Đề bài: Cái tôi phóng túng, ngông nghênh và khát khao khẳng định chính mình giữa <br />
cuộc đời của Tản Đà qua bài thơ Hầu Trời<br />
Bài làm<br />
Những năm 20 của thế kỷ XX, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy <br />
những cảnh ngang trái xót đau. Những người trí thức có lương tri không chấp nhận nhập <br />
cuộc, nhưng để chống lại nó thì đó không phải là điều đơn giản ai cũng có thể làm được. <br />
Làm thơ giải sầu, đó là một cách thức khá phổ biến được nhiều người lựa chọn. Nhà thơ <br />
Tản Đà cũng thế. Nhưng khác với mọi người, Tản Đà là người đầu tiên, là người thứ <br />
nhất có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một <br />
bản ngã, dám có một cái tôi<br />
Tản Đà sáng tác nhiều thơ, Hầu Trời là một bài trong số ít những bài trường thiên đứng <br />
lại được với đi thời gian, ngạo cùng năm tháng. Cái hay, cái hấp dẫn nhất của bài thơ đối <br />
với người đọc là thế hiện được cái tôi phóng túng, ngông nghênh và khát khao khẳng định <br />
chính mình giữa cuộc đời của Tản Đà.<br />
Tản Đà đã từng nhận mình là hủ nho lo việc đời, là người thuộc lớp người tài cao phận <br />
thấp, đau đời, chán đời, ông đã tìm cách để thoát đời. Và để thoát đời, cách của ông là tìm <br />
lên cõi thượng giới do mình tưởng tượng ra. ở đó ông tha hồ, mặc sức để cho trí tưởng <br />
tượng mình tự do, bay bồng. Song, ông lại muốn đế cho người đọc họ tin, tin vào sự thật <br />
mình được lên trời để hầu Trời. Cho nên, cách vào bài thơ đầu tiên là ông khẳng định:<br />
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng<br />
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!<br />
Thật được lên tiên sướng lạ lùng<br />
Mọi người có nghi ngờ nữa không khi nhà thơ cứ một mực khăng khăng hồn phách mình, <br />
thân thể mình đã được lên tiên, đó không phải là chuyện mơ màng và mọi người cũng <br />
đừng nên hoảng hốt làm gì. Khẳng định cao độ như thế, dù người ta không tin thì trí tò mò <br />
cũng bị kích thích mạnh mẽ, họ sẽ dõi theo câu chuyện mà ông Tản Đà kia sẽ kể là <br />
chuyện gì. Cách vào bài thơ của nhà thơ quả thật vừa hóm hỉnh lại vừa có duyên lạnh <br />
lùng.<br />
Tản Đà là nhà thơ, đã từng vì mưu sinh mà đem thơ ca bán phố phường, nhưng lúc này <br />
cũng là lúc văn chương hạ giới rẻ như bèo. Biết được thực tế cuộc sống khó khăn, chật <br />
vật là thế, nhà thơ nghèo vẫn ngông nghênh lên bầu Trời bởi một lẽ do thơ ông hay quá. <br />
Nói về cái ngông chính Tản Đà đã từng viết:<br />
Bởi ông quá hay ông không đỗ<br />
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông.<br />
(Tự trào)<br />
Ngông là ý thức tự khẳng định cái tôi chủ quan của mình, làm những việc trái với thói <br />
thường của đám đông, của cộng đồng. Nhưng không phải những việc làm ngược lại với <br />
thói thường ấy đều là ngông. Người ta muốn ngông cũng phải có cơ sở mà nền tảng vững <br />
chắc nhất là phải có tài và nhân cách hơn người, ở đây Tản Đà đã ý thức được mình. Vì ý <br />
thức được mình nên mới có cái ngông nghênh đáng yêu rất Tản Đà. Nhà thơ được mời lên <br />
thiên đình để đọc thơ cho Trời và Chư tiên nghe. Đó là phần chính của bài thơ. Cảnh đọc <br />
thơ cho Trời nghe, được nhà thơ dựng lại khá chi tiết. Được mời lên Trời đọc thơ, đó là <br />
vinh dự của nhà thơ. Bởi vậy, nên cũng rất dễ hiểu khi thi sĩ cao hứng và có phần tự đắc. <br />
Đương cơ thời còn kể cho Trời và Chư tiên nghe những tác phẩm mình đã viết: Hai <br />
quyển Khối tình hai cuốn Khối tình con, Thần tiên, Giấc mộng... Đặc biệt là cách thi sĩ tự <br />
khoe:<br />
Văn dã giàu thay lại lắm lối<br />
Sẽ là chuyện huênh hoang kênh kiệu khi một con người bình thường tự do cao ca ngợi <br />
mình. Nhưng Tản Đà không phải là người bình thường, ông là một người có tài thực sự. <br />
Và đây không phải lần đầu tiên nhà thơ tự khen mình. Trong Tự trào, ông đã viết:<br />
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông<br />
Tuổi chửa bao nhiêu vãn rất hùng<br />
Sông Đà núi Tản ai hun đúc<br />
Bút thánh câu thần sớm vãi vung.<br />
Trước thái độ ấy của Tản Đà, Trời nghe Trời cũng bật buồn cười, còn các Chư tiên nghe <br />
thơ Tản Đà thì xúc động, tán thưởng và hâm mộ:<br />
Là nhà thơ nổi tiếng đa tình. Lần lên Trời này, không thiếu bóng các nồng Tâm Cơ, Hằng <br />
Nga, Song Thành... Họ tán dương, ngưỡng mộ Tản Đà vị khách từ cõi trần tục lên. Rồi <br />
họ cũng vỗ tay tán thường. Đặc biệt là Trời đánh giá cao thơ của Tản Đà:<br />
Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt<br />
Văn trần được thế chắc có ít.<br />
Và không tiếc lời khen ngợi: Lời văn đẹp như sao băng, khí văn mạnh như mây chuyển, <br />
khi thì nhẹ như sương, khi thì êm như gió, khi lại đậm đà như mưa sa, khi lại lạnh như <br />
tuyết.<br />
Có thể nói, Tản Đà rất có ý thức về tài năng của mình và cũng là một con người táo bạo, <br />
dám đường hoàng bộc lộ bản ngã cái tôi đó. Cách nhà thơ xưng danh tên họ ngay trước <br />
mặt Ngọc Hoàng và Chư tiên cũng đã thể hiện điều đó:<br />
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn<br />
Quê ờ A châu về Địa cầu<br />
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt.<br />
Ông cũng rất ngông khi tìm đến tận Trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc <br />
Hoàng Thượng đế và Chư tiên. Nếu bài thơ Muốn làm thằng cuội, Tản Đà đã muốn thoát <br />
tục lên cõi tiên để lẩn trốn cuộc sống hiện tại:<br />
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám<br />
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.<br />
Thì ở Hầu Trời, nhà thơ cũng một lần nữa thoát tục. Nhưng ngòi bút ông, tâm hồn ông lại <br />
được tự do phóng túng trong thể thơ trường thiên không gò ép về niêm luật, vần điệu. <br />
Niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ là được khẳng định cái tài của mình, muôn <br />
cái tài của mình được nhìn nhận đánh giá một cách đích đáng. Giữa lúc xã hội đang rối <br />
ren, thật giả trắng đen nhiều khi không phân định được ranh giới, văn chương trở nên rẻ <br />
mạt còn nhà văn, thi sĩ thì bị rẻ rúng, khinh bỉ, việc tìm được người đọc tri âm tri kỉ, hiểu <br />
được thơ, cảm được cái hay của thơ Tản Đà quả thật rất khó. Và ông phải lên tận cõi <br />
tiên mới có thể được thỏa nguyện.<br />
Tác giả xuất hiện trong bài thơ với tư cách là người kể chuyện, đồng thời cũng là nhân <br />
vật chính. Cảm xúc tác giả trong bài thơ là cảm xúc phóng túng, tự do không gò ép. Có khi <br />
cao hứng, có khi tự đắc, có khi lại trầm ngâm. Tất cả tạo nên giọng thơ tự sự rất hóm <br />
hỉnh, có duyên và lôi cuốn người đọc. Theo lời tác giả, người đọc được chứng kiến cảnh <br />
nhà thơ đọc cho Trời nghe, cảnh Trời và các Chư tiên đánh giá thơ của tác giả... Người <br />
đọc không chỉ cảm nhận được cái ngông nghênh phóng túng của nhà thơ, mà còn cảm <br />
nhận được khát khao, được khẳng định chính mình giữa cuộc đời của tác giả. Cuộc sống <br />
nhà thơ hàng ngày đang phải đương đầu với những khó khăn, vất vả, những bộn bề lo <br />
toan cũng như nhiều nhà văn khác cùng chung cảnh ngộ bấy giờ, Tản Đà là một thi sĩ nổi <br />
tiếng một thời, được cả một thế hệ độc giả hâm mộ, vậy mà suốt đời vẫn sống trong <br />
cảnh nghèo đói, cùng quẫn:<br />
Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó<br />
Trần gian thước đất cũng không có.<br />
Vốn liếng nhà thơ mang theo là một bụng văn. Nó không ăn được, không mặc được. Nhà <br />
thơ chỉ còn cách đem văn đi bán phố phường nhưng ngặt nỗi:<br />
Văn chương hạ giới rẻ như bèo<br />
Kiếm được đồng lãi thực rất khó<br />
Cho nên:<br />
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiếu.<br />
Nghèo cuối cùng vẫn hoàn nghèo. Một vài câu thơ ngắn ngủi vậy thôi nhưng bức tranh <br />
hiện thực đời sống lại hiện lên rất chân thực và đầy nỗi đau xót. Có thể nói đó là một <br />
trong những lí do vì sao nhà thơ chán cuộc sống hạ giới.<br />
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi<br />
Trần thế em nay chán nửa rồi.<br />
(Muốn làm thằng Cuội)<br />
Và lời Trời dặn nhà thơ, nhiệm vụ mà Trời giao phó cho nhà thơ sao để giữ được thiên <br />
lương giữa cuộc sống đầy bon chen, cạm bẫy là một sứ mệnh thiêng liêng mà nhà thơ <br />
phải cố gắng thực hiện, dù:<br />
Trời lại sai con việc nặng quá<br />
Biết làm có được mà dám theo.<br />
Gìn giữ cho được cái thiên lương ấy cũng là điều mà Tản Đà mong muốn làm được, khát <br />
khao làm được. Sự tự nguyện gánh vác nhiệm vụ Trời giao phó cho thấy cái tâm huyết, <br />
cái nhân cách cao đẹp và trong sạch của nhà thơ nghèo Tản Đà.<br />
Khi phong trào Thơ mới nổi lên, Thế Lữ như một vầng sao đột hiện, ánh sáng chói khắp <br />
cả trời thơ Việt Nam (Tế Hanh) thì phía bên kia, vầng sao Tản Đà mỡ dần rồi lặn hẳn. <br />
Người ta đã đưa Tản Đà lên mặt báo để chế giễu, cho ông là đại biểu chính thức của thơ <br />
cũ. Nhưng cho tới khi nhà thơ mất (7/6/1939) ở đầu giường bệnh vẫn cái chồng sách bừa <br />
bãi đâu đó mấy trang bản thảo... Thì những người đã từng chế giễu ông mới thấy thương <br />
tiếc và hối hận. <br />
Lao động nghệ thuật thật sự, trăn trở thực sự, nhà thơ mang tên dòng sông, ngọn núi quê <br />
hương đã tận tụy với con đường văn, với nghiệp văn của đời mình. Có thơ phóng túng, <br />
ngông nghênh nhưng không buông thả, không dễ dàng, gửi gắm vào những trang thơ dí <br />
dỏm, hóm hỉnh là nỗi niềm khát khao được khẳng định chính mình. Và thật không uổng <br />
công khi bạn đọc hôm nay và mai sau nữa vẫn luôn nhớ tới ông, thơ ông xứng đáng là cái <br />
gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại. ông đã tìm được <br />
hướng đi đúng đắn để khẳng định mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang dần tới dấu chấm <br />
hết.<br />