BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG…………………
Luận văn
Chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng: Thực trạng và giải pháp (điển cứu tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định)
1
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam liên tục phải đối mặt
với chiến tranh. Mỗi cuộc chiến qua đi để lại những hậu quả nặng nề mà nhân dân ta
phải gánh chịu và khắc phục. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở thế kỉ
XX, những tổn thất của nhân dân ta về người và của, về cơ hội để phát triển đất nước
là vô cùng to lớn. Nó không chỉ ảnh hưởng đến những con người của thời chiến,
những người đã trực tiếp tham gia và cả những người đã đóng góp công sức vào cuộc
kháng chiến “thần thánh” đó, mà những di chứng của nó vẫn gieo rắc lên các thế hệ
tương lai. Khó khăn lại càng chồng chất khó khăn. Điều đó đã tạo ra không ít thách
thức cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cho việc nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân.
Những người đang sống trong thời bình như chúng ta hiện nay, không thể không
thể hiện lòng biết ơn đối với thế hệ cha anh, nhất là những người lính đã trực tiếp ra
chiến trường và những người giúp đỡ cách mạng mà hiện tại đang phải gánh chịu
những nỗi đau cả về thể xác lẫn tâm hồn do chiến tranh để lại. “Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây” là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và để phát huy truyền thống ấy, mỗi
người trong chúng ta có một lúc nào đó trong cuộc sống đã tự hỏi: Chúng ta phải làm
gì để bù đắp và thể hiện lòng biết ơn đối với những người có công cách mạng – những
người mà sức khỏe và điều kiện sống của họ chắc chắn còn gặp nhiều khó khăn?
Chăm sóc sức khỏe và nâng cao đời sống cho người có công là một trong những
chính sách được Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng. Những chính sách cho người có
công cách mạng như: chính sách bảo hiểm y tế, chính sách chăm sóc sức khỏe, chính
sách ưu đãi về kinh tế, chính sách trợ cấp... đã được ban hành và thực hiện. Hơn nữa,
được sự chung tay góp sức của toàn cộng đồng, những chính sách này trong nhiều năm
qua đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, công tác “Đền ơn đáp
nghĩa”, chăm sóc sức khỏe và nâng cao đời sống cho người có công cách mạng vẫn
còn gặp rất nhiều khó khăn. Chúng ta vẫn thiếu các nguồn lực để có thể thực hiện một
cách tốt nhất công việc này. Việt Nam là một nước nghèo. Thêm vào đó, những năm
qua do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, của thiên tai hạn hán, lũ lụt
2
thường xuyên nên điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước càng gặp nhiều
khó khăn. Vì thế, công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, đặc biệt là vấn đề chăm sóc sức khỏe
cho người có công cách mạng vẫn chưa có điều kiện quan tâm, đầu tư đúng mức.
Như chúng ta đã biết, sức khỏe và chăm sóc sức khỏe có vai trò vô cùng quan
trọng đối với mỗi người. Đối với những người có công CM, nhất là những thương,
bệnh binh vấn đề này càng cấp thiết và cần quan tâm nhiều hơn hết. Tại Hội thảo Công
tác điều dưỡng, chăm sóc sức khoẻ người có công, được Cục người có công (Bộ Lao
động-TBXH) tổ chức ngày 15/4/2010, tại thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá đã khẳng
định “Công tác điều dưỡng và chăm sóc sức khỏe, được xem như là một yêu cầu bức
thiết vì rất nhiều đối tượng người có công đã bày tỏ nguyện vọng và mong muốn được
đi thăm quan, nghỉ ngơi điều dưỡng sức khoẻ dù chỉ là một lần”.
Trên thực tế, nhu cầu được điều dưỡng và chăm sóc sức khỏe của người có công
CM tại các cơ sở chăm sóc người có công là rất cao nhưng số lượng được đi điều
dưỡng hàng năm rất ít, còn lại đa số điều dưỡng tại nhà. Tình trạng này cũng là phổ
biến tại Huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Đây là một huyện thuộc căn cứ cách mạng cũ
nên số người có công cách mạng khá đông (2459 người trong đó thương, bệnh binh là
1567 người, chiếm phần đông là 3 xã Ân nghĩa:79 người, Ân Tường Tây: 75 người,
Ân Tường Đông là: 75 người) [12]. Trong những năm vừa qua, mỗi năm chỉ có
khoảng 60 người được đưa đi điều dưỡng tại Trung tâm chăm sóc người có công CM
tại thành phố Quy Nhơn. Để giải quyết vấn đề bất cập này, Sở LĐTB và XH tỉnh Bình
Định đã ra công văn số 225/LĐTBXH – NCC ngày 14/02/2011, nêu rõ “Đối với các
đối tượng thuộc diện điều dưỡng luân phiên 5 năm 1 lần đề nghị Ủy ban nhân dân các
xã, thị trấn phải căn cứ danh sách các năm trước để rà soát, đối chiếu, tránh trùng
lặp, nếu địa phương nào lập danh sách đối tượng chưa đủ 5 năm thì phải chịu trách
nhiệm bồi thường theo quy định”. Mặc dù vậy, công văn này cũng có mặt chưa thỏa
đáng và gây lúng túng cho nhiều địa phương trong quá trình thực hiện bởi ở một số địa
phương đối tượng đủ 5 năm thì thiếu chỉ tiêu, trong khi đó nhiều đối tượng chưa đủ 5
năm lại có nguyện vọng được đi điều dưỡng tiếp.
Những nhu cầu, nguyện vọng của người có công cách mạng về chăm sóc sức
khỏe nếu không được giải quyết tốt, trước hết sẽ trực tiếp tác động xấu đến sức khỏe
3
và cuộc sống của những người có công cách mạng, sau đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến
chất lượng cuộc sống của gia đình họ cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế –
xã hội của Huyện và của đất nước nói chung.
Xuất phát từ mong muốn làm được một việc có ích và từ thực tế bất cập giữa nhu
cầu cần chăm sóc sức khỏe của người có công cách mạng và những khó khăn, tồn tại
trong quá trình thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng, nhất
là tại một huyện miền núi còn vô vàn khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội và
chăm lo đời sống của người dân như Hoài Ân, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chăm sóc
sức khỏe người có công cách mạng: Thực trạng và giải pháp (điển cứu tại huyện
Hoài Ân, tỉnh Bình Định)” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta luôn phải đối mặt với những rủi ro, một
trong những rủi ro thường gặp là ốm đau, bệnh tật vì vậy mà vấn đề chăm sóc sức
khỏe gần như là mối quan tâm rất lớn của tất cả mọi người.
Trong những năm qua nước ta cũng nhận thức một cách đúng đắn đầy đủ về tầm
quan trọng của sức khỏe đối với mỗi cá nhân. Đảng và nhà nước đã rất chú ý quan tâm
đến vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người dân, gần đây Đảng, Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách chăm sóc sức khỏe cho toàn dân. Chẳng hạn, văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc có nêu rõ “thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, đổi
mới cơ chế và chính sách viện phí, trong đó có chính sách trợ cấp và bảo hiểm cho
NCCCM tiến tới bảo hiểm y tế cho người dân”. Hay một loạt các văn kiện khác về vấn
đề này cũng được ban hành như chỉ thị số 16 của Ban bí thư trung ương về củng cố và
hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở.
Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề chăm sóc sức khỏe cho
người dân, trong đó có thể kể đến một số đề tài : “Khảo sát về hệ thống chăm sóc sức
khỏe và kế hoạch hóa gia đình ở nông thôn miền núi, miền Trung” (năm 1992); “Thực
trạng hút thuốc lá tại Việt Nam” (Đại học Califonia tài trợ (năm 1999)), “Đánh giá 10
năm thi hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam” (Uỷ ban bảo vệ,
chăm sóc trẻ em quản lý và tài trợ thực hiện năm 2001) . . . Trong đó đáng chú ý hơn
cả là đề tài “đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe cho người cao ở tuổi Việt Nam”
của nhóm tác giả: Đàm Viết Cương, Trần Thị Mai Oanh, Dương Huy Lương, Khương
4
Anh Tuấn, Nguyễn Thị Thắng và cộng sự. Đề tài này làm phong phú thêm nguồn tài
liệu cho đề tài “Chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng: thực trạng và giải
pháp (điển cứu tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định)”. Đề tài “Đánh giá tình hình
chăm sóc sức khỏe cho người cao ở tuổi Việt Nam” chỉ mới đi sâu vào việc nghiên cứu
thực trạng về bệnh tật, tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế của người cao tuổi; việc
chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi của gia đình; việc triển khai thực hiện các
chính sách chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi để cung cấp bằng chứng khoa học
cho việc xây dựng chính sách và chiến lược nhằm “ nâng cao chất lượng cuộc sống
người cao tuổi”. Nhưng đề tài này chưa đưa ra được những giải pháp để nâng cao
công tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi cũng như những giải pháp cho việc
xây dựng chính sách và chiến lược nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống người cao
tuổi như mục tiêu mà đề tài đã đưa ra.
Cho đến nay hầu như có rất ít đề tài nghiên cứu về NCCCM, mà đa số thực trạng
về cuộc sống của họ được thể hiện một phần qua các trang báo: dân trí, báo công an
nhân dân, báo quân đội nhân dân . . . trong đó bài viết “Người bệnh binh già trong căn
nhà xiêu vẹo” trên báo dân trí (thứ tư ngày 12/1/1011). Bài báo này viết về cuộc sống
gia đình người bệnh binh Nguyễn Anh Thập (xã Song Lộc – Can Lộc – Hà Tỉnh) vô
cùng khó khăn: bản thân ông bị bệnh tật hành hạ, vợ con gặp nạn, ốm đau liên miên,
nuôi con cái học hành, gia đình ông lại cưu mang hai cụ già không có con. Họ phải
sống trong một căn nhà xiêu vẹo đe đọa đến tính mạng bất cứ lúc nào. Qua đó phản
ánh thực trạng vẫn còn một số NCCCM chưa được quan tâm, chăm sóc đúng mức,
cuộc sống của họ còn chứa đựng vô vàng khó khăn, thách thức và ẩn hiện những nguy
cơ. Trong quá trình thực tập tác giả cũng đã thực hiện chuyên đề tốt nghiệp “thực
trạng thực hiện công tác điều dưỡng cho người có công cách mạng của phòng LĐ –
TB & XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định” . Đề tài này cũng đã phần nào phản ánh
được thực trạng về bệnh tật, thực hiện chế độ điều dưỡng cho NCCCM và đưa ra một
số giải pháp nhằm thực hiện công tác này tốt hơn, tuy nhiên gặp phải một số hạn chế
về thời gian nên đề tài mới phản ánh được một mặt của vấn đề chăm sóc sức khỏe và
chưa phản ánh được đầy đủ thực trạng chăm sóc sức khỏe cho NCCCM. Cho nên
những giải pháp đưa ra chưa mang tính tổng thể, toàn diện để giải quyết triệt và bền
5
vững vấn đề sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho NCCCM.
Trên cơ sở kế thừa thành quả của các nghiên cứu có trước, tác giả thực hiện đề
tài “Chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng: thực trạng và giải pháp (điển
cứu tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định)” với mong muốn làm rõ thực trạng về chăm
sóc sức khỏe cho NCCCM, cũng như góp phần đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe NCCCM.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nhằm mục tiêu tìm hiểu cơ sở lý luận về vấn đề chăm sóc sức khỏe cho
NCCCM, thực trạng vấn đề chăm sóc sức khỏe NCCCM ở huyện Hoài Ân đang diễn
ra như thế nào, đã đạt được những kết quả nào, còn những mặt tồn tại, yếu kém nào?
Những thuận lợi và những khó khăn mà công tác này gặp phải là gì? Trên cơ sở đó, đề
tài sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe
của người có công cách mạng đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, đề tài tập trung giải quyết
những nghiệm vụ sau:
Nghiên cứu lý luận về người có công cách mạng (chủ yếu tập trung vào đối
tượng thương binh và bệnh binh); sức khỏe và chăm sóc sức khỏe; chăm sóc sức khỏe
người có công cách mạng.
Tìm hiểu thực trạng chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng ở huyện Hoài
Ân, tỉnh Bình Định. Chủ yếu là những người đã tham gia cách mạng từ năm 1945 –
1975 họ thuộc nhóm người cao tuổi, độ tuổi đang gặp nhiều vấn đề về sức: Đây là lứa
tuổi có sự lão hóa và xuất hiện nhiều bệnh tật nhất trong các gia đoạn phát triển của
cuộc đời con người cộng thêm những vết thương, bệnh tật do chiến tranh gây ra, cho
nên họ rất cần đến sự can thiệp của hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Trên cơ sở tìm hiểu rỏ thực trạng chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng,
tác giả đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đối với công
tác chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng tại địa phương.
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu và đối tượng khảo sát
Đối tượng nghiên cứu
6
Như tên đề tài đã chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Thực trạng và giải
pháp chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
Đối tượng khảo sát
Đề tài tiến hành khảo sát 130 thương, bệnh binh.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng huyện Hoài Ân – tỉnh
Bình Định.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Người có công cách mạng bao gồm rất nhiều đối tượng, trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài, tác giả tập trung vào hai nhóm đối tượng chiếm số lượng rất đông tại
huyện là thương binh và bệnh binh và chỉ khảo sát nhóm đối tượng tham gia cách
mạng trong giai đoạn 1945 – 1975. Đồng thời, đề tài chỉ khảo sát tại 3 xã có số lượng
thương, bệnh binh đông nhất trong Huyện là: Ân Tường Tây, Ân Tường Đông, Ân
Nghĩa
6. Giả thuyết nghiên cứu
Hầu hết người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định đã và đang
được chăm sóc sức khỏe theo chính sách của Đảng và Nhà nước.
Người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định có nhu cầu cao về
chăm sóc sức khỏe nhưng chất lượng và hiệu quả của công tác này chưa cao do rất
nhiều khó khăn mang lại, nhất là thiếu thốn về tài chính, đội ngũ y, bác sĩ; cơ sở vật
chất nghèo nàn, lạc hậu…
Gia đình, chính quyền các cấp, các cơ sở y tế, đội ngũ y, bác sĩ và cả cộng đồng
có vai trò rất lớn trong công tác chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng. Chính
họ sẽ góp phần không nhỏ vào việc cải thiện tình trạng sức khỏe cho người có công
cách mạng.
7. Phương pháp nghiên cứu và xử lý thông tin
7.1. Phương pháp nghiên cứu
7.1.1. Phương pháp chọn mẫu
Phương pháp này được tác giả lựa chọn sử dụng trong đề tài bởi người có công
7
cách mạng bao gồm nhiều đối tượng khác nhau và họ sống rải rác trên địa bàn huyện
nên rất khó khăn để điều tra tổng thể. Cụ thể của phương pháp này tác giả sử dụng
phương pháp chọn mẫu tỷ lệ, mẫu điều tra được tiến hành trên hai nhóm đối tượng là
thương binh, bệnh binh và được điều tra điển hình tại 3 xã nhiều thương, bệnh binh:
Ân Tường Tây, Ân Tường Đông Ân Nghĩa.
Số lượng mẫu nghiên cứu là 130 đối tượng, đủ đại diện cho thương, bệnh binh
cũng như người có công cách mạng của cả huyện Hoài Ân -tỉnh Bình Định.
Tác giả đã sử dụng phương pháp chọn mẫu tỉ lệ nhưng vẫn đảm bảo tính khoa
học, đảm bảo phản ánh đúng thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe cho người có
công cách mạng trên địa bàn Huyện.
7.1.2. Phương pháp thu thập thông tin tư liệu
Thu thập các thông tin từ các nguồn như sách, báo, khóa luận, trên mạng internet,
tạp chí, các báo cáo liên quan đến vấn đề chăm sóc sức khỏe người có công cách
mạng.
Những thông tin thu thập được xử lí theo yêu cầu của khóa luận nhưng vẫn đảm
bảo tính khách quan.
7.1.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến
Bảng trưng cầu ý kiến gồm tất cả 28 câu, trong đó có 14 câu hỏi đóng, 13 câu hỏi
vừa đóng vừa mở, 1 câu hỏi mở.
Tổng cộng có 130 phiếu được phát tại 3 xã: Ân Tường Tây, Ân Tường Đông và
xã Ân Nghĩa.
Mục đích của phương pháp này nhằm thăm dò ý kiến của người có công cách
mạng, cụ thể là thương binh và bệnh binh về vấn đề chăm sóc sức khỏe của họ.
7.1.4. Phương pháp phỏng vấn
Nhằm tìm hiểu sâu hơn vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người có công cách mạng,
tác giả tiến hành phỏng vấn sâu 45 đối tượng cụ thể tại xã Ân Tường Tây là 15 người,
xã Ân Tường Đông là 15, xã Ân Nghĩa là 15 người và một số vị lãnh đạo địa phương,
các ban nghành có liên quan như: phòng LĐTB và XH, những người thực hiện chính
8
sách người có công CM tại các xã, Bệnh viện huyện Hoài Ân, trạm y tế các xã.....
7.1.5. Phương pháp quan sát kèm theo ghi hình
Tác giả sử dụng phương pháp quan sát và ghi hình nhằm phối hợp với phương
pháp trưng cầu ý kiến và phương pháp phỏng vấn với mục đích tìm hiểu và đảm bảo
tính khách quan và độ chính xác của những thông tin thu được.
7.2. Phương pháp xử lý thông tin
7.2.1. Thông tin thu được từ các tài liệu
Tất cả những thông tin thu thập được, tác giả đã tổng thuật, lược thuật theo các
chủ đề, tổng quan tình hình nghiên cứu, xác lập một số lý thuyết, khái niệm làm cơ sở
lý luận, xây dựng giả thiết nghiên cứu, mô tả bối cảnh kinh tế – văn hóa – xã hội ở địa
phương.
7.2.2. Thông tin thu được qua phiếu trưng cầu ý kiến
Phiếu trưng cầu ý kiến chủ yếu được xử lý theo tỷ lệ % trong đó kết hợp với so
sánh tương quan giữa các biến quan trọng để có thể thấy rõ mối quan hệ trong các vấn
đề phân tích.
7.2.3. Thông tin thu được qua phỏng vấn
Những thông tin thu thập được từ các cuộc phỏng vấn sâu được tác ghi băng, ghi
chép sau đó phân loại, chọn lọc, dưới dạng trích dẫn từ các biên bản đã được xử lý và
sử dụng.
7.2.4. Thông tin thu được qua quan sát và hình ảnh
Tác giả tiến hành đối chiếu, so sánh thông tin từ việc quan sát, ghi chép cũng như
những hình ảnh thu được để hình thành câu trả lời và kiểm tra độ chính sát của thông
tin cho bảng hỏi cũng như phỏng vấn sâu.
8. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
8.1. Ý nghĩa lý luận
Những thông tin thu thập được từ nghiên cứu sẽ góp phần làm phong phú thêm
hệ thống cơ sở dữ liệu cho việc phân tích lý luận về người có công cách mạng, người
9
cao tuổi nói riêng và lý luận về chính sách xã hội nói chung.
Là nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này về lĩnh vực người có
công cách mạng, chính sách xã hội và chính sách chăm sóc sức khỏe cho người có
công cách mạng.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Như chúng ta đã biết, chăm sóc sức khỏe cho người có công cách mạng là một
việc làm vô cùng cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng thể hiện tinh thần nhân
văn sâu sắc. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, công tác này gặp rất nhiều khó khăn,
bất cập ở nhiều địa phương. Với kết quả nghiên cứu của đề tài, người thực hiện đề tài
mong muốn sẽ cung cấp những thông tin cụ thể về thực trạng công tác chăm sóc sức
khỏe người có công tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định; gợi mở một số giải pháp để
các cấp, chính quyền địa phương, gia đình, các bên liên quan và cả cộng đồng sẽ nhận
thức rõ và đầy đủ vai trò và trách nhiệm trong quá trình thực hiện công tác chăm sóc
sức khỏe cho người có công cách mạng. Đồng thời, cũng như là một thông điệp hướng
sự quan tâm và chung tay góp sức của cộng đồng, nhất là những người trẻ tuổi ở địa
phương để cùng thực hiện có hiệu quả hơn công tác chăm sóc sức khỏe cho người có
công cách mạng đặc biệt với đối tượng là thương, bệnh binh.
9. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận được cấu trúc làm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết
luận khuyến nghị. Trong đó phần nội dung được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng chăm sóc sức khỏe cho NCCCM huyện Hoài Ân, tỉnh
Bình Định
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe cho
10
NCCCM huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định
PHẦN 2. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.Chính sách xã hội
Chính sách xã hội là những quy định bằng văn bản nhằm để hỗ trợ cho nhóm đối
tượng trong xã hội. Nó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và toàn dân
ta đối với họ, góp phần tạo ra sự công bằng, bình đẳng, ổn định, phát triển và tiến bộ
xã hội. Chính sách xã hội bao gồm một số nội dung cơ bản sau:
Chính sách xã hội có những đặc trưng riêng, nhờ vậy, mà người ta có thể phân
biệt nó với các chính sách khác như: chính sách chính sách chính trị, chính sách kinh
tế, tư tưởng. . . xét trên phương diện quản lý những đặc trưng đó là:
Chính sách xã hội bao giờ cũng liên quan đến con người, bao trùm mọi mặt của
cuộc sống con người, lấy con người và các nhóm người làm đối tượng tác động để
hoàn thiện và phát triển con người, hình thành các chuẩn mực và giá trị xã hội.
Chính sách xã hội mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc, bởi vì mục tiêu cơ bản
của nó là hiệu quả xã hội. Công bằng xã hội là nội dung cơ bản của chính sách xã hội.
Nhà nước sử dụng chính sách xã hội như một công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội,
định hướng các giá trị mới, hướng vào cái thiện, cái tốt, hạn chế và đẩy lùi cái xấu, cái
ác.
Chính sách xã hội của nhà nước thể hiện trách nhiệm xã hội cao, tạo những điều
kiện, cơ hội như nhau để mọi người phát triển và hòa nhập cộng đồng.
Hiệu quả chính sách xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống,
đảm bảo công bằng xã hội.
Chính sách xã hội còn mang tính kế thừa lịch sử, nó có sự thay đổi theo thời gian
và tùy thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia, dân tộc.
Bất kỳ một khoa học nào cũng có đối tượng nhiên cứu của mình, đối tượng
nghiên cứu của khoa học chính sách nói chung và chính sách xã hội nói riêng là hệ
thống chính sách cũng như quy trình chính sách trên thực tiễn (hoạch định, thực thi,
đánh giá chính sách).
11
Với đối tượng nghiên cứu như trên, chính sách xã hội có những chức năng cơ bản:
Chức năng nhận thức: Chính sách xã hội phát hiện ra tính quy luật của xã hội
(phản ánh đời sống văn hóa và các quan hệ văn hóa xã hội), tính quy luật của chính trị
và sự vận động của hệ thống chính trị trong xã hội. Tất cả các quy luật này đều phản
ánh nội dung của chính sách và đóng vai trò quy định nội dung, phương hướng của
chính sách xã hội, nên việc nhận thức nó là hết sức quan trọng của chính sách xã hội.
Chức năng phân tích, dự báo, đề xuất biện pháp cho công tác quản lý xã hội:
một chính sách xã hội khoa học gắn liền với thực tiễn xã hội sẽ giúp cho các nhà quản
lý, lãnh đạo phân tích, dự báo những vấn đề xã hội trong tương lai gần hoặc xa, làm cơ
sở để lượng giá và đề xuất chính sách xã hội.
Chức năng thực tiễn: chính sách xã hội phản ánh đúng thực tiễn, đi vào thực tiễn
một cách thích hợp, nó sẽ làm cho xã hội luôn ở trạng thái ổn định, góp phần hoàn
chỉnh cơ cấu xã hội, đẩy mạnh tính tích cực của các thành viên trong xã hội, sử dụng
tốt tiềm năng lao động của đất nước. Sự hoàn thiện chính sách xã hội phụ thuộc vào sự
tăng trưởng và phát triển xã hội, nhưng chính sách xã hội không hoàn toàn phụ thuộc
một cách máy móc mà có tính độc lập tương đối.
Mục tiêu của khoa học chính sách xã hội là thông qua việc nghiên cứu thực tiễn
các chính sách để tìm ra những giải pháp để cải tiến hệ thống chính sách, nâng cao
chất lượng hoạch định và thực thi chính sách của nhà nước hướng đến mục tiêu cuối
cùng là công bằng, an sinh và tiến bộ xã hội.
Do mục tiêu và chức năng của mình, chính sách xã hội đã trở thành một lĩnh vực
rất rộng lớn, hoặc có thể xem là nó thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội.
Có thể phân chia chính sách xã hội theo nhiều khía cạnh để tìm hiểu hoặc quản lý. Có
thể nói chính sách xã hội ở cấp độ nhà nước, khu vực, nơi làm việc, cộng đồng. Chính
sách xã hội có thể phân chia theo các nhóm xã hội được tác động: nhóm nghề nghiệp,
giới, tuổi, tộc người. Thông thường, người ta nói đến những lĩnh vực chủ chốt sau đây:
chính sách bảo đảm thu nhập trong trường hợp bình thường hoặc gặp rủi ro, chính sách
thị trường lao động, chính sách xã hội doanh nghiệp, chính sách nhà ở, chính sách gia
đình, phụ nữ và trẻ em, chính sách xã hội trong giáo dục, chính sách xã hội trong y tế,
chính sách giúp đỡ thanh niên, chính sách người cao tuổi, trợ giúp xã hội. . . [8; 9 – 11]
Do hoàn cảnh đất nước ta có lịch sử phát triển khác với các nước khác cho nên
12
chính sách xã hội được nhận thức và thực hiện cũng mang đặc điểm riêng biệt.
Trước thời kỳ đổi mới (năm 1986) ở nước ta chính sách xã hội chưa được nhận
thức đầy đủ. Còn tồn tại quan niệm chính sách xã hội chỉ là những chính sách dành
cho những đối tượng xã hội đặc biệt thiếu khả năng lao động hoặc cần ưu đãi. Nhiều
người coi chính sách xã hội là chính sách cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội và bảo hiểm xã
hội. Nhiều vấn đề ở tầm vĩ mô như dân số, việc làm, thiết kế, những phương án phát
triển chưa tính toán đầy đủ đến những vấn đề xã hội và môi trường xã hội cần thiết cho
con người. Đôi khi chính sách kinh tế tách rời chính sách xã hội, còn chính sách xã hội
đôi khi vượt quá trình độ phát triển của nền kinh tế. Chủ nghĩa bình quân không chỉ
trong phân phối thu nhập nói chung, mà cả trong việc thực hiện chính sách xã hội.
Nhiều nhu cầu xã hội của cá nhân đáng được thỏa mãn nhưng lại đồng hóa trong tập
thể, cộng đồng. Những đặc điểm khác biệt của cá nhân ít được quan tâm. Chính sách
xã hội chưa được nhận thức và thực hiện đầy đủ với tất cả những yêu cầu của nó.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với đường lối đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm và thực hiện ngày càng tốt chính sách xã hội. Vấn đề xã hội
được tính đến nhiều hơn trong các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội.
Chính sách xã hội được nhận thức một cách toàn diện trên cả tầm vĩ mô và vi mô.
Nhân tố con người và những điểm khác biệt của cá nhân đã được chú trọng.
Thực hiện chính sách xã hội được xem là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của
tất cả các lực lượng xã hội chứ không còn là nhiệm vụ của riêng nhà nước như giai
đoạn trước đây. Chủ nghĩa bình quân cũng được khắc phục. Với chính sách mở cửa
tạo điều kiện để chúng ta huy động tiềm lực quốc tế cho việc giải quyết nhiều vấn đề
xã hội do các cuộc chiến trong lịch sữ để lại cũng như những vấn đề mới xuất hiện do
ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường [8; 55].
1.2. Chính sách xã hội cho người có công CM
Chính sách xã hội cho người có công cách mạng thể hiện truyền thống tốt
đẹp của chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, nó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng
và nhà nước ta với thế hệ đã “sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ
quốc”. Trong đó có rất nhiều chính sách cụ thể: chính sách trợ cấp, chính sách bảo
hiểm, chính sách điều dưỡng, chính sách chăm sóc sức khỏe, chính sách ưu đãi trong
kinh tế… cho người có công. Trong đề này tác giả thực hiện nghiên cứu về chính sách
13
chăm sóc sức khỏe cho người có công.
Chính sách chăm sóc sức khỏe cho người có công, người có công CM đặc
biệt là nhóm đối tượng thương binh, bệnh binh là những người rất cần đến chế độ
chăm sóc nhất là vấn đề chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống, cụ thể
người có công cách mạng được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe được quy định trong
Thông tư liên tịch số 17/2006/TTLT-BLĐTBXH-BTC-BYT ngày 21 tháng 11 năm
2006 của liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – Bộ Tài chính – Bộ Y tế, theo
thông tư chế độ chăm sóc sức khỏe đối với NCCCM cụ thể như sau:
Chế độ bảo hiểm và quyền lợi về bảo hiểm y tế của người có công CM
Những đối tượng có công cách mạng được hưởng bảo hiểm y tế bao gồm: người
có công với cách mạng và thân nhân của họ được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định
của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng và pháp luật về bảo hiểm y tế.
Người có công với cách mạng và thân nhân của họ được hưởng quyền lợi về
chăm sóc sức khỏe theo quy định của Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14
tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khóa XII và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Chế độ điều dưỡng
Là một trong những chế độ rất tốt và đạt hiệu quả cao, có tầm quan trọng góp
phần nâng cao sức khỏe người có công cách mạng và nó nhiệt liệt được hưởng ứng.
Nó được chia ra làm hai phương thức điều dưỡng đó là:
Điều dưỡng mỗi năm một lần, bao gồm những đối tượng như sau: người hoạt
động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; người hoạt động cách mạng từ
ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945; bà
mẹ Việt Nam anh hùng; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh,
thương binh loại B (gọi chung là thương binh), bệnh binh có tỷ lệ suy giảm khả năng
lao động do thương tật, bệnh tật từ 81% trở lên đang sống tại gia đình; người có công
giúp đỡ cách mạng được Nhà nước tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc
Bằng “Có công với nước”; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học
suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Điều dưỡng luân phiên 5 năm một lần, gồm những đối tượng sau: cha đẻ, mẹ đẻ,
vợ hoặc chồng của liệt sĩ, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân, Anh hùng lao động trong kháng chiến; người có công giúp đỡ cách
14
mạng trong kháng chiến; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy
giảm khả năng lao động dưới 81%; thương binh, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm khả năng
lao động do thương tật, bệnh tật dưới 81% đang sống tại gia đình; người hoạt động
cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày.
Trong đó có những quy định về kinh phí và nơi điều dưỡng cụ thể:
Điều dưỡng tại các cơ sở điều dưỡng
Thời gian điều dưỡng tối đa là 10 ngày (không kể thời gian đi và về).
Mức chi điều dưỡng: 1.500.000 đồng/người/lần, bao gồm:
Tiền ăn sáng và 2 bữa chính: 1.100.000 đồng.
Thuốc bổ và thuốc chữa bệnh thông thường: 100.000 đồng.
Quà tặng đối tượng: 100.000 đồng.
Chi khác (khăn mặt, xà phòng, bàn chải, thuốc đánh răng, nghe chuyện thời sự,
tham quan, chụp ảnh, phục hồi chức năng,…): 200.000 đồng.
Điều dưỡng tại gia đình
Mức chi điều dưỡng là 800.000 đồng/người/lần. [5]
Chế độ chăm sóc sức khỏe cho thương binh
Theo điều 20, 21, 22 của Pháp lệnh ưu đãi người có công cách mạng thì thương
binh được hưởng các chế độ chăm sóc sức khỏe như sau:
Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng
lao động và loại thương binh.
Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao động; cấp
phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào thương tật của từng người và khả
năng của Nhà nước; thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được Nhà
nước mua bảo hiểm y tế cho con từ mười tám tuổi trở xuống hoặc trên mười tám tuổi
nếu còn tiếp tục đi học hoặc bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi hết thời hạn hưởng bảo hiểm
y tế vẫn bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên an dưỡng ở gia đình thì
người phục vụ được Nhà nước mua bảo hiểm y tế và trợ cấp hàng tháng.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh dành cho thương binh, bệnh binh được Nhà nước hỗ
trợ cơ sở vật chất ban đầu, bao gồm nhà xưởng, trường, lớp, trang bị, thiết bị, được
15
miễn hoặc giảm thuế, vay vốn ưu đãi theo quy định của pháp luật.
Chế độ chăm sóc sức khỏe đối với bệnh binh
Theo điều 23, 24, 25 của Pháp lệnh ưu đãi người có công cách mạng thì bệnh
binh được hưởng các chế độ chăm sóc như sau:
Trợ cấp hàng tháng theo tỷ lệ mất sức lao động.
Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao động; cấp
phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của từng người
và khả năng của Nhà nước.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được Nhà nước mua bảo
hiểm y tế cho con từ mười tám tuổi trở xuống hoặc trên mười tám tuổi nếu còn tiếp tục
đi học hoặc bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi hết thời hạn hưởng bảo hiểm y tế vẫn bị suy
giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên an dưỡng ở gia đình thì
người phục vụ được Nhà nước mua bảo hiểm y tế và trợ cấp hàng tháng.
Tổ chức thực hiện và những yêu cầu thực hiện chế độ chăm sóc sức
khỏe cho người có công CM
Tổ chức thực hiện
Căn cứ vào những quy định trên các tổ chức, cá nhân ban ngành có liên quan: Bộ
LĐ – TB&XH, Bộ tài chính, Bộ y tế, phòng LĐ – TB&XH ở địa phương, các trung
tâm chăm sóc người có công … tổ chức thực hiện, cụ thể là:
Hàng năm, căn cứ dự toán chi ưu đãi người có công và số lượng thực tế các đối
tượng thuộc diện điều dưỡng của từng địa phương, Bộ lao động – thương binh và xã
hội phối hợp với Bộ tài chính phân bổ kinh phí ngay từ đầu năm cho Sở lao động –
thương binh và xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ đó triển khai
xuống các Phòng lao động – thương binh và xã hội triển khai thực hiện đúng theo quy
định.
Sở lao động – thương binh và xã hội lập danh sách đối tượng được điều dưỡng
trong năm và ra quyết định điều dưỡng người có công.
Sở lao động – thương binh và xã hội lập kế hoạch chi tiết phân bổ xuống Phòng
lao động – thương binh và xã hội, phòng LĐ – TB&XH, hai bên phối hợp tổ chức thực
16
hiện đưa đối tượng đi điều dưỡng tại các cơ sở điều dưỡng hoặc điều dưỡng tại gia
đình theo quy định. Sở lao động – thương binh và xã hội phối hợp với Sở Y tế thực
hiện thăm khám sức khỏe cho đối tượng điều dưỡng tại gia đình.
Kinh phí chi tiền điện, nước sinh hoạt, văn nghệ, báo chí được giao dự toán trực
tiếp cho các cơ sở điều dưỡng người có công với cách mạng do Ngành lao động –
thương binh và xã hội quản lý theo quy định tại Điều 5 của Thông tư liên tịch số
47/2009/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 11/3/2009.
Những yêu cầu đặt ra khi thực hiện
Đòi hỏi cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, đặc biệt là ngành LĐ –
TB&XH và ngành y tế, các tổ chức đoàn thể, người được điều dưỡng.
Đòi hỏi khi thực hiện đảm bảo thực hiện đúng quy định của các chính sách.
Trong thời gian điều dưỡng tập trung nếu bị ốm đau đột xuất thì được giới thiệu
đi điều trị tại bệnh viện gần nhất theo chế độ bảo hiểm y tế hiện hành.
Trường hợp đối tượng đi điều dưỡng tập trung, nếu không ở hết thời gian của đợt
điều dưỡng thì không được thanh toán lại tiền. Số kinh phí còn lại do Sở lao động –
thương binh và xã hội quản lý để tăng số đối tượng hưởng chế độ điều dưỡng hàng
năm [5].
1.3. Các khái niệm liên quan
1.3.1. Chính sách xã hội
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách xã hội trong đó định nghĩa của
PGS.TS. Lê Trung Nguyệt được xem là đầy đủ chính xác, nó chỉ rõ chủ thể xây dựng
chính sách và đề ra nhiệm vụ cụ thể của chính sách xã hội.
“Chính sách xã hội là loại chính sách được thể hiện bằng pháp luật của nhà
nước thành một hệ thống quan điểm, chủ trương phương hướng và biện pháp để giải
quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề liên quan đến công
bằng xã hội, và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ
xã hội” [8; 7].
1.3.2. Quan niệm về người có công cách mạng
Cho đến nay, hầu như chưa có một định nghĩa cụ thể về người có công cách
mạng. Theo Pháp lệnh ưu đãi dành cho người có công cách mạng, ban hành theo quyết
17
định năm 2005 “Người có công cách mạng" là những người:
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945.
Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi
nghĩa 19 tháng Tám năm 1945.
Liệt sĩ.
Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động.
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh.
Bệnh binh.
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học.
Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày.
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa
vụ quốc tế.
Người có công giúp đỡ CM.
Thân nhân của những người có công cách mạng.
Trong đó được khái niệm một cách rõ ràng về từng loại đối tượng cụ thể:
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 là người
được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách mạng trước
ngày 01 tháng 01 năm 1945.
Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước
Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 là người được cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền công nhận đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly
hoạt động cách mạng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19
tháng Tám năm 1945.
Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân được Nhà
nước truy tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; trực tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh
binh vận có tổ chức với địch; hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt,
tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương
vượt tù, vượt ngục mà hy sinh; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm; dũng
18
cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; dũng cảm
cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân; do ốm đau, tai nạn khi đang làm
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn.
Bà mẹ Việt Nam anh hùng là những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hay có thể hiểu bà
mẹ Việt Nam anh hùng là người đã sinh ra và nuôi dưỡng những đưa con liệt sĩ, theo
quy định ít nhất là 2 người con.
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh
Thương binh là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm khả năng
lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp "Giấy chứng nhận
thương binh" và "Huy hiệu thương binh" thuộc một trong các trường hợp sau đây:
chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất
phục, kiên quyết đấu tranh, để lại thương tích thực thể; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh
chống tội phạm; dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc
phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân; làm
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn. Trong đó được chia ra làm 4 loại: thương binh loại 1 (trên 81% ), thương binh
loại 2 (từ 61% - 80% ), thương binh hạng 3 (từ 41% - 60% ), thương binh loại 4 (từ
21% - 40% ).
Người hưởng chính sách như thương binh là người không phải là quân nhân,
công an nhân dân, bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên thuộc
một trong các trường hợp tại Điều 19 (quy định về thương binh) được cơ quan có thẩm
quyền cấp "Giấy chứng nhận người hưởng chính sách như thương binh".
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được gọi chung là
thương binh.
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp
"Giấy chứng nhận bệnh binh" thuộc một trong các trường hợp sau đây: chiến đấu hoặc
trực tiếp phục vụ chiến đấu; hoạt động ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn từ 3 năm trở lên; hoạt động ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
19
khó khăn chưa đủ 3 năm nhưng đã có đủ 10 năm trở lên công tác trong Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân; đã công tác trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đủ 10
năm nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí; làm nghĩa vụ quốc tế; dũng cảm
thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh.
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao
động từ 41% đến 60% đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công nhận trước ngày
31 tháng 12 năm 1994.
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là người được cơ
quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại
các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học, bị mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật hoặc vô sinh do hậu quả của chất độc hoá học.
Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù,
đày là người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong thời gian
bị tù, đày không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến, không làm tay sai
cho địch.
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế được hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Điều 31 của
Pháp lệnh ưu đãi người có công cách mạng (về trợ cấp, bảo hiểm) là người
tham gia kháng chiến được Nhà nước tặng “Huân chương kháng chiến”, “Huy
chương kháng chiến”.
Người có công giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ cách mạng
trong lúc khó khăn, nguy hiểm, bao gồm: Người được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc
ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước"; người trong gia đình được tặng Kỷ niệm
chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước" trước cách mạng tháng
Tám năm 1945; người được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng
chiến; người trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương
kháng chiến [17].
Chúng ta có thể nhận thấy rằng người có công CM bao gồm rất nhiều đối tượng
nhưng trong đề tài này tác giả chỉ tìm hiểu về chăm sóc sức khỏe thương, bệnh binh
hơn ai hết họ là những người rất cần đến hệ thống chăm sóc sức khỏe. Ở đối tượng
thương, bệnh binh được chia ra làm nhiều loại đối tượng khác nhau và trong khóa luận
20
này tác giả tìm hiểu những người thương, bệnh binh chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ
chiến đấu; bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại
thương tích thực thể hoặc bệnh tật trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
và cuộc chiến chống Mỹ (1954 - 1975).
1.3.3. Sức khỏe và chăm sóc sức khỏe
Sức khỏe
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về sức khỏe, theo Tổ chức Y tế thế giới WHO
đã đưa ra định nghĩa “Sức khỏe là một trạng thái sản khoái đầy đủ về thể chất, tinh
thần và các quan hệ xã hội, nó không chỉ bó hẹp vào nghĩa là không có thương tật hay
bệnh tật xã hội” [18; 55].
Như vậy có thể hiểu một người hoàn toàn khỏe mạnh phải là một người có đầy
đủ sức khỏe về thể chất, tinh thần và có các mối quan hệ xã hội tốt đẹp. Cụ thể: Một
người được xem là có sức khỏe thể chất không những không có thương tật, bệnh tật
mà các hoạt động về thể lực cũng như tất cả các hoạt động sống đều ở trạng thái tốt
nhất và phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh, lứa tuổi . . .; sức khỏe tâm thần là một
trạng thái không chỉ không có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm
thần hoàn toàn thoải mái, bình an trong tâm hồn và biết chấp nhận những căng thẳng
trong cuộc sống cũng như cần phải có chất lượng nuôi sống tốt, có được sự cân bằng
và hòa hợp giữa cá nhân, những người xung quanh và môi trường; để đạt được trạng
thái hoàn toàn thoải mái về mặt xã hội tức là phải có thu nhập đủ sống, an sinh xã hội
được đảm bảo, thiết lập và duy trì các mối quan hệ tốt đẹp, thuận lợi với người thân
trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm, rộng hơn là cộng đồng và xã hội . . .
kết hợp hài hòa giữa lợi ích các nhân với lợi ích của người khác đồng thời được cống
hiến cho cộng đồng, xã hội và được mọi người thừa nhận.
Có được một cơ thể khỏe mạnh là mơ ước - mục tiêu - mục đích mà mọi người
hướng đến và cố gắng thực hiện mọi biện pháp để đạt đến cái ngưỡng đó. Tất cả
những yếu tố về sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần, quan hệ xã hội được kết hợp
một cách hài hòa và đảm bảo sẽ làm nên vẻ đẹp sáng ngời của một con người, như cha
ông ta đã từng khẳng định “Bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành
cơm”. Các yếu tố này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại, ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nhau, nếu thiếu một trong các thành tố trên sẽ không làm nên sức khỏe
21
con người. Vì vậy, mỗi chúng ta cần có sự chăm lo phát triển một cách hợp lý, hài hòa
cân đối giữa các yếu tố để đạt đến một trạng thái sức khỏe tốt và có cuộc sống lý tưởng
nhất.
Định nghĩa trên đã chỉ cho chúng ta thấy rõ trạng thái sức khỏe cần đạt được để
từ đó mỗi cá nhân hướng đến và vạch ra mục tiêu, phương pháp để đạt được. Tuy
nhiên, định nghĩa trên cũng gặp phải hạn chế là chưa đưa ra được mục tiêu, phương
pháp, kế hoạch thực hiện cho các lực lượng tham gia vào quá trình chăm sóc sức khỏe.
Quan điểm về chăm sóc sức khỏe
Việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ trước hết phải do chính bản thân mỗi cá nhân
thực hiện. Tục ngữ cũng đã dạy: “Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là
quá khứ, sức khoẻ là của chính mình”.
Đầu tư chăm sóc sức khoẻ là phải đầu tư chăm sóc ngay khi còn đang khoẻ
mạnh, khi chưa thành bệnh mới là đầu tư chăm sóc có ý nghĩa và hiệu quả kinh tế cao
nhất.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên có thể hiểu:
chăm sóc sức khỏe là những hoạt động nhằm nâng cao sức khỏe của con người. Theo
WHO thì nâng cao sức khỏe chính là sự hổ trợ mà trong đó quan trọng nhất là tạo khả
năng cho người dân kiểm soát và nâng cao sức khỏe của mình. Chi tiết hơn, nguyên lý
thực hiện nâng cao sức khỏe thể hiện ở 3 hoạt động chính đó là:
Xây dựng chính sách là hoạt động nhằm thúc đẩy sự hoàn thành các chính sách
mang lại sức khỏe cho người dân.
Tạo khả năng là hoạt động nhiều mặt bao gồm môi trường thuận lợi, cung cấp
thông tin, hướng dẫn kỹ năng sống và tạo ra các cơ hội giúp người dân có khả năng
chọn lựa những điều kiện có lợi cho sức khỏe.
Phối hợp liên ngành là tạo điều kiện phối hợp các ban ngành, đoàn thể, tổ chức
xã hội, tập thể nhằm tăng cường phối hợp để tạo được hiệu quả tốt cho sức khỏe người
dân đến mức cao nhất.
Ba hoạt động trên nói lên cơ chế nâng cao sức khỏe là: “môi trường lành mạnh”,
“tự chăm sóc”, và “trợ giúp lẫn nhau”.
Có rất nhiều ý kiến, cách thức và những yêu cầu đặt ra cho mỗi cá nhân cũng như
cộng đồng trong việc chăm sóc bảo vệ và nâng cao sức khỏe. Tuy nhiên có thể thấy
22
chăm sóc sức khỏe thường tập trung vào 3 lĩnh vực như sau:
Chăm sóc sức khỏe thể chất
Trước tiên một yêu cầu chung và vô cùng quan trọng đặt ra cho mỗi cá nhân là
cần phải chăm sóc sức khỏe của mình một cách tích cực chủ động, thay vì đợi bị
bệnh và đi chữa bệnh. Để có sức khỏe thể chất tốt cần phải khám sức khỏe tổng quát;
không nên hút thuốc lá; uống rượu bia có chừng mực; cần phải chú ý đến cân nặng của
cơ thể; cần chú ý đến lượng cholesteron trong máu; chú ý đến việc cung cấp dinh
dưỡng cho cơ thể; cần sắp xếp một chương trình vận động cho cơ thể (thời khóa biểu);
phải luôn lượng khả năng và giới hạn sức khỏe của bản thân.
Chăm sóc sức khỏe tinh thần
Để có được sức khỏe tinh thần tốt nhất có các yêu cầu đặt ra đối với mỗi cá thể
đó là học cách tự đánh giá bản thân một cách lành mạnh; biết cho và nhận; tạo dựng
mối quan hệ gia đình tích cực; biết đề ra những ưu tiên cho bản thân mình phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh; cần dành thời gian để nghỉ ngơi và đi du lịch tham quan; cần phải
trang bị cho bản thân những cách quản lý và đối phó với stress hiệu quả nhất; phải
luôn luôn sống lạc quan, yêu đời; hãy học cách ứng phó với những thay đổi có thể ảnh
hưởng đến bản thân (tăng cường khả năng thích ứng) biết cách điều chỉnh và ứng phó
cảm xúc của bản thân, đặc biệt là những xúc cảm tiêu cực, hướng vào bản thân.
Quan hệ xã hội
Đây cũng là một lĩnh vực ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của mỗi cá thể, mỗi
người cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội thể dục thể thao, văn hóa, tham
gia các tổ chức, đoàn thể xã hội, tạo lập và duy trì các mối quan hệ với bạn bè, đồng
nghiệp.
Như chúng ta đã biết sức khỏe con người là tổng hòa các yếu tố về sức khỏe thể
chất, sức khỏe tinh thần và các quan hệ xã hội và để có được sức khỏe tốt ta cần giải
quyết hài hòa các yếu tố trên một cách tối ưu. Đồng thời sức khỏe của mỗi người
không phải chỉ dựa vào sự cố gắng của bản thân là đạt được mà còn chịu sự tác động
của rất nhiều yếu tố khách quan. Vào đầu thế kỷ XX cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học và công nghệ, sức khỏe con người có nhiều vấn đề cần đề cập đến với
những căn bệnh không thuốc chữa. Từ đó con người luôn tích cực tìm kiếm những
phương pháp để có được sức khỏe tốt, trong quá trình tìm kiếm đó các nhà khoa học
23
đã xây dựng nên mô hình các yếu tố quyết định sức khỏe của con người thế kỷ XXI .
Đây là một mô hình vô cùng hữu ích đối với mỗi chúng ta. Bởi vì thông qua nó giúp
cho chúng ta biết được các mức độ phòng bệnh, chữa bệnh cũng như các yếu tố có vai
trò tác động đến sức khỏe để từ đó tự tìm ra giải pháp làm thay đổi các yếu tố đó theo
Yếu tố tổng quát
Môi trường xã hội và cộng đồng
Môi trường vật chất
Môi trường cá nhân và gia đình
Giáo dục
Dự phòng cấp I
SỨC KHỎE VÀ TRẠNG THÁI KHỎE MẠNH
Thu nhập
Yếu tố nguy cơ/ tình trạng dễ bị tổn thương
Dự phòng cấp II
Bệnh tật và chấn thương
Hệ thống chăm sóc sức khỏe
Hồi phục
Tàn phế
Tử vong
Dự phòng cấp III
hướng có lợi cho sức khỏe.
Sơ đồ 1 : Mô hình các yếu tố quyết định sức khỏe thế kỷ XXI (Robert Evans) [16; 68]
Cụ thể mô hình này thể hiện sức khỏe con người chịu sự tác động của các yếu tố
tổng quát: môi trường cá nhân và gia đình, môi trường vật chất, môi trường xã hội và
cộng đồng. Nó chia ra làm 3 cấp độ dự phòng: dự phòng cấp I tức là cơ thể hoàn toàn
khỏe mạnh, ta tự tìm ra những phương pháp chăm sóc sức khỏe tốt, ngăn ngừa bệnh tật
và các yếu tố ảnh hưởng như giáo dục, thu nhập, các yếu tố nguy cơ (tức là những
24
nguy cơ bệnh tật nào đang rình rập), từ đó tìm ra các biện pháp hạn chế, khắc phục,
loại bỏ nguy cơ bệnh tật. Dự phòng cấp II tức là một khi cơ thể con người đã có dấu
hiệu bệnh tật thì cần phải can thiệp sớm, thông qua các tác động của hệ thống chăm
sóc sức khỏe tìm ra phương pháp chữa trị sớm nhất, kịp thời và hiệu quả nhất để cải
thiện chữa trị bệnh tật và chấn thương. Dự phòng cấp III tức là khi chúng ta đã mắc
bệnh cần phải tìm cho mình dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất, có thể phục hồi để trở
lại trạng thái khỏe mạnh ban đầu hay trở nên tàn phế, tử vong phụ thuộc phần lớn vào
hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Mô hình này có ý nghĩa quan trọng với đề tài này, nó làm cơ sở lý luận hỗ trợ tác
giả trong quá trình tìm kiếm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
cho NCCCM. Tác giả cũng có thể đưa ra các giải pháp tập trung vào việc cải thiện,
tăng cường sự tác động của các yếu tố: vai trò của cá nhân, gia đình, vật chất, xã hội
theo hướng tích cực.
1.2.4. Phúc lợi xã hội
Thuật ngữ phúc lợi xã hội đã được Việt Nam sử dụng từ vài chục năm qua với
những phạm vi khác nhau. Phúc lợi xã hội được xem như là một hệ thống hay một
thiết chế mà chức năng xã hội của nó là đảm bảo những nhu cầu xã hội thiết yếu của
các tầng lớp dân cư theo những điều kiện của cấu trúc xã hội. Đồng thời việc xác định
những nhu cầu này do xã hội quy định. Thông thường, phạm vi các nhu cầu cơ bản
này liên quan đến nhu cầu về lương thực thực phẩm, việc làm, thu nhập.
Nhìn từ góc độ cơ cấu xã hội, hệ thống phúc lợi xã hội tác động vào các điều kiện
an sinh xã hội của các nhóm xã hội theo hướng đảm bảo công bằng xã hội, đặc biệt
chú trọng các nhóm xã hội yếu thế. Trong ý nghĩa đó, phúc lợi xã hội cho người có
công cách mạng là một trong những vấn đề cần quan tâm. Chăm lo phúc lợi người có
công cách mạng giúp họ đảm nhận những vai trò xã hội mới là công việc có ý nghĩa to
lớn đối với phát triển xã hội.Hiện nay, người có công cách mạng có vai trò và ý nghĩa
to lớn đối với gia đình và xã hội: trong truyền đạt kho tri thức, kinh nghiệm sản xuất,
lịch sử, các di sản văn hóa (chủ trì những lễ nghi) tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi
theo, là người hòa giải những bất hòa trong gia đình, tranh chấp ngoài cộng đồng xã
hội … chứ không phải là gánh nặng như trong suy nghĩ của chúng ta.
Hoạt động trợ giúp trong mạng lưới xã hội cũng được xem là một dạng của phúc
25
lợi xã hội. Giữa phúc lợi xã hội và mạng lưới xã hội có quan hệ qua lại với nhau.
Trong khóa luận, khảo sát hoạt động trợ giúp từ mạng lưới xã hội người có công cách
mạng về vấn đề chăm sóc sức khỏe [dẫn nhập 7; 28].
1.2.5. Bảo hiểm và bảo hiểm y tế
Bảo hiểm
Có thể hiểu “Bảo hiểm là một hoạt động mà qua đó một cá nhân có quyền được
hưởng trợ cấp nhờ vào khoảng đóng góp cho mình hoặc cho người thứ ba trong
trường hợp xãy ra rủi ro và toàn bộ trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có
trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo phương pháp thống kê”
[1]
Bảo hiểm y tế
“Là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không
vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và đối tượng có trách nhiệm
theo quy định của luật bảo hiểm y tế” [1].
Trong quá trình đăng ký khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế, có quy định cơ sở
khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu tức là cơ sở khám, chữa bệnh đầu tiên theo
đăng ký của người tham gia bảo hiểm y tế và được ghi trong thẻ bảo hiểm y tế.
1.2.6. Người cao tuổi
Người cao tuổi hay người già là một thuật ngữ dùng để chỉ những người nhìn
chung đã có nhiều tuổi . Lâu nay ta vẫn quen dung khái niệm “người già”.Theo từ
điển Việt Nam , già tức là “ở vào tuổi có những hiện tượng sinh lý suy yếu dần trong
gia đoạn cuối của quá trình sống tự nhiên” .Như vậy về mặc thuật ngữ, “người già”
hay “người cao tuổi” cũng chỉ là hai cách nói khác nhau mang cùng một nội dung chỉ
“người đã rất nhiều tuổi so với tuổi đời trung bình”, trong khóa luận này tác giã sữ
dụng tuật ngữ “người cao tuổi”. Theo quy định hành chính quốc tế, người từ 60 tuổi
trở lên được gọi là người cao tuổi [dẫn nhập 7; 29]
Những khó khăn mà người cao tuổi gặp phải
Đa số NCCCM trong mẫu nghiên cứu này thuộc nhóm người cao tuổi và họ cũng
không thể tránh khỏi quy luật khách quan (tuổi cao dẫn đến thay đổi về hoạt động
26
chức năng tâm, sinh lý, thay đổi về lao động và thu nhập, thay đổi về phạm vi, mức độ
quan hệ xã hội). Chính những thay đổi này khiến cho người cao tuổi gặp phải những
khó khăn sau đây:
Về sinh lý: phần lớn người cao tuổi sức khỏe giảm sút do sự thoái hóa tự nhiên
của các tế bào dẫn tới: suy giảm quá trình đồng hóa, dị hóa và hoạt động của các cơ
quan nội tạng; cơ bắp bị nhão; xương do bị vôi hóa nhiều nên dòn và dễ gãy, đi lại khó
khăn; trí nhớ ngán hạn giảm sút trong khi đó trí nhớ dài hạn vẫn ở mức độ cao, dễ mắt
bệnh đãng trí hay bệnh mất trí, khả năng tư duy kém.; chất lượng hoạt động của cơ
quan cảm nhận bị suy giảm (mắt kém, nặng tai.....)
Về tâm lý: về mặc tâm lý của người cao tuổi có nhiều biến đổi phức tạp nhất là
giao đoạn đầu bước vào tuổi cao họ chưa kịp thíc ứng: do sự từng trải khiến cho họ
khó chấp nhận cái mới, khó thay đổi ý kiến chính điều này đã khiến cho họ và con
cháu khó hài hòa với nhau; phần lớn do giảm khả năng trí tuệ khiến cho một số người
có thể cảm thấy bất lực, mất tự chủ, nhạy cảm. . . cho nên đôi lúc họ tự giận bản thân
mình và giận người khác và từ chối sự giúp đỡ mặt dù hoàn cảnh của họ rất cần sự
giúp đỡ; một số luôn có tâm lý lo âu, buồn chán, đôi khi họ cảm thấy chán sống nhất là
những người có bệnh nặng.
Về mặt xã hội: do đi lại khó khăn và sức khỏe giảm sút nên quan hệ xã hội của họ
bị thu hẹp đáng kể; xã hội thường có quan niệm cứng nhắt, đôi khi sai lệch về họ
chẳng hạn như quan niệm người cao tuổi thì yếu và vô ích không còn đóng góp trong
xã hội (o đó xã hội còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được các nhu cầu cần thiết của họ
như ăn, ở, khám chữa bệnh); sự thay đổi nhanh chóng của xã hội bên ngoài, dễ làm
cho họ có thể cảm thấy những hiểu biết, giá trị của mình là lỗi thời và dễ tạo cảm giác
27
bị cô lập, bi quan.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CÓ CÔNG CÁCH MẠNG HUYỆN HOÀI ÂN,
TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. Tổng quan về huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định
Huyện Hoài Ân nằm ở phía Bắc của tỉnh Bình Định, có diện tích rộng vào hàng
thứ ba trong 11 đơn vị hành chính của Tỉnh. Là vùng bán sơn địa nên địa hình đa dạng,
đồi núi xen kẽ với đồng bằng, thung lũng. Hệ thống sông suối ở Hoài Ân chia cắt
mạnh địa hình, gây khó khăn cho việc giao lưu giữa các vùng, nhất là vào mùa mưa
khiến cho vấn đề đảm bảo an sinh cho người dân còn nhiều khó khăn đôi khi không
đáp ứng đủ nhu cầu. Không những thế trong những năm gần đây thiên tai hạn hán, lũ
lụt xảy ra triền miên, đặc biệt là trong năm 2010 và năm 2011 vừa qua với những trận
lũ lụt chưa từng có trong 45 năm qua đã để lại những thiệt hại hết sức nặng nề: nhà
cửa, các công trình bị đổ nát, thiệt hại hàng nghìn ha lương thực, hoa màu (khiến cho
vấn đề đảm bảo an ninh lương thực cho người dân gặp nhiều khó khăn), cũng như gây
ra nhiều dịch bệnh cho cây trồng vật nuôi và tác động xấu đến sức khỏe của con người
đặc biệt là nhóm đối tượng yếu thế: trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi. . . gây khó khăn
cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Theo số liệu điều tra gần đây nhất cả huyện có gần 92 ngàn người, trong đó
người Kinh chiếm đa số, ngoài ra còn có các dân tộc anh em như: Bana, H rê.
Hoài Ân là một trong những huyện có truyền thống yêu nước nồng nàn tinh thần
đấu tranh CM kiên cường bất khuất. Là một Huyện có số người có công CM tương đối
đông (2459) và cuộc sống của họ còn gặp rất nhiều khó khăn.
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chương trình, chính sách để phát triển
Huyện nhưng cho đến nay Huyện là một trong những Huyện miền núi có điều kiện
kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn của tỉnh Bình Định, tính đến đầu năm 2011 cả huyện
có tới 15890 hộ nghèo chiếm 67,6% so với tổng số hộ là 23523 hộ. Sản xuất nông
nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu. Trong những năm qua, người dân đã xây dựng các
mô hình sản xuất như kinh tế trang trại, chăn nuôi qui mô tập trung và đã đạt được
một số hiệu quả sau: lương thực có hạt là 60.305 tấn trong đó thóc là 52066 tấn, diện
tích rau màu là 949 ha, đậu là 149 ha, đàn bò là 16297 con, đàn trâu là 2209 con, đàn
28
heo là 142394 con (năm 2009). Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa cao và chưa thật sự
bền vững. Do cuộc sống còn nghèo nàn lạc hậu cho nên việc đầu tư cho các dịch vụ an
sinh xã hội cò rất thấp và chưa đạt được hiệu quả. Báo cáo các khoản chi cho sự
nghiệp phát triển của Huyện năm 2010 thể hiện rõ điều này (chi cho quốc phòng là
550.000.000đ, an ninh là 220.000.000đ, giáo dục và đào tạo nghề 49.467.000đ, y tế
400.560.000đ).
Cũng như vậy, vấn đề đầu tư chăm sóc sức khỏe cho người dân nói chung cũng
như cho người có công cách mạng nói riêng chưa được chú trọng quan tâm đúng mức,
còn nhiều khó khăn và bất cập (chủ yếu là dựa vào nguồn kinh phí do nhà nước hỗ
trợ). Mạng lưới y tế ngày nay tuy được mở rộng nhưng hệ thống y tế mà đặc biệt là
trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ y, bác sĩ còn thiếu và yếu chưa đáp
ứng tốt nhu cầu khám chữa bệnh của người dân: Hiện mới chỉ có 50% số xã trong
huyện có bác sĩ, cả Huyện có 1 bệnh viện, 15 trạm xá. Tổng cộng có 134 giường bệnh.
Có 22 bác sĩ, y sĩ 80, y tá 24, dược sĩ có bằng đại học, dược sĩ có bằng Trung cấp
chuyên nghiệp, dược tá, kỹ thuật viên trung cấp 10, nữ hộ sinh 15, Huyện vẫn chưa có
phòng khám khu vực, trung tâm kế hoạch hóa gia đình, viện điều dưỡng. . .[14].
Mặc dù phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thách thức nhưng Huyện vẫn luôn
quan tâm, chú trọng đến lĩnh vực văn hóa, giáo dục, từ năm 1997 Hoài Ân đã đạt
chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Đến nay, trên 80% số xã đồng
bằng đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Bình quân cứ 3 người dân có một
người đi học. Hiện nay Hoài Ân có 11 trường mẫu giáo, 19 trường tiểu học, 8 trường
trung học cơ sở, 2 trường trung học cơ sở kết hợp với trung học phổ thông, 1 trường
trung học phổ thông. Những năm gần đây con em Hoài Ân đỗ vào các trường đại học
nổi tiếng ở trong nước rất nhiều: đại học Khoa học XH&NV, ĐH khoa học tự nhiên,
ĐH bách khoa trong các tỉnh thành phố, ĐH quốc gia, Đại học y dược ( Hà Nội, Huế,
Đà Nẵng, TP. HCM) . . . đây là một tín hiệu lạc quan trong việc cung cấp và nâng cao
nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao trình độ đội ngũ
y, bác sĩ trong tương lai [13].
2.2. Thực trạng chăm sóc sức khỏe cho người có công cách
mạng huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định
Hoài Ân là một huyện có truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh
29
CM kiên cường bất khuất “sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc
(quyết tử cho tổ quốc quyết sinh)”. Chính vì vậy, đây cũng là huyện có số lượng
NCCCM rất đông (theo số liệu thống kê của phòng LĐ – TB&XH cả huyện có 2459
người trong đó thương, bệnh binh là 1567 người). Trong mẫu nghiên cứu tác giả tiến
hành khảo sát thực trạng chăm sóc sức khỏe cho nhóm đối tượng chủ yếu là thương,
bệnh binh.
2.2.1. Diện mạo của NCCCM huyện Hoài Ân
Do đặc thù lịch sử Việt Nam, người phụ nữ hàng ngàn năm nay ngoài việc ở nhà
chăm lo thực hiện vai trò sản xuất, vai trò tái sản xuất, họ còn là hậu phương cho tiền
tuyến và còn trực tiếp ra chiến trường. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ,
người phụ nữ tiếp tục thể hiện vai trò to lớn của họ trong đấu tranh giành độc lập dân
tộc và bảo vệ Tổ quốc. Số lượng phụ nữ và nam giới CCCM gần như có sự chênh lệch
không đáng kể. Trong mẫu nghiên cứu, nam (chiếm tỷ lệ 51,5 %), nữ (chiếm tỷ lệ
48.5%) [bảng 1; phụ lục 3]. Con số này thể hiện khoảng cách tương đối nhỏ giữa hai
giới về tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh CM.
Kết quả này càng chứng tỏ chúng ta đã tiến hành tốt cuộc vận động và triển khai
thành công chiến lược chiến tranh nhân dân, thực hiện theo chủ trương của Chủ tịch
Hồ Chí Minh “bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc . Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm không có gươm
thì dùng cuốc…. ” và quán triệt tinh thần “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
Về độ tuổi
Hầu hết những NCCCM trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ hiện nay
đã trở thành những người tuổi cao (những người ở nhóm tuổi từ 60 – 70 tuổi (chiếm
32.3%), trong độ tuổi từ 70 – 80 (chiếm 36.9%), trong khi đó ở độ tuổi dưới 60 tuổi
(chỉ chiếm 15.4% ) (đa số họ ở ranh giới từ 50 – 60 tuổi)). Đây là lứa tuổi gặp nhiều
khó khăn nhất trong các giai đoạn phát triển của con người, là lứa tuổi có sự lão hóa về
cơ thể, là lúc sức khỏe yếu kém và xuất hiện nhiều căn bệnh và cũng là lúc họ gặp
nhiều khủng hoảng về tâm lý. Hơn ai hết, họ rất cần đến sự quan tâm, chăm sóc, hỗ
trợ giúp đỡ của các thành viên trong gia đình, bạn bè, cộng đồng, xã hội để họ có thể
30
an hưởng tuổi già trong niềm vui, niềm hạnh phúc mĩ mãn.
Bảng 2: Độ tuổi
Độ tuổi Số lượng Tỷ lệ (%)
Dưới 60 tuổi 20 15.40%
Từ 60 – 70 tuổi 42 32.30%
Từ 70 – 80 tuổi 48 36.90%
Trên 80 tuổi 20 15.40%
Tổng 130 100
Tương quan giới tính – độ tuổi [bảng 1; phụ lục 4] cho thấy, trong tổng số nam
thì chủ yếu nam ở lứa tuổi từ 70 – 80 tuổi khá cao (chiếm 43.6%), trên 80 tuổi (chiếm
23.9%), còn nữ chủ yếu là thuộc nhóm tuổi từ 60 – 70 tuổi (chiếm 47.6%), từ 70 – 80
tuổi (chiếm 26.9%). So sánh tương quan nam trong các nhóm tuổi cao chiếm tỷ lệ cao
hơn nữ, nam trong độ tuổi trên 80 tuổi (chiếm 23.9%), nữ (chỉ chiếm 6.3%); dưới 60
tuổi nữ (chiếm tới 19.1%) nam (chỉ chiếm 11.9%). Sở dĩ có tình trạng này bởi số
người nam tham gia cách mạng từ năm 1945-1954 nhiều hơn nữ. Như vậy, xét về đặc
điểm tuổi cao sức yếu và bệnh tật thì đa số nam sẽ là người có sức khỏe yếu và có
nguy cơ mắc bệnh liên quan đến tuổi tác nhiều hơn nữ. . .
Về trình độ học vấn
Học vấn có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc cũng như
cuộc sống của mỗi người, nó ảnh hưởng rất lớn đến việc chăm sóc sức khỏe của mỗi
cá nhân. Tuy nhiên, trong mẫu điều tra, trình độ học vấn của người có công cách mạng
rất thấp. Người không đi học (chiếm tỉ lệ 42.3%), người học cấp I (là 25.4%) trong
khi đó ở nhóm đạt trình độ trung cấp chuyên nghiệp – cao đẳng – đại học lại là con số
vô cùng thấp (chỉ chiếm 3% ), ở trình độ trên đại học thì không có người nào [bảng 3;
phụ lục 3]. Nguyên nhân NCCCM có trình dộ học vấn thấp phần lớn là do điều kiện
chiến tranh. Trình độ học vấn ở nam và nữ cũng có sự chênh lệch đáng kể, trong tổng
số 67 nam thì tỷ lệ nam không đi học chiếm 29.9%, những người học cấp I chiếm
32.8%, trung cấp chuyên nghiệp – cao đẳng – đại học chỉ chiếm 6% và trong 63 nữ thì
số người không đi học chiếm 55.5% (đây là con số khá cao), không có người nào có
trình độ trung cấp chuyên nghiệp – cao đẳng – đại học [bảng 2; phụ lục 4 ]. Như vậy,
31
trình độ học vấn của nữ thấp hơn nam ở mọi cấp độ, điều này có thể giải thích rằng,
sau khi đất nước giành được độc lập thì một số người nam có điều kiện đi học lại từ đó
nâng cao trình độ học vấn còn đa số phụ nữ từ chiến trường trở về họ lại lao vào công
việc sản xuất để đảm bảo cho cuộc sống đồng thời họ còn mang thêm gánh nặng chồng
con nên họ đã hy sinh để chồng con đi học, cụ Y (80 tuổi, thôn Lộc Gian xã Ân Tường
Đông) tâm sự “Sau khi trở về với gia đình lúc ấy tôi đã 30 tuổi các cụ nhà giục tôi lấy
chồng, tôi lấy chồng 1 năm sau thì sinh con, dù là tôi rất muốn đi học thêm nhưng nghĩ
đi nghĩ lại dù sao mình cũng đã biết cái chữ rồi, thôi để tạo điều kiện tốt chăm lo cho con
học hành và tạo dựng tương lai của nó về sau là tôi thấy mãn nguyện rồi”).
Về số thành viên trong gia đình
Trước đó, do bối cảnh kinh tế – xã hội của đất nước, trình độ dân trí còn thấp và
công tác kế hoạch hóa gia đình chưa được chú trọng nên trên thực tế số con trong gia
đình của NCCCM là rất đông, gần như là trung bình ở con số dao động từ 5 – 10
người. Tại thời điểm tác giả tiến hành khảo sát thì hầu hết các con của NCCCM đã
trưởng thành và lập gia thất. Do đó, NCCCM hoặc là ở với gia đình mới của con
(thông thường là người con trai út trong gia đình) hoặc là họ ở riêng, vì vậy số thành
viên trong gia đình của đối tượng khảo sát chủ yếu ở ngưỡng từ 1- 8 người mà phổ
biến nhất là từ 3 – 4 người (chiếm 35.4% ) và từ 4 – 6 người (chiếm 37.4%) [bảng 4;
phụ lục 3].
Đối với NCCCM mô hình gia đình truyền thống là một mô hình lý tưởng, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc quan tâm, chăm sóc, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, trong mẫu nghiên cứu này vẫn có một số người
sống một mình hoặc là chỉ sống với người bạn đời của mình, đôi khi họ còn phải chăm
sóc cháu để cho con đi làm ăn xa, số gia đình có từ 1 – 2 người (chiếm 13.1% ) [bảng
4; phụ lục 3]. Điều đó đã gây ra rất nhiều khó khăn, trở ngại cho cuộc sống của họ, đặc
biệt là vấn đề chăm sóc sức khỏe bản thân. Đôi khi ốm đau, bệnh tật họ không có
người chăm sóc, theo lời tâm sự của cụ bà H (67 tuổi) “Hiện tôi đang ở với gia đình
của đứa con út nhưng mà vợ chồng nó ít khi ở nhà lắm, chúng nó phải vào Nam làm
ăn, chứ ở đây không có việc để làm cuộc sống khó khăn lắm, giờ chỉ có tôi và đứa
cháu gái 9 tuổi (con của vợ chồng đứa con út) cùng nương tựa vào nhau, chăm sóc
32
cho nhau nhưng con bé còn quá nhỏ nên nó còn khờ lắm, những lúc tôi hay nó ốm đau
là rất khổ. Nhưng phải chấp nhận vì cuộc sống mưu sinh mà, chỉ ước gì chúng nó ở
trong đó bình an cố gắng làm ăn tích góp để cho con cái có điều kiện học tập về sau”.
Về nghề nghiệp
Với đặc thù là một huyện miền núi nghèo cư dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề
nông nghiệp, lâm nghiệp (chiếm 39.2%), trong khi đó cán bộ công chức – viên chức
chỉ (chiếm 6.9%,), buôn bán (chỉ chiếm 6.2%), chủ yếu là buôn bán nhỏ để kiếm thêm
thu nhập, [bảng 5; phụ lục 3]. Còn lại là nghỉ hưu hoặc là không làm gì cả do tuổi cao
sức khỏe yếu kém, bệnh tật. Như vậy, mặc dù đã là người cao tuổi nhưng số đông
NCCCM vẫn phải tham gia làm việc đồng áng để phụ giúp con cháu, đôi khi những
công việc họ phải làm là quá sức của mình. Chính điều này đã ảnh hưởng tiêu cực tình
trạng bệnh tật và sức khỏe của họ.
Hình 1: cụ D (62 tuổi,
bệnh binh 51%) tham
gia lao động sản xuất
vì trời lạnh tuổi cao
sức yếu bà phải mang
chiếc áo mưa để chống
chọi.
Giữa nam và nữ về nghề nghiệp cũng có sự chênh lệch đáng kể [bảng 3; phụ lục
4]. Nữ làm nông và buôn bán chiếm tỉ lệ cao hơn nam (nữ làm nông 49,2% so với nam
làm nông 29,8%; nữ buôn bán 12,7% so với nam buôn bán 0%). Trong khi đó, nam
nghỉ hưu chiếm tỷ lệ cao hơn nữ gần 30%. Trong mỗi giới cũng có sự chênh lệch về
nghề nghiệp đáng kể nam nghỉ hưu chiếm tỉ lệ cao nhất, trong khi đó, ở nữ thì số
người làm nông lại chiếm tỉ lệ cao nhất. Có thể giải thích sự chênh lệch về nghề
nghiệp là do sự phân công lao động, vai trò cũng như mối quan hệ truyền thống giữa
nam và nữ có sự thay đổi không đáng kể.
Về thu nhập
Thu nhập là mối quan tâm lớn của NCCCM và gia đình của họ bởi nó chi phối
33
nhiều đến chất lượng sống. Thế nhưng, vẫn còn nhiều NCCCM huyện Hoài Ân có thu
nhập thấp, thu nhập hàng tháng từ 500.000đ – 1 triệu đồng (chiếm tới 63.8%), từ 1 – 2
triệu (chiếm 30%), trong khi đó trên 2 triệu đồng (chỉ chiếm 6.2%) [bảng 6; phụ lục 3].
Nguồn thu trong gia đình họ chủ yếu là nhờ số tiền trợ cấp hàng tháng cho thương,
bệnh binh tùy theo tỷ lệ thương tật và mất sức lao động, họ được nhận từ 500.000đ – 1
triệu, thậm chí có những người dù là nhận được trợ cấp nhưng do hoàn cảnh sống của
gia đình quá khó khăn không đảm bảo cho cuộc sống, nhiều người được xếp vào danh
sách hộ nghèo, được sự hỗ trợ từ các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo. Giữa
nam và nữ thì gần như số gia đình mà nam là NCCCM có thu nhập cao hơn gia đình
nữ là NCCCM, thu nhập từ 500.000đ – 1 triệu, nữ (chiếm tới 74.6%) trong khi đó nam
(chỉ chiếm 53.7%), trên 2 triệu đồng, nam (chiếm tới 9%, nữ chỉ chiếm 3.2%), [bảng
4; phụ lục 4], sở dĩ như vậy là bởi vì do vấn đề nghề nghiệp số nam là cán bộ công
nhân – viên chức và được hưởng lương hưu cao hơn nữ. Thu nhập của NCCCM thấp
là do họ bị thương tật, mất sức lao động; trình độ học vấn thấp; đồng thời cũng do tác
động từ những điều kiện khách quan khác như: điều kiện tự nhiên, khí hậu cơ sở vật
chất trang thiết bị phục vụ cho sản xuất…
Thu nhập thấp và hàng loạt hệ lụy của nó đối với NCCCM đã hạn chế họ trong
việc tiếp cận các dịch vụ an sinh, đặc biệt là vấn đề chăm sóc sức khỏe. Đa số những
người được phỏng vấn cho rằng với mức thu nhập đó của họ không đủ trang trải cho
sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày, theo lời cụ B (67 tuổi thôn Tân Thịnh – xã Ân
Tường Tây) “với số tiền đó không đủ đâu vào đâu cả, nhà tôi còn phải nuôi 2 đứa con
đang học đại học, gia đình tôi phải chạy đôn chạy đáo nhiều lúc thiếu thốn đủ điều
phải vay mượn khắp nơi, chưa kể đến việc tôi thường xuyên đau ốm có năm phải vào
viện điều trị 3 – 4 lần mà mỗi lần như thế thì chi phí khá cao.”
Thời điểm tham gia CM
Những người thương, bệnh binh trong mẫu nghiên cứu chủ yếu tham gia vào hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (từ 1945 – 1975), trong đó chiếm tỷ lệ cao
nhất là vào giai đoạn từ 1954 – 1975 (chiếm tới 70%), từ 1945 – 1954 (chiếm 29.2%),
còn trong giai đoạn trước 1945 (chỉ chiếm 0.8%) [bảng 7; phụ lục 3]. Điều này có thể
hiểu được qua lời tâm sự của cụ Q (60 tuổi, thôn Phú Hữu 1, xã Ân Tương Tây), “tôi
có hoài bảo muốn tham gia CM từ rất sớm, từ lúc mới khoảng 8 tuổi khi đi học và nhìn
34
thấy những người làm CM tôi ngưỡng mộ họ lắm, tôi xin gia đình cho đi CM lúc 10
tuổi nhưng gia đình không cho vì họ sợ tôi còn quá trẻ, cuối cùng, đến lúc tôi tròn 15
tuổi mới được tham gia, lúc đó tôi thấy vui sướng và tự hào lắm”. Phần nữa, có thể
hiểu đa số những người tham gia cách mạng trước năm 1945 đã qua đời.
Về những cống hiến cho CM
Gần như những người tham gia cách mạng đã cống hiến hết cả tuổi thanh xuân
của mình để đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc, thống nhất nước nhà. Trong mẫu
nghiên cứu, đa số họ cống hiến từ 5 – 10 năm (chiếm tới 67.7%), dưới 5 năm (chỉ
chiếm 31.5%) [bảng 8; phụ lục 3].
Rất nhiều người có mong ước được cống hiến nhiều hơn nữa nhưng vì nhiều lý
do khác nhau và phần đông là vì họ bị mắc bệnh nặng, bị thương tật không thể tiếp tục
trực tiếp tham gia chiến đấu buộc họ phải trở lại quê nhà, như trường hợp ông T (83
tuổi, thôn Nghiã Nhơn – xã Ân Nghĩa, thương binh 91%) tâm sự “lúc đó tôi bị thương
vì vết thương quá nặng tôi được họ bí mật đưa về bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh
chữa trị, sau khi đã khỏe lại thì tôi đã bị mất đi chân phải, không thể tiếp tục tham gia
chiến đấu được nữa khi nghe được tin đó tôi buồn, thất vọng và đau đớn vô cùng, tôi
thấy đau lòng còn hơn việc tôi bị mất đi một chân”.
Hình 2: chân dung cụ Đ đã mất đi vĩnh viễn một chân khi tham gia chiến
trường miền Bắc
Trong số những người được khảo sát đa số là thương binh (chiếm tới 73.1%),
[bảng 9; phụ lục 3] trong đó có 20% người có tỷ lệ thương tật từ 60 – 80%. [bảng 9.1;
phụ lục 3]. Đây là tỷ lệ thương tật khá cao, gần như họ mất đi hơn một nữa thân thể
của mình. Họ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề sinh hoạt hàng ngày cũng như việc
35
tham gia lao động sản xuất để tăng thu nhập cho gia đình. Bệnh binh (chiếm tỷ lệ
26.9%), [bảng 9; phụ lục 3] trong đó tỷ lệ mất sức lao động của họ khá cao, cao nhất
là tỷ lệ mất sức lao động từ 61% - 70% (chiếm 71.4%) trong tổng số bệnh binh [bảng 9.2;
phụ lục 3].
Những người được phỏng vấn đều cho rằng cuộc sống của thương, bệnh binh là
rất khó khăn. cụ P (69 tuổi, thôn Tân Thịnh – xã Ân Tường Tây) tâm sự, “chắc phần
nào cháu cũng thấy được những khó khăn, vất vã của chúng tôi rồi đấy, đặc biệt là
mỗi khi thời tiết thay đổi, trái gió trở trời vết thương hoành hoành từng cơn, đau đớn
lắm, nhất là những người bị vết thương ở đầu”
2.2.2. Thực trạng về sức khỏe của NCCCM của Huyện
Sức khỏe của con người nói chung và NCCCM nói riêng vào những năm tháng
cuối đời là kết quả của nhiều yếu tố khác nhau, được hình thành trong suốt cuộc đời
như trạng thái sức khỏe bẩm sinh, chế độ dinh dưỡng, điều kiện sống, các thói quen và
lối sống văn hóa, những thành đạt thăng tiến cá nhân, khả năng hòa nhập cộng đồng,
tình trạng hôn nhân, bệnh tật… Vì vậy, sức khỏe là một trong những mối quan tâm, lo
lắng không những của NCCCM mà còn là của cả gia đình, cộng đồng và xã hội. Đối
tượng khảo sát trong mẫu nghiên cứu này tương đối đặc biệt: họ vừa là thương, bệnh
binh vừa là những người thuộc nhóm cao tuổi cho nên tình trạng sức khỏe rất nhiều
vấn đề cần quan tâm và đề cập đến.
2.2.2.1. Thực trạng về sức khỏe thể chất
Phần đông những NCCCM đều có tình trạng sức khỏe thể chất rất yếu, họ mang
trong mình nhiều căn bệnh nguy hiểm (gần như trung bình từ 3 – 4 bệnh), đó là chưa
kể đến những căn bệnh tiềm ẩn chưa phát hiện. Mẫu nghiên cứu cho thấy họ mắc phải
những căn bệnh chủ yếu liên quan đến tình trạng tuổi cao, trong tổng số 9 nhóm bệnh
thường gặp thì chiếm tỷ lệ cao nhất là bệnh về xương khớp (chiế 87.7%), bệnh về
đường tiêu hóa (chiếm 69.2%), bệnh về đường hô hấp (chiếm 61.5%), bệnh huyết áp
36
(chiếm 57.7%), bệnh tim (chiếm 37.7%).
Bảng 10: Các căn bệnh mắc phải
Các căn bệnh mắc phải Tỷ lệ Số lượng (%)
Bệnh về tim 49 37.7
Bệnh tai biến mạch máu não 6 4.6
90 69.2 Bệnh đường tiêu hóa
80 61.5 Bệnh đường hô hấp
8 6.2 Bệnh trầm cảm
114 87.7 Bệnh xương khớp
39 30 Bệnh về gan, thận
75 57.7 Bệnh huyết áp
4 3.1 Bệnh khác
Trong tổng số nam thì những căn bệnh mà họ mắc phải nhiều nhất là xương khớp
(chiếm 81.1%), bệnh hô hấp (chiếm 76.1%), bệnh về đường tiêu hóa (chiếm 61.2%).
Còn trong tổng số nữ chiếm tỷ lệ cao nhất là bệnh xương khớp (chiếm 87.3%), bệnh
về đường tiêu hóa (chiếm 77.8%). So sánh tương quan giữa giới tính – bệnh tật hầu
như nam mắc bệnh chiếm tỷ lệ cao hơn nữ, đồng thời căn bệnh mà nam chiếm tỷ lệ
cao hơn nữ rất nhiều là bệnh về đường hô hấp, nam chiếm tới 76.1% trong khi đó nữ
chỉ chiếm 46%, bệnh về gan thận, nam chiếm 38.8%, nữ chiếm 20%. Nguyên nhân tất
yếu là số nam trong nhóm có độ tuổi cao nhất trên 80 tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn nữ (nam
chiếm 23.9%, nữ chỉ chiếm 6.4%), [bảng 1 phụ lục 4] hơn nữa thông thường nam có
rất nhiều thói quen ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khỏe: hút thuốc, rượu bia. . . là
một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến các căn bệnh về hô hấp mà cụ thể
như bệnh phổi và các căn bệnh về gan thận như sơ gan, ung thư gan. . . Nữ chiếm tỷ lệ
cao hơn nam giới về các căn bệnh tim (nữ chiếm tỷ lệ 47.6%) trong khi đó nam (chỉ
chiếm 28.4%) và bệnh trầm cảm thì nữ (chiếm 9.5%), nam (chiếm 3%) [bảng 8; mục
lục 4], là do đặc điểm tâm, sinh lý của phụ nữ và nam giới, vốn phụ nữ có sức khỏe thể
chất yếu hơn nam, rất nhạy cảm với các vấn đề trong cuộc sống họ rất dễ rơi vào trạng
thái buồn chán, lo âu, sợ hãi hơn nam giới. . . Hơn nữa, trong mẫu nghiên cứu có một
số phụ nữ đang ở trong giai đoạn có những biến đổi mạnh mẽ về tâm lý, họ phải trải
37
qua những khủng hoảng, những cảm xúc tiêu cực do thời kỳ mãn kinh gây ra.
Ở các độ tuổi khác nhau, tình trạng sức khỏe, mức độ bệnh tật cũng như các căn
bệnh mắc phải là khác nhau: độ tuổi càng cao bệnh tật mắc phải càng nhiều và họ
mang những căn bệnh phổ biến ở nhóm người cao tuổi: bệnh xương khớp ở độ tuổi từ
70 – 80 tuổi chiếm tới 100%, trên 80 tuổi 100%, từ 60 – 70 tuổi chiếm 83.3% trong
khi đó dưới 60 tuổi chỉ chiếm 55% (do tuổi cao khiến cho cơ bắp bị nhão, xương bị
vôi hóa, dòn và rất dễ gãy) . Bệnh về đường tiêu hóa (những người trên 80 tuổi chiếm
85%, từ 60 – 70 tuổi chiếm 71.1%, từ 70 – 80 tuổi chiếm 71.1% trong khi đó dưới 60
tuổi chỉ chiếm 45%) do tuổi càng cao thì sự suy giảm quá trình đồng hóa, dị hóa và
hoạt động của các cơ quan nội tạng đặc biệt là hệ tiêu hóa càng lớn, Bệnh huyết áp (ở
độ tuổi trên 80 tuổi chiếm 75%, dưới 60 tuổi chỉ chiếm 50%). Bệnh trầm cảm đa số là
ở độ tuổi dưới 60 (15%), từ 60 – 70 tuổi (9.5%), từ 70 – 80 tuổi 0% [bảng 16; phụ lục
4]. Do ở độ tuổi này đa số họ hoặc là sắp vào giai đoạn nghỉ hưu hoặc là đã nghỉ hưu
(đối với những người là cán bộ công chức – viên chức) dẫn đến những biến động
mạnh mẽ, họ giảm đi các hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội (bạn bè, đồng
nghiệp) một cách đột ngột khiến cho họ chưa kịp thích nghi. hay là họ bắt đầu bước
vào gia đoạn đầu của tuổi già với những biến đổi tâm sinh lý diễn ra đột ngột khiến họ
gặp lúng túng trong việc đối phó với những cảm xúc tiêu cực dẫn đến dễ rơi vào stress
và trạng thái trầm cảm nặng.
Trình độ học vấn cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình chăm sóc sức khoẻ của
NCCCM. Những người có trình độ học vấn càng thấp thì tỷ lệ mắc bệnh càng cao và
những căn bệnh chủ yếu mà họ mắc phải là: bệnh hô hấp những người có trình độ cấp
II (chiếm 95.8%) , nhóm người có trình độ TCCN – CĐ – ĐH (chỉ chiếm 50%); bệnh
xương khớp nhóm người học cấp I (chiếm 93.9%), nhóm người ở trình độ cấp II
(chiếm 91.7%), nhóm người không đi học (chiếm 89.1%); đặt trong tương quan so
sánh với trình độ học vấn và bệnh tật, thì bệnh về gan thận nhóm người không đi học
(chiếm 34.5%) trong khi những người có trình độ cấp III (chỉ chiếm tỷ lệ 21.4%),
những người học TCCN – CĐ – ĐH (chỉ chiếm 25%); bệnh huyết áp ở nhóm người
học cấp I (chiếm 77.8%), nhóm TCCN – CĐ – ĐH (chiếm 0% ) [bảng 19; phụ lục 4].
Có thể hiểu theo hai khía cạnh, một phần vì đa số những người có trình độ học vấn
thấp thuộc nhóm người có độ tuổi cao trong mẫu điều tra. Tuy nhiên, điều quan trọng
38
hơn cả là những người có trình độ càng cao thì họ càng có ý thức tích cực về sức khỏe,
bệnh tật họ không ngừng đi tìm kiếm những thông tin về vấn đề chăm sóc sức khỏe, từ
đó họ có nhiều hành vi bảo vệ sức khỏe.
Điều kiện kinh tế và bệnh tật có mối quan hệ hữu cơ tác động qua lại với nhau.
Điều này càng thể hiện rõ ở NCCCM. Đối với những gia đình NCCCM có kinh tế khá
giả thì NCCCM nói riêng và tất cả các thành viên trong gia đình họ đều có thể được
tiếp cận và sử dụng các dịch vụ an sinh, trong đó có dịch vụ chăm sóc sức khỏe và
đương nhiên tình trạng sức khỏe của họ được đảm bảo tốt hơn. Trái lại, những gia đình
NCCCM có thu nhập thấp thì bản thân họ và gia đình đều hạn chế hoặc không được
tiếp cận với các dịch vụ, kể cả dịch vụ chăm sóc sức khỏe, điều đó làm cho tình trạng
sức khỏe của họ không được đảm bảo, mắc nhiều bệnh và khi đó sẽ tác động ngược trở
lại đối với kinh tế gia đình. Số liệu sau thể hiện rất rõ điều này: người bị bệnh về tim
thường chỉ có thu nhập từ 500.000đ – 1 triệu đồng (chiếm tới 43.4%), từ 1 triệu – 2
triệu (chiếm 30.7%) trong khi đó trên 2 triệu (chỉ chiếm 12.5%). Người bi bệnh về gan
thận có mức thu nhập từ 500.000đ – 1 triệu đồng (chiếm tới 32.5%) trong khi đó ở
mức thu nhập trên 2 triệu (chiếm 25%) [bảng 21; phụ lục 4].
Như vậy, số liệu điều tra đã mô tả đa số tình trạng sức khỏe của NCCCM là rất
yếu. Và tình trạng ấy là do rất nhiều nguyên nhân cụ thể gây ra, các nguyên nhân đó có
quan hệ khăng khít với nhau, đôi khi là sự tổng hợp của nhiều nguyên nhân. Số người
bị mắc bệnh do điều kiện thời tiết (chiếm 95.3%), di chứng của chiến tranh (chiếm
92.3%), tuổi cao sức yếu (chiếm 91,5%), một nguyên nhân hết sức quan trọng là
không chăm sóc chu đáo (ở đây bao gồm việc cá nhân không quan tâm chăm sóc bản
thân và không được người khác chăm sóc), (chiếm 76.2%) [bảng 11; phụ lục 3] .
Nguyên nhân bị bệnh ở nam và nữ, theo các độ tuổi, trình độ học vấn khác nhau, đều
có sự khác biệt.
Về giới tính, hầu như cả hai giới đều xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản với tần
xuất khá cao là: tuổi cao sức yếu, không chăm sóc chu đáo, di chứng chiến tranh, điều
kiện thời tiết. Tuy nhiên vẫn có sự chênh lệch, nguyên nhân không chăm sóc chu đáo
nữ cao hơn nam, nữ (chiếm 85.7%), nam (chiếm 67.2%) [bảng 7; phụ lục 4] và trong
nguyên nhân này đa số nam là không nhận được sự chăm sóc chu đáo từ người khác
còn nữ lại là xuất phát từ bản thân họ ít quan tâm, chăm sóc cho chính mình, (tỷ lệ
39
nam tìm kiếm các thông tin về chăm sóc sức khỏe và thực hiện hành vi tốt cho sức
khỏe cao hơn nữ điển hình tỷ lệ nam tập thể dục dưỡng sinh (chiếm 22.4%), nữ (chiếm
0%) [bảng 15; phụ lục 4], hay số lần đi khám chữa bệnh của nam cao hơn: từ 3 – 4 lần,
nam (chiế 20.9%), nữ (chỉ chiếm 12.7% ) [bảng 9 phụ lục 4]).
Về độ tuổi, tất yếu ở độ tuổi càng cao càng chịu sự tác động mạnh mẽ bởi nhiều
yếu tố như tuổi tác, điều kiện thời tiết, đặc biệt với những người thương, bệnh binh thì
còn có thêm yếu tố thương tật, bệnh tật gây ra tình trạng sức khỏe yếu kém: so sánh
giữa hai nhóm tuổi, trên 80 tuổi cả 3 nguyên nhân trên đều (chiếm 100%) còn ở nhóm
tuổi dưới 60 tuổi với con số tương đương là tuổi cao sức yếu (chiếm 45%), điều kiện
thời tiết (chiếm 90%), di chứng chiến tranh (chiếm 55%) [bảng 17; phụ lục 4].
Về trình độ học vấn, những người ở nhóm không đi học và học cấp I đều khẳng
định nguyên nhân bệnh tật của họ là do tuổi cao sức yếu (chiếm con số tuyệt đối
100%; ở trình độ cấp III (chiếm 64.3%), nhóm người có trình độ TCCN – CĐ - ĐH
chiếm 50%) . Phần khác, họ cũng cho rằng, bệnh tật của họ là do không được chăm
sóc chu đáo (ở nhóm người không đi học là 89.1% trong khi đó ở trình độ TCCN – CĐ
– ĐH chỉ chiếm 25%) [bảng 20; phụ lục 4]. NCCCM giải thích về nguyên nhân bệnh
tật của họ như vậy cũng có thể hiểu được bởi thực tế là trình độ học vấn càng thấp thì
càng hạn chế hiểu biết về sức khỏe, chăm sóc sức khỏe (nhiều người có những hành vi
thói quen ảnh hưởng xấu đến sức khỏe mà họ không hề biết hoặc nếu biết thì cũng chỉ
ở cấp độ sơ khai (biết tác động xấu nhưng không biết cách phòng ngừa). Ngược lại,
trình độ học vấn càng cao thì càng có ý thức về sức khỏe như có hành vi, thói quen tốt cho sức khỏe, học cách phòng bệnh. . .
2.2.2.2. Thực trạng về sức khỏe tinh thần
Trong các yếu tố sức khỏe con người, sức khỏe tinh thần có vai trò quan trọng,
nó tác động, chi phối sức khỏe thể chất và quan hệ xã hội của NCCCM. Một khi tinh
thần không thoải mái, luôn lo âu, buồn phiền, bất an. . . sẽ làm cho tình trạng sức khỏe
giảm sút hoặc làm cho các căn bệnh mà họ mắc phải trở nên trầm trọng hơn. . . và họ
sẽ không có hứng thú để tham gia các hoạt động xã hội cũng như ảnh hưởng không tốt
đến các mối quan hệ của NCCCM.
Do sự từng trải khiến cho họ khó chấp nhận cái mới, khó thay đổi ý kiến chính
40
điều này đã khiến cho họ và con cháu khó hòa hợp với nhau và việc họ không hài lòng
về con cháu là rất nhiều, đôi khi nó khiến cho họ có cảm giác hụt hẫng thất vọng, cô
đơn.
Cho dù họ đã từng là những con người chí khí ngất trời “đầu đội trời chân đạp
đất” nhưng phần lớn do tuổi cao giảm khả năng trí tuệ và hoạt động trong cuộc sống
khiến cho một số NCCCM có thể cảm thấy bất lực, yếu sức, mất tự chủ, nhạy cảm, dễ
mủi lòng, hờn dỗi, uất ức cho nên đôi lúc họ tự giận bản thân mình và giận người
khác, từ chối sự giúp đỡ mặc dù hoàn cảnh của họ rất cần sự giúp đỡ của gia đình và
xã hội. Một số luôn có tâm lý lo âu, buồn chán, đôi khi họ cảm thấy chán sống, nhất là
những người có bệnh lâu dài và yếu sức. Điển hình như trường hợp cụ P (69 tuổi; Trí
Tường – Ân Tường Đông; thương binh 21%), cụ là một người rất lạc quan yêu đời
nhưng cách đây 4 năm tâm trạng cụ trở nên u uất, trầm cảm nặng khi cụ mắc phải căn
bệnh tai bến mạch máu não, suốt thời gian qua cụ chỉ biết nằm trên giường “chờ chết”
(theo lời của cụ), cụ tâm sự “tôi chỉ muốn chết đi cho nhẹ người, giờ tôi trở thành
người vô dụng báo hại con cháu, tôi nằm liệt giường chẳng những không giúp được gì
cho chúng mà còn báo hại chúng phục dịch tận nơi, tôi cảm thấy thật là nặng nề. Lúc
đầu mới phát bệnh tôi đã có ý định đi theo các đồng chí, đồng đội nhưng tôi cảm động
trước sự chăm sóc tận tình của con, cháu đặc biệt là đứa cháu dâu út, mới về làm dâu
không bao lâu là tôi ngã bệnh”.
Cuộc sống của người thân luôn tác động mạnh mẽ đến họ, dường như họ lấy con
cháu làm lẽ sống cho đời mình, dù là có những lúc họ không hài lòng, bất đồng, trách
móc con, cháu. . . nhưng tình yêu thương mà họ dành cho con, cháu là vô bờ bến, họ
luôn theo dõi từng bước chân, từng hành động, họ đau nỗi đau của con cháu. Cuộc đời
luôn ẩn chứa những tai họa, những rủi ro mà người ta không ngờ tới, nếu họ không đủ
dũng cảm để đương đầu, không đủ kinh nghiệm để đối phó thì rất dễ rơi vào tình trạng
mê hoặc bản thân (sống trong cảnh ảo) hoặc là hủy hoại bản thân với nhiều hình thức
khác nhau. Có rất nhiều người trong mẫu nghiên cứu rơi vào hoàn cảnh bất hạnh với
những vết thương lòng khó chữa, nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sống của họ.
Chẳng hạn như câu chuyện thương tâm của cô năm N (59 tuổi, thương binh 51%, thôn
Tân Thạnh – Ân Tường Tây): vào ngày 22/12/2010 (âm lịch) con gái cô bị tai nạn
giao thông và mất trước 1 ngày lên xe hoa. Tác giả thường xuyên đến thăm hỏi, động
41
viên cô, lúc nào ánh mắt cô cũng buồn rười rượi, nhìn xa xăm một cách vô định vô
hồn, nhìn cặp mắt ấy người ta hiểu được cô đang phải gánh chịu nỗi đau vô cùng lớn.
Cô tâm sự “từ ngày con bé ra đi tôi không còn thiết gì nữa, cuộc sống của tôi giờ thật
là vô nghĩa, tại sao ông trời lại đối xử với tôi như vậy, đời tôi chưa từng làm chuyện
ác, chưa từng hại ai, thật là bất hạnh khi người tóc bạc tiễn kẻ đầu xanh (những giọt
nước mắt cô lăng dài khiến cho bất cứ ai cũng sẽ cảm nhận được nỗi đau đớn bất
hạnh này)”.
Có thể khẳng định rằng, trong các yếu tố có ảnh hưởng đến sức khoẻ người cao
tuổi nói chung và NCCCM nói riêng, gia đình hòa thuận, tinh thần thoải mái, lạc quan
yêu đời, là yếu tố có ảnh hưởng tích cực tới sức khỏe, trực tiếp nhất là sức khỏe thể
chất của họ, ngược lại thì sẽ có tác động tiêu cực.
2.2.2.3. Thực trạng về mặt quan hệ xã hội
Do NCCCM đa số ở độ tuổi nghỉ hưu, đi lại khó khăn và sức khỏe giảm sút nên
quan hệ xã hội của họ bị thu hẹp đáng kể. Họ gặp khó khăn trong việc duy trì các mối
quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp, bà con hàng xóm, người thân cũng như giảm đi khả
năng tham gia vào các tổ chức xã hội và các hoạt động xã hội (tỷ lệ người không tham
gia các tổ chức đoàn thể rất cao (chiếm 66.2%) [bảng 21; phụ lục 3], còn số người có
tham gia thì đa số họ tham gia vào các tổ chức ở tại thôn, xã gần nhà. Những hoạt
động mà họ tham gia chủ yếu là nhằm cải thiện sức khỏe tinh thần, những hoạt động
nhằm cải thiện sức khỏe thể chất thì hầu như không có. Tỷ lệ tham gia vào các tổ chức
xã hội của nhóm người có độ tuổi càng thì càng ít dần (do tuổi cao sức yếu đi lại khó
khăn cùng với tâm lý ngại làm phiền co cháu). Phụ nữ có tỷ lệ không tham gia cao hơn
nam giới, nữ chiếm 77.8%, nam chỉ chiếm 55.2% [13; phụ lục 4]) (do phụ nữ còn phải
lao động sản xuất và làm nhiều công việc chăm sóc gia đình).
2.2.3. Thực trạng thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe cho
NCCCM huyện Hoài Ân
2.2.3.1. Về công tác thực hiện những quy định, chính sách của
Nhà nước đối với NCCCM
Trong những năm qua, Huyện đã thực hiện tương đối tốt các chính sách cho
NCCCM, cụ thể chính sách về chăm sóc sức khỏe bao gồm: chính sách bảo hiểm,
42
chính sách trợ cấp hàng tháng, chính sách điều dưỡng.
Về bảo hiểm
Trong mẫu nghiên cứu này 100% NCCCM được hưởng chế độ bảo hiểm theo
quy định: cấp thẻ bảo hiểm, được chi trả tiền viện phí [bảng 12; phụ lục 3].
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế họ phải chi
phí nhiều khoản khác: đi lại, ăn ở, bồi dưỡng cho cán bộ . . . thậm chí là đối với những
bệnh nặng họ phải tự thanh toán mua các loại thuốc đắt tiền tại quầy thuốc tư của bệnh
viện để bổ sung, hỗ trợ điều trị. Cô D (50 tuổi, xã Ân Tường Đông) đưa ra nhận xét
“Bà cụ được phát thẻ bảo hiểm y tế và được khám chữa bệnh miễn phí vậy mà, vừa rồi
bà cụ bị gãy chân đưa vào bệnh viện, lúc ấy là nửa đêm các bác sĩ bảo tôi ra ngoài
tiệm thuốc tư của bệnh viện để mua dụng cụ và thuốc vào nẹp cho bà cụ, mấy hôm sau
bên cạnh họ chữa trị bằng thuốc miễn phí của bệnh viện họ còn bảo tôi trực tiếp đi
mua nhiều thứ thuốc khác, tôi không biết là thuốc gì mà đắt lắm. Sau một tuần chi phí
quá cao bà cụ đòi xuất viện. Vậy thì sao gọi là miễn phí trong chữa bệnh được”. Chính
điều này là một trong những lý do hạn chế việc sử dụng thẻ bảo hiểm để khám, chữa
bệnh cũng như giảm đi cơ hội khám chữa của người dân, đặc biệt là người nghèo,
những người có điều kiện kinh tế khó khăn . Khiến cho ý nghĩa nhân văn của việc
khám chữa bệnh miễn phí bằng bảo hiểm không còn nguyên vẹn. Tồn tại bên trong
việc thực hiện chế độ bảo hiểm y tế cho NCCCM là tình trạng thủ tục đăng ký rườm rà
phức tạp, mất thời gian chờ đợi, điều này là khó khăn lớn của những người thuộc
nhóm cao tuổi và thương, bệnh binh.
Việc thực hiện cấp phát thẻ bảo hiểm cho người dân nói chung và NCCCM nói
riêng còn nhiều khó khăn trở ngại, đơn vị trực tiếp cấp phát bảo hiểm cho NCCCM là
phòng LĐ – TB&XH Huyện. Do số lượng người được cấp khá đông khiến cho nhân
viên đôi lúc nhầm lẫn về thông tin của NCCCM, buộc họ phải mất thời gian sửa đi sửa
lại rất vất vã hơn nữa vào năm 2010 quy định cơ sở khám chữa, bệnh bảo hiểm y tế
ban đầu cho NCCCM là trạm y tế các xã, trên thực tế NCCCM có nhu cầu cao được
khám chữa bệnh tại bệnh viện Huyện vì theo họ chất lượng khám, chữa bệnh của trạm
y tế xã không cao, nơi này chủ yếu chỉ khám, chữa các căn bệnh thông thường: cảm
cúm, nhức đầu. . .nếu họ muốn khám bệnh tại bệnh viện phải xin giấy chuyển viện rất
phức tạp đôi khi họ không sử dụng thẻ bảo hiểm mà trực tiếp khám tư ở bệnh viện.
43
Về trợ cấp hàng háng
100% đối tượng thương, bệnh binh trong mẫu nghiên cứu này đều nhận được trợ
cấp ưu đãi hàng tháng [bảng 18; phụ lục 3] và nhờ khoản trợ cấp đó họ có thể chi phí
một phần cho sinh hoạt hàng ngày của mình để cuộc sống họ đỡ khó khăn vất vả hơn.
Với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và địa phương hiện tại thì trên thực tế đây là
khoản trợ cấp còn thấp (khoảng từ 500.000đ – 1,5 triệu tùy vào tỷ lệ mất sức lao động
và tỷ lệ thương tật) với những khó khăn trong điều kiện kinh tế của gia đình chưa đáp
ứng được nhu cầu an sinh của họ. Lời tâm sự của cụ H (66 tuổi, bệnh binh 71%, xã Ân
tường Tây) đã khẳng định điều này “Nhờ có khoản trợ cấp đó gia đình chúng tôi có
thêm một khoản thu nhập để chi phí, tuy nhiên, so với thị trường giá cả ngày nay thì
đó là số tiền tương đối ít ỏi, mỗi khi tôi lên cơn đau tim thì số tiền đó không đủ cho tôi
nằm viện”.
Về điều dưỡng
Điều dưỡng là phương thức, hoạt động nằm trong công tác chăm sóc sức khỏe
cho NCCCM. 100% NCCCM huyện Hoài Ân đều được hưởng chế độ điều dưỡng,
trong đó điều dưỡng luân phiên 5 năm 1 lần chiếm tỷ lệ cao nhất 98.5%, điều dưỡng
luân phiên 1 năm một lần chỉ chiếm 1.5% (đó là một người có cống hiến cho sự nghiệp
CM trên 10 năm và một người có tỷ lệ thương tật trên 81%) [bảng 19; phụ lục 3] phần
đông những người được điều dưỡng luân phiên 5 năm một lần không hài lòng vì họ
cho rằng, khoảng cách giữa 2 lần điều dưỡng là quá lâu và như thế số lần được điều
dưỡng sẽ bị hạn chế.
Đa số NCCCM điều dưỡng tại gia đình (chiếm 89.2%), chỉ có (10.7%) số được
điều dưỡng tại cơ sở đây là con số rất hạn chế [bảng 20; phụ lục 3]. Điều này xuất phát
từ thực trạng số lượng NCCCM quá đông trong khi đó cả tỉnh Bình Định chỉ có một
trung tâm Chăm sóc người có công không đủ khả năng để đáp ứng nhu cầu của
NCCCCM. Tỷ lệ điều dưỡng tại cơ sở của nam cao hơn nữ, (nam chiếm 17.9%), nữ
(chỉ chiếm 3.2%) [bảng 12; phụ lục 4], nguyên nhân do đa số phụ nữ phải thực hiện
rất nhiều công việc (sản xuất, chăm sóc con cái. . . nên họ không có thời gian rảnh rổi
để đi điều dưỡng trong vòng 10 ngày tại các trung tâm chăm sóc NCCCM. Hầu hết
NCCCM đều nhận thấy tác động của điều dưỡng đối với việc chăm sóc sức khỏe của
44
họ là rất tích cực, đặc biệt là khi họ được điều dưỡng tại trung tâm Chăm sóc NCCCM.
Về phía các cán bộ thực hiện công tác điều dưỡng cho rằng họ gặp phải rất nhiều
khó khăn và lúng túng, theo lời anh M (là cán bộ công tác tại phòng LĐ – TB&XH xã
Ân tín ) “khi thực hiện công tác điều dưỡng cho người có công chúng tôi gặp phải
nhiều khó khăn, nhu cầu được điều dưỡng tại cơ sở của NCCCM rất cao, mà theo quy
định công văn mới của phòng LĐ – TB&XH huyện hướng dẫn thì không thể đáp ứng
được nhu cầu đó. Vì có thể họ không thuộc đối tượng được điều dưỡng tại trung tâm
vào năm nay. Họ hưởng phương thức điều dưỡng luân phiên 5 năm 1 lần (đến 5 năm
mới được điều dưỡng trở lại), với nhóm đối tượng này trước đây chúng tôi có thể xê
xoa, chưa được 5 năm chúng tôi vẫn lập danh sách cho đi điều dưỡng tại cơ sở vì
thiếu chỉ tiêu nhưng năm nay công văn của sở LĐ – TB&XH Bình Định đã nêu rõ
(Nếu địa phương nào lập danh sách đối tượng chưa đủ 5 năm thì phải chịu trách
nhiệm bồi thường theo quy định”) cho dù họ có nhu cầu nhưng chưa đủ 5 năm hay dù
là thiếu người để đưa đi cũng không dám đưa nhóm đối tượng này đi điều dưỡng tại
trung tâm chăm sóc NCCCM tỉnh Bình Định.
Nói tóm lại, việc thực thi chính sách chăm sóc sức khỏe cho NCCCM còn gặp
nhiều khó khăn là do: việc ban hành các văn bản hướng dẫn của các ngành có liên
quan chưa kịp thời, chưa cụ thể; do vậy tuyến cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, không
linh động điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh của từng địa phương; thiếu sự phối
hợp liên ngành trong triển khai thực hiện các chính sách đặc biệt ở tuyến cơ sở; do
thiếu văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cũng như kiểm tra, giám sát việc thực thi cụ thể của
địa phương đối với từng cấp; việc phổ biến văn bản chính sách ở tuyến xã chưa thật sự
đầy đủ tới tất cả các đối tượng có liên quan; thiếu kinh phí, nguồn nhân lực, cũng như
nhận thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm đối với NCCCM của một số nhà lãnh đạo địa
phương, của cộng đồng.
2.2.3.2. Về cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ
công tác chăm sóc sức khỏe NCCCM huyện Hoài Ân
Do kinh phí đầu tư hàng năm cho lĩnh vực y tế quá thấp, năm 2010 chi phí đầu tư
cho y tế Huyện là 400.560.000đ [13] với nguồn kinh phí này khó có thể đáp ứng được
yêu cầu nâng cao chất lượng chất lượng làm việc của cơ sở khám, chữa bệnh. Cở sở
vật chất, trang thiết bị thiếu về số lượng và lạc hậu về kỹ thuật, khiến cho chất lượng
45
khám, chữa bệnh cho người dân ở Huyện rất kém. Có nhiều trường hợp, các loại thiết
bị y tế trong khi được sử dụng vì quá cũ, lạc hậu nên cho kết quả chuẩn đoán sai bệnh,
dẫn đến trường hợp phải chết oan. Những NCCCM đã từng đi khám, chữa bệnh cho
rằng phổ biến thiếu thốn về cơ sở vật chất trang thiết bị chiếm 46.9% [bảng 17; phụ
lục 3].
.
Hình 3: Tình trạng thiếu giường bệnh trong phòng cấp cứu
Tại những nơi khám, chữa bệnh khác nhau có mức độ thiếu thốn về cơ sở vật
chất, trang thiết bị khác nhau. Thông thường tại các cở sở khám chữa bệnh quy mô
nhỏ rơi vào tình trạng rất thiếu thốn, không có đối tượng nào trong mẫu điều tra cho
rằng tại phòng khám tư của Huyện rất đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị trong khi
bệnh viện thành phố, tỉnh (chiếm tới 50% ). Bên cạnh đó, NCCCM còn đánh giá bệnh
viện thành phố, tỉnh ý kiến cho rằng rất thiếu thốn (chiếm 0%), phòng khám tư (chiếm
13.5%), trạm y tế xã (chiếm 21.7%) [bảng 26; phụ lục 4]. Đây cũng là lý do khiến cho
người ta mong muốn được khám chữa bệnh tại những nơi có quy mô lớn.
2.2.3.3. Về nguồn nhân lực trong chăm sóc sức khỏe người có
công cách mạng huyện Hoài Ân
2.2.3.3.1. Về đội ngũ cán bộ y tế
Là một huyện còn nhiều khó khăn, đội ngũ nhân viên trong ngành y tế của Huyện
hiện nay rất mỏng (vừa thiếu vừa yếu) chưa thể đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức
khỏe của người dân. Theo thống kê của phòng Y Tế huyện Hoài Ân năm 2010 (cả
Huyện có 4181.8 người/1 bác sĩ, 3833.3 người/y tá, 686.6 người /1 giường bệnh, 115
người/y sĩ. Trình độ của các y, bác sĩ còn thấp, chủ yếu có bằng đại học, cao đẳng,
46
trung cấp chuyên nghiệp, chưa có ai có bằng tiến sĩ hay thạc sĩ trong ngành y).
Không những thiếu về số lượng, kém về trình độ mà nhận thức, thái độ phục vụ
của họ với bệnh nhân chưa đạt hiệu quả. Người dân vẫn còn phàn nàn nhiều về thái độ
phục vụ của đội ngũ y, bác sĩ. Số liệu điều tra cho thấy có tới 36.9% ý kiến cho rằng y,
bác sĩ còn lạnh lùng, cẩu thả, thiếu trách nhiệm, thiếu tôn trọng bệnh nhân, số ý kiến
cho rằng họ ân cần, chu đáo có trách nhiệm, tôn trọng bệnh nhân là rất ít (chỉ chiếm
13.8% [bảng 16; phụ lục 3].
Thái độ phục vụ của đội ngũ nhân viên y tế ở các cơ sở khác nhau cũng có sự
khác biệt. Theo đánh giá của NCCCM đội ngũ y bác sĩ tại bệnh viện thành phố, tỉnh
Ân cần, chu đáo có trách nhiệm, tôn trọng bệnh nhân cao nhất (chiếm 50%), phòng
khám tư (chiếm 21.6%) và thấp nhất là trạm y tế xã chỉ (chiếm 4.4%). Ngược lại thái
độ lạnh lùng, cẩu thả, thiếu trách nhiệm, thiếu tôn trọng bệnh nhân của y, bác sĩ chiếm
tỷ lệ cao nhất là trạm y tế xã (chiếm 65.2%), trong khi đó tại phòng khám tư (chiếm
16.2%), bệnh viện thành phố tỉnh (chiếm 20%) [bảng 25; phụ lục 4]. Điều này chứng
tỏ rằng tại các phòng khám tư và bệnh viện thành phố, tỉnh thái độ phục vụ của nhân
viên y tế tốt hơn (bởi vì tại những nơi này mang hình thức kinh doanh rất cao buột đội
ngũ y, bác sĩ phải có thái độ phục vụ tốt đối với bệnh nhân để có thể thu hút khách
hàng). Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến cho nhiều người thích
khám, chữa bệnh ở phòng khám tư (dù là phải tốn kém) và bệnh viện huyện nhiều hơn
trạm y tế xã.
Hình 4: Bệnh viện lúc nào cũng đông đúc bệnh nhân, trạm y tế gần như là
vắng bóng bệnh nhân.
2.2.3.3.2. Về chính quyền địa phương và cộng đồng
Hiện nay, việc thực hiện chế độ chăm sóc NCCCM nói chung và chăm sóc sức
47
khỏe NCCCCM nói riêng của Huyện được thể hiện qua việc tổ chức các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” .
Để động viên về mặt tinh thần cho NCCCCM, chính quyền đại phương thường tổ
một số buổi lễ để NCCCM có thể gặp gỡ, trò chuyện, động viên nhau nhưng do hình
thức tổ chức chưa phong phú thiếu sự đa dạng nên chưa thu hút được mọi người tham
gia.Trong các hoạt động đó, hoạt động tổ chức lễ kỷ niệm ngày truyền thống CM thu
hút NCCCM tham gia khá đông (chiếm 45.4%), tiếp đến là tổ chức gặp gỡ trò chuyện
về những năm tháng tham gia CM (chiếm 29.2%). Các hoạt động trò chuyện với thế
hệ trẻ về truyền thống CM (chiếm 6.9%), các cuộc thi (văn nghệ, thể dục thể thao, kiến
thức. . . (chiếm 6.2%)) [bảng 22; phụ lục 3], (vì những hoạt động trò chuyện, các cuộc
thi. . . ít được tổ chức hoặc nếu có tổ chức thì đối tượng chính được mời tham dự là
những NCCCM thuộc nhóm đối tượng cán bộ – công chức viên chức còn những đới
tượng có công là dân thường ít khi được mời tham dự những chương trình đó). Sự nhì
nhận về việc tổ chức các hoạt động của Nam và nữ cũng có sự khác biệt, chọn câu trả
lời không có hoạt động nào của nữ cao hơn nam (nữ chiếm 60.3%; nam chiếm 44.8%)
có thể hiểu đại đa số phụ nữ CCCM hoặc là họ không được mời tham gia hoặc là họ
không biết, hoặc là họ không muốn quan tâm tìm hiểu.
Đối với công tác chăm sóc sức khỏe thể chất cho NCCCM thông qua việc tổ
chức khám chữa bệnh miễn phí cho họ hầu như không được thực hiện. Việc chăm sóc
sức khỏe cho NCCCM hiện nay của ngành y tế mang tính thụ động. Hoạt động tuyên
truyền, giáo dục sức khoẻ phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe cho NCCCM gần
như chưa được thực hiện một cách có tổ chức, có kế hoạch dựa trên mô hình sức khỏe
cụ thể của NCCCM của Huyện. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như
khó khăn về kinh phí, nhân lực. . . tuy nhiên, phần lớn là do nhận thức hạn chế của một
số nhà lãnh đạo địa phương.
Bên cạnh những hoạt động trên, chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể
tiến hành đến nhà thăm hỏi, tặng quà động viên (chiếm tỷ lệ cao nhất là hội cựu chiến
binh 30%và cán bộ địa phương 14.6%, hội người cao tuổi 11.5%, trong khi đó các tổ
chức cá nhân còn trẻ, khỏe lại tham gia vào công tác này rất ít đoàn thanh niên 3.1%,
giáo viên , học sinh 1.5% [bảng 24; phụ lục 3] (đây là lực lượng rất dồi dào và hơn ai
hết họ phải tham gia để thể hiện lòng biết ơn những anh hùng đã hy sinh cũng như
giúp họ phát huy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cách mạng và học noi gương
48
NCCCM).
Chủ yếu chính quyền địa phương, các tổ chức, đoàn thể đến nhà thăm hỏi, tặng
quà và động viên vào những ngày lễ lớn của đất nước ngày Thương binh liệt sĩ (chiếm
43.8%), ngày Quốc khánh (chiếm 30.7%). Mức độ đến nhà cũng rất hạn chế, trong số
những NCCCM chọn phương án rất thường xuyên (đến từ 1 – 2 lần/ năm) (chiếm tỷ lệ
rất thấp 6.9%) thỉnh thoảng (từ 3 – 5năm/lần) (chiếm tới 46.2%) [bảng 23; phụ lục 3].
Đồng thời tỷ lệ người không được đến nhà, không có vào dịp thời gian nào và không
có tổ chức, đoàn thể nào đến thăm hỏi, tặng quà động viên là rất cao (chiếm 35.4%)
[bảng 24; phụ lục 3] (Những người này vẫn được thăm hỏi tặng quà động viên nhưng
chính quyền địa phương, các tổ chức cá nhân không trực tiếp đến nhà họ mà họ được
mời đến phòng LĐ – TB&XH xã nhận quà, thông thường là người thân của họ đi. Đa
số những người này không thích cách làm đó vì theo họ thì nó giống như sự bố thí, họ
thích được chính quyền, các tổ chức đoàn thể trực tiếp đến nhà và trao tặng cho họ
những món quà tình nghĩa hơn). Lời tâm sự bác Q (61 tuổi, thôn Chí Thịnh – xã Ân
Tường Tây) “không phải năm nào họ cũng đến thăm, có thể năm nay họ tặng cho tôi
năm sau họ tặng cho người khác, từ trước tới giờ chưa bao giờ họ trực tiếp đến nhà
tặng quà cho tôi mà là tôi nhận thông báo trực tiếp lên phòng LĐ – TB&XH xã nhận.
Tôi không thích lắm vì nó giống như sự bố thí, ban ơn”.
Những hoạt động của chính quyền địa phương và các tổ chức, đoàn thể trong
công tác chăm sóc NCCCCM nói chung và chăm sóc sức khỏe nói riêng vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu được quan tâm, chăm sóc của NCCCM của huyện Hoài Ân.
2.2.3.3.3. Về gia đình người có công CM
Có thể thấy, kiểu gia đình gồm nhiều thế hệ sống chung với mối quan hệ khăn
khít là điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe các thành viên trong gia đình,
đặc biệt là gia đình người cao tuổi và thương, bệnh binh. Môi trường gia đình có ảnh
hưởng quyết định và gần gũi nhất đối với sự suy giảm hay ổn định sức khỏe của họ.
NCCCM nhận được sự chăm sóc trực tiếp gần gũi và đầy đủ nhất ngay trong chính gia
đình của mình. Hơn nữa, chính trong gia đình giữa con cháu và họ tìm được cảm giác
bình yên, sự thỏa mãn và vui vẻ, đặc biệt cảm giác có ích là cảm giác trực tiếp tạo ra
trạng thái sảng khoái hay u uất. Các mối quan hệ trong gia đình như: quan hệ giữa cụ
49
ông và cụ bà, giữa các cụ và con cháu có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, tâm trạng, là
nguồn trợ giúp về tài chính lúc các cụ khỏe mạnh hay ốm đau. Sự đầm ấm hạnh phúc
của gia đình đã làm các cụ bớt đi cảm giác mặc cảm về bệnh tật và tuổi tác của mình.
Đối với những gia đình nhiều thế hệ, NCCCM được con cái quan tâm chăm sóc
tốt hơn so với trước đây do họ nhận thức tốt hơn về trách nhiệm đối với cha mẹ cũng
như có kiến thức tốt hơn nên biết cách chăm sóc cha mẹ hơn. Hầu hết họ được con,
cháu, người thân đưa đi khám, chữa bệnh thường xuyên 83.1%, số người tự đi một
mình chiếm 14.6%, hàng xóm đưa đi (chiếm 2.3%) đa số họ là những người đơn thân
hoặc trong gia đình ít người hay là sức khỏe họ còn tốt có thể tự đi được [bảng 15;
mục 3]. Tự đi một mình nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam (nữ chiếm 22.2%, nam chiếm
7.5%) một phần là do số nam giới thuộc nhóm cao tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn nữ đa số
họ không thể tự đi khám, chữa bệnh [bảng 11; phụ lục 4].
Tuy nhiên, tình trạng đô thị hoá ở vùng nông thôn hiện nay đã làm cho con cái ít
có thời gian chăm sóc cha mẹ. NCCCM chủ yếu chỉ được con cái chăm sóc khi ốm
đau. NCCCM hiện tại thường là tự chăm sóc là hình thức phổ biến, họ còn là người
chăm sóc cho con cháu trong gia đình.
2.2.3.3.4. Về bản thân NCCCM
Có thể nói, NCCCM là chủ thể của quá trình chăm sóc sức khỏe và là yếu tố
quyết định tình trạng sức khỏe của mình. Những NCCCM được khảo sát ở mức độ
nhất định đã tìm kiếm và thực hiện những hành vi chăm sóc và nâng cao sức khỏe.
Mặc dù đa số NCCCM thuộc nhóm cao tuổi nhưng họ đều có ý thức và hợp tác
với mọi người đặc biệt là gia đình trong việc khám, chữa bệnh cho bản thân. Nếu được
khám và chẩn đoán chính xác căn bệnh có thể mắc phải thì NCCCM rất tích cực tìm
hiểu cách ứng phó (những người được chẩn đoán là tăng huyết áp biết nhiều cách
phòng chống cao hơn hẳn những người không bị bệnh (vì khi được chẩn đoán bệnh
người ta luôn tích cực tìm kiếm những kiến thức về phòng và chữa trị nó); nam giới có
kiến thức phòng bệnh tăng huyết áp tốt hơn phụ nữ (vì trong số những NCCCM thì
nam giới mắc bệnh tăng huyết áp với tỷ lệ cao hơn nữ)). Có một thực tế là, kiến thức
về phòng bệnh của NCCCM có điều kiện kinh tế thấp, kém hơn các nhóm khác (những
người thuộc nhóm có điều kiện kinh tế thấp sẽ không có hoặc là có rất ít cơ hội để tiếp
cận với các dịch vụ y tế: bệnh viện, trạm y tế, trung tâm tư vấn sức khỏe, cũng như
50
không có thời gian để tìm hiểu kiến thức về phòng chống bệnh). Tuy nhiên, hầu như
NCCCM rất ít tiến hành khám tổng quát và chưa có nhiều kinh nghiệm trong phòng
bệnh, nhóm đối tượng được điều tra thường chỉ khi nào bị bệnh và bệnh nặng mới đi
khám, chữa bệnh, còn những bệnh thường gặp ở tuổi già thường ít được lưu tâm.
Chính điều này đã làm giảm đi hiệu quả của công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Số lần khám, chữa bệnh hàng năm của NCCCM tương đối thường xuyên, với
trên 50% số người trả lời rằng số lần khám, chữa bệnh/ năm là từ 2 – trên 4 lần, trong
đó từ 2 – 3 lần (chiếm 24.6%), từ 3 – 4 lần (chiếm 16.9%), trên 4 lần (chiếm 14.7%)
[bảng 13; phụ lục 3]. Số lần khám, chữa bệnh trong năm cũng rất đa dạng phụ thuộc
vào nhóm tuổi, mức thu nhập, giới tính,
Có sự chênh lệch giữa các nhóm độ tuổi với số lần khám chữa bệnh trên năm.
Những người ở độ tuổi từ 60 tuổi – 70 tuổi và dưới 60 tuổi đa số họ khám, chữa bệnh
từ 1 – 2 lần/ năm (từ 60 – 70 tuổi chiếm 73.8%; dưới 60 tuổi chiếm 70%), những
người ở độ tuổi trên 80 tuổi thực hiện khám, chữa bệnh trên 4 lần (chiếm 45%). Ta có
thể thấy rỏ sự chênh lệc trong số lần khám, chữa bệnh ở các nhóm tuổi khi đặc trong
mối quan hệ so sánh giữa những số lần khám chữa bệnh với một số nhóm tuổi. Tiến
hành khám chữa bệnh trên 4 lần/ năm với nhóm người dưới 60 tuổi (chỉ đạt 5%), từ 60
– 70 tuổi (chiếm 7.1%) trên 80 tuổi (đạt tới 45%) [bảng 18; phụ lục 4] (sở dĩ có sự
khác biệt này là do ở độ tuổi càng cao thì sức khỏe yếu kém và họ mắc hoặc có nguy
cơ mắc nhiều bệnh tật hơn nhóm người ở độ tuổi thấp hơn).
Những gia đình có thu nhập càng cao thì số lần khám, chữa bệnh của NCCCM
càng tăng lên ( mức thu nhập từ 500.000đ – 1 triệu đồng thường họ khám, chữa bệnh
ở mức từ 1 – 2 lần/năm (chiếm 57.8%), thu nhập trên 2 triệu số lần khám, chữa bệnh
Từ 500.000đ – 1 triệu
Từ 1 triệu – 2 triệu
Trên 2 triệu
Chú thích
Từ 1 – 2 lần
Từ 2 – 3 lần
Từ 3 – 4 lần
Trên 4 lần
trên 4 lần/năm (chiếm 67.5%)), [bảng 22; phụ lục 4].
51
Biểu đồ 1: Mối tương quan giữa thu nhập và số lần khám, chữa bệnh
Chứng tỏ kinh tế là một yếu tố vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định đối
với việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhất là tiếp cận với bệnh viện của mỗi
cá nhân mặc dù là họ có bảo hiểm y tế được khám, chữa bệnh nhưng trong quá trình
khám chữa bệnh họ phải trả nhiều chi phí khác tương đối cao: chi phí đi lại, khoảng
bồi dưỡng cho các bộ y tế, chi phí thêm thuốc để chữa trị tốt nhất. . .).
Nam có số lần khám, chữa bệnh cao hơn nữ, trong tổng số 67 nam thì có tới
64.2% có số lần khám, chữa bệnh từ 2 – trên 4 lần/năm cò nữ (chỉ chiếm 47.6%), với
số lần khám, chữa bệnh từ 3 – 4 lần nam (chiếm 20.9%) nữ (chiếm 12.7%) [bảng 9;
phụ lục 4] một phần vì trong tổng số NCCCM tỷ lệ nam mắc bệnh cao hơn nữ và nam
có thu nhập ở thu cao chiếm tỷ lệ lớn hơn nữ.
Bênh cạnh đó, đối với NCCCM dường như khoảng cách từ nhà tới cơ sở y tế,
phương tiện đi lại và tâm lý ngại làm phiền tới con cháu cũng là những yếu tố có ảnh
hưởng đến việc tiếp cận, sử dụng dịch vụ y tế. Hầu hết người có công mong muốn
được khám chữa bệnh ở những cơ sở y tế gần nhà như khám tại nhà, khám ở cơ sở y tế
tư nhân hoặc khám, chữa bệnh tại trạm y tế xã với điều kiện được cung cấp đầy đủ các
dụng cụ, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh tốt nhất. Tuy nhiên vì điều
kiện khó khăn chung của Huyện nên các cơ sở vật chất khám, chữa bệnh chưa đáp ứng
được những nguyện vọng này của NCCCM, cho nên, hầu hết NCCCM lựa chọn khám,
chữa bệnh tại bệnh viện Huyện (chiếm 46.1%) [bảng 14; phụ lục 3] theo họ ở đây chất
lượng khám chữa bệnh tốt hơn trạm y tế, phòng khám tư, nơi họ ít đến nhất là bệnh
viện thành phố, tỉnh (chiếm 7.7%) được trang thiết bị, cơ sở vật chất dầy đủ, kỹ thuật
hiện đại hơn nhưng khoảng cách quá xa. Qua kết quả điều tra cho thấy phụ nữ có xu
hướng sử dụng dịch vụ y tế tư nhân với tỷ lệ cao hơn nam giới (nữ chiếm 42.8%; nam
chiếm 14.9%) [bảng 10; mục lục 4] (nữ hạn chế về mặc thời gian (khám, chữa bệnh ở
phòng khám tư gần nhà, bệnh nhân ít, khám nhanh tiết kiệm được thời gian), trong số
NCCCM phụ nữ có mức thu nhập gai đình thấp chiếm tỷ lệ cao hơn nam). Nam giới
cao tuổi lại sử dụng dịch vụ bệnh viện với tỷ lệ cao hơn (vì với độ tuổi cao họ mắc
nhiều bệnh trong đó có những bệnh rất khó chữa trị mà ở phòng khám tư hoặc là trạm
y tế sẽ không đủ khả năng chữa trị). Những gia đình có thu nhập cao NCCCM chủ yếu
52
đến bệnh viện Huyện, bệnh viện thành phố, tỉnh. Với thu nhập bình quân trên 2
triệu/tháng (chiếm 37.5%) khám, chữa bệnh ở bệnh viện huyện và ở bệnh viện thành
phố, tỉnh (chiếm 37.5%) còn ở mức thu nhập từ 500.000đ – 1 triệu số lượng khám,
chữa bệnh ở bệnh viện thành phố, tỉnh (chiếm 4.8%) [bảng 21; phụ lục 4] (vì chi phí
cho hoạt động khám chữa bệnh ở những nơi này là rất cao: chi phí đi lại, thuốc điều trị,
bồi dưỡng cán bộ. . .)
Đặc điểm sinh lý của NCCCM đã hạn chế rất nhiều khả năng tham gia các hoạt
động xã hội cũng như các tổ chức xã hội của họ có tới 66.2% số NCCCM không tham
gia vào bất kỳ tổ chức xã hội nào, có rất nhiều người nhận thấy chính quyền địa
phương có tổ chức một số hoạt động cho người cao tuổi nói chung, NCCCM nói riêng
nhưng họ lại không tham gia (họ bận công việc; già yếu không thể đi; không có
phương tiện di chuyển thích hợp. . .). Đối với NCCCM tỷ lệ nữ không tham gia vào
các tổ chức xã hội cao hơn nam (nữ chiếm 77.8%, nam chiếm 55.2%) (phụ nữ bận
nhiều việc, lao động sản xuất, chăm sóc con cháu, một số phụ nữ không thấy được lợi
ích của việc tham gia vào các tổ chức xã hội). Nữ chủ yếu tham gia vào hội phụ nữ
(số người tham gia vào hội phụ nữ chiếm 17.5%), nam chủ yếu tham gia vào hội cựu
chiến binh và hội người cao tuổi (những người gia nhập hội cựu chiến binh là 28.4%,
hội cao tuổi là 22.4%) (gần như hội phụ nữ chiếm đa số là nữ và theo NCCCM thì đó
là tổ chức dành cho phụ nữ chứ không phải là nam giới; NCCCM thích được tham gia
và hoạt động trong hội cựu chiến binh và hội người cao tuổi vì ở đó họ được chia sẽ,
được đồng cảm, được giúp đỡ ) [bảng 13; phụ lục 4]. Tỷ lệ tham gia vào các tổ chức
cũng giảm dần theo sự tăng dần của độ tuổi, (những người thuộc các nhóm tuổi cao
sức khỏe yếu, đi lại khó khăn nên họ ngại tham gia các tổ chức, đoàn thể xã hội).
Những hoạt động giải trí của NCCCM vào những khoảng thời gian rảnh rỗi, chưa
thể hiện được tính đa dạng phong phú. Họ chủ yếu đọc báo, xem ti vi, đi thăm bạn bè,
người thân, tập thể dục dưỡng sinh. Trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là đọc báo (chiếm
61.5%, (đa số báo này là được cấp miễn phí theo quy định)), đi thăm bạn bè, người
thân (chiếm 56.2%) phần đông họ là những người thuộc nhóm tuổi dưới 60 tuổi ( họ
vẫn còn khỏe mạnh đi lại tốt và chủ yếu là đi thăm những người ở gần). Hoạt động tập
thể dục dưỡng sinh rất có ý nghĩa đối với người cao tuổi nhưng họ gần như là không
chú trọng đến chỉ có 11.5% thực hiện nó (người ta chưa thật sự nắm vững về tầm quan
53
trọng của việc tập thể dục đối với sức khỏe hoặc là họ nghĩ rằng hàng ngày mình đã
hoạt động đi lại, làm việc không cần phải tập thể dục nữa) [bảng 26; phụ lục 3] . Hình
thức giải trí của nam và nữ có sự khác biệt, thậm chí là mục đích và cách tiếp cận của
họ cũng khác nhau: nam giới tham gia đọc báo nhiều hơn nữ (nam chiếm 82.1%) và
mục đích của họ là tiếp cận và xữ lý những thông tin của những tin tức mới, hàng
ngày, hàng tuần của quê hương, đất nước cũng như tình hình thế giới, còn nữ đọc báo
chiếm tỷ lệ rất ít (chiếm 39.7%), rất ít trong số họ có chung mục đích như nam giới mà
đa số họ đọc với mục đích giải tỏa những căng thẳng, tìm hiểu các thông tin về các
lĩnh vực trong cuộc sống như nuôi dạy con cháu, tỷ lệ xem ti vi của nữ cao hơn nam
(nữ chiếm 47.6%, nam chiếm 40.3%), cách tiếp cận của phụ nữ chủ yếu là các chương
trình phim truyện, cây cao bóng cả. . . . còn nam chủ yếu xem chương trình thời sự,
[bảngr15; mục lục 4].
Mức độ hài lòng của NCCCM về công tác chăm sóc sức khỏe là sự tổng hợp của
nhiều yếu tố: về việc thực thi các chính sách của chính quyền địa phương, hệ thống y
tế, các hoạt động của chính quyền địa phương. Bên cạnh những kết quả đa đạt
NCCCM tương đối hài lòng với công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM, số
NCCCCM chọn phương án rất hài lòng (chiếm 6.9%), hài lòng (chiếm 15.4% , (Trong
đó đa số những người rất hài lòng hài lòng, là những người chọn các phương án: nơi
điều dưỡng “điều dưỡng tại cơ sở”, thái độ phục vụ của y, bác sĩ “ân cần, chu đáo, có
trách nhiệm, tôn trọng bệnh nhân ”, tình trạng cở sở vật chất, trang thiết bị nơi khám
chữa bệnh “rất đầy đủ và đầy đủ”, mức độ đến nhà thăm hỏi, tặng quà động viên “rất
thường xuyên và thường xuyên”) [bảng 27; phụ lục 3]. Tuy nhiên ở một mức độ nào đó
công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM vẫn chưa đạt được hiệu quả, chưa đáp ứng
được nhu cầu, của đại đa số NCCCM. Vẫn còn tỷ lệ cao những NCCCM trả lời rằng
bình thường (chiếm 51.5%), không hài lòng với công tác chăm sóc sức khỏe cho
54
NCCCM (chiếm 26.2% ).
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CÓ
CÔNG CÁCH MẠNG HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
3.1. Những khó khăn, thuận lợi và thế mạnh của huyện trong
chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng
3.1.1. Những khó khăn
Như đã đề cập trong phần tổng quan về huyện Hoài Ân, đây là một huyện miền
núi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, cho nên vấn đề chăm sóc sức khỏe
cho NCCCM cũng gặp vô vàn khó khăn. Những khó khăn đó đến từ các khía cạnh
khách quan và chủ quan.
Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết diễn biến
phức tạp và ô nhiễm môi trường, con người không kịp thích nghi và sức đề kháng bị
suy giảm, nhất là phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi và thương bệnh binh. . . tỷ lệ ốm đau
tăng vọt, với các căn bệnh phổ biến như cảm cúm, nhức đầu, xương khớp. . .
Điều kiện kinh tế của Huyện còn nghèo, kinh phí cho các hoạt động chăm sóc
sức khỏe cho người dân thấp, cơ sở vật chất, trang thiết bị của hệ thống y tế vừa thiếu
vừa yếu.
Các công văn về việc thực hiện chính sách cho NCCCM do cấp trên gửi về
huyện đôi khi không rõ ràng, không thống nhất, quá cứng nhắc không phát huy được
tính linh động của Huyện trong quá trình thực hiện.
Trình độ dân trí còn thấp, hiện vẫn còn tồn tại thực trạng một số cán bộ, lãnh đạo
của Hoài Ân mới chỉ đạt trình độ trung cấp chuyên nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến
trình độ tổ chức quản lý của các cán bộ, lãnh đạo nhất là ở cấp xã thôn.
Nhận thức của toàn xã hội về người cao tuổi, NCCCM cũng như vai trò trách
nhiệm của mình đối với công tác chăm sóc cho NCCCM còn hạn chế.
Một số NCCCM chưa nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn về vai trò ý nghĩa
của sức khỏe cũng như những kiến thức để chăm sóc sức khỏe tốt cho nên, họ rất dễ
55
mắt bệnh chỉ cần một tác nhân nhỏ từ bên ngoài.
Thiếu sự đồng bộ trong quá trình thực hiện các công văn chính sách ở mỗi nơi
thực hiện mỗi kiểu, thiếu sự phối hợp liên ngành, thiếu sự phối hợp giữa các tổ chức,
đoàn thể cá nhân.
Thiếu sự kiểm tra giám sát của cán bộ lãnh đạo cấp trên dẫn đến thực trạng một
số cán bộ ở thôn làm sai, sót đối tượng được hưởng chính sách.
Các loại hình hoạt động của các tổ chức, đoàn thể, chính quyền địa phương nhằm
đáp ứng nhu cầu tinh thần cho NCCCM thiếu đa dạng, phong phú chưa thu hút được
sự quan tâm, tham gia của đông đảo NCCCM.
Thiếu nguồn nhân lực – những người có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Những khó khăn này sẽ là thử thách, cản trở công tác chăm sóc sức khỏe cho
NCCCM. Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn đó, Huyện cũng có rất nhiều thuận lợi
và tiềm năng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác chăm sóc sức khỏe cũng
như cải thiện và nâng cao đời sống cho NCCCM.
3.1.2. Những thuận lợi và tiềm năng
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm nhiều hơn đến NCCCM, bên
cạnh những chính sách đã được ban hành và triển khai thực hiện còn nhều chính sách
mới đang được xây dựng và dần hoàn thiện.
Chính quyền địa phương có quan tâm và có tâm huyết trong thực hiện chính sách
cho NCCCM. Những năm qua Huyện cũng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ
trong phát triển kinh tế xã hội cũng như thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe
NCCCM.
Trong tương lai với sự phát triển mạnh mẽ của xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa,
Hoài Ân sẽ có nhiều cơ hội quy tụ các chương trình, dự án phát triển của quốc gia
cũng như quốc tế, tạo điều kiện nâng cao cuộc sống của người dân. Từ đó góp phần
nâng cao đáng kể công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Có thể nói tiềm năng là những khả năng, năng lực hiện cộng đồng đang có nhưng
ở dạng tìm ẩn, bị bỏ quên, chưa được khai thác hoặc khai thác nhưng chưa đạt được
kết quả tối ưu. Đây là một yếu tố vô cùng cần thiết của một quốc qua, dân tộc, cộng
56
đồng , trong quá trình phát triển của mình. Dù là một huyện miền núi còn khó khăn
bộn bề nhưng Hoài Ân vẫn còn có rất nhiều tiềm năng để phát triển nếu như nó được
khai thác và sử dụng tốt, tiềm năng đó là:
Hoài Ân là một địa bàn xung yếu của tỉnh Bình Định, có tầm quan trọng về kinh
tế và quốc phòng, thuận lợi cho việc giao lưu với các vùng khác trong phát triển kinh
tế – xã hội. Điểm nổi bật trong sự phát triển của Hoài Ân là hệ thống cơ sở hạ tầng
phục vụ cho phát triển kinh tế- xã hội và dân sinh được tập trung đầu tư khá mạnh. Hệ
thống mạng lưới điện đến nay cũng đã được xây dựng và đưa vào sử dụng. Đã có
100% số xã với 75/78 thôn bản và 90% số hộ có điện sử dụng. Các vùng quê xa xôi
như Ân Nghĩa, Dak Mang, Bok Tới, Ân Sơn nay cũng đã bừng lên ánh điện với mạng
lưới điện đó sẽ kéo theo sự phát triển của các dịch vụ phục vụ đời sống dân sinh như
mạng lưới thông tin viễn thông cũng đã được phủ kín đến các xã, với 9 điểm bưu điện
văn hóa, bình quân 100 dân có 1 máy điện thoại. Tại trung tâm huyện và các xã lân
cận đã có sóng điện thoại di động, tivi, tủ lạnh. . . đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chăm sóc sức khỏe cho người dân nói chung, NCCCM nói riêng.
Ngoài hai tuyến đường tỉnh được trải nhựa, các tuyến khác với hàng trăm cây số
đã được kiên cố hóa bằng bê tông xi măng trên hầu hết các tuyến đường huyết mạch
của xã, thôn. Tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề đi lại, hoạt động sản xuất phát triển
kinh tế xã hội của Huyện đồng thời nó cũng mở ra và tăng cường cơ hội được đi khám,
chữa bệnh tại bệnh viện Huyện là nơi có cơ sở vật, trang thiết bị khám chữa bệnh tốt
hơn các trạm y tế xã và phòng khám tư.
Trong tất cả các loại tiềm năng thì tiềm năng về con người có vai trò rất quan
trọng, vì vậy cần phải tăng cường đầu tư phát triển người và phát triển nguồn nhân lực
nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng như đáp ứng công tác chăm
sóc sức khỏe cho NCCCM huyện Hoài Ân. Nguồn lực con người Hoài Ân có những
tiềm năng sau:
Tính cố kết cộng đồng của người dân khá cao. Trong gia đình, các tổ chức, đoàn
thể xã hội có mối quan hệ khăn khít với nhau. Người dân rất giàu lòng tự tôn, tự trọng,
giàu tình yêu thương, luôn phát huy tinh thần “lá lành đùm lá rách”. Giàu tình yêu
quê hương đất nước và ý thức và biết ơn những người đã có cống hiến cho sự phát
triển của quê hương, đất nước. Từ đó phát huy tinh thần, kêu gọi huy động toàn dân
57
tham gia vào công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà Nước Hoài Ân cũng đã làm tốt công tác
dân chủ hóa: người dân đã có ý thức về vai trò và quyền lợi trong công tác bầu cử, để
bầu ra những vị lãnh đạo tài ba, đức độ, phục vụ tốt đời sống của nhân dân, chăm lo
cho phúc lợi xã hội cho người dân trong đó có lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Là một Huyện tương đối đông dân với gần 92.000 người, trong đó trong độ tuổi
lao động là chiếm tỷ lệ rất cao là nguồn lực để phat triển kinh tế – xã hội cũng như huy
động họ tham gia vào công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Trong tương lai, đội ngũ cán bộ trí thức sẽ tăng lên cả về số lượng và chất lượng.
Họ được đào tạo không chỉ trong nước mà còn ở cả nước ngoài. Họ sẽ lực lượng cán
bộ nòng cốt trong nhiều lĩnh vực, và trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cũng không là
ngoại lệ. Đội ngũ y, bác sĩ hiện có hàng năm đều được bồi dưỡng nâng cao tay nghề và
với chính sách thiết thực chắc chắn Huyện sẽ thu hút được đông đảo y, bác sĩ có trình
độ về phục vụ tại địa phương.
Đặc biệt là công tác vận động, xây dựng quỹ “ đền ơn đáp nghĩa” từ huyện đến
cơ sở tiếp tục phát huy và đạt nhiều kết quả; đến nay huyện đã vận động các cơ quan,
cán bộ công chức – viên chức đóng góp được trên 87 triệu đồng; đối với các xã, thị
trấn đã vận động nhân dân đóng góp trên 130 triệu đồng. Nguồn vốn này có thể được
quản lý và sử dụng vào mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc sức
khỏe cho NCCCM.
Bên cạnh những tiềm năng vốn có ở trên, chúng ta có thể khai thác, phát huy từ
đó làm cho công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM đạt được hiệu quả và chất lượng
cao thì hiện tại Huyện còn có tiềm năng lớn trong việc xây dựng trung tâm chăm sóc
NCCCM riêng (hiện tại xã Ân Tường Tây có trung tâm tập thể dục dưỡng sinh cho
người cao tuổi và NCCCM nhưng trong những năm qua đã không thể đi vào hoạt
động vì chưa thu hút được nguồn vốn đầu tư để trang bị thêm trang thiết bị cũng như
chưa thu hút tạo được phản ứng tốt đẹp từ người dân đặc biệt là gia đình cũng như
bản thân NCCCM vì họ chưa thấy được tính khả thi cũng như vai trò ý nghĩa của
trung tâm trong cộng đồng).
Nếu như những tiềm năng trên được khai thác sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả
58
chắc chắn công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM được cải thiện, nâng cao.
Những khó khăn, thuận lợi và tiềm năng trên sẽ là cơ sở để xây dựng giải pháp
nâng cao chất lượng và hiệu quả cho công tác chăm sóc sức khỏe NCCCM.
3.2. Những nhóm giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM
3.2.1.Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát đặt ra là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc sức
khỏe cho NCCCM. Và mục tiêu tổng quát này sẽ được cụ thể hóa như sau:
Tạo ra nhận thức đúng đắn và tích cực cho toàn xã hội về NCCCM nhất là nhóm
người có công thuộc nhóm cao tuổi và thương, bệnh binh điều đó xuất phát từ thực tế
một số người quan niệm sai lầm rằng họ đã già, đã bị thương tật, bệnh tật họ không thể
làm gì được nữa. Trên thực tế họ vẫn còn có tiềm năng, vẫn có ích cho gia đình xã
hội, một khi tạo ra nhận thức đúng đắn tích cực của xã hội về họ, mọi người trong xã
hội sẽ thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình trong việc hỗ trợ chăm sóc tốt người
có công cách mạng.
Huy động toàn xã hội tham gia chương trình hành động “chăm sóc sức khỏe
người có công cách mạng”.
Tăng cường và nâng cao hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho NCCCM đặc
biệt là các dịch vụ dành cho những người có hoàn cảnh khó khăn.
Đa dạng hóa các hình thức hoạt động tại cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu vật
chất và tinh thần cho NCCCM.
Tạo ra môi trường có nhiều điều kiện cơ hội để NCCCM đặc biệt là người thuộc
nhóm cao tuổi, thương binh, bệnh binh tự giúp đỡ lẫn nhau ở gia đình, cộng đồng và
xã hội trong nhiều vấn đề trong đó chú trọng đến vấn đề chăm sóc sức khỏe như họ có
thể chăm sóc nhau khi bị ốm đau, bệnh tật.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế chính sách thiết thực, hiệu quả và cụ thể để thực hiện
công tác chăm sóc sức khỏe NCCCM cũng như có đủ nguồn nhân lực đáp ứng cho
công việc này.
3.2.2. Những nhóm giải pháp
3.2.2.1. nhóm giải pháp về chính sách
59
Những chính sách về chăm sóc sức khỏe cho NCCCM sẽ là định hướng để thực
hiện công tác này. Những năm qua, những chính sách Đảng và Nhà nước đề ra thể
hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc và là biểu hiện nhân văn của xã hội, khẳng định truyền
thống “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của dân tộc ta.Tuy nhiên, do một số khó khăn
cả chủ quan lẫn khách quan nên các chính sách chăm sóc sức khỏe cho NCCCM còn
một số hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của người có công.
Giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính sách
Tiếp tục hoàn thiện, đổi mới hệ thống văn bản pháp quy và những chính sách
dành cho NCCCM nói chung và vấn đề chăm sóc sức khỏe nói riêng.
Tiếp tục tìm hiểu và xây dựng mới một số chính sách ưu đãi mới cho NCCCM,
chú trọng đến những chính sách chăm sóc sức khỏe cho NCCCM, đảm bảo đáp ứng tốt
nhất nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCCCM, hướng đến nhóm đối tượng NCCCM
có hoàn cảnh khó khăn.
Tăng cường số lượng NCCCM ở mỗi xã được điều dưỡng tại các trung tâm điều
dưỡng. Kiện toàn bộ máy tổ chức của chính quyền địa phương ở tất cả các cấp đặc biệt
là phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân.
Giải pháp triển khai chính sách
Triển khai đồng bộ, thống nhất và kịp thời tất cả chính sách ưu đãi cho NCCCM.
Tùy vào đặc thù của từng địa phương, cần có những chính sách, văn bản chỉ đạo
cho phù hợp trong quá trình thực hiện chăm sóc sức khỏe NCCCM.
Tổ chức tuyên truyền về những chính sách được ban hành để toàn xã hội và bản
thân NCCCM cùng tham gia thực hiện.
Đảm bảo đúng đối tượng được hưởng chế độ, chính sách NCCCM.
3.2.2.2. Nhóm giải pháp về cơ sở vật chất
Tăng cường đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các cơ sở
khám, chữa bệnh và cơ sở chăm sóc NCCCM.
Ứng dụng những kỹ thuật và công nghệ mới vào việc khám chữa bệnh cho
NCCCM.
60
Tăng cường nguồn tài chính cho công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Hỗ trợ về mọi mặt đặc biệt là vấn đề tài chính cho các tổ chức, đoàn thể để mở
rộng, đa dạng hóa các hình thức hoạt động tăng cường khả năng thu hút sự tham gia
của NCCCM để từ đó nâng cao sức khỏe cho họ.
Cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phục vụ của các trung tâm chăm
sóc NCCCM.
Xây dựng trung tâm chăm sóc sức khỏe NCCCM huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
3.2.2.3. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
Con người là nguồn lực đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công tác chăm sóc
sức khỏe cho NCCCM. Để nguồn nhân lực này phát huy tối đa vai trò trách nhiệm của
mình trong công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM cần thực hiện những giải pháp
sau:
Chú trọng đến việc tăng cường đội ngũ cán bộ, nhân viên của hệ thống chăm sóc
sức khỏe cho NCCCM với đầy đủ năng lực và phẩm chất (ân cần, chu đáo, có trách
nhiệm, tôn trọng và chia sẽ mọi khó khăn với người bệnh đặc biệt là liên quan đến lĩnh
vực mà mình công tác).
Nâng cao trình độ tổ chức, quản lý của cán bộ quản lý trong các cơ sở chăm sóc
sức khỏe cho NCCCM như năng lực quản lý, sử dụng tài chính cho cán bộ thực hiện
công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Huy động sự tham gia và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cộng đồng, gia
đình và bản thân NCCCM vào công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Tạo điều kiện để NCCCM tham gia vào các tổ chức đoàn thể, thông qua đó họ có
điều kiện để hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau.
3.2.3. Cách thức thực hiện giải pháp
3.2.3.1. Đối với Đảng, Nhà nước và các bộ, ban, ngành có liên
quan
Đối với Đảng và Nhà nước
Đảng và nhà nước đóng vai trò là lãnh đạo cấp cao trong xây dựng, điều chỉnh,
hoàn thiện chính sách cũng như hướng dẫn, chỉ đạo kiểm tra giám sát việc thực hiện
61
các chính sách của các bộ, ban, ngành. Để công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM
đạt hiệu quả cao và đưa những giải pháp đã đề ra thành hiện thực và đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe NCCCM, Đảng và Nhà nước cần:
Cần cụ thể hóa các chương trình, chính sách, quy định đối với vấn đề chăm sóc
sức khỏe sao cho khi thực hiện không vấp phải phản ứng không tốt từ đối tượng (một
ví dụ điển hình xây dựng chế độ điều dưỡng cho NCCCM chia ra làm hai phương thức
điều dưỡng, với phương thức điều dưỡng luân phiên 5 năm một lần, đã gặp phải phản
ứng không tốt từ đối tượng, đa số người có công cho rằng khoảng cách giữa hai lần
điều dưỡng là quá lâu và số tiền điều dưỡng quá ít, “giống như một sự bố thí”). Với
chính sách này Đảng và Nhà nước cần dựa vào điều kiện phát triển kinh tế – xã hội
cũng như các nguồn lực có thể huy động được trong từng năm, linh động tạo điều kiện
thực hiện chế độ điều dưỡng cho người có công CM, có thể linh động trong việc chi
trả nguồn tài chính cho công tác điều dưỡng, tăng mức tiền điều dưỡng. Đồng thời tạo
điều kiện cho mọi đối tượng được tham gia điều dưỡng tại cơ sở.
Trước khi quyết định xây dựng chính sách, chế độ, chương trình, dự án cho
NCCCM. Đảng, Nhà Nước cần phối hợp với các cấp, ban ngành có liên quan, thực
hiện cuộc khảo sát, tìm hiểu nhu cầu cộng đồng, của đối tượng trực tiếp, xem xét xem
phản ứng của họ như thế nào có tích cực không? Họ có đồng tình ủng hộ hay không?
Bản thân nó có thật sự hiệu quả? Có mang lại sự công bằng xã hội thực sự không?
Khi xây dựng chính sách, chế độ cho người có công lãnh đạo Đảng và ban lãnh
đạo Nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng chính sách cần căn cứ thực tế và xem xét tất
cả các nguồn lực hiện có của đất nước, các cá nhân, tổ chức ở nước ngoài cũng như cá
nhân, tổ chức quốc tế có thể huy động tham gia vào việc thực hiện chính sách. Đảm
bảo rằng chính sách đó sẽ tạo ra hiệu ứng tốt nhất, tránh tình trạng xây dựng chính
sách đến khi ban hành, triển khai thực hiện thì thiếu nguồn lực làm cho chính sách
kém hiệu quả hoặc là không đạt được mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Việc xây dựng
chính sách phải xuất phát từ nhu cầu, mong muốn nguyện vọng của NCCCM, thông
qua các cuộc khảo xát đánh giá nhu cầu của họ.
Trong các công văn hướng dẫn việc thực hiện chính sách, chương trình, chế độ,
dự án cho NCCCM gửi xuống cấp dưới phải thể hiện rõ những điều khoản trong chính
sách là quy định, bắt buộc, đồng thời có cơ chế để cho cán bộ cấp dưới có thể linh
62
động, căn cứ vào nguồn lực hiện có của địa phương cũng như những khả năng huy
động được các nguồn lực từ bên ngoài để từ đó có những hỗ trợ thêm cho đối tượng
NCCCM nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ (chẳng hạn như trong công văn hướng
dẫn thực hiện chế độ điều dưỡng hàng năm tại các huyện có hướng dẫn thêm huyện
nào thừa chỉ tiêu điều dưỡng dành cho những đối tượng đã được quy định trong chế độ
điều dưỡng thì có thể linh động cho đối tượng khác có nhu cầu được đi diều dưỡng tại
cơ sở). Đồng thời cần có những hành động cổ vũ, động viên, khuyến khích các cá
nhân, tổ chức đơn vị đã tham gia tích cực vào công tác chăm sóc NCCCM.
Thường xuyên đôn đốc các ban, ngành đoàn thể thực hiện đánh giá hiệu quả của
các chính sách đã được ban hành cho NCCCM, tốt nhất là ngay sau khi chính sách vừa
được thực hiện xong thông qua quá trình lượng giá kết quả, đảm bảo rằng trong lực
lượng thực hiện công tác lượng giá có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức đại diện
cho tiếng nói của NCCCM. Để từ đó có thể điều chỉnh mục tiêu các giải pháp thực
hiện các chương trình, chính sách, dự án phù hợp hơn. Cũng trên cơ sở đó Đảng và
Nhà nước có sự điều chỉnh, sữa chữa kiện toàn chính sách.
Đảng và Nhà nước chỉ đạo các cơ quan ngôn luận thực hiện tuyên truyền sâu
rộng đến mọi tầng lớp nhân dân để nâng cao nhân thức, trách nhiệm đối với NCCCM.
Chỉ đạo các bộ, ban, ngành có liên quan khảo sát, xem xét thực tế ở các địa
phương, nhất là những địa phương có nhu cầu xây dựng trung tâm chăm sóc người có
công để từ đó có những hỗ trợ cần thiết. Đồng thời, thông qua các chương trình, dự án
phát triển kinh tế của đất nước, kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước cùng tham
gia vào công tác chăm sóc NCCCM.
Đối với các bộ, ngành có liên quan
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Cần phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan thực hiện những đề tài nghiên cứu,
khảo sát, đánh giá nhu cầu cũng như hiệu quả của các chính sách cho NCCCM, đề
xuất lên Đảng và Nhà nước sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cũng như xây dựng chính sách
mới cho NCCCM, cần chú trọng đến chính sách chăm sóc sức khỏe cho họ.
Cần phải thành lập ra một đội thanh tra, thường xuyên dự thảo báo cáo và tổ chức
hội nghị tổng kết các hoạt động chăm sóc sức khỏe NCCCM ở cấp dưới (sở, phòng…).
Tổ chức các cuộc kiểm tra không báo trước (tốt nhất là vào mỗi đợt triển khai thực
63
hiện chính sách ở các địa phương), kiên quyết xử lý nghiêm minh những trường hợp vi
phạm. Yêu cầu các cấp, các ngành thường xuyên báo cáo kết quả hành động, cập nhật
những khó khăn, hạn chế, những thay đổi ngoài dự đoán của từng địa phương cũng
như những nhu cầu mới có thể đáp ứng được của người có công nhằm đảm bảo cấp
dưới có trách nhiệm cao trong thực hiện cũng như tích cực chủ động điều chỉnh, tìm
kiếm các giải pháp phù hợp với thực tế.
Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách bảo đảm đủ phẩm chất, năng
lực công tác, chuyên môn, đủ khả năng tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền thực
hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời
thúc đẩy giải quyết tồn đọng đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Thường xuyên liên hệ với các cơ sở chăm sóc NCCCM, xem xét đầu tư nâng cao
chất lượng phục vụ của các cơ sở: tạo điều kiện để các nhân viên phục vụ của cơ sở
được tham gia các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức, kỷ năng. . . Hỗ trợ nguồn kinh
phí cũng như cơ sở vật chất, trang thiết bị, cải tiến kỷ thuật tại các cơ sở.
Xem xét các cơ sở chăm sóc sức khỏe NCCCM còn có thể nhận điều dưỡng cho
người có công CM, nhất là tại các cơ sở có quy mô lớn ở các thành phố lớn như thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng..... Để từ đó liên hệ cho người có công CM ở các
tỉnh thành phố khác có nhu cầu được điều dưỡng tại cơ sở.
Cần phối hợp chặt chẽ với cán bộ các cấp, các ngành có liên quan nhất là ngành y
tế để thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho người có công và các ban ngành khác
nhằm phục vụ đời sống tinh thần cho họ như: hàng năm liên hệ với ngành du lịch ở các
tỉnh thành phố. . . thực hiện tổ chức các chuyến tham quan đưa những cụ còn khỏe
mạnh và có nhu cầu đến với những khu du lịch mới lạ, liên kết với các tổ chức cá nhân
để kêu gọi sự đóng góp hỗ trợ về kinh phí cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực
phục vụ người có công CM.
Cần thành lập ở các địa phương đội ngũ chuyên viên thực hiện nhiệm vụ tìm
kiếm nguồn hỗ trợ từ tổ chức, cá nhân những nhà hảo tâm trong và ngoài nước hỗ trợ
về tài chính, cơ sở vật chất, kỷ thuật. . . Có thể thông qua các hoạt động tổ chức các
ngày lễ lớn: Ngày 2 tháng 9, ngày 30 tháng 4, ngày 27 tháng 7, kỷ niệm ngày giải
64
phóng của địa phương. . .
Cần tiếp tục phối hợp các ngành, địa phương có biện pháp cụ thể và khả thi để hỗ
trợ các gia đình chính sách còn khó khăn từng bước vượt qua nghèo khó như giải
quyết chỗ ở, vốn phát triển sản xuất. . .
Bộ Y tế
Cần tổ chức tuyên truyền, giới thiệu những thành tựu nghiên cứu phòng, chữa
bệnh nhất là những căn bệnh mà người cao tuổi dễ mắc phải cho NCCCM.
Cần tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao năng lực và nhận thức cho đội
ngũ nhân viên y tế.
Cần chỉ đạo các đơn vị y tế cơ sở thường xuyên có các hoạt động hướng dẫn
người dân nói chung và NCCCM nói riêng cách thức nâng cao sức khỏe bản thân.
Tiến hành điều tra dịch tễ, tình hình bệnh tật, nhu cầu chăm sóc của NCCCM,
đặc biệt là những người thuộc nhóm yếu thế: người cao tuổi, phụ nữ, thương, bệnh
binh. Xây dựng các mô hình dịch vụ chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ NCCCM phù hợp
với điều kiện kinh tế Việt Nam.
Đối với các bộ, ban, ngành khác
Bộ Tài chính cần có những quy định cung cấp tài chính và phân bổ đúng quy
định cho các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCCCM; cần phối hợp với các ban
ngành khác phát huy tối đa hiệu quả của nguồn vốn sử dụng để đáp ứng tốt hơn nhu
cầu chăm sóc sức khỏe của NCCCM.
Bộ văn hóa thông tin cần tổ chức tuyên truyền các văn bản của Đảng và Nhà
nước; giới thiệu những gương mặt luôn phấn đấu vì công tác chăm sóc NCCCM và
những NCCCM có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề chăm sóc sức khỏe cho bản thân;
tổ chức triển lãm các thành tựu về NCCCM; xây dựng các phim phóng sự tài liệu, tiểu
phẩm tuyên truyền về các hoạt động công tác chăm sóc sức khỏe cho người có công;
tổ chức các hoạt động văn hoá cho NCCCM như thi thơ ca, nhạc trong phạm vi cho
phép... Đài truyền hình cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức đoàn thể tổ chức tuyên
truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân nội dung của Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng; tăng thời lượng phát sóng chương trình Cây cao bóng cả trên
VTV3, các chương trình chăm sóc sức khỏe; chương trình thể dục buổi sáng, tập thể
65
dục yoga, tập thể dục dưỡng sinh. . . Đồng thời, tăng cường phát sóng một số chương
trình văn học nghệ thuật như các chương trình ca nhạc, phim truyền hình về chủ đề về
người có công cách mạng vào những ngày lễ 30/4; 1/5; 27/7, 22/12. . .
Hội Cựu chiến binh và Hội người cao tuổi cần tổ chức nhiều hơn nữa các buổi
giao lưu, gặp gỡ NCCCM nhằm động viên, cổ vụ tinh thần giúp họ lạc quan hơn trong
cuộc sống cũng như truyền đạt cho nhau kinh nghiệm chăm sóc sức khỏe.
3.2.3.2. Đối với chính quyền địa phương
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định
cần phối hợp với cơ quan cấp trên cũng như cơ quan cấp dưới thực hiện chương
trình hoạt động chăm sóc sức khỏe NCCCM; cần nghiên cứu kĩ các văn bản chính
sách của nhà nước để khi thực hiện tại đại phương có hiệu quả tốt nhất; chỉ đạo các
ban, ngành ở địa phương nghiêm túc thực hiện các quy định về chăm sóc sức khỏe
NCCCM; có chính sách ưu tiên về chăm sóc sức sức đối với những địa đặc biệt khó
khăn trong tỉnh. . .
Sở Lao động – thương binh và xã hội tỉnh Bình Định
Cần hướng dẫn một cách cụ thể rõ ràng các chính sách dành cho NCCCM cho
phòng LĐ – TB&XH các huyện trong tỉnh.
Cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra giám sát các phòng LĐ – TB&XH trong
việc thực hiện chính sách nói chung và công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM nói
riêng. Kịp thời báo cáo lên bộ LĐ – TB&XH về những bất cập, khó khăn của huyện
trong thực hiện cũng như những nhu cầu mới của NCCCM, phối hợp Bộ LĐ –
TB&XH tìm ra các biện khắc phục.
Cần phối hợp đài truyền hình và phát thanh Bình Định, báo Bình Định, Nhà văn
hóa lao động Bình Định, các trung tâm tư vấn tâm lý của tỉnh Bình Định. . .tổ chức các
buổi giao lưu, tuyên truyền về vai trò trách nhiệm của toàn dân trong việc thực hiện
công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM. Thông qua các ngày lễ lớn kêu gọi sự cổ vũ
động viên, huy động nguồn vốn từ các cá nhân tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài
tỉnh cho hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Đối với Trung tâm chăm sóc NCCCM tỉnh Bình Định
Thông qua kết quả khảo sát có thể thấy rằng đa số NCCCM đều có mong muốn
được thường xuyên điều dưỡng tại các trung tâm, chủ yếu là trung tâm chăm sóc
66
NCCCM tỉnh Bình Định. Trong những năm qua, Trung tâm cũng đã thực hiện tương
đối tốt công tác chăm sóc NCCCM, góp phần nâng cao chất lượng sức khỏe cũng như
đời sống của NCCCM, góp phần đáng kể vào việc phát huy tinh thần “uống nước nhớ
nguồn”. Để tiếp tục thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, Trung tâm chăm sóc NCCCM
tỉnh cần:
Tăng cường bảo quản những trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật có sẵn, quản
lý, nắm rõ hiện trạng của chúng để có sự can thiệp kịp thời khi chúng bị hư hỏng, tránh
trường hợp để hư hỏng nặng không thể sữa chữa được.
Kêu gọi nguồn tài trợ từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ về tài
chính để mua trang thiết bị, cơ sở vật chất cũng như kêu gọi họ đầu tư về trang thiết bị
cho cơ sở nhằm quảng bá sản phẩm, thương hiệu của họ trên thị trường thông qua các
hoạt động từ thiện.
Sử dụng nguồn kinh phí được hỗ trợ một cách hợp lý có chất lượng, hiệu quả cao
tránh sử dụng lãng phí.
Khi mở rộng cơ sở hay tăng cường hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ
thuật cần phải có sự tính toán kỹ lưỡng, hoạch định một cách cụ thể rõ ràng chi tiết
dựa trên điều kiện thực tiễn của cơ sở tránh trường hợp xa rời thực tế dẫn đến thất bại.
Bên cạnh việc tăng cường cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn kỹ thuật cần phải
nâng cao chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ nhân viên của trung tâm bao gồm các
hoạt động cụ thể sau: Thường xuyên tập huấn bồi dưỡng nhân viên về kiến thức kỹ
năng phục vụ như tham gia các lớp học về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn
đề; tập huấn cho nhân viên về cách sử dụng, bảo quản các trang thiết bị, cơ sở vật chất,
có thể cho họ trực tiếp tham gia vào các lớp chuyển giao khoa học, công nghệ; thường
xuyên cử nhân viên đến các cơ sở khác trong và ngoài nước để tham quan các mô hình
làm việc của họ từ đó học hỏi kinh nghiệm: Học cái hay cái tốt từ họ, tránh cái sai lầm
của họ. . .; nhân viên tại các cơ sở cần đón tiếp khách, kể cả đối tượng được chăm sóc
ở đó với thái độ niềm nở ân cần chu đáo, tôn trọng. . . Làm việc với tinh thần trách
nhiệm cao.
Đa dạng hóa các hoạt động điều dưỡng của người có công tại cơ sở: Tổ chức các
chuyến du lịch tham quan tại những thắng cảnh mới lạ không nhất thiết phải là nỗi
tiếng, tổ chức các cuộc gặp gở giao lưu trò chuyện giữa họ, hay là tổ chức các cuộc thi
67
văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao để họ có thể tham gia.
Ủy ban nhân dân huyện Hoài Ân
Cần cụ thể hóa tối đa các văn bản chính sách về chăm sóc sức khỏe của cấp trên
cũng như cần tăng cường chỉ đạo, quản lý, đôn đốc kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chính sách cho NCCCM của phòng LĐ – TB&XH, các phòng ban, các cấp cơ sở
trong thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Linh động trong việc tìm kiếm nguồn đầu tư, các chương trình, dự án như các
chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo, nhằm tăng nguồn lực phát triển kinh tế – xã
hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân thông qua đó nâng cao công tác
chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Tăng cường các dịch vụ phương tiện công cộng như xe bus, xe khách, Huyện cần
có kế hoạch xây dựng phát triển hoàn thiện loại hình vận chuyển này, đặc biệt cần mở
rộng các tuyến đường xe buýt về Huyện và thực hiện miễn phí cho người cao tuổi,
người bị thương tật và mọi người tham gia cần nhường ghế cho họ nhằm đảm bảo an
toàn và sự thoải mái cho họ khi tham gia các phương tiện này. Điều này làm tăng khả
năng gặp gỡ gia lưu bạn bè tham gia các tổ chức, các hoạt động xã hội đối với những
người đơn thân, không có con cháu người thân ở bên cạnh.
Chúng ta phải thừa nhận rằng cùng với quá trình đô thị hóa nông thôn, với nền
kinh tế thị trường đòi hỏi con người ta phải tăng cường làm việc do đó trong tương lai
chắc chắn có nhiều gia đình truyền thống sẽ tách ra thành các gia đình hạt nhân, con
cháu sẽ ít có thời gian để quan tâm chăm sóc chu đáo đối với ông bà, cha mẹ mà đa số
họ chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu vật chất. Và như thế người cao tuổi nói chung và
NCCCM nói riêng sẽ rất cần đến sự hỗ trợ từ xã hội, họ sẽ có nhu cầu tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ xã hội cao hơn. Bằng chứng là thông qua cuộc khảo sát có tới 98%
được phỏng vấn sâu trả lời rằng họ rất cần đến một trung tâm chăm sóc NCCCM và họ
hy vọng rằng huyện Hoài Ân có thể xây dựng thành công trung tâm này. Do đó,
UBND Huyện Cần nhanh chóng tiến hành các công việc để xây dựng trung tâm chăm
sóc sức khỏe riêng cho NCCCM trên địa bàn Huyện bằng cách:
Tìm địa điểm xây dựng Trung tâm
Chuyển đổi mục đích sử dụng diện tích đất của Trung tâm thể dục dưỡng sinh
hiện có tại Huyện và giải tỏa thêm một phần diện tích đất của khu vực xung quanh để
68
sử dụng xây dựng Trung tâm.
Huy động nguồn kinh phí
Thông qua tổ chức các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” vào những ngày lễ lớn kêu
gọi hỗ trợ tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là nguồn vốn lớn từ những
chính sách Đảng và Nhà nước quy định ưu tiên hỗ trợ về vốn cơ sở vật chất, trang thiết
bị cho các cơ sở phục vụ cho người cao tuổi và NCCCM như theo nghị định quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người cao tuổi ngày 14/1/2011
(chương II có hướng dẫn về những vấn đề liên quan đến các cơ sở chăm óc người cao
tuổi trong đó có phần xây dựng trung tâm hay tại điều 22 của pháp lệnh ưu đãi
NCCCM năm 2005 quy định các cơ sở sản xuất, kinh doanh dành cho thương binh,
bệnh binh được Nhà nước hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, bao gồm nhà xưởng, trường,
lớp, trang bị, thiết bị, được miễn hoặc giảm thuế, vay vốn ưu đãi theo quy định của
pháp luật).
Từ Bộ lao động thương binh và xã hội; đài phát thanh Hoài Ân. đài truyền hình
Bình Định, báo Bình Định với tư cách là đơn vị bảo trợ, quyên góp từ các cơ quan,
doanh nghiệp và các nhà hảo tâm; phòng LĐ – TB&XH với tư cách là đơn vị trực tiếp
quản lý và kêu gọi hỗ trợ từ các cá nhân tổ chức, đơn vị và nhà nước; từ quỹ đền ơn
đáp nghĩa của huyện; hội cựu chiến binh và mặt trận tổ quốc việt Nam với tư cách là
đơn vị huy động trực tiếp sự hỗ trợ, giúp đỡ từ các đơn vị bộ đội trong cả nước; hội
người cao tuổi; từ việc đóng góp của nhân dân cả nước đặc biệt là nhân dân huyện
Hoài Ân về tài chính hoặc là công sức; từ các cá nhân thành đạt trong và ngoài nước,
từ các doanh nghiệp, công ty nhà máy. . . của Huyện nhà các huyện lân cận và trong cả
nước.
Giao cho các cán bộ phụ trách xây dựng Trung tâm thiết kế chương hoạt động cụ
thể
Tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc NCCCCM về vật chất tinh thần và
giúp họ tăng cường quan hệ xã hội.
Tổ chức nhận điều dưỡng hàng năm cho các đối tượng có nhu cầu điều dưỡng tại
Trung tâm nhưng không trực tiếp ở trong trung tâm.
Tổ chức điều trị bệnh cho những NCCCM bị bệnh nặng.
Tổ chức các hoạt động lao động sản xuất phù hợp với từng đối tượng NCCCM
69
khi tham gia vào trung tâm như trồng hoa màu, chăn nuôi. . . nhằm tạo thêm kinh phí
cho Trung tâm đồng thời cũng là nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần cho
NCCCM.
Huy động về cơ sở vật chất kỹ thuật
Trên cơ sở một số trang thiết bị có sẵn của trung tâm thể dục dưỡng sinh dành
cho người cao tuổi và NCCCM của xã Ân Tường Tây: bàn ghế làm việc, tủ hồ sơ, máy
tính, máy in, máy quạt, máy điện thoại bàn, tủ sách. Trang thiết bị hỗ trợ bao gồm xe
lăn, máy tập thể đục dưỡng sinh, sân thể thao.
Cần xây dựng thêm phòng và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trên cơ sở
nguồn kinh phí huy động được đồng thời thông qua việc thu hút các chương trình dự
án đầu tư phát triển ở Huyện nhà cũng như giúp các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp quản
bá sản phẩm đến người tiêu dùng thông qua hình thức gửi tặng sản phẩm đặc biệt là
máy móc trang thiết bị để trang bị và sử dụng trong trung tâm.
Huy động nguồn nhân lực cho trung tâm
Tiến hành tạo điều kiện khuyến khích nhân viên làm việc tại Huyện tham gia vào
các lớp học mới nhằm nâng cao kiến thức kỹ năng nhất là trong lĩnh vực tổ chức, quản
lý nhân sự, khóa đào tạo về công tác xã hội, các lớp học tìm hiểu về đối tượng
NCCCM, đào tạo cán bộ chuyên môn về kinh tế – tài chính, y tế, đời sống, . Để khi trở
về họ có đủ khả năng để điều hành, phát triển trung tâm đi lên đáp ứng nhu cầu chăm
sóc sức khỏe NCCCM, trong đó có chú trọng đến việc đào tạo nhà quản trị công tác xã
hội (sẽ là giám đốc của trung tâm).
Bên cạnh đó cần có những chính sách ưu đãi nhằm thu hút đội ngũ sinh viên
đang học tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cũng như những
cán bộ có trình độ chuyên môn cao về phụ vụ cho trung tâm.
Thành lập hội đồng trung tâm gồm tất cả các nhà hảo tâm, tình nguyện viên, hội
viên của phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, nguyên là hội viên của đài phat thanh
Hoài Ân, đài truyền hình Bình Định, báo Bình Định, nguyên là hội viên hội cựu chiến
binh, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và hội viên của các tổ chức xã hội khác.
Phòng y tế và các cơ sở khám, chữa bệnh của huyện Hoài Ân
Ban lãnh đạo Phòng và các cơ sở cần thường xuyên theo dõi cung cách làm việc
của đội ngũ nhân viên, đặc biệt là thái độ phục vụ của họ đối với bệnh nhân đề từ đó
70
có sự nhắc nhở, khiển trách, điều chỉnh đúng lúc, nhằm nâng cao thái độ của họ đối
với bệnh nhân: ân cần, chu đáo, tinh thần trách nhiệm cao tôn trọng hơn. Tranh thủ
những lúc rảnh rỗi có thể thăm hỏi trò chuyện với bệnh nhân, thăm dò ý kiến của họ về
chất lượng khám, chữa bệnh tại cơ sở, giải quyết tốt các thư từ góp ý, đơn khiếu nại tố
cáo của người dân.
Để có thể thực nhiện tốt vai trò của mình trong việc chăm sóc sức khỏe cho
NCCCM. Bệnh viện huyện, các trạm y tế cần phối hợp với Phòng tài chính và Phòng
LĐ – TB&XH Huyện thường xuyên thực hiện các phong trào khám chữa bệnh miễn
phí cho NCCCM, cần cử ra một vài người trực tiếp đến gia đình những người bị bệnh
nặng. Kết hợp với việc tuyên truyền, hướng dẫn NCCCM và thân nhân của họ về các
phương pháp phòng, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân viên làm việc tại các bệnh viện,
các trạm y tế, phòng khám tư, cần tạo điều kiện khuyến khích họ tham gia các lớp học
nâng cao trình độ. Tiến hành đưa nhân viên tại các cơ sở y tế tham gia các lớp học về
tâm lý, xã hội để có thể thực hiện nhiệm vụ tư vấn tâm lý, giải đáp, chia sẽ những thắc
mắc và khó khăn của NCCCM nói riêng, nhân dân của Huyện nói chung.
Tăng cường việc ứng dụng công nghệ mới vào công tác khám, chữa bệnh bằng
cách, cần tăng cường sự linh động liên hệ, hợp tác song phương, đa phương với các tổ
chức, cá nhân, các doanh nghiệp để tranh thủ sự đầu tư hỗ trợ về cơ sở, vật chất kỹ
thuật, trang thiết bị cũng như ủng hộ nguồn kinh phí, mời các chuyên gia thành thạo
trong việc sử dụng những trang thiết bị, công nghệ mới cũng như tạo điều kiện khuyến
khích nhân viên tham gia các cuộc hội thảo về ứng dụng khoa học công nghệ đặc trong
lĩnh vực y tế.
Những người trong ban lãnh đạo cần phải nâng cao trình độ tổ chức, quản lý của
mình như tham gia các lớp học về quản lý nhân sự, quản lý nguồn tài chính.
Phòng lao động – thương binh và xã hội huyện Hoài Ân
Trước tiên, để có thể hoàn thành tốt công việc của mình, Phòng cần kiện toàn bộ
máy tổ chức thông qua việc thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, cử nhân viên của
phòng đặc biệt là nhân viên phụ trách lĩnh vực người có công tham gia các lớp tập
huấn tại các cơ quan đơn vị khác, đặc biệt là tại sở LĐ – TB&XH tỉnh Bình Định
71
nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Mỗi khi sở LĐ – TB&XH tỉnh có công văn về hướng dẫn thực hiện chính sách,
chế độ cho người có công cần thực hiện phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, có trách
nhiệm nếu có gì chưa rõ có thể liên hệ hoặc trực tiếp gặp gỡ nhân viên chịu trách
nhiệm chính trong lĩnh vực đó của Sở để được giải đáp, hướng dẫn cụ thể hơn.
Mỗi khi ban hành cho các xã thực hiện chính sách, chế độ phòng cần phải cử
nhân viên theo dõi kiểm tra giám xác việc thực hiện xem họ thực hiện có đúng tinh
thần không? Họ có bỏ xót ai không? Họ làm việc đã đáp ứng được nhu cầu nguyện
vọng của đối tượng chưa? Và thường xuyên tổ chức các cuộc họp báo cáo về kết quả
đã đạt được, những gì chưa đạt được để từ đó có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Cần giải quyết tốt và triệt để các đơn khuyến nghị, tố cáo của NCCCM, tham
khảo lắng nghe ý kiến của họ không được bỏ qua bất cứ ý kiến đóng góp nào cứ 1
tháng tổng hợp các đơn thư một lần sau đó thực hiện tổng kết gặp gỡ NCCCM và giải
quyết một cách công bằng, công tâm.
Phối hợp với sở LĐ – TB&XH, trung tâm chăm sóc NCCCM tỉnh Bình Định
phòng tài chính, bệnh viện Huyện, trạm y tế xã tổ chức tốt các đợt điều dưỡng cho
người có công, đảm bảo những người điều dưỡng tại gia đình phải có đội ngũ nhân
viên đến thăm hỏi và có cán bộ y tế đến để thăm, khám bệnh cho họ.
Cần thành lập ra đội ngũ chuyên viên của Huyện thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm
nguồn hỗ trợ từ nhân tổ chức, cá nhân những nhà hảo tâm trong và ngoài nước hổ trợ
về tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật.... Có thể thông qua các hoạt động tổ chức các
ngày lễ lớn: Ngày 2 tháng 9, ngày 30 tháng 4, ngày 27 tháng 7, kỹ niệm ngày giải
phóng của địa phương. . .
Phối hợp với đài phát thanh Hoài Ân và đài truyền hình Bình Định tổ chức các
đợt vận động, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò, tầm quan
trọng, những đóng góp của người có công cũng như giúp họ nhận thức một cách đầy
đủ về vai trò trách nhiệm của mình trong công tác chăm sóc NCCCM, kêu gọi sự
đóng góp hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức, đoàn thể trong và ngoài Huyện nhằm gây
dựng và tăng cường “quỹ đền ơn đáp nghĩa”.Quản lý sử dụng quỹ đó một cách hiệu
quả nâng cao đời sống cho người có công về mọi mặt. Tổ chức các cuộc thi văn hóa,
72
văn nghệ: thi làm thơ, thi hát. . . thể dục thể thao: thi chạy bền, cưởi xe đạp, đánh cờ. .
. phù hợp với mọi đối tượng NCCCM đặc biệt chú ý đến thương, bệnh binh và người
cao tuổi.
Phối hợp với các lực lượng, đặc biệt khuyến khích thành lập câu lạc bộ tình
nguyện viên, công tác xã hội giúp đỡ NCCCM trong chăm sóc sức khỏe cũng như các
công việc khác trong cuộc sống của họ.
Nâng cao trình độ tổ chức quản lý cho đội ngũ quản lý chẳng hạn như hỗ trợ họ
tham gia lớp bồi dưỡng quản trị công tác xã hội, quản trị nhân sự. . .
Tăng cường đội ngũ nhân viên của Phòng cả về số lượng và chất lượng thông qua
hình thức tuyển dụng công khai, đặc biệt là nhân viên làm việc trong lĩnh vực chính
sách cho người có công.
Nhân viên phòng cần phải phổ biến, hướng dẫn rõ về chế độ, chính sách dành
cho NCCCM cho nhân viên các xã, yêu cầu cán bộ xã mỗi khi có công văn mới hướng
dẫn về việc thực hiện chế độ cần tổ chức cuộc họp để phổ biến cho toàn bộ đối tượng
hiểu rỏ và thực hiện theo, một khi hiểu rỏ nếu họ không phải là đối tượng được hưởng
chế độ đó họ sẽ không cảm thấy bứt xúc hay .
Đối với các tổ chức, đoàn thể trong huyện Hoài Ân
Cần vận động hội viên trong các tổ chức, đoàn thể dùng quỹ của hội để hỗ trợ
giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật, neo đơn. Tuy sự giúp đỡ có
giới hạn nhưng đề cao vai trò của người có công để họ không thấy bị lãng quên. .
Cần tạo thêm nhiều sân chơi lành mạnh, khuyến khích hơn nữa NCCCM tham
gia vào sinh hoạt đoàn thể, hội, câu lạc bộ chính thức, phi chính thức thu hút những
người thuộc nhóm cao tuổi, các cụ bà và các cụ là dân thường (như câu lạc bộ nhân ái,
câu lạc bộ dưỡng sinh, câu lạc bộ những người sống vui khỏe có ích kết hợp với các
hoạt động thể thao cầu lông bóng bàn, yoga nâng cao sức khỏe thể chất, câu lạc bộ thơ
ca, văn nghệ đó là nơi các cụ có thể vui chơi giải trí, gặp gở kết bạn. Nhằm đáp ứng
nhu cầu giao lưu bạn bè cho NCCCM nâng cao sức khỏe tinh thần và mở rộng quan hệ
xã hội). Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả cần phải có những hoạt động thiết thực,
chú trọng công tác tổ chức xây dựng chương trình hoạt động phong phú, hoàn thiện cơ
sở vật chất, mở rộng không gian sinh hoạt.
Cần kêu gọi các cơ quan chức năng các cấp từ tỉnh ủy, UBND Huyện, phòng LĐ
73
– TB&XH Huyện. . . cũng như các tổ chức cá nhân, hỗ trợ kinh phí để thực hiện các
hoạt động đồng hương, đồng ngũ thường xuyên do hội cựu chiến binh đảm nhận, bởi
những hoạt động này thật sự có ý nghĩa đối với NCCCM, đó là dịp để họ gặp gỡ
những người cùng quê, những người bạn ngày xưa đã trực tiếp kề vai sát cánh chiến
đấu bên nhau, (xuất phát từ thực tế hiện nay các hoạt động này phần nhiều mang tính
tự phát, thiếu người làm cầu nối liên lạc, hơn nữa kinh phí tổ chức cũng là vấn đề nan
giải để duy trì các hội này).
Vận động hội viên cũng như các cơ quan, tổ chức cá nhân ở từng xã, huyện hỗ
trợ nguồn kinh phí, bổ sung vào quỹ hội. Qũy hội sẽ là nguồn trợ giúp họ nhiều hơn.
Trong hội cũng nên tổ chức các hình thức tự giúp nhau và giúp đỡ người khác như
cách làm của hội chữ thập đỏ. Điển hình hội chử thập đỏ thành phố Quy Nhơn, trong
những năm qua đã sử dụng nguồn quỷ của mình không những là giúp đỡ những hội
viên mà còn giúp đỡ những mảnh đời bất hạn, ở đó có một tấm gương sáng ngời một
người luôn cống hiến cả cuộc đời cho quê hương, đất nước và cho người khác đó là vị
lão thành cách mạng Trang Xuân Chi, tham gia hoạt động trong hội chử thập đỏ của
tỉnh Bình Định ông đã có nhiều cống hiến lớn lao “kêu gọi, huy động sự hỗ trợ từ các
cá nhân, tổ chức hỗ trợ giúp đỡ những người không may trong cuộc sống: trẻ em bị
tim bẩm sinh, người khuyết tật ngoài ra ông còn là vị lương y cứu chữa cho rất nhiều
người, vào năm 2010 ông đã liên hệ với nhà xuất bản Quân đội nhân dân cho ra đời
cuốn sách để đời “gieo niềm khác vọng sống” (nói về những mảnh đời bất hạnh đã
ông cứu giúp và vượt lên trên số phận) ”. Nếu mô hình này nhân rộng sẽ thu hút nhiều
NCCCM tham gia vì nó giúp cho NCCCM tìm được ý nghĩa của cuộc sống, khi tiếp
tục được làm những việc có ý nghĩa, giúp ích cho bản thân, người khác và cho đời.
Cần có một trung tâm tư vấn cho người có công, có thể nằm trong hội cựu chiến
binh của Huyện. Trung tâm này sẽ là nơi giải tỏa những vấn đề rắc rối mà họ hay gặp
phải như: các vấn đề về sức khỏe, sự rối loạn tâm lý, tình cảm, những xung đột căng
thẳng.
Đối với đội ngũ nhân viên y tế
Hơn ai hết, đội ngũ cán bộ nhân viên y tế cơ sở cần ý thức đầy đủ về vai trò,
trách nhiệm trong công tác chăm sóc sức khỏe cho nhóm đối tượng đặc thù là
74
NCCCM.
Không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn và bồi dưỡng phẩm chất
trong công tác để phục vụ tốt nhất bệnh nhân, nhất là những người đã hi sinh mất mát
rất nhiều cho Tổ quốc.
Đối với các cán bộ nhân viên y tế chuyên trách cần chuẩn bị các bài giảng về sức
khỏe, vai trò của chăm sóc sức khỏe, những căn bệnh thường gặp ở người cao tuổi và
cách chữa trị, với nhiều hình thực đa dạng phong phú (kết hợp tranh ảnh, sân khấu
hóa, thảo luận nhóm) để đạt hiệu quả cao trong tuyên truyền đến NCCCM. Đồng thời,
cần khuyến khích NCCCM xác định vấn đề sức khỏe của mình thông qua việc hướng
dẫn họ xây dựng cây vấn đề bao gồm vấn đề chính là sức khỏe yếu kém, nguyên nhân,
hậu quả và đề xuất các giải pháp. Để từ đó họ tự nhận thức ra vấn đề, những nguyên
HẬU QUẢ
VẤN ĐỀ CHÍNH
SỨC KHỎE YẾU KÉM
NGUYÊN NHÂN
nhân và tích cực tìm kiếm giải pháp cải thiện tình trạng sức khỏe của bản thân.
Sơ đồ 2: Mô hình cây vấn đề mà nhân viên dùng để hướng dẫn đối tượng xây
dựng hiểu biết về vấn đề sức khỏe
Đối với cán bộ xã
Mỗi khi có chỉ thị từ phòng LĐTB – XH về việc thực hiện trợ cấp, công tác điều
dưỡng người có công, cán bộ xã cần nghiên cứu công văn có điều gì chưa rõ cần liên
hệ với nhân viên của phòng để được hướng dẫn rỏ hơn và đảm bảo thực hiện đúng đối
75
tượng được hưởng tránh trường hợp đưa vào sai đối tượng, sót đối tượng. Sau đó tổ
chức các cuộc họp mời những người có công đến và phổ biến giải thích cho họ hiểu rõ
tinh thần của công văn đó.
Thường xuyên tổ chức các cuộc họp mời những người có công của xã về tham
dự, báo cáo về những kết quả đã dạt được, trung thực thẳng thắn nhìn nhận về những
sai lầm, khuyết đểm của mình và đảm bảo sẽ rút kinh nghiệm và không để lập lại sai
lầm đó, phối hợp với nhân viên của phòng LĐ – TB&XH Huyện để phổ biến chính
sách, chế độ giải đáp những thắc mắt của người có công.
Cán bộ xã cần phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, các tổ chức đoàn thể, các cá
nhân, các ngành để chung tay góp sức thực hiện có hiệu quả công tác “đền ơn đáp
nghĩa” cụ thể cán bộ xã cần thông báo và huy động các lực lượng như: Hội cựu chiến
binh, hội phụ nữ, cán bộ địa phương, hội người cao tuổi, đoàn thanh niên, giáo viên
học sinh tham gia chia nhau tiến hành công tác thăm hỏi, tặng quà động viên người có
công CM vào những ngày lễ 2/9; 30/4; 27/7; ngày tết cổ truyền… thường xuyên nắm
bắt thông tin về cuộc sống của người có công, kịp thời đến thăm hỏi động viên những
người có sức khỏe yếu kém, bệnh tật. Hỗ trợ những gia đình NCCCM gặp khó khăn.
Góp phần thực hiện đa dạng hóa các hình thức hoạt động của các tổ chức đoàn
thể: hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội người cao tuổi như thường xuyên tổ chức các
gặp gở trò chuyện về những năm tháng tham gia cách mạng giới thiệu những tấm
gương người tốt việc tốt, những cá nhân đã vợt qua nghịch cảnh chiến thắng số phận,
cuộc gặp gỡ trò chuyện trao đổi kinh nghiệm sống với thế hệ trẻ lễ kỷ niệm ngày
truyền thống CM, các cuộc thi văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tri thức, để thu hút
sự tham gia của NCCCM, chú ý đến điều kiện đi lại của thương, bệnh binh, những
người cao tuổi, bị bệnh nặng để từ đó có các phương tiện hỗ trợphù hợp giúp họ mở
rộng các mối quan hệ xã hội, các hoạt động xã hội.
Giao nhiệm vụ cho nhân viên dưới quyền thực hiện cuộc khảo sát ý kiến
NCCCM để tìm hiểu xem họ có phản ứng như thế nào hoạt động chăm sóc sức khỏe
cho họ, để từ đó thay đổi điều chỉnh cho phù hợp, luôn cố gắng giải quyết tốt đơn
khuyến nghị cũng như tiếp thu những ý kiến đóng góp NCCCM không được bỏ qua
bất cứ ý kiến nào.
Cần đôn đốc công tác đảm bảo an sinh cho người có công đặc biệt là thực hiện
76
tốt công tác xóa đói giảm nghèo nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình
NCCCM, để không còn tình trạng con, cháu đi làm ăn xa để lại quê nhà những cụ già,
thương binh, bệnh binh với những đứa trẻ còn quá non nớt.
Đối với người thân trong gia đình NCCCM
Các con, cháu cần quan tâm và cố gắng đáp ứng nhu cầu của người có công trong
phạm vi cho phép như giúp đỡ về vật chất, thường xuyên trò chuyện, thăm hỏi
NCCCM, đối với các con cháu ở xa có thể thông qua các phương tiện thong tin liên lạc
(gọi điện hỏi thăm động viên cha mẹ, đưa cả gia đình về thăm nhà cha mẹ vào những
dịp hè, lễ, tết…). Để đảm bảo cho NCCCM được an hưởng tuổi già yên vui, hạnh
phúc, vấn đề quan trọng là làm sao giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các thế hệ trong
gia đình, luôn tạo ra bầu không khí đầm ấm vui tươi, hạnh phúc. Cách tốt nhất là giáo
dục cho thế hệ trẻ hiểu và thông cảm với những đặc điểm về tâm, sinh lý của người
cao tuổi, cha mẹ làm tấm gương hiếu thảo với ông bà.
Gia đình cần quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện tốt nhất để người có công được đi
điều dưỡng và chăm sóc sức khỏe tại cơ sở.
Người thân của NCCCM cần tìm hiểu về các chính sách chế độ mà họ xứng đáng
được hưởng khi họ không có điều kiện tìm hiểu nghiên cứu, cũng như nghiên cứu các
tài liệu, sách báo về người cao tuổi (về cách chăm sóc, những thay đổi về tâm sinh lý
để từ đó có cách đối xử, chăm sóc cho phù hợp, tránh tạo ra những cú sốc, gây buồn
phiền cho họ) để thực hiện công việc này tốt hơn. Nếu có điều kiện, một thành viên
trong gia đình nên đi học những kiến thức về y tế tại các trung tâm, chúng không chỉ
phục vụ cho yêu cầu chăm sóc các thành viên trong gia đình họ mà còn cho chính bản
thân họ.
Các mối quan hệ bạn bè có ý nghĩa tinh thần quan trọng đối với NCCCM, mỗi
khi ốm đau họ rất cần được bạn bè đến thăm hỏi, an ủi động viên. Hoạt động trò
chuyện ngoài ý nghĩa tinh thần còn là nguồn cung cấp và trao đổi thông tin, giúp họ
mỡ rộng tầm hiểu biết. vì vậy gia đình cần chú ý tạo mọi điều kiện để họ được gặp gở
giao lưu bạn bè.
Như chúng ta đã biết, cách hỗ trợ tốt nhất để giúp NCCCM hòa nhập vào cuộc
sống gia đình, cộng đồng xã hội không phải là lúc nào ta cũng ở bên cạnh họ bởi điều
đó có thể tạo phản ứng ngược rất tiêu cực. Đa số NCCCM nhất là người cao tuổi, họ
77
có lòng tự tôn rất lớn, hơn nữa do đặc điểm tâm lý người cao tuổi họ không muốn
người khác xem mình là người già yếu, không có khả năng làm việc gì. . . cho nên
cách tốt nhất ta tạo ra môi trường thuận lợi cho họ chẳng hạn như thay vì ta đi theo
nâng đở họ thì ta chú ý sắp xếp đồ đạt gọn gàn ngăn nắp phù hợp với đặc điểm của
từng người NCCCM.
Gia đình, các tổ chức, các hội, đoàn thể cá nhân cần tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho NCCCM lao động nhẹ nhàng phù hợp với lứa tuổi như: trồng cây, trồng hoa màu,
nuôi gà, thả cá, làm thủ công mỹ nghệ, buôn bán nhỏ. Nhằm giúp cho họ thoát khỏi
những mặc cảm tâm lý không đáng có (ăn bám con cháu, gánh nặng xã hội, là người
vô dụng… của người cao tuổi, thương tật, bệnh tật) có thêm thu nhập để chi tiêu các
sinh hoạt hàng ngày.
Đối với họ hàng và hàng xóm láng giềng
Các mối quan hệ họ hàng có vai trò nổi bật trong việc trợ giúp chăm sóc sức
khỏe cho người có công CM. Ở nông thôn, có lợi thế đa số họ hàng sống gần nhau
những khi ốm đau người có công vẫn có người anh, chị, em ruột chăm sóc.
Cần củng cố và phát triển các hoạt động dòng họ như phong trào xây dựng nhà
thờ dòng họ, lập quỹ khuyến học, các cuộc gặp gở họp bàn dòng tộc, thân tộc… mà
NCCCM có thể tham gia trực tiếp bằng cách đóng góp công sức, tiền bạc. Những hoạt
động này giúp gắn chặt NCCCM nhất là người cao tuổi, thương binh, bệnh binh với
các mối quan hệ thân tộc của mình, góp phần cải thiện đời sống tinh thần cho
NCCCM.
Đối với NCCCM
Tất cả những giải pháp đã đề ra ở trên sẽ thể thực hiện và không đạt kết quả nếu
NCCCM không hợp tác và tham gia.
Thông qua những tác động từ gia đình, chính quyền địa phương các tổ chức đoàn
thể NCCCM cần phải ý thức rõ về vai trò ý nghĩa thực sự của sức khỏe, để từ đó chủ
động tìm kiếm các hành vi, hình thành những thói quen có lợi cho sức khỏe chẳng hạn
như tìm kiếm thông tin thông qua bạn bè, sách báo, internet các kiến thức về chăm sóc
sức khỏe, các phòng và chữa trị các căn bệnh mà người cao tuổi hay mắt phải. Luôn
cẩn thận trong mọi hoạt động từ đi lại đến các hoạt động khác, tránh hoạt động mạnh,
làm giảm thiểu các nguy cơ gãy xương.
78
Tích cực hợp tác với con, cháu và các nhân viên trong vấn đề khám chữa bệnh.
Tìm đọc những lọai sách báo viết về đặc điểm tâm sinh lý của người cao tuổi.
Chấp nhận những giá trị của sự thay đổi cũng như sự khác biệt của bản thân, hiểu
và thông cảm cho con, cháu trong các vấn đề của cuộc sống. Luôn sống một cách lạc
quan tích cực.
Tích cực tham gia các tổ chức, đoàn thể, các hoạt động xã hội như hội phụ nữ,
hội người cao tuổi, hội cựu chiến binh, hội những người sống vui khỏe có ích, câu lạc
bộ nhân ái.
Tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ: sáng tác thơ ca, viết sách
liên hệ với các nhà in xuất bản sách để cho ra đời tác những tác phẩm để đời,
Tích cực tham gia thể dục thể thao, đặc biệt cần thực hiện các bài thể dục dưỡng
sinh một cách thường xuyên, tham gia các hoạt động lao động sản xuất phù hợp với
79
khả năng của mình để tạo niềm vui sống.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong những năm qua với việc thực hiện chính sách cho NCCCM, vấn đề chăm
sóc sức khỏe cho họ cũng được chú trọng đã đạt được hiệu quả nhất định. Thông qua
những kết quả khảo sát thu được có thể thấy rằng những giả thuyết nghiên cứu của đề
tài là hợp lí.
Tại Huyện Hoài Ân hiện nay 100% NCCCM đều nhận được tiền trợ cấp hàng
tháng tùy theo tỷ lệ thương tật và tỷ lệ mất sức lao động; số NCCCM được cấp và
khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế chiếm 100%; 100% NCCCM được điều dưỡng
theo quy định của thông tư liên tịch hướng dẫn chăm sóc sức khỏe cho NCCCM làm
rỏ giả thuyết “Hầu hết người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định đã
và đang được chăm sóc sức khỏe theo chính sách của Đảng và Nhà nước”.
Với việc đại đa số NCCCM mong muốn được điều dưỡng tại các trung tâm
chăm sóc NCCCM; đa số mong muốn các cơ sở khám chữa bệnh được trang bị đầy đủ
cơ sở, vật chất, kỷ thuật hiện đại, với tình trạng sức khỏe yếu kém mắc nhiều căn bệnh.
Nhưng chất lượng và hiệu quả chưa cao: thiếu thốn về tài chính; đội ngũ y bác sĩ vừa
thiếu, vừa yếu (hiện tại mới chỉ có 115 y, bác sĩ ;đa số họ có trình độ trung cấp chuyên
nghiệp, không có thạc sĩ, thái độ phục vụ còn lạnh lùng, cẩu thả, thiếu trách nhiệm,
thiếu tôn trọng bệnh nhân ); cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu (với 46.9% ý kiến
cho rằng thiếu thốn và 9.2% cho rằng rất thiếu thốn [bảng 17; phụ lục 3]) đã làm sáng
tỏ giả thuyết “đa số người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định có
nhu cầu cao về chăm sóc sức khỏe nhưng chất lượng và hiệu quả của công tác này
chưa cao do rất nhiều khó khăn mang lại, nhất là thiếu thốn về tài chính, đội ngũ y,
bác sĩ, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu”…
Thông qua việc bày tỏ những mong muốn nguyện vọng của NCCCM được nhận
sự quan tâm chăm sóc của con cháu người thân, mong muốn chính quyền địa phương
tăng cường hỗ trợ đơi với thân nhân của NCCCM; Tăng cường các hoạt động phục vụ
đời sống tinh thần của người có công, Thường xuyên tổ chức các chuyến du lịch tham
quan các địa danh trong cả nước, Tăng cường hỗ trợ cho người có công cả về vật chất
và tinh thần, Tăng cường sự quan tâm của chính quyền địa phương và cộng đồng đối
80
với người có công; Nâng cao trang thiết bị,cơ sở vật chất, kỹ thuật tại các cơ sở khám
chữ bệnh, Xây dựng thêm trung tâm chăm sóc người có công CM, nâng cao chất lượng
phục vụ tại các cơ sở chăm sóc người có công CM. Nâng cao trình độ của đội ngũ y,
bác sĩ tại các cơ sở khám chữa bệnh, cùng với việc xây dựng giả thuyết thông qua việc
tác động nâng cao vai trò, trách nhiệm hoạt động từ các lực lượng (gia đình, ngành y
tế, chính quyền cac cấp) đã khẳng định giả thuyết về vai trò to lớn của gia đình, chính
quyền các cấp, các cơ sở y tế, đội ngũ y, bác sĩ và cả cộng đồng trong công tác chăm
sóc sức khỏe người có công cách mạng.
2. Khuyến nghị
Để công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định tốt
hơn, đề tài đưa ra một số khuyến nghị sau:
Đảng và Nhà nước cần tiếp tục xây dựng chính sách, tăng nguồn kinh phí và huy
động toàn xã hội tham gia vào công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Các cấp, ban, ngành có liên quan cần có ý thức và tham gia một cách chủ động,
tích cực vào công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Chính quyền địa phương cần linh động trong mọi hoạt động chăm sóc sức khoẻ
cho NCCCM, trong thực thi chính sách, tìm kiếm nguồn lực.
Toàn xã hội cần nhận thức một cách đầy đủ về vai trò trách nhjieemj của mình
đối với công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM để từ đó tham gia đầy đủ tích cực
vào các hoạt động của công tác này.
Gia đình NCCCM cần luôn quan tâm, chăm sóc giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt
nhất để NCCCM có thể đáp ứng mọi nhu cầu trong chăm sóc sức khỏe thể chất, thần
cũng như quan hệ xã hội.
NCCCM cần phải tích cự tham gia vào quá trình chăm sóc sức khỏe của bản thân
81
và của những NCCCM nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cuộc Sống Việt “Bảo hiểm là gì?”, (Ngày 15/6/2009).
2. Báo dân trí “10 bí quyết chăm sóc sức khỏe tinh thần”, (Thứ 6 ngày
12/1/2008).
3. Bộ giáo dục và đào tạo, (2008), Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
4. Chính phủ, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật
người cao tuổi, (số 06/2011/NĐ – CP ), HN ngày 14 tháng 1 năm 2011.
5. Chính phủ, Thông tư liên tịch hướng dẫn chế độ chăm sóc sức khỏe đối với
người có công cách mạng, (số 17/2006/TTLT/BLĐTBXH – BTC – BYT).
6. Đàm Viết Cương, Trầ Thị Mai Oanh, Dương Hy Lương, Khương Anh Tuấn,
Nguyễn Thị Thắng và cộng sự (2006), “Đánh giá tình hình chăm sóc người cao tuổi ở
Việt Nam” từ wesbsite http:// www.hspi.org.vn/vd/vn/home/Infodetai.jsp?
7. Phan Thị Kim Dung (2007), mạng lưới xã hội của người cao tuổi ở thành phố
Quy Nhơn hiện nay (Luận văn thạc sĩ), Trường đại Chọc Khoa học xã hội và Nhân
văn TP.HCM,TP.HCM.
8. Bùi Nhựt Phong (2003), Chính sách xã hội (Tài liệu lưu hành nội bộ), Trường
đại học Đà Lạt, Đà Lạt.
9. Phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định (2011), báo cáo chi trả
trợ cấp cho NCCCM tháng 1/2011.
11. Phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định (2010), báo cáo thực
hiện điều dưỡng cho NCCCM năm 2010
12. Phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định (2010), báo cáo kết
quả hoạt động của phòng LĐ – TB&XH năm 2010.
13. Phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định (2011), báo cáo tình
hình phát triển kinh tế – xã hội huyện Hoài Ân.
14. Phòng y tế (2010), báo cáo tình hình của ngành y tế huyện Hoài Ân.
15. Phòng tài chính (2010), báo cáo các khoảng chi tiêu cho sự ngiệp phát triển
82
của Hoài Ân.
16. Sỡ LĐ – TB&XH tỉnh Bình Định (2011), công văn số 225/LĐTBXH – NCC
ngày 14/2/1011/ về việc hướng dẫn tổ chức, thực hiện chỉ tiêu điều dưỡng NCCCM
năm 2011.
17. Sở LĐ – TB&XH tỉnh Bình Định (2007), Pháp lệnh ưu đãi NCCCM ủy ban
thường vụ quốc hội khóa XI số 26/2005/PL – UBTVQH11 ngày 29/6/2005, Nxb công
ty in Bình Định, Bình Định.
18 .Trường đại học Y tế công cộng (2003), Nhập môn y tế công cộng, Nxb HN,
83
HN.