Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
lượt xem 33
download
"Nhàn" là một bài thơ tuyệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ có ngôn ngữ bình dị, giọng điệu khoan thai, thể hiện một tâm thế thanh cao, coi thường danh lợi phú quý bon chen trong cuộc đời. Tài liệu Cảm nhận về bài thơ Nhàn sau đây sẽ phân tích kỹ hơn về bài thơ này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện còn để lại khoảng 1.000 bài thơ chữ Hán và trên dưới 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân am tập" và "Bạch Vân Quốc ngữ thi tập". Nhận xét về thơ Trạng Trình, nhà sử học Phạm Huy Chú trong thế kỉ XIX có viết: "Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời". Mảnh thơ viết về thiên nhiên và vịnh nhàn chiếm một tỉ lệ sang trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ Nôm số 73 của Tiên sinh mà người soạn sách Ngữ văn đặt cho cái nhan đề "Nhàn" tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tâm hồn thanh cao của "ông Tiên giữa cõi trần" này. "Nhàn" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật, đó là những vần thơ "giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị": "Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao". Nhịp thơ rất biến hóa, gợi lên một tâm thế đủng đỉnh khoan thai của một lão nông sống ung dung thanh thản nơi vườn quê thân thuộc thể hiện ở hai câu đề: "Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào". Mai, cuốc, cần câu, những nông cụ ấy, vật dụng ấy với ta cũng chỉ có "một" mà thôi; hằng ngày ta vẫn cùng "Một mai, một cuốc, một cần câu" ấy vui vầy giữa "chốn nước non", thảnh thơi với dòng xanh sông Tuyết Giang quê nhà. Cái gia tài có 3 thứ, thứ nào cũng chỉ có "một" nhưng với Bạch Vân cư sĩ thì vô cùng giàu có và sang trọng. Dù ai có cách vui thú nào mặc, riêng ta cứ thơ thẩn, nhởn nhơn ung dung giữa cuộc đời. Có tự ý thức được mình thì mới có tâm thế "thơ thẩn" ấy. Cách sống ấy của
- Nguyễn Bỉnh Khiêm có khác nào cách sống cần cù, thanh bạch của Ức Trai trong thế kỉ 15 sau khi đã thoát vòng danh lợi: "Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ mương sen. Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy then". (Thuật hứng 24) Hai câu ba, bốn trong phần thực đối nhau: "ta dại" đối với "người khôn"; "ta tìm" đối với "người đến", "nơi vắng vẻ" đối với "chốn lao xao". Nghệ thuật đối ấy đã tương phản và đối lập hai quan niệm sống, hai nhân cách trong cuộc đời. "Nơi vắng vẻ" với Nguyễn Bỉnh Khiêm là đất tổ quê cha, là am Bạch Vân, là làng Trung Am, huyện Vĩnh Lai (nay là xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng), là sông Tuyết Giang, là quán Trung Tân. Đó là nơi "hằng mến" đối với Tuyết Giang phu tử: "Ba gian am quán, lòng hằng mến, Đòi chốn sơn hà, mặt đã quen. Thanh vắng thú quê giàu mấy nả, Dữ lành miệng thế mặc chê khen". "Chốn lao xao" theo Nguyễn Bỉnh Khiêm là chốn bon chen danh lợi, là nơi bạn cơ hội vênh vang tự đắc, lên mặt đạo đức dạy đời, là nơi đồng tiền hôi tanh đã trở thành "sức mạnh của cán cân công lí": "Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm, Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền". (Thơ Nôm, bài số 50) Sau nhịp thơ 2/5 và các điệp ngữ "ta", "người", chúng ta cảm thấy ánh mắt của ông Trạng nheo lại với nụ cười mỉm: "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao". Hai câu trong phần luận đăng đối hài hòa, làm hiện rõ một cách sống giản dị, bình dị, thanh bạch của kẻ sĩ cao khiết đã lánh tìm trong, đã thoát "chốn lao xao" đầy bụi trần: "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao". Trúc và giá thơm ngon hơn cao lương Mĩ vị ở "chốn lao xao". Tắm hồ sen mùa xuân, tắm ao về mùa hạ đối với Bạch Vân Cư Sĩ là để thanh sạch tâm hồn, để di dưỡng tinh thần cho thêm phần thanh cao. "Xuân tắm hồ sen" là thú quê, là niềm vui dân dã không phải ai cũng tìm thấy, ai cũng được tận hưởng:
- "Rủ nhau ra tắm hồ sen Nước trong bóng mát hương chen cạnh mình. Cứ chi vườn ngọc ao quỳnh, Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay". (Ca dao) Hai câu kết thể hiện một cốt cách thanh cao, ung dung tự tại của bậc cao sĩ phong lưu. Ở trên đã nói "ta tìm nơi vắng vẻ" thì khi uống rượu, "ta" lại "đến cội cây". Trong lúc "người đến chốn lao xao" thì với "ta" lại "nhìn xem phú quý tựa chiêm bao". Xưa nay, đã mấy ai có cách sống đẹp như thế: "Rượu đến cội cây ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao". Xưa kia, Nguyễn Trãi đã từng "Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén". Uống rượu và uống cả ánh trăng thanh. Thì giữa am Bạch Vân, Trạng Trình lại ung dung "Rượu đến cội cây, ta sẽ uống". Rượu ấy là rượu đế, rượu tăm, đâu phải là Mĩ tửu. Có dị bản ghi: "Rượu đến cội cây, ta sẽ nhấp"; chữ "nhấp" mới thể hiện đầy đủ cốt cách của kẻ sĩ yêu nhàn và sống nhàn. Có người cho rằng hai câu kết "tác giả có ý dẫn điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, rồi thấy mình ở nước Hòe An, được công danh phú quý rất mực vinh hiển. Sau bừng tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng...". Chúng tôi không nghĩ thế. Một là, Thuẩn Vu Phần chưa có chút danh vọng gì, giấc mộng của ông ta chỉ là "giấc Nam Kha" mà thôi! Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi bước lên tới đỉnh cao danh vọng mới lui về quê cũ dựng am Bạch Vân để vui thú trong cảnh nhàn: "Rượu đến cỗi cây, ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao". Hai là, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nhiều điển tích, còn trong thơ Nôm của ông rất ít điển tích, mà sử dụng nhiều tục ngữ, ca dao. Thuẩn Vu Phần là một người bất đắc chí, say sưa, mộng hão, còn Bạch Vân cư sĩ là một con người đã từng đứng trên đỉnh cao danh vọng, ung dung tự tại, cao khiết nên mới có tâm thế "nhìn xem phú quý tựa chiêm bao?". Con người ấy đã chan hòa với thiên nhiên, từng coi gió mát trăng thanh là "cố trí", là "tương thức": "Trăng thanh gió mát là tương thức, Nước biếc non xanh ấy cố tri". Với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sống nhàn là coi phú quý danh lợi, có sống nhàn mới tận hưởng được mọi vẻ đẹp của thiên nhiên. Một chén rượu,
- một chén trà đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là để sống đẹp hơn, an nhàn hơn, hạnh phúc hơn: "Hoa trúc tay tự giồng Gậy, dép bén mùa hoa Chén, cốc ánh sắc hồng Rửa nghiêng cá nuốt mực Pha trà, chinh lánh khỏi..." (Ngụ hứng ở quán Trung Tân) "Nhàn" là một bài thơ tuyệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ có ngôn ngữ bình dị, giọng điệu khoan thai, thể hiện một tâm thế thanh cao, coi thường danh lợi phú quý bon chen trong cuộc đời. Có sống trong sạch mới có tâm hồn thanh cao, mới có lối sống nhân tuyệt đẹp. Hình ảnh Tuyết Gia phu tử hiện lên thấp thoáng sau vần thơ đã làm cho ta kính phục và ngưỡng mộ kẻ sĩ quân tử thời loạn. Học bài "Nhàn" để chúng ta hiểu rõ hơn cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong thơ văn trung đại. Có điều ta nên biết, các bạn trẻ nên biết là Nguyễn Bỉnh Khiêm đi thi cả ba lần đều đỗ thủ khoa, đã đổ Trạng Nguyên. Cái tài học ấy, bảng vàng ấy không thể sống "Nhàn" mà có được!
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số bài văn mẫu: Cảm nhận về bài thơ Việt Bắc và nhà thơ Tố Hữu
34 p | 2838 | 1657
-
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử
4 p | 2777 | 254
-
Cảm nhận về bài thơ Chiều tối
11 p | 573 | 41
-
Tổng hợp 7 bài cảm nhận về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
18 p | 591 | 36
-
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
11 p | 533 | 35
-
4 bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
21 p | 259 | 28
-
Tổng hợp 4 bài cảm nhận về bài thơ đất nước - Nguyễn Khoa Điềm
16 p | 220 | 21
-
Cảm nhận về bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu
8 p | 309 | 20
-
Cảm nhận về bài thơ Từ ấy của Tố Hữu
11 p | 222 | 11
-
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
24 p | 266 | 11
-
Cảm nhận về bài thơ Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm
16 p | 176 | 10
-
Văn mẫu lớp 10: Bài cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
19 p | 64 | 8
-
Cảm nhận về bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
4 p | 213 | 7
-
Cảm nhận về bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu)
7 p | 52 | 6
-
Cảm nhận về "Bài thơ số 28" của tác giả Ra-bin-dra-nát Ta-go
3 p | 38 | 5
-
Cảm nhận về bài thơ Đàn ghita của Lorca
10 p | 128 | 2
-
Cảm nhận về bài thơ Bài ca Ngất Ngưởng của Nguyễn Công Trứ
11 p | 89 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn