Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017<br />
<br />
<br />
CẬP NHẬT VỀ CHỐNG NẮNG BÔI<br />
Lê Thái Vân Thanh*, Phạm Thị Kim Ngọc**<br />
ĐẠI CƯƠNG và tia hồng ngoại sinh ra hơn 50% lượng gốc oxy<br />
Hoạt chất chống nắng khá phổ biến trong các hóa tự do ở da khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.<br />
sản phẩm chăm sóc da. Với mục đích ban đầu Bên cạnh đó, ánh sáng khả kiến còn gây nên tình<br />
nhằm phòng ngừa bỏng nắng, chất chống nắng trạng tăng sắc tố kéo dài sau khi tiếp xúc ánh<br />
chủ yếu có tác dụng ngăn ngừa tác hại của tia sáng mặt trời ở những người týp da sậm màu, từ<br />
cực tím (UV). Tia UVB (bước sóng 280-320 nm) đó đóng vai trò chính trong việc hình thành tình<br />
chủ yếu gây đỏ da và tổn thương trực tiếp DNA trạng tăng sắc tố sau viêm hay nám má ở những<br />
thông qua pyrimidine dimer. Trong khi đó, tia người này.(6)<br />
UVA (bước sóng 320-400nm) liên quan chủ yếu CÁCCHẤTCHỐNGNẮNG<br />
với trình trạng sạm da và lão hóa da. Tia UVA<br />
cũng sinh ra các gốc oxy hóa gây tổn thương trực Hiện tại có 16 chất chống nắng được chấp<br />
tiếp lên DNA. Mặc dù các tế bào da có sẵn các thuận ở Hoa Kỳ, ít hơn so với 34 chất ở Úc và 28<br />
chất chống oxy hóa, các men sửa chữa DNA và chất ở châu Âu. Sự khác biệt này là do ở Hoa Kỳ,<br />
các con đường tín hiệu nhằm làm giảm các tổn chất chống nắng được xem là thuốc không kê<br />
thương, tuy nhiên việc tiếp xúc một lượng lớn tia toa, do đó quá trình chấp thuận đòi hỏi khắt khe<br />
cực tím sẽ dẫn tới sự mất ổn định của gien và và lâu dài hơn. Không có chất chống nắng nào<br />
hình thành các đột biến. Tiếp xúc với tia UVA được chấp thuận ở Hoa Kỳ trong 10 năm trở lại<br />
còn làm tăng số lượng các tế bào viêm ở lớp bì, đây. Chất chống nắng thường được chia thành 2<br />
đồng thời làm giảm hoạt động của các tế bào nhóm chính là chất chống nắng vô cơ và hữu cơ,<br />
trình diện kháng nguyên và đại bào Langerhans. hay trước đây gọi là chất chống nắng vật lý và<br />
Tình trạng ức chế miễn dịch này đóng vai trò hóa học.<br />
gián tiếp trong tính sinh ung của tia cực tím.(15) Chất chống nắng vô cơ<br />
Kem chống nắng ra đời từ năm 1928 và ngày Chất chống nắng vô cơ có tác dụng phản<br />
nay đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ da đối chiếu và phân tán tia cực tím, tia khả kiến và tia<br />
với ánh sáng mặt trời và phòng ngừa ung thư hồng ngoại trên một phổ rộng. Chất chống nắng<br />
da. Ngành sản xuất kem chống nắng ban đầu chỉ vô cơ chính được sử dụng hiện nay là kẽm oxit<br />
tập trung vào khả năng phòng chống tia UVB (ZnO) và titanium dioxit (TiO₂), tương đối bền<br />
với việc liên tục tìm kiếm các chất chống tia UVB vững với ánh sáng mặt trời và cần bôi một lớp<br />
và tối ưu chỉ số SPF. Tuy nhiên, từ năm 2007, dày mới đủ hiệu quả. Kẽm oxit cho hiệu quả bảo<br />
Cục quản lý dược và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) vệ với tia UVA cao hơn, trong khi titanium dioxit<br />
nhấn mạnh vai trò của việc phòng chống tia ưu thế hơn trong việc bảo vệ với tia UVB và tạo<br />
UVA. Ở ngang mực nước biển, tia UVA chiếm vệt trắng trên da nhiều hơn do chỉ số khúc xạ cao<br />
khoảng 95% lượng tia UV chiếu đến mặt đất, hơn. Sắt oxit, một chất chống nắng vật lý khác, có<br />
trong khi tia UVB chỉ chiếm 5%. Do đó, việc màu sắc gần giống với màu da, thường được<br />
phòng ngừa tia UVA đóng vai trò quan trọng và thêm vào để che phủ vệt trắng do kẽm oxit và<br />
là mục tiêu trong việc nâng cao hiệu quả của titanium oxit tạo nên. Vì kém thẩm mỹ, chất<br />
kem chống nắng.(14) chống nắng vô cơ ít được sử dụng cho đến khi ra<br />
Các nghiên cứu gần đây cho thấy tác hại của đời vi hạt nano. Các hạt có kích thước siêu nhỏ<br />
ánh sáng khả kiến và tia hồng ngoại lên da. Các này (10-50 nm) cải thiện tính thẩm mỹ khá nhiều<br />
nghiên cứu in vitro ghi nhận ánh sáng khả kiến so với các phân tử trước đó với kích thước 200-<br />
500nm. Chúng cũng có khả năng hấp thụ tia cực<br />
<br />
<br />
10<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan<br />
<br />
tím, song đỉnh hấp thụ ngắn hơn, ít bảo vệ với dưới ánh sáng mặt trời. FDA hiện chấp thuận 3<br />
tia UVA hơn. Những vi hạt này cũng có xu chất chống nắng thuộc nhóm này là oxybenzone,<br />
hướng kết cụm, do đó làm giảm hiệu quả chống sulisobenzone, và dioxybenzone. Oxybenzone<br />
nắng. Để tránh tình trạng này, các vi hạt này được sử dụng nhiều nhất nhưng kèm với tần<br />
được bọc trong một lớp dimethicone hoặc silica, suất viêm da tiếp xúc ánh sáng cao nhất.<br />
nhờ đó cũng làm giảm sự hình thành các gốc oxy Avobenzone là chất hấp thụ tia UVA mạnh.<br />
hóa tự do và tăng tính bền vững với ánh sáng Đây là chất chống nắng duy nhất được FDA<br />
mặt trời. Nhờ tính ổn định với ánh sáng mặt trời, chấp thuận có khả năng hấp thụ tia UVA bước<br />
các chất chống nắng vô cơ được sử dụng nhiều sóng dài (UVA1). Tuy nhiên, avobenzone lại rất<br />
trong các sản phẩm dành cho trẻ em và người da kém bền vững với ánh sáng, sau 1 giờ tiếp xúc<br />
nhạy cảm. Chất chống nắng vô cơ cũng bảo vệ với ánh sáng mặt trời, hiệu quả bảo vệ giảm 50-<br />
với tia khả kiến ở những người có các bệnh lý da 60%. Hiện tại, octocrylene và tinosorb S được<br />
nhạy cảm ánh sáng.(4) nghiên cứu để làm tăng tính ổn định khi kết hợp<br />
Chất chống nắng hóa học với avobenzone.<br />
Chất chống nắng hóa học chủ yếu hấp thụ tia ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ BẢO VỆ ĐỐI VỚI TIA<br />
cực tím và chuyển chúng thành nhiệt. Có 5 CỰCTÍM<br />
nhóm chất chống nắng hóa học chính: các dẫn<br />
xuất paraaminobenzoic acid (PABA),<br />
Đối với tia UVB<br />
benzophenone, salicylate, cinnamate và các chất SPF (sun protection factor) được sử dụng<br />
khác. rộng rãi để đánh giá mức độ bảo vệ của kem<br />
chống nắng với tia UVB. Một sản phẩm với<br />
PABA có hoạt tính chống tia UVB cao nhất,<br />
SPF15 có thể chống được 94% lượng tia UVB,<br />
liên kết chặt với các tế bào sừng, do đó khá bền<br />
trong khi SPF30 có thể chống được 97%. SPF<br />
vững với nước. Có khá nhiều báo cáo về viêm da<br />
được tính bằng tỉ lệ giữa liều gây đỏ da tối thiểu<br />
tiếp xúc dị ứng với PABA(3), vì thế nó được thay<br />
(MED) của tia UV ở vùng da được bảo vệ so với<br />
thế bởi các dẫn xuất khác như padimate O, ít<br />
ở vùng da không được bảo vệ. Tuy nhiên, điều<br />
hiệu quả hơn song dữ liệu an toàn cao hơn. Vì<br />
này không hoàn toàn chính xác, vì tiêu chuẩn<br />
hiệu quả thấp, nên padimate O thường được kết<br />
FDA cho việc xác định SPF yêu cầu lượng chống<br />
hợp với các chất chống nắng khác để tăng hiệu<br />
nắng 2mg/cm² da. Thực tế, lượng chất chống<br />
quả chống UVB.<br />
nắng được thoa trong dân số khoảng 0,5-<br />
Nhóm cinnamate, bao gồm octinoxate và<br />
1mg/cm², do đó hiệu quả bảo vệ thực sự sẽ thấp<br />
cinoxate, là chất chống tia UVB được sử dụng<br />
hơn.<br />
phổ biến nhất ở Hoa Kỳ vì chúng không gây<br />
nhuộm da và ít kích ứng. Tuy nhiên, chúng khá Đối với tia UVA<br />
kém bền vững với nước và ánh sáng mặt trời, do Có nhiều phương pháp in vivo và in vitro<br />
đó hiệu quả cũng bị giảm theo. được sử dụng để đánh giá hiệu quả bảo vệ đối<br />
Nhóm salicylate, bao gồm octisalate, với tia UVA: UVA-PF, PPD, SPF/UVA-PF, bước<br />
homosalate và trolamin salicylate, là những chất sóng tới hạn. Hiện nay ở Hoa Kỳ, sản phẩm<br />
chống tia UVB yếu nhất. Tuy nhiên, do độ an chống nắng được gọi là phổ rộng khi bước sóng<br />
toàn khá cao nên chúng thường được cho thêm tới hạn ≥370nm.(2)<br />
vào sản phẩm với nồng độ cao để tăng hiệu quả VỀ TÁDƯỢCVÀCHẾ PHẨMSỬDỤNG<br />
bảo vệ với tia UVB. Tá dược trong kem chống nắng đóng vai trò<br />
Nhóm bezophenone có tác dụng bảo vệ đối quan trọng, góp phần quyết định hiệu quả của<br />
với cả tia UVA và UVB, song dễ bị phân hủy sản phẩm. Để duy trì hiệu quả bảo vệ cũng như<br />
<br />
<br />
11<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017<br />
<br />
tính ổn định với ánh sáng mặt trời, các tá dược dù tỉ lệ này có thể thấp hơn thật sự(3). PABA và<br />
phải làm giảm được các tương tác giữa các chất oxybenzone là những tác nhân gây viêm da tiếp<br />
có hoạt tính và các chất trơ trong sản phẩm. Các xúc dị ứng ánh sáng thường gặp nhất, trong khi<br />
tá dược cũng quyết định tính bền vững với nước đó avobenzone, sulisobenzone, octinoxate, và<br />
của sản phẩm. FDA quy định kem chống nắng padimate O có ít báo cáo phản ứng hơn. Bệnh<br />
mà tính chất bảo vệ với ánh nắng nguyên vẹn nhân với tiền căn bệnh da do ánh sáng và chàm<br />
sau 2 đợt tiếp xúc với nước 20 phút được gọi là có khuynh hướng bị dị ứng ánh sáng nên được<br />
‘kháng nước”, và nguyên vẹn sau 4 đợt thì gọi là tư vấn cẩn thận. Trong khi đó, salicylates,<br />
“rất kháng nước”. Tuy nhiên, các sản phẩm này ecamsule và các chất vô cơ không thể xâm nhập<br />
sẽ giảm SPF sau các lần tiếp xúc nước tiếp theo. vào lớp sừng, do đó phản ứng nhạy cảm ánh<br />
Các chế phẩm chống nắng bao gồm sáng ít khi xảy ra.<br />
kem/lotion, gel, thỏi, xịt và trong các mỹ phẩm. Một số báo cáo đã được thực hiện về vấn đề<br />
Kem và lotion là các nhũ tương nước trong dầu xâm nhập và ảnh hưởng toàn thân của các chất<br />
hoặc dầu trong nước, có độ phân tán cao, do đó vô cơ vi hạt. Nghiên cứu của chính phủ Úc kết<br />
được sử dụng phổ biến. Gel dễ bị trôi khi bơi luận rằng phân tử nano kẽm oxit và titanium<br />
hoặc đổ mồ hôi, nhưng khá thích hợp với týp da dioxit vẫn lưu lại trên bề mặt da mà không thấm<br />
dầu, xu hướng mụn. Dạng thỏi đươc sử dụng ở nhập vào lớp sừng. Tuy nhiên, các nghiên cứu<br />
vùng có diện tích nhỏ như mũi, môi. Dạng xịt sử khác chứng minh rằng phân tử nano titanium<br />
dụng khá tiện lợi, song lượng dùng thường dioxit có thể đi qua màng tế bào và làm suy yếu<br />
không đủ. Các chất chống nắng cũng có trong các nguyên bào sợi ở lớp bì(8). Bằng cách phủ<br />
dầu gội, màu nhuộm tóc nhằm giảm thay đổi polymer những hạt này giúp ngăn hiện tượng<br />
màu sắc do ánh nắng cũng như những tổn kết dính với màng tế bào, do đó bảo tồn được<br />
thương protein của tóc(11). chức năng của tế bào. Kẽm oxit và titanium<br />
Các tá dược cũng góp phần quan trọng trong dioxit vi hạt có thể khởi phát tình trạng chết theo<br />
việc chấp nhận và sự tuân thủ của người sử chu trình của tế bào gốc thần kinh, mặc dù tác<br />
dụng. Sự tạo vệt trắng mờ của chất chống nắng dụng này phụ thuộc vào liều dùng hơn là kích<br />
vô cơ, cũng như tính nhờn rít của kem chống cỡ của hạt.<br />
nắng hữu cơ dẫn đến việc thoa không đủ lượng Một số chất chống nắng hữu cơ, như là<br />
chất chống nắng, từ đó hiệu quả bảo vệ giảm oxybenzone và octinoxate, đã được phát hiện<br />
theo. Nguyên nhân chính dẫn đến sự kém hiệu trong huyết tương và nước tiểu sau 4 ngày thoa<br />
quả của chống nắng chính là việc thoa không đủ kem chống nắng toàn thân(5). Nồng độ được sử<br />
lượng và không thoa lặp lại(13). Việc sản xuất các dụng trong nghiên cứu này là 10% - mức tối đa<br />
kem chống nắng chỉ thoa 1 lần trong cả ngày với cho phép của châu Âu, trong khi nồng độ tối đa<br />
các tiến bộ trong công nghệ, tuy nhiên các khảo được chấp thuận ở Hoa Kỳ đối với oxybenzone<br />
sát cho thấy việc sử dụng các loại kem chống và octinoxate lần lượt là 6% và 7,5%. Bất chấp<br />
nắng này sẽ dẫn tới tình trạng không đủ lượng quan ngại này, lợi ích của việc sử dụng kem<br />
chất chống nắng cần thiết(7). chống nắng thích hợp có thể lớn hơn nguy cơ<br />
TRANHCÃIVỀ CHỐNGNẮNG ngộ độc. Để xác định chính xác nguy cơ hấp thu<br />
toàn thân các thành phần kem chống nắng,<br />
Mặc dù không thường gặp và mang tính chủ nghiên cứu thành phần của các công thức chống<br />
quan, cảm giác châm chích và nóng rát là những nắng thương mại sẽ hữu ích, đặc biệt cho trẻ em<br />
than phiền phổ biến nhất liên quan đến kem và phụ nữ có thai.<br />
chống nắng. Viêm da tiếp xúc dị ứng hiếm khi<br />
Mối quan tâm về tác động sinh estrogen của<br />
gây ra bởi các thành phần của kem chống nắng,<br />
oxybenzone xuất hiện do kết quả của một<br />
<br />
<br />
12<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan<br />
<br />
nghiên cứu trên động vật sử dụng oxybenzone AAD khuyến cáo sử dụng kem chống nắng<br />
đường uống. Tuy nhiên, con người sẽ cần phải phổ rộng, kháng nước với SPF 30 trở lên thường<br />
sử dụng oxybenzone hàng ngày trong 35-277 xuyên để ngăn ngừa ung thư da. Một lượng kem<br />
năm để đạt được mức oxybenzone tương ứng chống nắng bằng với lòng bàn tay là đủ cho cả<br />
như ở những vật thí nghiệm này. Ngoài ra, cơ thể. Lưu ý thoa kem chống nắng 20 phút<br />
oxybenzone đã được sử dụng ở Hoa Kỳ từ năm trước khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời để thoa<br />
1978 mà không có bất kỳ tác dụng nội tiết tố được đều và đủ. Kem chống nắng có tác dụng<br />
được báo cáo ở người.(12) ngay khi thoa lên da. Để duy trì hiệu quả, kem<br />
Ít nhất 90% nhu cầu vitamin D của con người chống nắng phải được thoa lặp lại, đặc biệt là khi<br />
được tổng hợp nhờ sự tiếp xúc với tia UVB. Do đổ mồ hôi hoặc bơi lội. Tuy nhiên kem chống<br />
đó, ảnh hưởng của kem chống nắng lên con nắng chỉ là một phần trong bảo vệ da khỏi ánh<br />
đường tổng hợp vitamin D3 (cholecalciferol) qua nắng mặt trời, thói quen tránh nắng là cách tốt<br />
da gây nhiều tranh cãi. Sử dụng kem chống nắng nhất để ngăn ngừa tổn thương da do tia UV, ví<br />
với SPF15 có thể làm giảm tổng hợp vitamin D dụ như tránh ánh sáng mặt trời từ 10 giờ sáng<br />
lên đến 98%, dẫn đến tình trạng thiếu hụt đến 4 giờ chiều. Kính mát, mũ rộng vành và<br />
vitamin D, tuy nhiên những nghiên cứu khác chỉ quần áo chống nắng là cũng những cách hữu<br />
ra rằng sử dụng kem chống nắng đều đặn ít có hiệu để che chắn da khỏi tác động của tia UV(10).<br />
ảnh hưởng đến nồng độ vitamin D(9). Sự không XUHƯỚNGTƯƠNGLAI<br />
nhất quán này có thể do một phần đáng kể<br />
Một phương pháp để tăng cường hiệu quả<br />
vitamin D được hấp thu qua chế độ ăn và hầu<br />
kem chống nắng là phát triển các chất lọc tia UV<br />
hết mọi người sử dụng kem chống nắng không<br />
phù hợp và an toàn cho người sử dụng. Tính an<br />
đủ liều lượng, thậm chí khi áp dụng một cách<br />
toàn và hiệu quả của 8 tác nhân mới đang được<br />
thích hợp thì một số tia cực tím vẫn xuyên vào<br />
FDA kiểm duyệt. Hầu hết các chất này đã có mặt<br />
da. Tuy rằng Viện Da liễu Hoa Kỳ (AAD) từng<br />
trên thị trường châu Âu, Canada, và Úc nhiều<br />
khẳng định rằng sự thiếu hụt vitamin D ở người<br />
năm nay. Octyl triazone (ethylhexyl triazone,<br />
khoẻ mạnh không liên quan đến sử dụng kem<br />
Uvinul T150), enzacamene (methyl benzylidene<br />
chống nắng, nhưng gần đây họ cho rằng sử<br />
camphor) và amiloxate (isoamyl p-<br />
dụng kem chống nắng thường xuyên có thể làm<br />
methoxycinnamate) là ba chất lọc tia UVB tiềm<br />
tăng nguy cơ thiếu hụt vitamin D. Bổ sung<br />
năng đã được FDA chấp thuận.(7)<br />
vitamin D thông qua chế độ ăn uống hoặc thực<br />
phẩm chức năng có thể cần thiết. Các chất chống oxy hoá tại chỗ đang được<br />
nghiên cứu để tăng cường hiệu quả của kem<br />
SỬDỤNGKEMCHỐNGNẮNG chống nắng. Các chất này, gồm flavonoid,<br />
Các nghiên cứu về mối liên quan giữa việc resveratrol và chiết xuất trà xanh, có thể làm<br />
sử dụng kem chống nắng và thời gian tiếp xúc giảm các tổn thương da do tia UV, mặc dù chúng<br />
ánh nắng cho thấy, việc sử dụng kem chống không ổn định và khuếch tán kém vào lớp<br />
nắng làm tăng thời gian phơi nắng có chủ ý từ thượng bì. Ánh sáng khả kiến được cho là tạo ra<br />
13% đến 39%. Cụ thể, sử dụng kem chống nắng các gốc oxy hóa tự do. Do đó, các chất chống oxy<br />
với SPF cao hơn sẽ kéo dài thời gian phơi nắng hoá tại chỗ hoặc toàn thân cũng hứa hẹn trong<br />
nhiều hơn. Tác động bảo vệ dự kiến của kem việc giảm tác động của ánh sáng khả kiến lên da.<br />
chống nắng có thể làm người dùng chủ quan với Kem chống nắng có chứa chất chống oxy hoá<br />
việc phơi nắng, và việc kéo dài thời gian phơi cũng đã được chứng minh ức chế sự sản xuất<br />
nắng sẽ làm tăng nguy cơ ung thư da. metalloproteinase bởi tia hồng ngoại. Tuy nhiên,<br />
cần nhiều nghiên cứu hơn trong lĩnh vực này(1)<br />
<br />
<br />
<br />
13<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017<br />
<br />
Các công nghệ sản xuất kem chống nắng 4. Grether-Beck S, Marini A, Jaenicke T, et al (2015), "Effective<br />
photoprotection of human skin against infrared A radiation by<br />
hiện đại có thể làm tăng độ SPF mà không cần topically applied antioxidants: results from a vehicle<br />
thêm vào tác nhân mới. Điều này dẫn đến sự leo controlled, double-blind, randomized study", Photochem<br />
Photobiol, 91(1), pp. 248-50.<br />
thang SPF trong thị trường chống nắng dù hiệu<br />
5. Janjua NR, Kongshoj B, Andersson AM, et al (2008),<br />
quả chống nắng tăng lên rất hạn chế. Các tiến bộ "Sunscreens in human plasma and urine after repeated whole-<br />
phải kể đến là công nghệ Sol-Gel đưa các chất lọc body topical application", J Eur Acad Dermatol Venereol, 22 (4),<br />
pp. 456-61.<br />
tia UV vào các vi hạt silica 1μm. Bằng kỹ thuật 6. Mahmoud BH, Ruvolo E, Hexsel C L, et al (2010), "Impact of<br />
này, các thành phần hoạt tính không trực tiếp long-wavelength UVA and visible light on melanocompetent<br />
tiếp xúc với da giúp giảm tỷ lệ viêm da tiếp xúc skin", J Invest Dermatol, 130 (8), pp. 2092-7.<br />
7. Mancuso JB, Maruthi R, Wang SQ, et al (2017), "Sunscreens:<br />
dị ứng và sự hấp thụ kem chống nắng toàn thân. An Update", Am J Clin Dermatol.<br />
8. Newman MD, Stotland M, Ellis JI (2009), "The safety of<br />
KẾT LUẬN nanosized particles in titanium dioxide- and zinc oxide-based<br />
Tóm lại, hiệu quả của kem chống nắng trong sunscreens", J Am Acad Dermatol, 61(4), pp. 685-92.<br />
9. Norval M, Wulf HC (2009), "Does chronic sunscreen use<br />
việc giảm ung thư da và lão hóa da do ánh sáng reduce vitamin D production to insufficient levels?", Br J<br />
đã được chứng minh rõ ràng. Lợi ích sử dụng Dermatol, 161(4), pp. 732-6.<br />
10. Palm MD, O'Donoghue MN (2007), "Update on<br />
kem chống nắng lâu dài vượt trội nguy cơ tiềm<br />
photoprotection", Dermatol Ther, 20 (5), pp. 360-76.<br />
ẩn của các tác nhân này. Tuy nhiên, rào cản 11. Santos Nogueira AC, Joekes I (2004), "Hair color changes and<br />
chính để đạt được những lợi ích này là sự tuân protein damage caused by ultraviolet radiation", J Photochem<br />
Photobiol B, 74 (2-3), pp. 109-17.<br />
thủ của người sử dụng. Để đạt được hiệu quả tối 12. Schlumpf M, Schmid P, Durrer S, et al (2004), "Endocrine<br />
đa cần các biện pháp giáo dục và khuyến khích activity and developmental toxicity of cosmetic UV filters--an<br />
sử dụng kem chống nắng. Hơn nữa, các công update", Toxicology, 205 (1-2), pp. 113-22.<br />
13. Wright MW, Wright ST, Wagner RF (2001), "Mechanisms of<br />
nghệ mới cải thiện tính thẩm mỹ của kem chống sunscreen failure", J Am Acad Dermatol, 44(5), pp. 781-4.<br />
nắng giúp tăng sự tuân thủ, do đó làm giảm tỷ lệ 14. Kullavanijaya P, Lim HW (Photoprotection", Journal of the<br />
American Academy of Dermatology, 52(6), pp. 937-958.<br />
ung thư da và mức độ lão hóa da do ánh sáng.<br />
15. Sambandan DR, Ratner D (2011), "Sunscreens: An overview<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO and update", Journal of the American Academy of Dermatology,<br />
64 (4), pp.748-758.<br />
1. Dupuy A, Dunant A, Grob JJ (2005), "Randomized controlled<br />
trial testing the impact of high-protection sunscreens on sun-<br />
exposure behavior", Arch Dermatol, 141(8), pp. 950-6.<br />
2. Fourtanier A, Moyal D, Seite S (2012), "UVA filters in sun-<br />
Ngày nhận bài báo: 14/11/2017<br />
protection products: regulatory and biological aspects", Ngày bài báo được đăng:<br />
Photochem Photobiol Sci, 11(1), pp. 81-9.<br />
3. Goossens A (2004), "Photoallergic contact dermatitis",<br />
Photodermatol Photoimmunol Photomed, 20(3), pp. 121-5.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
14<br />