; trong những bài Làm mây trôi... ông viết sau này - ví dụ như bài "Như một ("Phôi pha") lời chia tay"(28), ông sáng tác năm 1991, và Quan niệm của Phật giáo về kiếp luân bài "Tôi ơi đừng tuyệt vọng", sáng tác năm hồi giúp giải thích tại sao TCS thường 1992 - ông dường như đã sẵn sàng hơn để không bao già nói đến sự ra đi mà lại tư bỏ cõi này. không nhắc đến sự quay trở về, v à ‘ông Cuộc sống là khổ đau. Mọi cái chỉ là luôn xoá nhoà sự khác biệt giữa hai hành tạm thời. Những quan niệm Phật giáo này động này, như trong bài "Phôi pha" ở đã thâm nhập vào sáng tác của TCS. Một trên(31). Nếu cái chết là kết tủa của tái sinh, quan niệm Phật giáo nữa, mà TCS không thì khi một người ra đi, cũng là lúc người đó coi quan trọng bằng hai quan niệm trên, là đang trở về. Nhìn sự sống và cái chết từ thuyết luân hồi, rằng muôn vật sẽ được tái khía cạnh này cũng giống như khi ta nhìn sinh làm kiếp khác, tùy theo nghiệp của họ nước trong một dòng sông, và tự hỏi liệu ta ở cõi này. Trong những bài hát của mình, nên nói nó đang trôi đi hay đang đến, một TCS như muốn nhắc đến một câu rất phổ điều mà TCS đã nắm bắt được trong bài thông trong Phật giáo: "Hiện tại là chiếc "Gần như niềm tuyệt vọng": bóng của quá khứ, tương lai là chiếc bóng Những ngàn xưa trôi đến bây giờ của hiện tại"(29). Cao Huy Thuần nói rằng Sông ra đi hay mới bước về. "Trịnh Công Sơn như vừa đứng ở hiện tại vừa linh cảm cùng trong một lúc quá khứ Khi nói về cái chết, TCS thường hay và tương lai. Anh như thấy tiền kiếp réo tên xoá nhoà giữa đi và về, vì trong Phật giáo, và cái chết vẫy gọi"(30). cuộc hành trình từ cái sống đến cái chết ví như dòng nước; nó là một quá trình luân Trong bài "Cát bụi", ông tự hỏi: chuyển nhẹ nhàng, khác với triết học Tây Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi phương, nơi, như René Muller nói, "từ sống Để một mai tôi về làm cát bụi? đến chết là một sự gián đoạn cay độc". Và Trong những bài hát khác, những ám ông nói thêm rằng, điều này cũng đúng với chỉ về sự tái sinh phần nào đó gián tiếp hơn: ngay cả "những tín đồ Thiên Chúa vốn có
  7. TẠP CHÍ VHDG s ố 6/2008 57 niềm tin vào đời sau và sự sống muôn Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết đời"(32). Phật giáo dạy ta vể cái chết với sau cùng. một thái độ khác. Các Phật tử tin rằng Bởi vì không có sự khởi đầu hay kết "không có một cá thể, một linh hồn hay một thúc rõ ràng của vòng tái sinh, nên cũng rất cái tôi vĩnh cửu nào ngoài quá trình biến khó phân biệt giữa ra đi và trở về. Vua Trần chuyển không ngừng của tinh thần và vật Nhân Tông (1279-1293), một Phật tử, đã chất, cái tạo nên sự tồn tại của chúng viết bài thơ trong di chúc: ta"(33). Tuy vậy, theo lời dạy của Phật, một Hết thảy pháp không sinh chút gì đó trong một sinh vật khi chết đi sẽ Hết thảy pháp không diệt được tồn tại trong sinh vật đó sau khi tái Nếu hay hiểu như vậy sinh. Harvey giải thích như sau: "Mỗi con Chư Phật thường trước mặt người trước tái sinh không giống và cũng Đến đi sao có đây.(3 > 7 không khác con người sau tái sinh. "Con Một giá trị Phật giáo sau cùng trong người đó sẽ không giữ hoàn toàn bản tính những sáng tác của TCS là những ca từ cũ và cũng không khác hoàn toàn bản tính khó hiểu và phi logic. Hiển nhiên, bài hát cũ"(34). Không có một thực thế nào đi từ không phải là lí luận của lí trí, mà là tiếng kiếp này đến kiếp khác mà không thay dổi, thổn thức của tấm lòng. Bằng việc không nhưng cái chết của một thực thể này dẫn giải thích những ý nghĩa đơn giản, TCS để đến cái sống của một thực thể khác, giống cho người nghe tự diễn đạt theo ý của riêng như thắp một ngọn nến này đến một ngọn họ, và từ đó đồng hành với ông trong việc nến khác(3 > Người "kiếp trước" và người 5 ... tạo ra ý nghĩa. Sự thiếu mạch lạc có chủ ý "kiếp sau" kết nối với nhau bởi dòng xoáy cũng phản ánh một xu hướng hiện đại chủ của ý thức và luật nhân quả, nên đặc tính nghĩa bằng cách xa lạ hoá ngôn từ để làm của một kiếp này bắt nguồn từ những đặc nghệ thuật mới và tươi mát. Nhưng sự cổ ỷ tính của "kiếp khác"(36). tối nghĩa của Trịnh Công Sơn, theo tôi, Nếu con người trong vòng sinh-tử-tái cũng là một cách truyền tải quan niệm Phật sinh giữ được một số khía cạnh của tiền giáo rằng con người không thể tìm tởi sự kiếp khi tái sinh, thì quá trình này có cả sự tịnh an của tâm hồn bằng lí lẽ, và sự giác ra đi và sự trỏ về - "một cõi đi về", nhưTCS ngộ nằm ngoài biên giới của ngôn ngữ và đã đặt cho tựa đề một bài hát rất nổi tiếng lôgic, như nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma đã của ông. truyền vào Trung Hoa ở thế kỉ thứ sáu: Trong bài "Ngẫu nhiên", TCS cho rằng Giáo ngoại biệt truyền không thể phân tách giữa ra đi và trở về; ỏ Bất lập vãn tự đây, chúng ta có lẽ cũng thấy quan niệm Trực chỉ chơn tâm, của Phật giáo là con người không thể biết Kiến tánh thành Phật được vòng tái sinh bắt đầu từ đâu và bao (Truyền riêng ngoài giáo giò sẽ kết thúc: Chẳng lập văn tự Không có đâu em này, không có cái Chỉ thẳng tâm người chết đầu tiên Thấy tánh thành Phật)(38).
  8. NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 58 Mục đích vượt khỏi giới hạn của ngôn âm thanh nhưng cũng không (hoàn toàn) ngữ có thể là lời giải thích tại sao TCS đã không là âm thanh. Những bài hát của TCS hoà trộn những phản để như ra đi và trở về, phần nào có hơi hưởng như một công án vì gần và xa, lạnh nhạt và nồng nàn - như chúng cho thấy sự ảnh hưởng của "minh việc TCS luôn khẳng định rằng luôn có một hoạ bằng phép phủ định" này hay phương thoáng của cái này trong cái kia và ngược pháp "không - không". Trong rất nhiều bài lại. Giống như các Thiền sư, TCS có thể hát, chúng ta thấy phương pháp này được phủ nhận tuyết màu trắng và quạ màu đen sử dụng trong một hay hai câu hát; tuy chỉ để nói lên rằng, để được giác ngộ, con nhiên, trong bài "Đời cho ta thế" và "Bay đi người phải "thoát khỏi những phản đề của thầm lặng", hơn một nửa những câu hát "có" và "không"... và tìm cách để hài hoà phá vỡ những cấu trúc đối lập dễ dãi. cả những đối nghịch(39). Theo lời Phật dạy, để ba đoạn trong bài "Đời cho ta thế" đều bắt giác ngộ, con người phải biết cưỡng lại xu đầu và kết thúc với những câu hát "minh hướng thỏa mãn với những nhi nguyên đơn hoạ qua phép phủ định". Đây là những câu giản. Trí năng của con người luôn muốn hát trong đoạn thứ hai: chống lại, phân biệt và phân loại, nhưng Không xa người và cũng không xa chúng ta phải vượt qua được xu hướng này mặt trời... để đạt đến "tánh không". Để giúp con Không xa tình đầy và cũng không người đạt đến trạng thái này, các thiền sư xa lạc loài... dùng phương pháp "minh hoạ bằng phép Không xa tình và cũng không xa thù hận phủ định", một phương pháp được tìm thấy Không xa nồng nàn và cũng không xa trong rất nhiều bộ kinh, luận và công án lạnh lùng. của đạo Phật(40). Sư Long Thọ, một trong Chủ nghĩa hiện sinh những luận sư vĩ đại nhất của Phật giáo Đại Thừa Ma-ha-diễn-na (có nghĩa là "cỗ Chủ nghĩa hiện sinh, một triết lí đã mê xe lớn", là một trong hai trường phái lớn hoặc TCS và những trí thức trẻ ở các thành nhất của đạo Phật - ND), nói đến trạng thái thị miền Nam Việt Nam những năm cuối này trong cuốn Trung luận của ông, một thập niên 1950 đầu 1960, có thể đã ảnh kinh văn rất quan trọng của Ma-ha-diễn-na, hưởng đến những sáng tác của TCS. Thái bắt đầu như sau: Kim Lan, bạn thân của TCS và một người Huế, đã nói những cụm từ như "lo âu" Không sinh cũng không diệt (angoisse, angst), "hư vô", "nôn mửa" và Không thường cũng không đoạn "nỗi hoài công phi lí của Sisyphus" đã "như Không nhất cũng không dị những tiếng gõ huyền bí ẩn vào cánh cửa Không lai cũng không khứ. tâm hồn của lớp thanh niên trẻ chúng tôi Chang Chen-chi giải thích rằng đa số thời ấy như những mời gọi phiêu lưu vào những công án Thiền đều dựa theo phương những vùng đất lạ của tri thức"(42). Trong pháp "minh hoạ bằng phép phủ định"(41). các buổi nói chuyện thân mật về chủ nghĩa Điển hình là một ví dụ nổi tiếng của công hiện sinh, bà nói rằng TCS nói rất ít về án vể việc lắng nghe âm thanh khi vỗ bằng những điều này, nhưng rồi sau đó, ông một bàn tay - một âm thanh không hẳn là sáng tác và "hát triết học", nhờ vậy giúp
  9. TẠP CHÍ VHDG SÔ 6/2008 59 mọi người hiểu những quan niệm triết học buổi đàm luận triết học ở Huế(45). Tờ Đại khó này(43). Sâm Thương, một người bạn học, dưới quyền của ông Trung, đã có thân khác, cũng thừa nhận là TCS bị chủ nhiều bài về triết học hiện sinh, trong đó, nghĩa hiện sinh lôi cuốn; ông nói thêm rằng có nhiều bài do chính ông Trung viết. Bài TCS tự đọc vể những triết gia hiện sinh chứ viết về giải thoát con người trong Phật giáo không phải học ở trường. Trong khi đang và J.p. Sartre của ông xuất hiện trong số học lấy bằng tú tài thứ hai ở trường trung thứ hai(4 > Bài "Vài cảm nghĩ về tình cảnh 6. học Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn, TCS phi lí của kẻ lưu đày", chủ yếu nói về theo Ban c, là Ban triết, chứ ông không Huyền thoại Sisyphus của Camus (trong theo học Ban A (khoa học tự nhiên) hay thần thoại Hi Lạp, Sisyphus là một vi vua bị Ban B (toán và vật lí). Theo ông Sâm đày ở chốn địa ngục bằng cách phải đời đời Thương, những giáo sư Ban c, "không dạy lăn một tảng đá lớn lên một dốc cao, nhưng vể một triết gia hay một lí thuyết cụ thể trước khi lên tới đỉnh thì hòn đá lăn xuống nào, mà họ dạy những ý tưởng chung từ và Sisyphus lại phải bắt đầu lăn lên lại và những quan niệm của tâm lí học, lôgic và cứ thế tiếp tục mãi - ND), là một bài viết đạo đức. Ví dụ, giáo sư có thể dạy về ý của ông Trung xuất hiện hai năm sau đó, thức và vô thức, những xúc cảm, niềm trong số tưởng niệm Camus, một người đã hạnh phúc, sự đau khổ v.v... từ quan điểm từng đoạt giải Nobel, mất ngày 1 tháng 4 của một số triết gia. Vậy thôi. Còn những năm 1960 trong một tai nạn xe hơi(47). ấn triết gia như Nietzsche, Albert Camus, Jean bản tháng 11 năm 1960 có những bài viết Paul Sartre, Heidegger, và Merleau Ponti của các học giả khác về Merleau Ponty, là những người mà TCS đã tự mình khám Gabriel Marcel, Karl Jaspers, và Martin phá; những triết gia này không nằm trong chương trình học"< 4 4 ). Heidegger(48). Ngoài việc TCS tự mình đọc, chắc Nhiều người trong số những người bạn chắn ông cũng có được những thuận lợi từ thân của TCS đã theo học ở Đại học Huế các cuộc đàm luận với những nhóm bạn trí vào đấu thập niên 1960. Trong số này có thức, tài năng và từ môi trường trí thức ỏ Bửu Ý (người sau này làm trưởng khoa Huế. Vốn là một trung tâm văn hoá và học Pháp ngữ của Đại Học Sư Phạm), nhà thơ vấn nổi tiếng, khi Đại học Huế được mở Ngô Kha, Thái Kim Lan và Hoàng Phủ năm 1957, Huế trỏ thành một thành phố Ngọc Tường, người sau này là giáo viên đại học. Trong năm 1958, ấn bản đầu tiên Triết tại trường nữ trung học Đồng Khánh. của Đại học: Tạp chí nghiên cứu Viện đại Hoàng Phủ Ngọc Tường, trước khi trở về học Huế được cho ra mắt; tổng biên tập là Huế và dạy tại trường Đồng Khánh, đã ông Nguyễn Văn Trung, một người Bắc vừa hoàn thành luận văn tại Đại học Sài Gòn, dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Văn Trung< 9 4 ). du học từ Bỉ trở về. Theo ông Bửu Ý, một người bạn của TCS, thì Nguyễn Văn Trung Qua việc tự đọc và qua những cuộc là một người uyên bác, đam mê triết, và là đàm luận với bạn bè, TCS rõ ràng đã bị một tác giả tài ba; ông trở thành một nhân triết học hiện sinh thu hút. Nhưng điều gì vật "nòng cốt" và là người dẫn dắt những đã lôi cuốn ông đến như vậy? Và nếu có,
  10. 60 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl sự mê hoặc chủ nghĩa hiện sinh đã ảnh đã chứng minh được chân lí duy nhất của hưởng như thế nào đến những sáng tác mình, đó là sự bất chấp"< 2 Trong bài "Dã 5) của ông? Chủ nghĩa hiện sinh Âu châu, hệ tràng ca", TCS so sánh cuộc đời buồn bã quả của sự vỡ mộng sau hai cuộc thế của ông với con dã tràng, suốt ngày mải chiến, hiển nhiên hấp dẫn giới trí thức miền mê xe cát biển Đông; con dã tràng chính là Nam Việt Nam trong những năm 1950 và một Sisyphus của Việt Nam, hình ảnh những năm 1960 bởi vì họ, như những tượng trưng cho công khó nhọc không người Âu châu đã trải qua cuộc chiến, cảm ngừng nghỉ và vô ích. Trong phần đầu của nhận được rằng họ đang sống trong một bài hát, con dã tràng than: thế giới phi lí, nơi mà sự bất công giành Khi mưa lên, khi nắng về phần thắng và những người vô tội bị giết Khi sương rơi, khi thu buồn oan. Có phải điểu này đã thu hút TCS? Khi chim én bay vào mùa xuân Albert Camus, một triết gia hiện sinh, người Mình tôi đi, triền núi đến đã đoạt giải Nobel năm 1957, cho rằng Tôi xe cát nghe thân lưu đày hoàn cảnh của nhân loại trong xã hội hiện Mình tôi đi, làn sóng đến đại là phi lí. Theo những người bạn của Nghe công vd cho thân ru mềm ông, TCS rất thích những tác phẩm của Trùng dương ơi đã mấy ngàn năm Camus, đặc biệt là cuốn Huyền thoại Gọi miên man cho sóng triều lèn Sisyphus(5 > Lúc ở Quy Nhơn, ông viết bài 0. Quên dã tràng đêm ngày xe cát "Dã tràng ca", và bài hát đã được đồng ca Trùng dương ơi sao nd bỏ quên tại buổi lễ khánh thành ngôi trường mới; Gọi cơn đau khi sóng triều lên đây là ngôi trường được xây dựng bởi viện Công dã tràng muôn đời vỡ tan. trợ của Hoa Kì. Bài hát này rõ ràng lấy cảm Sang đoạn hai, tiếp theo con dã tràng, hứng từ Huyền thoại Sisyphus của Camus, một thanh niên cất tiếng ca. Hẳn nói bước là cuốn sách mà, theo Nguyễn Đắc Xuân, sang tuổi đôi mươi là bước một bước từ TCS đã đọc trong thòi gian ở Quy Nhơn(51). thiên đường của tuổi thơ ấu đến một cuộc Trong Huyền thoại Sisyphus, Camus sống đơn độc chẳng khác gì thân phận của cho rằng trong một thế giới phi lí, chúng ta con dã tràng. Đoạn này có những câu: bị quyến rũ bởi một Hi vọng hảo huyền Ôi! Thiên đàng thuở nhỏ, ngai vàng (như niềm tin của đạo Thiên chúa về một sự sống đời đời ở chốn thiên đàng) và sự tự từ thuở vẫn. Camus chống lại cả hai xu hưỏng đó; Thuở mới sinh ra trời đất là nhà ông thích sự bất chấp hơn. Giống như Nay đã m ất rồi trong tuổi đôi mươi Sisyphus trong thần thoại Hi Lạp, Camus Ngai vàng đã mất lâu rồi viết, con người phi lí "chỉ có thể làm kiệt Thân đày giấu trong môi cười. quệ chính minh cho đến phút chót. Sự phi lí "Dã tràng ca" là một bài hát chứ không là trạng thái căng thẳng cực độ, điều anh ta chỉ là một tác phẩm lí luận như Huyền thoại thường xuyên duy trì bằng cố gắng đơn Sisyphus. Nó giống Huyền thoại của độc, vì anh ta biết rằng trong ý thức và Camus về sự mất mát của những nguồn ảo trong những kháng cự hằng ngày, anh ta vọng an ủi, nhưng "Dã tràng ca" của TCS
  11. TẠP CHÍ VHDG s ố 6/2008 61 thiên nhiều về tính cá nhân hơn là tính siêu này đã phá vỡ những ảo tưởng của ông về hình. TCS như muốn đáp lại những diễn tình yêu. Chính TCS nói rằng, đó là "một biến trong cuộc đời của riêng ông hơn là thất vọng lớn không lường được"< 6 "Dã 5 ). của con người nói chung. Theo Nguyễn tràng ca" cũng rất có thể là một phản ứng Đắc Xuân, người đã phỏng vấn một số các của TCS đối với mối tình Phương Thảo, và thành viên trong nhóm hợp xướng bài "Dã cả những tình yêu bị từ chối khác mà TCS tràng ca" năm 1962, thì bài hát này là phản đã trải nghiệm khi còn ở Huế, trước khi vào ứng của TCS trước cảnh gia đình ông suy sống ở Quy Nhơn. sụp về kinh tế sau cái chết của cha ông, "Dã tràng ca" là chủ đề của một số việc ông lo lắng bị bắt lính, việc ông bị một những tranh cãi. TCS chưa bao giờ hát hay số thanh niên ỏ Quy Nhơn đối xử thô bạo, thu thanh bài này; ông cũng chưa bao giờ và một vài trải nghiệm của ông về tình yêu phổ biến bài này trong các tập nhạc của vô vọng(53). Tuy nhiên, Sâm Thương, một mình. Rất ít người biết về bài này cho đến người bạn gần gũi với TCS, lại nói rằng khi Nguyễn Đắc Xuân nói chuyện với Trịnh Công Sơn và gia đình ông không gặp những thành viên của dàn đồng ca và bắt khó khăn gì về kinh tế trong thời gian này, đầu viết về nó(57). Các thành viên của dàn và mặc dù TCS có lo lắng về việc bị bắt đồng ca nói với Nguyễn Đắc Xuân họ giữ quân dịch và không hứng thú cho lắm với im lặng về bài hát này vì họ tin rằng TCS việc dạy học, nhưng TCS đã có những kỉ không thích nói về thời gian ông sống ỏ niệm đẹp trong thời gian sống ở Quy Quy Nhơn. Sau khi TCS đã nổi tiếng, họ Nhơn(54). không nhắc lại bài này vì sợ mọi người nghĩ Có lẽ những cuộc tình không may đã rằng họ đang khoe khoang về mối quan hệ có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến tâm hồn với người nhạc sĩ nổi tiê'ng(58). Còn Nguyễn của TCS trong năm 1962. Ở Huế, vào Đắc Xuân lại cho rằng TCS muốn giữ kín những năm cuối 1950 và đầu 1960, những bài hát này, vì TCS sợ bài hát đã phản ánh thanh niên không có tương lai rõ ràng, đặc quá nhiều tình trạng tâm lí ông trong thời biệt là những nghệ sĩ tóc dài, thường phải gian sống ở Quy Nhơn, ông Xuân cho lòng các thiếu nữ đẹp trong những gia đình rằng, "Những người hiểu hoàn cảnh bi đát, danh giá. Nhưng vì những ngăn cản của xã vô vọng của TCS lúc đó thì mới hiểu được hội, họ thường giữ tình yêu đơn phương và Trường ca Tiếng hát Dã Tràng. Còn những thầm kín. Các gia đình đều muốn gả con người không hiểu sẽ không thích, mà còn gái mình cho những người đàn ông có bằng có thể cho rằng TCS bi quan, yếu đuối"(59). cấp và có tương lai nhiều hứa hẹn. Thời Nhưng chính Nguyễn Đắc Xuân nói rằng gian này, TCS đem lòng yêu một người con bài này được hát năm 1973 tại một buổi lễ gái tên Phương Thảo, em của một người tốt nghiệp đại học ở Nha Trang; lúc đó, có bạn của ông, để rồi phải chứng kiến cô này cả sự hiện diện của TCS(60). Sâm Thương lấy một người đã đứng tuổi, chủ nhiệm và cả Đinh Cường, một người bạn thân khoa ở Đại học Huế. Theo những gì TCS khác của TCS, hiện đang sống tại Hoa Kì, và những người bạn của ông cho biết(55), cũng nói rằng bài hát này chưa bao giờ bị chúng ta có thể kết luận rằng, trải nghiệm lãng quên. Sâm Thương nói ông nhớ có lần
  12. 62 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl ông thấy nó nằm giữa những bài hát khác ỏ lại cuộc đời đó". Tù đầy chính là Quê của TCS, và nói thêm rằng TCS "có lần nói nha . với tôi và những bạn bè thân là cảm thấy Theo phân tích của Nguyễn Văn Trung, không còn bằng lòng với về mặt kĩ thuật Hi vọng vào một đời sau cũng không khác của bài này"(61). Còn Đinh Cường lại cho gì nỗi hoài mong đến chôn quê nhà(66). rằng bài này ít được hát vì nó là một bài Trong một đoạn khác, giải nghĩa về Huyền đặc biệt, chỉ để trình diễn với dàn đồng thoại của Camus, Nguyễn Văn Trung ca . ‘ không nhắc gì đến đời sau: niềm tin vào ơn Có một điều mà mọi người đều đồng ý trên của Camus trở thành hoài niệm về là "Dã tràng ca" chính là "kho lưu trữ', nơi "quê hương": "Tôi [NVT nói giùm cho TCS "cất giữ" những tư liệu mà ông dùng Camus] lựa chọn ở lại nơi lưu đầy vì trong trong các sáng tác sau này(63). Nó chứa đó có những sự thực chắc chắn hơn là một đầy những thành ngữ, hình ảnh, và những Quê hương chì là hứa hẹn, ảo mộng"(67). chủ đề được lặp đi lặp lại trong những ca Điều dễ thấy là Huyền thoại của khúc sau này. Có những bài hát khác có Camus, và có thể qua bản đã được "Việt thể cũng "hiện sinh" như "Dã tràng ca", Nam hóa" của Nguyễn Văn Trung, đã thu nhưng tôi nhắc đến bài này vì sự đặc biệt hút Trịnh Công Sơn. Ở Huế, vào những này, và vì nó bộc lộ tâm trạng của người năm cuối 1950, đầu những năm 1960, hình nhạc sĩ ở bước đầu sự nghiệp của ông. ảnh của kẻ sống kiếp lưu đày, cô đơn, Trong bài "Vài cảm nghĩ về tình cảnh phản kháng lại một xã hội theo lệ thường, phi lí của kẻ lưu đày" của Nguyễn Văn là một hình ảnh rất thời thượng. Những bộ phim của Holliwood, một phương thức giải Trung, được đăng trên tạp chí Đại học năm 1961(64), ông Trung đã nhấn mạnh việc trí mới và phổ thông ở Huế trong thời gian này, cũng đóng vai trò quan trọng trong Camus không bám vào những ảo vọng hay việc cổ động hình ảnh này. Theo những lựa chọn con đường tự vẫn mà đối diện với người bạn của TCS, ông ngưỡng mộ thế giới phi lí này như một kẻ lưu đày cô James Dean, người diễn viên của những đơn nhưng ngang bướng. "Ảo vọng" mà phim như Phía đông vườn địa đàng (East of Camus nói ở đây là niềm tin vào cuộc sống Eden) (1955), Phản kháng không nguyên đời sau sẽ đền b.ù cho tất cả những đau cớ (Rebel without a Cause) (1955), Khổng khổ trần tục của con người. Nhưng chúng lồ (Giant) (1956). TCS đã treo một bức hình ta hãy để ý đến cách Nguyễn Văn Trung lớn của Dean ở lối đi cầu thang< 8 Bửu Ý, 6 ). nói đến ảo vọng của Cam us: "Hi vọng vào một người bạn của TCS, gọi Dean là "hiện một đời khác, hoài niệm một quẻ nhà sau thân của chủ nghĩa hiện sinh phương tù đầy là một cách phủ nhận tình trạng phi Tây"(69), và nói rằng những người trong lí khác mà không chấm dứt được phi lí. nhóm bạn của TCS thấy được mối liên Camus gọi những giải pháp thoát li đó là quan giữa Dean, một kẻ nổi loạn của một tự vẫn triết lí (Suicide philosophique). Holliwood, và người nổi loạn hiện sinh nhu Vậy phải thức tỉnh, kêu lên tính cách Camus; và giữa họ còn một điểm tương phi lí của cuộc đời, nhưng rồi để bằng lòng đồng nữa là cả hai đều bị chết vì tai nạn xe.
  13. ÍẠP CHI VHDG SÔ 6/2008 63 Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi Dean là "vị "Người khách"(73) của Camus có rải rác anh hùng của sự cô đơn" và nói rằng Dean hình ảnh người anh hùng đi qua những "trỏ thành một "mô hình" của thân phận miền đất thưa vắng, khô cằn. Thường trong con người rất được yêu mến bởi TCS"< 0 7 ). những bài hát của mình, TCS bắt gặp mình Hoàng Phủ Ngọc Tường và Bửu Ý còn nói nơi phố lạ. TCS rõ ràng đã bị thu hút bởi đến sự ảnh hưởng của những ngôi sao hai điều mà Nguyễn Văn Trung đã nói đến Holliwood khác - Clark Gable, Robert khi phân tích vể Huyền thoại của Camus: Taylor, Montgomery Clift - nhưng cả hai sự lôi cuốn của kiếp lưu đày và sự lôi cuốn đểu đồng ý rằng người "nổi bật hơn hết là chốn quê nhà. Trong bài "Lời thiên thu gọi", tài tử James Dean như một hình tượng TCS đã hát "Nhiều đêm muốn đi về con thanh niên mới mẻ, độc đáo: một thanh phố xa/Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên niên lầm lì, không quan tâm đến một cái gì dưới mái nhà". Và trong bài "Tình xót xa rõ rệt, luôn luôn xung động, khó sống với vừa", TCS hát "Từng ngày chôn chân, nhớ người chung quanh và xã hội"(71). Bối cảnh phố lang thang". Trong cuộc giằng co giữa phim cũng như tài tử điện ảnh đã ảnh lưu đầy và quê nhà của TCS quê nhà bao hưởng đến TCS và quỹ đạo của ông. giờ cũng thắng cả. TCS chưa bao giờ tỏ ra Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng "những nghi ngờ về tình yêu quê nhà. Với TCS, không gian lớn của miền Viễn tây Hoa Kì "Chân đi xa trái tim bên nhà"(74). Sinh ra và đã cuốn hút và làm thay đổi khiếu thẩm mỹ trưởng thành trong một nền văn hoá mà của thanh niên Huế"< 2 7 ). tình yêu quê hương, quê nhà là điều lớn lao Nếu James Dean là người hùng của sự nhất, TCS không thể nào thực hiện được cô đơn, thì với người Việt Nam, TCS trỏ điều mà, như Nguyễn Văn Trung cho là ý tưởng của Camus, [là] biến nơi lưu đày thành người truyền thông điệp của sự cô thành quê nhà. đơn. Những từ như "một mình", "cô đơn" hay "cô liêu" xuất hiện trong rất nhiều bài Với người Việt Nam, quê nhà là nơi mỗi hát. Bài "Lời buồn thánh", một trong những người được sinh ra và là nơi chôn nhau cắt bài hát buồn nhất của TCS, bắt đầu như rốn. Đó là nơi yên nghỉ của ông bà tổ tiên sau: và là nơi mỗi người mong mình được chôn cất khi qua đời (đó là lí do tại sao TCS có Chiều chủ nhật buồn thể nói cuộc đời là "một cõi đi về", một Nằm trong cãn gác điều hiu hành trình dài trở về quê nhà). Trong trí Ổi tiếng hát xanh xao của một tưởng của người Việt Nam, quê nhà gợi lên buổi chiều thiên đường đã mất của thời thơ ấu, đặc Trời mưa trời mưa không dứt biệt là tình thương dịu dàng của người mẹ. ô hay mình thấy cô liêu. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một nhà sư Bài này kết thúc với lời cầu xin năm Phật giáo nổi tiếng thế giới, cũng xuất thân ngón tay thiên thần của người yêu hãy đi từ Huế như Trịnh Công Sơn, đã chỉ ra rằng: vào nỗi cô đơn của ông. "Trong tiếng Việt, lòng mẹ là "cung điện Trong một phim cao bôi của James của trẻ thơ [tử cung]". Thiên đường nằm Dean và trong các truyện ngắn như chuyện trong lòng người mẹ của chúng ta"(75).
  14. 64 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl Trong một lần trả lời phỏng vấn, TCS nói lời thỉnh cẩu thiên thần tình yêu cứu rỗi ông rằng, "Những lúc mình buồn không hiểu vì khỏi sự cô đơn. Xem xét ngữ cảnh trong sao mình buồn, có lẽ là nhớ quê nhà và các bài hát của ông, sự lưu đày TCS nói quê nhà gần gũi nhất của mình là bào thai đến không phải là sự phản kháng hiện mẹ"< 6 Ngay từ đầu bài viết này, tôi đã dẫn 7 ). sinh, mà là sự chấp nhận của Phật giáo - một câu nói cũa TCS, rằng ông muốn đặt đời sống là khổ đau, tạm bợ, và những quy một "triết học nhẹ nhàng" vào những bài luật của nghiệp và sự tái sinh. Rằng tất cả hát của ông. TCS giải thích "nhẹ nhàng" ở chúng ta đều đang tạm dung ở cõi này, và đây có nghĩa là "như ca dao hoặc những lời tất cả là "những kẻ lưu đày" đang sống xa ru con của mẹ. Triết học Việt Nam có ở đó rời quê hương thật: nhưng không được hệ thống hoá vì nó bàng Người còn đứng như tượng đá bạc trong đời sống dân gian"(77). Triết học trong rừng cây già nhẹ nhàng của TCS là triết học của quê Người còn đứng như trăm năm nhà, đó là lí do tại sao quê nhà và quê vết thương chưa mờ hương được nhắc đến nhiều lần như vậy Từng đêm về, từng đêm về trong các bài hát của ông, trong những lời mang đời ngẩn ngơ ca như: Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây Tiếng ru mẹ hát những năm xưa Còn bao lâu cho thiên thu xuống Mãi là lời ca dao bốn mùa Tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá trên thân này. Góc phố nào cũng thấy quê nhà. ("Phúc âm buồn") ("Tình yêu tìm thây") TCS là một người đi tìm thì đúng hơn là một người nổi loạn. Kiếp lưu đày của TCS ở Rồi một lần kia khăn gói đi xa cõi này giống như kiếp không nhà của một Tưởng rằng được quên thương nhớ Tì kheo, người xuất gia khất thực đi tìm nơi quê nhà. kiếm quê hương đích thực, tức là chánh ("Bên đời hiu quạnh") đạo của nhà Phật. Như một Tì kheo, ông phải học cách không vướng bận quá nhiều Chiều trên quê hương tôi đến thân xác, không quá quan tâm đến Nắng khép cánh chia tay một ngày những vấn đề của sự sống và cái chết, Vết son vàng cuối mây những bài học mà người nhạc sĩ phải vật Tiếng chân về đó đây lộn trong lời ca của bài "Phúc âm buồn" ở Chiều đi nhưng nắng vẫn cho đời đoạn trên. Trong kinh Phật, việc giác ngộ Lửa bếp hồng khơi. và lĩnh hội được chân lí cao nhất được so ("Chiều trên quê hương tôi") sánh với việc trở vể chốn quê nhà. Trong TCS không bao giờ chấp nhận thái độ kinh Kim cương và kinh Lăng già, mục đích luôn phản kháng lại thế giới, điều mà của Phật tử là tìm đến "vô trụ xứ", một cõi Camus đã cổ vũ trong Huyền thoại của tinh thần nằm "ngoài biên giới của sự lập SispHisus. Bài "Dã tràng ca" không kết luận phán xét", và cư ngụ ở nơi đó(78). Tôi thúc trong sự bất chấp, thách thức, mà là tin là trong một số bài, ví dụ như bài "Một
  15. TẠP CHÍ VHDG s ố 6/2008 65 cõi đi về", người nhạc sĩ nói đến quê nhà rõ ràng ông rất băn khoăn về những đau hay quê hương gồm cả hai nghĩa - để nói khổ của kiếp người và cõi tạm bợ này. đến quê hương và cũng để nói đến sự đến Trong những bài ca phản chiến của mình, và sự trở về của Phật tính. Như trong bài ông đã chống lại cuộc nội chiến đang biến viết cho Nguyệt san Giác ngộ, TCS viết đất mẹ thành "một rừng xương khô" và "Tôi không quan niệm tìm đến với Phật mà "một núi đầy mồ" ("Gia tài của mẹ"). Sau là trở về với Phật tính trong cõi riêng mình. Tết Mậu Thân 1968, ông sáng tác "Hát trên Đó là quê hương, là chiếc ngai Phật"(79). những xác người" và "Bài ca dành cho TCS có thể là một người đi tìm kiếm những xác người"; hai bài hát, như tên gọi chân lí hơn là một người nổi loạn; tuy nhiên, của nó, rất là gợi hình và diễn tả một cách điều đó không có nghĩa là TCS đã không rất xúc động tình cảm của ông trước nỗi thừa hưỏng được gì từ tác phẩm của kinh hoàng của cuộc chiến. Theo giáo lí Camus. Chính những tác phẩm này đã giúp Phật, con người không buộc phải gánh chịu ông đối lập kiếp lưu đày với quê nhà và quê đau khổ; thực tế, mỗi người được khuyến hương, và khiến cho những sáng tác của khích làm tất cả những gì có thể để xoa dịu ông thích hợp với những tranh luận triết học khổ đau - của chính mình và của đồng loại. tại Việt Nam trong những năm cuối 1950 Nhưng để làm được điều đó, con người đầu 1960. Trong những bản nhạc tiền phải nhận thức được sư hiện hữu của đau chiến(80) và những tiểu thuyết trước thời khổ. Khi lòng khát khao vật chất gây nên TCS, đã xuất hiện nhiều những hình ảnh những khổ đau cho con người, thì để xoa của kẻ lang thang sống kiếp giang hồ dịu, chúng ta phải loại bỏ những khát khao: nhưng nhớ tha thiết quê hương(8 ): tuy1 Chúng ta phải từ bỏ những quyến luyến nhiên, so sánh với những tác phẩm đó, sự (attachments). lưu đày cô đơn trong các sáng tác của TCS Từ bỏ những quyến luyến là điều mang tính cách siêu hình hơn. Với TCS, lưu không dễ dàng. Khi TCS nói về những lạc đày là thân phận của kiếp người chứ không thú của đời sống, đặc biệt là tình yêu, và phải là một lựa chọn lãng mạn. Quê nhà và khi ông thỏi thúc mọi người hãy vui đi, đôi quê hương trong những bài hát của ông là khi ông thêm một mệnh đề bắt đầu bằng điều luôn được nhắc đến trong ca dao và chữ "dù". Trong bài "Hãy yêu nhau đi" ông trong dòng nhạc tiền chiến, nhưng chính thúc giục mọi người: TCS đã thổi một nguồn sống mới vào Hãy yêu nhau đi bên đời nguy khốn những hình ảnh truyền thống của quê nhà, Hãy yêu nhau đi bù đắp cho trăm năm bằng cách đối nghịch chúng với hình ảnh Hãy yêu nhau đi cho ngày guên tháng của một thế giới đầy dẫy cô đơn, thiếu Dù đêm súng đạn vắng cả niềm Hi vọng lẫn nguồn an ủi - Dù sáng mưa bom. những hình ảnh mà người cùng thế hệ của Và trong bài "Để gió cuốn đi" ông hát: ông bắt gặp qua những tác phẩm của và về những tác giả hiện sinh. Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người Trong bài "Dã tràng ca" và nhiều bài Còn cuộc đời ta cứ vui hát khác, dù TCS không thách thức, nhưng Dù vắng bóng ai, dù vắng bóng ai...
  16. NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 66 Trong những bài hát có những mệnh sự sợ hãi này, trực giác về cái chết của đề "dù" này(82), sự tạm bợ của đời sống chính mình, chính là nền tảng của cuộc được chấp nhận, nhưng miễn cưỡng. Tôi sống thật sự; đó là điều mang lại ý nghĩa và nói "miễn cưỡng" bởi vì trong những mệnh giá trị cho đời sống. Bị cuốn theo đời sống đề chính gắn liền với những mệnh đề "dù" "thường nhật", Heidegger nói, đa số không này, sức hút của tình yêu trong cuộc đời thấy cái chết theo cách này, trừ khi đối diện này được diễn tả hết sức nồng nàn đến với bệnh hiểm nghèo. Đây là điều bất hạnh mức chúng có xu hướng áp đảo nhận thức vì khi sống một đời sống với ý niệm gần kề của TCS về sự tạm bợ của đời sống trong với cái chết, con người sẽ sống tha thiết và những câu mệnh đề phụ "dù" của ông. Ví nồng nàn hơn(84). dụ, ỏ đây, là cách bài "Tạ ơn" kết: Trong rất nhiều bài hát của TCS, như Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người chúng ta đã thấy, cái chết luôn thâm nhập Tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi vào đời sống và ngược lại, thường trong Tình sáng ngời như sao xuống tư trời. cùng chỉ một câu hát: "Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ", "Trong xuân thì thấy bóng Thời chiến tranh, trong khi Việt Nam trăm năm", và "Từng lời tà dương là lời mộ quả là một thế giới phi lí, thì TCS mãi lưu địa"(85). Điều mà làm cho nhiều người nghĩ tâm đến những hấp dẫn của cuộc đời, đặc nhạc TCS có vẻ quá đen tối có thể chính là biệt là tình yêu, và vì vậy ông bác bỏ thái sự cô' gắng của ông trong việc nắm bắt cái độ bất chấp kiểu Camus và vật lộn để chấp nghịch lí hiện sinh: Để sống một đời sống nhận từ bỏ những quyến luyến như giáo lí trọn vẹn, con người phải sống với cái chết Phật dạy. trong tâm trí mình. Muller, người so sánh Nhưng Camus không phải là triết gia chủ nghĩa hiện sinh với Phật giáo, cho rằng hiện sinh duy nhất. Ta cũng có thể liên đây là một nghịch lí "rất Thiển" bởi vì trong tưởng việc TCS bị thu hút mạnh mẽ bởi Thiền "sự thật của kiếp người" chì ngộ được những tư tưởng hiện sinh khác về "sự kinh khi đã đạt đến hư không"(86). Trong cả Phật hãi" (dread) và "sự sống đích thực" giáo và chủ nghĩa hiện sinh, mỗi người phải (authentic living), những quan niệm gắn với đối diện với tình trạng hư không hoặc hư vô Kark Jaspers và Martin Heidegger. Trong để có thể nhận thức được những khả năng phần giới thiệu một tập nhạc xuất bản năm của đời sống. Khái niệm về kinh hãi, vì vậy, 1972, ông nói "Tôi đang yêu thương cuộc có lẽ đã lôi cuốn TCS vì nó đã chứng thực đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng"< 3 8 ). được niềm tin Phật giáo của chính ông. Tuyệt vọng ở đây mà TCS nói đến trong Tuy nhiên, khái niệm kinh hãi hiện sinh những tác phẩm, sáng tác của ông cũng không thật sự thích hợp với Phật giáo. Phật giống với "sự kinh hãi" hiện sinh; đây là một giáo dạy rằng con người không nên đón cõi tâm trạng, theo Martin Heidegger và những chết bằng sự kinh hãi, mà với "tuyệt đối hết triết gia hiện sinh khác, làm con người mất lòng". Suzuki, cho rằng, với những người hết tinh thẩn khi phải đối diện với điều theo Thiển, cái chết không phải là điều kinh không tránh khỏi là cái chết của chính hoàng: "Con người với cái chết là một cũng mình. Với Heidegger, và cũng như với TCS, như con người với sự sống là một, và trong
  17. TẠP CHÍ VHDG SÔ 6/2008 67 một cách không thể giải thích được, con làm mờ đi những khác biệt bản chất. Ví dụ, người vượt ngoài biên giới của sự sống và sự tương đồng mà TCS nói đến trong một cái chết ngay vào khi được sinh ra hay chết cuộc trả lời phỏng vấn và trong những bài đi. Sự vĩnh hằng, với Thiển, không phải là viết cho Nguyệt san Giác ngộ. Khi người tình trạng sau khi chết. Để sống vĩnh hằng phỏng vấn nói rằng anh ta đã thấy được là chạm vào những vô cùng của hiện tại"(87 ) dòng chảy mạnh mẽ của chủ nghĩa hiện Dù TCS đã nói đến sự tuyệt vọng trong một sinh trong sáng tác của ông, TCS trả lời: số bài hát, tôi tin rằng ông đã cố "chạm vào "Mình cho rằng bậc thượng thừa của hiện sự vô cùng của hiện tại" và xem cái chết sinh chính là ông Phật. Tại vì Phật dạy ta không với nỗi sợ hãi mà với sự điềm tĩnh và phải thức tỉnh trong từng sát na của cuộc an bình. Những sáng tác sau này như "Tôi sống"(88). Và trong Nguyệt san Giác ngộ, ơi đừng tuyệt vọng" và "Như một lời chia ông nói rằng trong "những năm gần đây, tôi tay" được viết vào những năm đầu 1990, thường nghĩ về Phật giáo như một tôn giáọ đểu mang âm hưởng của sự chấp nhận mang nhiều tính hiện sinh nhất. Bắt đầu lặng lẽ. Trong bài "Tôi ơi đừng tuyệt vọng", bằng chữ "sát na", một đơn vị thời gian siêu ví dụ, TCS quở trách chính mình và người nhỏ. Phải biết cách sống hết mình trong yêu của ông vì những quyến luyến với cõi mỗi sát na của thực tại. Từ mỗi cái ăn, cái đời. Trước tiên, để nói về chính mình, ông uống, cái đi đứng nằm ngồi. Không làm hỏi: công việc này mà nghĩ đến công việc khác. Tôi là ai mà còn trần gian thế? Với tôi, đó cũng là Thiền(89), là một cách Tôi là ai, là ai, là ai sống đích thực. Tôi vẫn tiếp tục thực tập Mà yêu quá đời này? cách sống như thế hàng ngày"(90). Bài hát này có hình ảnh của những Bằng việc chú tâm vào sự hiện hữu của chiếc lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông và kiếp sống này mà không phải sự sống đời ánh nắng vàng đang phai nhạt "như một sau, và trong cách nó nhấn mạnh đến khả đài riêng", nhưng viễn tượng của bình minh năng của ý nghĩ - chú tâm và nhập định - cũng được nhắc đến. TCS dường như đang Phật giáo có mang "đặc điểm hiện sinh". nhắc nhở chính mình và người yêu của ông "Chúng ta là kết quả của tất cả những gì rằng cuộc đời riêng của họ chỉ là một phần chúng ta nghĩ đến", là một trong những câu tử nhỏ trong quá trình rộng lớn hơn của suy nói nổi tiếng của đức Phật; đó là một châm tàn, chết chóc và tải sinh. Trong "Như một ngôn mà Walter Kaufmann cho rằng lời chia tay", những kỉ niệm của tình yêu - "không khác gì sự tinh túy trong tư tưởng từng bước chân, đoá hoa hồng, lời thì thầm của Sartre"(91). Kaufmann luôn ghi nhớ việc trong đêm - làm cho sự chia lìa với kiếp Sartre nhấn mạnh rằng "hiện hữu đứng người khó khăn một cách đớn đau, nhưng trước bản chất", và rằng những điều chúng cũng chính trong bài này, ông tỏ ra sẵn ta làm, những lựa chọn chúng ta thực hiện sàng để hát lên lời chia tay. trong đời sống, quyết định bản tính của Trong một giới hạn nào đó, Phật giáo chúng ta(92). Nhưng trong Phật giáo, những và chủ nghĩa hiện sinh có phần tương điều luật mà TCS nói đến là để cho con đồng, nhưng những tương đồng này có thể người nhận thức được Luân hồi, cõi trần thế
  18. 68 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl đầy đau khổ và tạm bợ, hoàn toàn giống người họ thương yêu. Sẽ không còn những với Niết bàn, là thực tại cùng đích. "Niết ghen ghét và sân giận, vì nếu sân giận bàn là Luân hồi; Luân hồi là Niết bàn" là người khác, là họ đang giận chính họ"(97). một câu rất nổi tiếng của Phật tử. Trong Tôi tin chúng ta thấy TCS trau dồi tính giáo lí nhà Phật, Luân hồi, tức là cõi trần vô ngã trong rất nhiểu bài hát của ông. này, không phải là thua kém gì so với thực Ông và những người bạn của ông nói rằng tại đích thực; điều này chỉ có vẻ như vậy với nhiều bài tình ca của ông bắt nguồn từ một những ai chưa giác ngộ. Nếu một người tin người phụ nữ nào đó. Có khi những người vào điều này, thì không cần thách thực hiện này đã phụ ông, và thường thì cuộc tình sinh - không cần nổi loạn siêu hình chống của họ kết thúc trong chia li, buồn bã. lại thế giới phi lí mà những triết gia hiện Nhưng trong những bài tình ca của mình, sinh như Camus đã khuyên bảo(93). TCS thường đi từ cái khổ đau trong tình yêu Việc chủ nghĩa hiện sinh quá chú trọng cá nhân đến một điều chung hơn, là xót xa con người cá nhân cũng làm nó không cho thân phận con người. Nói cách khác, thích hợp với tư tưởng Phật giáo. Chủ nghĩa nhiều "bài hát tình yêu" cũng chính là "bài hiện sinh khuyến khích mỗi cá nhân đứng ca về thân phận con người". Ví dụ, trong lên chống lại xã hội và văn hoá hiện hữu. bài "Nhìn những mùa thu đi", bài hát mà tôi Ngược lại, Phật giáo, dạy "vô ngã" rằng đã dẫn ở trên, nói về một tình yêu phai "không có một bản ngã hay một linh hồn nhoà, thì sự "buồn bã của riêng ông" hoà nào ở đằng sau dòng chảy của tinh thần và chung với "cảm xúc của con người". Và vật chất thể hiện sự hiện hữu của chúng trong bài "Ru em", cũng là bài nói về tình ta"(94). George Rupp cho rằng, "với Thiền, yêu tan vỡ, tình phụ, ông hát: cá nhân rốt cuộc không phải là một thực Yêu em yêu thêm tình phụ thể độc lập. Tất cả những thực tế từng cá Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ. nhân có đều bắt nguồn từ tập hợp của tổng Từ bi, từ mà TCS dùng trong câu thứ thể"(95). Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói rằng hai trên đây, nói đến từ tâm và tâm bi, là bản thân đích thực là vô ngã - "sự nhận biết hai đức tính mà Phật tử tin rằng quan trọng rằng mỗi cá nhân được dựng nên chỉ bởi để "từ bỏ quyến luyến của "cái tôi"< 8 TCS 9 ). những yếu tố vô ngã", rằng "không có sự cũng trau dồi tính vô ngã trong bài "Tôi ơi chia rẽ giữa cá thể và những người khác, đừng tuyệt vọng", trong trường hợp này, và tất cả đều nối liền với nhau"(96). Vô ngã, bằng cách nhắc nhở người yêu rằng không Thích Nhất Hạnh cho rằng, có thể được có ngăn cách nào giữa họ; họ, như lời trau dồi: "Khi bạn yêu thương, nếu là lòng Thích Nhất Hạnh, đã kết nối với nhau: yêu thương thật sự, bạn sẽ bắt đầu nhận ra rằng những người khác là một phần của Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng bạn và bạn là một phần của họ. Khi nhận Em là tôi và tôi cũng là em. thức được điều đó, đã là vô ngã". Khi con Dù TCS rõ ràng có quan tâm đến chủ người yêu mến nhau, sự khác biệt, những nghĩa hiện sinh, tôi nghĩ rằng nó chỉ ảnh giới hạn, biên giới ngăn cách giữa họ sẽ bắt hưởng đến những sáng tác của ông một đầu tan biến đi, và họ trở thành một với cách chung chung. Sự phổ biến của nó
  19. TẠP CHÍ VHDG s ố 6/2008 69 giữa những người bạn và những người quen phương ở các bài hát TCS nằm ở hình thức đã thôi thúc ông đưa triết học vào trong bên ngoài, nhưng cốt tủy là Đông phưong. những bài hát của mình - theo như lời của Đó là điểm sáng tạo độc đáo của TCS, đã Thái Kim Lan là "hát triết học". Những bắt được nhịp suy nghĩ của thời đại và của người bạn say mê triết học Tây phương của thế hệ thanh niên Việt Nam"(100). ông hiểu những bài hát này là về những tư Giờ đây, "thế hệ trẻ" mà Thái Kim Lan tưởng hiện sinh. Và bởi vì ông trình bày nói đến, không còn trẻ nữa. Nhưng có một những tư tưởng này bằng ngôn từ đơn giản lí do lớn lao khác khiến những bài hát của - theo lời Thái Kim Lan, như người mẹ Huế TCS tiếp tục được yêu thích là vì chúng kể chuyện cổ tích - những bài hát của ông chuyên chở những thông điệp Phật giáo. giúp họ hiểu những lí thuyết siêu hình khó Khi TCS mới giới thiệu những bài hát của hiểu này. Tuy nhiên, nhiều năm sau đó, ông vào cuối những năm 1950, ca từ và Thái Kim Lan đi đến một kết luận bất ngờ. hình ảnh độc đáo làm chúng trở thành một Bà viết năm 2001: "Bây giờ nhìn lại thì thấy điều mới lạ - khác với những bài nhạc tiền mình dại khờ, bởi chính những tư tưởng mới chiến< 0 ) mà giới trẻ thành thị miền Nam 11 này chẳng có chi là mới so với triết lí Phật thấy nhàm chán. Tuy nhiên, những ý niệm giáo cả"
  20. 70 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl "Bay đi thầm lặng", 1973 "vẫn nhớ cuộc đời", 1972 "Bên đời hiu quạnh", 1970-1971 "Vết lăn trầm", 1963 "Biển nhớ", 1962 "Cát bụi", 1965 PHỤ LỤC B "Chiều trên quê hương tôi", 1980 “Một cõi đi về” "Có một ngày như thế", 1995 Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi "Có nghe đời nghiêng", 1973-1974 Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt "Cỏ xót xa đưa", 1969 Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt "Còn có bao ngày", 1969 Rọi suốt trăm năm một cõi đi về "Dã tràng ca", 1962 Lời nào của cây lời nào cỏ lạ "Đại bác ru đêm", 1967 Một chiều ngói say, một đời thật nhẹ "Để gió cuốn đi", 1971 ngày qua... "Đêm thấy ta là thác đổ", 1968 Vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ "Đóa hoa vô thường", 1972 Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về "Đời cho ta thế", 1973 chốn xa "Gần như niềm tuyệt vọng", 1973 Mây che trên đẩu và nắng trên vai "Gia tài của mẹ", 1965 Đôi chân ta đi sông còn ở lại "Gọi tên bốn mùa", 1963-1964 Con tim yêu thương vô tình chợt gọi "Hát trên những xác người", 1968 Lại thấy trong ta hiện bóng con người "Hãy cứ vui như mọi ngày", 1969 "Hãy yêu nhau đi", 1970 Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa "Lặng lẽ nơi này", 1987 Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ "Lời buồn thánh", 1959 Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà "Lài thiên thu gọi", 1972 "Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui", 1977 Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tuy "Một cõi đi về", 1974 Một bờ cỏ non một bò mộng mị "Ngẫu nhiên", 1972 ngày qua... "Nhìn những mùa thu đi” , 1961 Từng lời tà dương là lòi mộ địa "Như một lời chia tay", 1991 Từng lời bể sông nghe ra từ độ "ở trọ", 1973 suối khe "Phôi pha", 1960 Trong khi ta về lại nhở ta đi "Phúc âm buồn", 1965 Đi lên non cao đi về biển rộng "Ru em", 1965 Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng "Rừng xưa đã khép", 1972 Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì "Tạ ơn", 1964 Hôm nay ta say vui đời ngủ muộn "Tiến thoái lưỡng nan", 2000 Để sớm mai đây lại tiếc xuân thì "Tình ca người mất trí", 1967 "Tình nhớ", 1966 PHỤ LỤC c "Tình xót xa vừa", 1970 “Như một lời chia tay” "Tình yêu tìm thấy”, 1982 Những hẹn hò từ nay khép lại "Tôi ơi đừng tuyệt vọng", 1992 Thân nhẹ nhàng như mây
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2