JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 5, pp. 59-66<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0060<br />
<br />
CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ MIÊN DI<br />
Đặng Thu Thủy<br />
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. miên di là một cây bút trẻ mới xuất hiện trên văn đàn những trong khoảng dăm<br />
năm gần đây những đã được đánh giá là một trong những tác giả trẻ sáng giá của khu vực<br />
miền Trung - Tây Nguyên. Cái tôi trữ tình trong thơ miên di là cái tôi luôn thường trực<br />
nỗi buồn và sự cô đơn; nỗi đau, nỗi bẽ bàng nhân thế và ý thức sâu sắc về bản ngã. Thơ<br />
anh có sức mạnh mãnh liệt của sự trải nghiệm đời sống. Những hình ảnh so sánh độc đáo,<br />
giọng điệu tưng tửng, hài hước, những kết hợp từ ấn tượng. . . góp phần làm nên một cá<br />
tính không trộn lẫn.<br />
Từ khóa: Cái tôi trữ tình, miên di.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
miên di là một cây bút trẻ mới xuất hiện trên văn đàn những trong khoảng dăm năm gần<br />
đây. miên di sinh ra không phải để trở thành nhà thơ nhưng rồi thơ ca đã đến với anh như một<br />
duyên phận. Không gây hấn, gây shock, không tung phá, không đạp đổ, không giải thiêng không<br />
hạ bệ ai, không ồn ào, đánh bóng tên tuổi; giản dị, “như không”, nhưng không kém phần quyết<br />
liệt, sâu sắc, tràn đầy nội lực, thơ miên di có sức hấp dẫn riêng đối với độc giả. Chính thức ra mắt<br />
năm 2013 với tập Thơ miên di (NXB Hội nhà văn), lập tức, miên di đã được đánh giá là một trong<br />
những tác giả trẻ sáng giá của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tuy vậy, có thể do chưa có một<br />
độ lùi thời gian cần thiết nên cho đến thời điểm này, số lượng các bài viết, các công trình nghiên<br />
cứu về thơ miên di còn khá ít ỏi. Có thể kể đến các bài viết đáng chú ý sau (chủ yếu mang tính chất<br />
phê bình, cảm nhận một cách chủ quan) như:<br />
1. Những mũi khoan ý thức đau đớn trong thơ miên di, Du Tử Lê, dutule.com<br />
2. Một cõi miên di, Trịnh Sơn, thethaovanhoa.vn<br />
3. miên di và những trang viết của mình, Vũ Thu Huế, pleikucafe.com<br />
Ngoài ra, còn có một vài khóa luận, luận văn quan tâm đến Trường liên tưởng, Thế giới<br />
nghệ thuật thơ miên di và Đặc điểm thơ lục bát miên di. Nhìn chung, các bài viết và các công trình<br />
này đều đánh giá cao thơ miên di, khẳng định những nét đặc sắc trên các phương diện: thể thơ (thơ<br />
lục bát), hình ảnh, giọng điệu. Tác giả Trịnh Sơn còn tìm thấy sự đồng điệu giữa miên di và Bùi<br />
Giáng: “Thơ miên di có cái gì đó hao hao Bùi Giáng, nhưng lại không phải Bùi Giáng, một tâm<br />
lí bất an đến thương tổn. Thương tổn đến nỗi không còn thấy sự tổn thương. Thiền động” [1]. Vũ<br />
Thu Huế thấy ở anh một “nội lực tiềm tàng và một tài năng phóng khoáng” [2], Văn Công Hùng<br />
Ngày nhận bài: 5/1/2016. Ngày nhận đăng: 25/5/2016<br />
Liên hệ: Đặng Thu Thủy, e-mail: dangthuy118@yahoo.com<br />
<br />
59<br />
<br />
Đặng Thu Thủy<br />
<br />
lại thấy: “Thơ miên di mới đọc tưởng như hậu hiện đại, té ra lại rất bình dị. . . Chữ của anh tươi và<br />
đầy cảm giác với một biên độ cảm xúc khá rộng nhưng không loãng. Với thơ, anh vừa là xe cộ vừa<br />
là tuấn mã” [3]. Cho đến nay, vẫn chưa có một bài viết nào nghiên cứu trực diện về cái tôi trữ tình<br />
trong thơ miên di. Trên đây là những lí do khiến chúng tôi triển khai bài viết này.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ miên di<br />
<br />
“Cái tôi trữ tình là thế giới chủ quan, thế giới tinh thần của con người được thể hiện trong<br />
tác phẩm trữ tình bằng các phương tiện của thơ trữ tình”. Theo Hê-ghen, “Nguồn gốc và điểm tựa<br />
của trữ tình là ở chủ thể và chủ thể là người duy nhất mang nội dung có thể quan niệm rằng, cái tôi<br />
trữ tình là nội dung, đối tượng cũng như bản chất của tác phẩm trữ tình” [4;18,19]. Cái tôi trữ tình<br />
vừa thể hiện cách cảm cách nghĩ của chủ thể vừa đóng vai trò sáng tạo tổ chức các phương diện<br />
nghệ thuật.<br />
<br />
2.1.1. Cái tôi với nỗi bẽ bàng nhân thế<br />
Làm thơ khi đã ngoài 30 tuổi (tập Thơ miên di – tập thơ đầu tay xuất bản khi tác giả đã ngấp<br />
nghé 40) - cái tuổi không còn trẻ nhưng cũng chưa phải đã già, đủ cho anh có rất nhiều nghiệm<br />
sinh sâu sắc. Có một tuổi thơ không bằng phẳng, nhọc nhằn và nhiều bất hạnh, sống lang bạt kì<br />
hồ, trải qua nhiều thân phận khác nhau, từng sống trong tận cùng đói khổ, lăn lộn với những bậc<br />
cùng đinh, miên di nhìn đời bằng cái nhìn của sự trải nghiệm.<br />
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự sa sút về đời sống tâm hồn, thiếu vắng<br />
tinh thần nhân bản: lối sống thực dụng, vị kỉ, nghèo cảm xúc, thậm chí vô cảm, vị kỉ, lãng quên<br />
quá khứ, cội nguồn. . . ngày càng hiện hữu rõ nét trong đời sống cộng đồng. Thơ anh không thiên<br />
về phơi bày, phê phán, lột trần hiện thực - điều mà không ít nhà thơ trẻ trước đó đã làm. Có những<br />
nỗi sầu, nỗi bẽ bàng nhân thế trong thơ anh. Đọc miên di, thấy đau, xót, nhiều khi đến gai người,<br />
đến ê chề nhiều hơn là hờn giận, bất bình. Trước đây, phần người và con trong mỗi người thường<br />
ở trong thế đối địch, người ta thường xem trọng phần “người”, coi thường cái phần “con”; đến khi<br />
cả một nền văn học tự vấn, tự nhận thức lại, mối xung đột đó được hòa giải, phần “con” hài hòa<br />
với phần “người”, con người là cả “thiên thần” và “ác quỷ”, sáng và tối, trắng và đen; đến miên di,<br />
táo tợn hơn, trước thực trạng nhân sinh hiện hữu, không ít lần anh muốn “sống phần muông thú”<br />
(người và con), “thử làm thú giữa hoang khê” (thử) bởi với anh, kiếp người này là một cơn mê, một<br />
cơn ác mộng, anh “sợ người làm bẩn tiếng chó tru”. Nỗi đau đớn có thật đó chắc hẳn khiến nhiều<br />
người đọc phải rùng mình lo lắng. Không tôn vinh, không ru vỗ con người, miên di nhìn thẳng vào<br />
hiện thực, cái nhìn kiểu “tỉnh táo, tỉnh khô, tỉnh bơ, tỉnh như sáo”, vì anh biết “cái tỉnh đó chỉ là<br />
phía nhìn thấy được của đam mê” (Thanh Thảo). Những nhọc nhằn lo toan của kiếp người, những<br />
tác động trái chiều của nền văn minh vật chất đang khiến phần “Người” có nguy cơ bị suy thoái,<br />
anh muốn sống với phần “Con” - cái phần tự nhiên mà trong trẻo, nguyên sơ, đẹp đẽ. Thơ anh<br />
nhức nhối những tra vấn thân phận:<br />
thử vào bệnh viện ngày đông<br />
để nhìn vào cuộc chưa xong giật mình<br />
một vài mầm khóc sơ sinh<br />
dăm ba tiếng cú tâm linh gọi về<br />
(thử)<br />
Lăn lóc ở chốn nhân gian, 40 năm sống trên cõi đời chắc đủ để cho miên di thấm thía sự<br />
60<br />
<br />
Cái tôi trữ tình trong thơ miên di<br />
<br />
đời. Anh lo sợ trước căn bệnh vô tình, vô cảm, sống mà như đã chết, chẳng khác những thi hài vô<br />
tri của con người. Con người tự nhốt mình vào “những văn phòng huyệt mộ/ chôn cất ngày qua”,<br />
nơi ấy, con người trở thành xấp giấy than/ những tờ giấy không cần suy nghĩ/ sao chép giáo điều/<br />
về sọt rác là xong. Những tưởng được hiện diện trên cõi đời này là điều đáng giá nhất, nhưng với<br />
anh thì đâu hẳn. Quan trọng là sống thế nào, sống ra sao:<br />
đi qua một cuộc hoài thai<br />
sợ người như những thi hài vô tri<br />
con tinh trùng được nghĩ suy<br />
hẳn rằng cân nhắc trước khi làm người<br />
(đi qua)<br />
Những câu thơ cứ như không, chẳng ra vẻ đạo mạo, triết lí, châm ngôn, nói cứ như chơi mà<br />
ngẫm ra lại đau đớn, chua chát, bẽ bàng đến tái tê. Đời sống của chúng ta, chẳng lẽ lại thế sao?<br />
Những câu thơ vừa như lời cảnh tỉnh vừa như lời cảnh báo để mỗi chúng ta có ý thức hơn về sự<br />
sống của chính mình.<br />
Sống trong xã hội hiện đại, chứng kiến những gì đang diễn ra từng ngày, suy nghĩ về nó,<br />
nhận thức được giới hạn của nó, thái độ của phần đông những người nghệ sĩ là phê phán, tâm lí<br />
nói chung là hoang mang và lo âu. Đó là nỗi lo lắng không thừa, lo gần, lo xa để con người ngày<br />
càng tiệm cận đến cái tốt đẹp, hoàn mĩ. Con người thừa hưởng những thành quả của xã hội hiện<br />
đại thì tất yếu cũng phải biết chấp nhận những giới hạn của nó. Các nhà thơ chưa thể và không thể<br />
cải tạo được xã hội song tiếng nói của họ ít nhiều cũng lay tỉnh được phần ý thức ở mỗi người.<br />
<br />
2.1.2. Cái tôi cô đơn<br />
Nỗi buồn, sự cô đơn ám ảnh thường trực trong thơ miên di. Nỗi buồn luôn hiện diện như<br />
một thành phần tất yếu của cuộc sống, một thói quen, một nhu cầu tự thân:<br />
có hôm bận quá không buồn được<br />
muốn hẹn nỗi niềm qua hôm sau<br />
hôm sau bận quá không buồn được<br />
tôi thấy nỗi buồn lên cơn đau<br />
(bài này không biết đặt tên)<br />
Khó có thể điểm danh hết những từ đích chỉ hay những biến thể của nỗi buồn bởi nó tràn<br />
ngập trong thơ anh: quạnh hiu, tôi buồn sang tôi vui không?, buồn thiên thai, mảnh buồn thổ cẩm,<br />
bao nhiêu buồn một dung nhan, khúc jazz buồn, nhát blues buồn, vũng buồn, buồn cỏ, cỏ buồn,<br />
buồn trinh, nỗi buồn thặng dư, cánh buồn bay, nỗi buồn bụ sữa, buồn xinh, buồn câm, tín điều<br />
buồn, buồn thóc. . . (nhan đề các bài thơ của miên di). Nỗi buồn như một định mệnh ám ảnh, không<br />
thể tách rời cứ vận vào người thơ ngay cả những khi đáng mừng vui nhất:<br />
đám cưới nhà ai sao vui thế<br />
mà chữ vu quy cứ buồn buồn<br />
(không biết vì sao)<br />
Với miên di, nỗi buồn dường như là một chất phụ gia không thể thiếu của cuộc sống. Nó<br />
không khi nào vắng bóng, trong niềm vui đã ẩn chứa nỗi buồn: “em cười sao vẫn hở hang nỗi<br />
buồn”. Đây là nỗi buồn thời công nghệ:<br />
<br />
61<br />
<br />
Đặng Thu Thủy<br />
<br />
đêm mất ngủ đổ bóng mình lên status<br />
facebook buồn như một sân ga<br />
...<br />
đêm mất ngủ đổ buồn lên facebook<br />
cô đơn tôi lang chạ với không người<br />
(buồn trinh)<br />
Phải chăng những người có tâm hồn đa cảm, nghệ sĩ, có tâm hồn thi sĩ, có “nòi tình” như<br />
anh đều dễ buồn, dễ cô đơn hơn người.<br />
Nỗi buồn, sự cô đơn còn do thế thái nhân tình mang lại: những mảnh đời cơ cực, sự thiếu<br />
thốn của tình người trong thời đại kĩ trị, khi con người luôn có nguy cơ bị máy móc hóa, khi vô<br />
cảm trở thành một căn bệnh trầm kha:<br />
những cái tên vẫn còn trên điện thoại<br />
mà tấm lòng không cài được báo rung<br />
(báo rung)<br />
lòng như ví cộm toàn danh thiếp<br />
đếm hoài không đủ một thân quen<br />
(cộm)<br />
Đọc thơ anh thấy rõ dấu ấn của thời đại anh sống, thời mà đức tin cũng có giá tiền, thời của<br />
những “tâm hồn mã vạch”, “thời cảm xúc kim loại/ tổ ấm hợp kim/ thiên nhiên đóng hộp”, “từng<br />
vỏ người mang khuôn mặt iphone” (Tâm hồn mã vạch). miên di cảm nhận sâu sắc sự leo lét của<br />
đời người trong một xã hội không thiếu vật chất nhưng nghèo khó nhân tình: “đời nhen ta như đốm<br />
lửa/ tàn trong cái lạnh tay người” (lạnh tay người). Những người thân yêu nhất, sống cùng nhau<br />
mà nhiều khi trở nên xa lạ, cô đơn như những ốc đảo: anh và em bên nhau “như hai hộp cơm nằm<br />
cạnh nhau/ nguội lạnh” (khúc mộ), “mỗi thao thức không cùng một nỗi/ lăn bên nào cũng chẳng<br />
thấy được nhau” (vỡ), “anh vắng trong nỗi buồn em/ em vắng trong cơn vui anh/ trong chăn chiếu<br />
những giả vờ xa xôi”. . . (lục bát li thân). Với anh, ngay cả lửa cũng lạnh. Chẳng lẽ, con người hôm<br />
nay đang sống với nhau như thế ư? Sự mất tín hiệu giao cảm nhiều khi còn nguy hiểm hơn nhiều<br />
lần những mối hiểm nguy, thiếu thốn khác. Có những khi, người thơ đợi chờ đến khắc khoải:<br />
đợi chờ một tiếng gõ<br />
cửa buồn tôi không then<br />
đợi một người không hẹn<br />
nỗi buồn già hom hem<br />
(mười bốn ngày còn lại)<br />
Nỗi buồn bao giờ chẳng kết đôi cùng nỗi cô đơn, cô đơn vì một thân một mình cô lẻ đã<br />
đành, nhiều khi cô đơn ngay giữa chốn đông người: “một mình đứng giữa lòng không/ lòng không<br />
đứng giữa phố đông không mình” (trắng ngày), “hình như thành phố ngủ mê/ con đường nào cũng<br />
dẫn về không nhau” (lang thang). Có lúc, nỗi cô đơn bỏng rát thiêu đốt anh - một tâm hồn có lửa<br />
nhưng lại không đủ sức sưởi ấm chính mình, anh lo sợ mình sẽ “cháy cô đơn và vô nghĩa/ giữa<br />
cuộc đời” (lửa lạnh). Không phải không có những khi anh muốn trốn đời:<br />
tôi mơ làm con sóc trốn trong góc trăm năm<br />
nhìn đời qua kẽ lá<br />
sợ hãi và lặng câm<br />
. . . tôi mơ làm cây nấm trong góc tối xa xăm<br />
<br />
62<br />
<br />
Cái tôi trữ tình trong thơ miên di<br />
<br />
đợi bàn chân không đến<br />
quên lãng vào trăm năm<br />
. . . tôi mơ làm con dốc<br />
tôi mơ làm phiến đá. . .<br />
(mảnh buồn thổ cẩm)<br />
Thơ của ta trong những năm qua không xa lạ gì với những trạng thái tinh thần như thế. Chưa<br />
bao giờ, thân phận, bi kịch cá nhân, tâm trạng bất an, hoang mang lạc lõng, nỗi cô đơn, khắc khoải,<br />
sự dằng xé, bế tắc. . . (những khoảng tối mà thơ giai đoạn trước kiêng kị) lại được phơi bày một<br />
cách thành thực đến thế. Chính những trạng thái tâm hồn này sẽ dẫn đến những suy tư triết học.<br />
Cái tôi trong thơ những năm gần đây không đơn thuần là cái tôi cảm xúc mà còn là cái tôi chiêm<br />
nghiệm, triết lí.<br />
<br />
2.1.3. Cái tôi suy tư về bản thể<br />
Nhiều người trách thơ trẻ hôm nay thờ ơ và nông nổi, thờ ơ trước nhân sinh, nông nổi với<br />
chính mình, chỉ loanh quanh với vài ba tình cảm vụn vặt riêng tư, nhưng đâu hẳn thế. Với những<br />
người cầm bút hôm nay, cái tôi như một điểm tựa để nhìn nhận về nhân sinh trong cái “cõi nhân<br />
gian bé tí” mà đầy rẫy những sự phức tạp và nhiêu khê khó lường này. Bằng sự nhạy cảm và trải<br />
nghiệm cá nhân, con người thời nay đang loay hoay đi tìm mình và tìm kiếm các giá trị. Trong<br />
những năm gần đây, ngày càng xuất hiện nhiều cá thể biệt lập, có bản sắc riêng khó trộn lẫn. Cái<br />
tôi có thiên hướng đào sâu vào mình, cái tôi nội cảm. Một trong những suy tư thường trực của cái<br />
tôi trữ tình trong thơ miên di là nỗi băn khoăn về bản thể, khát vọng kiếm tìm bản ngã.<br />
Cũng lạ cho miên di - một người cuộc đời lắm bão táp phong ba, thân thì động mà tâm lại<br />
tĩnh như thế. “muốn đi thật chậm để nhanh đến mình” (tôi nôn ra một chính mình), phải chăng là<br />
cách của anh? Trong vòng quay hối hả của cuộc sống ồn ã, xô bồ, miên di vẫn để cho lòng mình<br />
lắng lại, để sống chậm, để suy tư. Đời sống của anh có cái sôi nổi, mãnh liệt, náo nhiệt ở bên trong.<br />
đọc miên di, có cảm tưởng, không khi nào anh yên tâm về chính mình, anh luôn băn khoăn, mải<br />
miết kiếm tìm ý nghĩa của bản thể, ý nghĩa của sự sống, Trong anh luôn là một cuộc chạy đua, một<br />
cuộc đuổi bắt để tìm hiểu cho ra cái bản lai diện mục của mình:<br />
mệt không đuổi kịp chính mình<br />
hai con mắt mở vô minh ra nhìn<br />
(thử)<br />
một hôm đóng thế vai mình<br />
cái tôi rảnh rỗi vô hình rong chơi<br />
(một hôm đóng thế vai mình)<br />
gọt tôi vừa với chỗ nằm<br />
những thừa tôi đổ tận thăm thẳm buồn<br />
(những thừa tôi)<br />
miên di vừa sống vừa suy xét về sự sống của mình, luôn muốn giải phẫu mình, tự tách mình<br />
ra để soi ngắm, phán xét: “khi ta nhắc nhở chính mình/ có thằng ta khác đứng rình đúng sai”; tâm<br />
hồn có tật ngủ ngày/ đến đêm không ngủ cứ bày bừa ra/ sáng ra ta dọn chính ta/ thiếu vài mảnh<br />
vỡ, đủ là tôi chưa” (tình khùng). Mỗi con người nhiều khi không trùng khít với chính nó. Chính sự<br />
phong phú, bí ẩn, phức tạp của nó sẽ làm nên hương sắc của đời.<br />
thân mình ướm bóng của mình<br />
tôi không vừa với cái hình dung tôi<br />
(ướm bóng)<br />
63<br />
<br />