Cần xem lại định nghĩa cổ

phần?

Hẳn có những nhà đầu tư vẫn còn không ít băn khoăn về khái

niệm rất quen thuộc này. Tham gia, quan tâm, tìm hiểu, biết về thị

trường chứng khoán, hầu hết nhà đầu tư đều nằm lòng khái niệm

“cổ phần”. Nhưng hẳn vẫn còn những định nghĩa chưa gãy gọn,

hoặc đại khái.

Quanh việc định nghĩa khái niệm này cũng có những chi tiết

không đơn giản, có trong những ý kiến đóng góp xây dựng dự

thảo nghị định về chào bán cổ phần riêng lẻ.

Theo kế hoạch dự kiến trước đây, nghị định này sẽ được ban

hành trong quý 1/2008, nhưng nay vẫn trong giai đoạn lấy ý kiến

của các thành viên thị trường, cũng như các tổ chức, cá nhân,

công chúng đầu tư.

Trong những ý kiến đóng góp đó, khái niệm cổ phần tưởng như

đã quá quen thuộc, lại trở thành một vấn đề gây nhiều thắc mắc.

Khoản 1 Điều 4 của dự thảo nghị định giải thích khái niệm cổ

phần như sau: “Cổ phần là một phần sở hữu của cổ đông đối với

vốn điều lệ của tổ chức phát hành, bao gồm cả quyền mua cổ

phần”. Giải thích này “vấp” phải những ý kiến phản biện đáng chú

ý.

Theo luật gia Cao Bá Khoát, Giám đốc Công ty Tư vấn K và cộng

sự, khái niệm cổ phần theo Khoản 1 Điều 4 của dự thảo là không

chính xác, nếu so sánh với định nghĩa về cổ phần quy định tại

Điểm a Khoản 1 Điều 77 Luật Doanh nghiệp (“Vốn điều lệ được

chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần”).

Từ định nghĩa của Luật Doanh nghiệp, luật gia Cao Bá Khoát cho

rằng cổ phần có các đặc điểm: là các phần nhỏ nhất bằng nhau

được chia ra từ vốn điều lệ, là căn cứ xác lập quyền sở hữu một

phần công ty sau khi cổ đông đã góp tài sản. Trong khi đó, giải

thích đưa ra trong dự thảo không thể hiện hết những đặc điểm đó

của cổ phần.

Ông phân tích, thứ nhất, quyền mua cổ phần không phải là cổ

phần vì nó không xác lập quyền sở hữu một phần công ty. Thứ

hai, định nghĩa đó chưa thể hiện được đặc điểm cổ phần là phần

nhỏ nhất bằng nhau được chia ra từ vốn điều lệ. Thứ ba, việc

định nghĩa cổ phần như trong dự thảo sẽ tạo ra cách hiểu vòng

quanh: cổ phần là một phần sở hữu của cổ đông; vậy cổ đông là

gì? Theo Luật Doanh nghiệp, cổ đông là người sở hữu ít nhất

một cổ phần của công ty.

Với những lập luận trên, luật gia Cao Bá Khoát khuyến nghị nên

bỏ khái niệm cổ phần trong dự thảo vì khái niệm này đã được quy

định rõ trong Luật Doanh nghiệp.

Trong văn bản tập hợp ý kiến xây dựng nội dung dự thảo của

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), một số ý

kiến khác cũng yêu cầu cần xét lại khái niệm “cổ phần” và giải

thích nói trên.

Một ý kiến lo ngại rằng định nghĩa như dự thảo còn có nguy cơ

tạo ra tranh chấp trong nội bộ công ty, bởi có người chỉ cần đăng

ký mua và xác lập quyền mua, sẽ đương nhiên “được công nhận”

là cổ đông, tức đồng sở hữu công ty. Từ đây, có thể phát sinh

nhiều hệ quả và tác động tiêu cực khó lường đến quyền và lợi ích

hợp pháp của công ty, cổ đông hiện có của công ty và các bên

liên quan.

Trong góp ý của mình, TS. Lê Thu Thủy, Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội, cũng cho rằng định nghĩa “Cổ phần là một phần

sở hữu của cổ đông đối với vốn điều lệ của tổ chức phát hành,

bao gồm cả quyền mua cổ phần” trong dự thảo là chưa chính

xác.

TS. Lê Thu Thủy lập luận: theo Khoản 5 Điều 6 Luật Chứng

khoán, “quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ

phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm

bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo

những điều kiện đã được xác định”. Vậy cổ phần không phải lúc

nào cũng bao gồm quyền mua cổ phần. Nó chỉ đúng khi công ty

cổ phần có đợt phát hành cổ phiếu bổ sung, còn công ty mới

thành lập thì chưa thể có quyền mua cổ phần được.

“Thêm vào đó, cổ phiếu và quyền mua cổ phần là hai loại hàng

hoá trên thị trường chứng khoán, có thể chuyển nhượng tách

biệt”, TS. Thủy phân tích thêm.

Nhìn lại, trong thời gian qua, khái niệm “cổ phần” đã đi vào thị

trường và “sống” khá ổn định với những giải thích liên quan. Tại

các bản cáo bạch, thuyết trình chào bán, công bố thông tin của

nhiều doanh nghiệp, khái niệm này được giải thích chung và khá

thống nhất là “Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng

nhau”.

Đó cũng là định nghĩa đã xác định tại Luật Doanh nghiệp và được

các doanh nghiệp thống nhất sử dụng.