intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chất thanh lịch của người Hà Nội

Chia sẻ: Khetien Khetien | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

105
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết lưu tâm tới những khó khăn trong việc lưu giữ, bảo tồn sự thanh lịch khi môi trường sống của người Hà Nội hiện nay đã bị pha tạp. Điều quan trọng nhất hiện nay là người Hà Nội cần hình thành ý thức và phong cách sống của người thị dân đích thực, trước hết là tự giác tuân thủ pháp luật và những quy ước chung của cộng đồng. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chất thanh lịch của người Hà Nội

CHẤT THANH LỊCH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI<br /> NGUYỄN HỒNG MAI<br /> <br /> Tóm tắt: “Nếp sống văn hóa người Hà Nội” là một công trình lớn đã được<br /> xã hội quan tâm từ nhiều năm nay nhưng kết quả của nghiên cứu vẫn chưa đạt<br /> được như mong muốn. Danh hiệu Người Hà Nội là một khái niệm luôn mở và<br /> biến động không chỉ theo trục thời gian mà cả trong những chiều không gian<br /> rộng hẹp khác nhau. Tính chất “Kinh đô văn hóa linh thiêng và hào hoa” của<br /> Thăng Long - Hà Nội truyền thống đã chi phối, điều chỉnh cấu trúc cư dân cũng<br /> như định hình tính cách thanh lịch của con người nơi đây. Bài viết lưu tâm tới<br /> những khó khăn trong việc lưu giữ, bảo tồn sự thanh lịch khi môi trường sống<br /> của người Hà Nội hiện nay đã bị pha tạp. Điều quan trọng nhất hiện nay là người<br /> Hà Nội cần hình thành ý thức và phong cách sống của người thị dân đích thực,<br /> trước hết là tự giác tuân thủ pháp luật và những quy ước chung của cộng đồng.<br /> <br /> 1. Người Hà Nội là ai?<br /> Về phương diện quản lý nhà nước, tên gọi này thuộc về tất cả những ai<br /> đang sống và làm việc ổn định ở nơi đây. Trên sáu triệu người có đăng ký<br /> thường trú và tạm trú dài hạn được gọi là người Hà Nội (sau ngày thủ đô mở<br /> rộng năm 2008, một người dân tộc Sán Chỉ dưới chân núi Ba Vì hân hoan khoe<br /> rằng: chỉ sau một đêm, anh ta đã thành người Hà Nội). Ngoài ra, trong nội hàm<br /> của khái niệm này, có lẽ không thể không kể tới một bộ phận không nhỏ những<br /> người quê gốc ở đây đã phiêu bạt nơi chân trời góc bể mà vẫn không nguôi<br /> ngoai nỗi nhớ Thăng Long. Những người con Hà Nội ra đi xây dựng kinh tế mới<br /> Lâm Đồng vẫn muốn níu giữ hoài niệm về quê cha đất tổ trong tên gọi vùng đất<br /> mới - Lâm Hà.<br /> Có người quan niệm danh hiệu này chỉ dành cho người Hà Nội đích thực –<br /> Hà Nội gốc. Tác giả Nguyễn Bích Hà cho biết người Hà Nội gốc chiếm có 7%<br /> trong số bốn triệu dân ở thời điểm trước khi mở rộng (1). Nhưng thế nào là gốc,<br /> cư trú ở đây bao nhiêu đời sẽ được coi là gốc? Một thanh niên có cha và cả ông<br /> sinh trưởng tại Hà Nội, không có ý niệm và cảm xúc gì về mảnh đất chôn rau cắt<br /> rốn của mình, nhưng trong giấy tờ tuỳ thân vẫn phải ghi nguyên quán là Hà Nội,<br /> <br /> anh ta chưa phải người Hà Nội gốc. Theo điều tra tại một địa bàn phố cổ phường Hàng Đào - chưa đến 9% gia đình sống liên tục mười đời (ước khoảng<br /> ba, bốn trăm năm).<br /> Các nguồn sử liệu cho thấy, ngay từ xa xưa, cư dân Thăng Long đã thường<br /> xuyên thay đổi. Khi lựa chọn Thăng Long làm kinh đô, người khai sáng mỗi<br /> vương triều đã kéo về đây một số lượng không nhỏ người trong dòng tộc mình.<br /> Họ Lý từ Đình Bảng xứ Bắc, họ Trần từ Long Hưng, Bảo Lộc xứ Nam, họ Lê từ<br /> Lam Sơn Thanh Hoá, họ Trịnh lại đến từ vùng đất xứ Nghệ… Ngoài tầng lớp quí<br /> tộc, quan lại sống trong thành, còn có một bộ phận “ăn theo” tập hợp bên ngoài<br /> để sản xuất, buôn bán phục vụ. Nhìn chung, tập hợp kiểu dòng tộc ở Thăng<br /> Long có tính thời vụ, một phần vì sự thay thế liên tục của các vương triều (kể cả<br /> việc lẩn tránh sự trấn áp của vương triều mới), mặt khác do tâm lý thích gắn bó<br /> với quê hương của người nông dân. Mặc dù quan niệm “nhà giàu kẻ quê không<br /> bằng ngồi lê Kẻ Chợ”, nhưng với họ, Thăng Long vẫn chỉ là nơi “tá túc”, khi nào<br /> kiếm được chút vốn liếng, họ lại mau chóng trở về quê cũ. Vì vậy, có rất ít gia<br /> đình làm ăn, sinh sống nhiều đời ở Thăng Long.<br /> Dân cư Thăng Long, thời kỳ nào cũng thế, có tỷ lệ rất cao người nhập cư.<br /> Họ phần lớn là dân “tứ chiếng” (đọc chệch từ “tứ trấn”: Nam, Bắc, Đông, Đoài)<br /> và xa hơn nữa. Theo tư liệu của tác giả Hà Đình Đức(*), trong dân số Hà Nội hiện<br /> nay, có 26% gốc Thanh Hoá và 27% gốc Nghệ Tĩnh. Trong truyện ngắn “Khách<br /> ở quê ra”, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã miêu tả khá sâu sắc và hóm hỉnh về bộ<br /> phận người xứ Nghệ đông đúc đang sinh sống ở nơi đây với đầy đủ, trọn vẹn<br /> thói quen ứng xử vùng quê gốc. Tuỳ từng thời kỳ, người nhập cư đến Thăng<br /> Long – Hà Nội với nhiều lý do, động cơ khác nhau. Ví dụ năm 1954 lập lại hoà<br /> bình, sau khi một phần người Hà Nội di cư vào Nam, trong số 53 vạn dân lúc đó<br /> có bao nhiêu người từ chiến khu trở về, từ miền Nam tập kết, có bao nhiêu học<br /> sinh ưu tú các nơi kéo về dùi mài kinh sử tại các trường đại học mới mở hoặc mở<br /> lại ở Thủ đô Giai đoạn sau này cũng thế, mỗi thời kỳ lại thêm, lại bớt một số<br /> lượng người bởi vô số các nguyên nhân chủ quan, khách quan.<br /> Như vậy, có hai căn nguyên chủ yếu dẫn tới sự biến động cũng như tốc độ<br /> tăng dân số Hà Nội. Trước hết, do yêu cầu mở rộng địa bàn Thủ đô. Trong mấy<br /> chục năm qua, Hà Nội đã vài lần nhập tách, và gần đây đã ôm trọn một vùng<br /> đất có bề dày văn hoá - lịch sử là xứ Đoài. Từ diện tích 152 km2 và 53 vạn dân,<br /> nay đã tăng lên 3.344 km2 với 6,2 triệu dân, Hà Nội trở thành thủ đô lớn thứ 17<br /> của thế giới. Sự mở rộng này làm tỷ lệ đô thị của Hà Nội từ 80% giảm xuống<br /> 35% và có thêm một vùng nông thôn trung du rộng lớn đang gắng mình đô thị<br /> hoá. Mặt khác, nếu trong truyền thống, người nhập cư ít muốn bén rễ với chốn<br /> kinh kỳ thì thời gian gần đây, Hà Nội là thỏi nam châm không chỉ hút liên tục các<br /> <br /> dòng người từ khắp nơi mà hơn thế, dòng người nhập cư này luôn muốn “sống<br /> chết với Thủ đô” bởi những ưu thế to lớn về chính trị - ngoại giao, về giao lưu và<br /> phát triển kinh tế, văn hoá mà không địa phương nào có được. Về khía cạnh<br /> này, để kiềm chế tốc độ tăng dân số Thủ đô, chỉ có một phương án tối ưu: phát<br /> triển nhanh hơn, mạnh hơn đời sống kinh tế, văn hoá của các vùng miền để<br /> giảm bớt mức độ chênh lệch trong chất lượng sống nói chung cũng như trong cơ<br /> hội học tập và làm việc nói riêng. Chỉ khi ấy, thủ đô mới giải nổi bài toán về sức<br /> ép dân số.<br /> Thăng Long – Hà Nội, trong lịch sử ngàn năm không những biến động về<br /> diện tích, dân số mà cả về cơ cấu dân cư. Không phải lúc nào nơi đây cũng là<br /> kinh đô. Nhà Hồ đã chọn Tây Đô, nhà Nguyễn gắn với địa danh Phú Xuân, sang<br /> thời thuộc Pháp, nước ta bị chia làm ba kỳ, mỗi kỳ có một thủ phủ riêng (Hà Nội<br /> chỉ là thủ phủ của Bắc Kỳ). Đặc biệt là các ông vua triều Nguyễn, do lo lắng tầm<br /> ảnh hưởng của Thăng Long, nên trong khi xây dựng cung đình Huế vẫn không<br /> quên tìm mọi cách hạ thấp địa vị Thăng Long (đổi chữ Long – Rồng thành Long Thịnh, bắt phá bỏ hoàng thành, giảm bớt chiều cao của thành…), nhưng trong<br /> lòng người dân Việt, không nơi nào có thể thay thế được Thăng Long. Giáo sư sử<br /> học Trần Văn Giàu - một người con phương Nam – đã khẳng định: “Thăng Long<br /> <br /> lồng lộng không duy nhất vì nhiệm vụ Thủ đô mà vì cái khác cao xa hơn, sâu<br /> lắng hơn. Thăng Long vừa là một địa chỉ cụ thể, đồng thời mang ý nghĩa khái<br /> quát, bao quát, nó gắn với nền văn minh sông Hồng, cội nguồn của dân tộc”*.<br /> Có thể có lúc nơi đây không phải một kinh đô chính trị, không phải là trung<br /> tâm hoạt động kinh tế lớn nhất nước, nhưng bao giờ Thăng Long – Hà Nội cũng<br /> là một kinh đô văn hoá linh thiêng và hào hoa, nơi qui tụ và lưu giữ hồn dân tộc.<br /> Chính sứ mạng cao quý ấy đã chi phối và điều chỉnh cấu trúc cư dân nơi đây.<br /> Trong truyền thống, văn hoá Thăng long thuộc loại hình văn hoá nông<br /> nghiệp với phần lớn dân cư là nông dân. Thời Lý - Trần, phía tây Hoàng thành có<br /> khu thập tam trại rộng lớn chuyên trồng lúa trồng rau, trồng hoa và các cây<br /> thuốc nam. Danh xưng vùng đất các khu trại đó hiện đã thành tên gọi của<br /> những đường phố lớn: Giảng Võ, Liễu Giai, Đại Yên, Ngọc Hà, Nghi Tàm, Hữu<br /> Tiệp v.v… Cho đến giữa thế kỷ XX, vùng Lò Đúc, gò Đống Đa và dọc đê La<br /> Thành vẫn chủ yếu là hồ ao, ruộng lúa. Tuy nông dân chiếm số lượng đông<br /> nhưng vai trò “kinh đô văn hoá” đã khiến tầng lớp cư dân chiếm vị trí số một của<br /> Thăng Long lại là kẻ sĩ. Họ thường là những người tài trí và ham học từ mọi<br /> vùng quê về đây để trau dồi học vấn, nghề nghiệp và với cả mong ước “có danh<br /> gì với núi sông”. Tại đây, họ có cơ hội, điều kiện tốt nhất để tiếp cận tam cương,<br /> ngũ thường của Nho học, bác ái của Phật học, vô vi của Đạo học, cũng như thời<br /> kỳ cận - hiện đại là các tư tưởng dân chủ mới, các phương pháp, phương tiện<br /> <br /> tiên tiến nhất trong nghiên cứu khoa học và sáng tạo nghệ thuật. Trong danh<br /> mục “Danh nhân Thăng Long” mà chúng ta thống kê hiện nay, những người có<br /> danh tiếng được lựa chọn hầu hết là kẻ sĩ. Chính Thăng Long là mảnh đất màu<br /> mỡ ươm trồng tài năng của họ và ngược lại, nhờ họ mà mảnh đất kinh kỳ này<br /> được rạng rỡ, vẻ vang. Vốn tri thức Đông Tây kim cổ đồ sộ cộng với tài năng,<br /> đặc biệt là khí phách quân tử đã tạo nên thương hiệu “Sĩ phu Bắc Hà” (cũng là sĩ<br /> phu Thăng Long) - một đối tượng giành được sự ngưỡng mộ, vị nể của giới trí<br /> thức trong cả nước. Cũng vì thế, không chỉ quan niệm, tư tưởng, học vấn mà cả<br /> phong cách lối sống, lối hành xử của tầng lớp kẻ sĩ có tác động rất lớn tới các<br /> thành phần khác trong cộng đồng dân cư Thăng Long.<br /> Tầng lớp công thương của Thăng Long xưa được xếp cuối bảng phân loại<br /> tứ dân (sĩ, nông, công, thương) cũng như ở các vùng miền khác. Dù rằng Kẻ<br /> Chợ có phát triển hơn Phố Hiến nhưng nó vẫn rất nhỏ so với đô thị các nước cận<br /> kề. Yếu tố “thị” yếu ớt nhiều so với yếu tố “đô”. Giáo sư Lê Văn Lan đã lưu ý<br /> rằng: tư cách thần dân của cư dân Thăng Long nổi trội hơn nhiều so với tư cách<br /> thị dân – công dân tự do*. Địa vị thấp kém của tầng lớp thương nhân có thể có<br /> nhiều nguyên nhân: do mức độ non yếu của kinh tế hàng hoá; do chính sách “<br /> trọng nông ức thương” của một số vương triều, hoặc do cả sự kỳ thị, nghi ngờ<br /> của dân chúng (trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết “ngẫm ra cho kỹ như hình<br /> con buôn”). Nghề thủ công Thăng Long xưa tuy hội tụ được khá đông thợ<br /> khéo, thợ giỏi nhưng vẫn mang tính chất phường hội làng quê. Chỉ tới đầu thế<br /> kỷ XX, sau các cuộc khai thác thuộc địa, hoạt động công thương mới dần dần<br /> khởi sắc, ý thức thị dân mới bắt đầu manh nha. Một vài khái niệm mới xuất hiện<br /> “bourgeoir” (thị dân) và “petit bourgeoir” (tiểu thị dân), chúng ta vẫn dịch, vẫn<br /> hiểu là “tư sản” và “tiểu tư sản”. Kiểu cư dân - thị dân Thăng Long – Hà Nội<br /> thành hình bao gồm nhiều tầng lớp và địa vị ngày càng được nâng cao của tầng<br /> lớp công thương làm cho đời sống xã hội trở nên linh hoạt hơn, sung túc hơn<br /> (Bảng nhãn Lê Quí Đôn đã từng nhắc: Phi công bất phú, phi thương bất hoạt).<br /> Tuy nhiên dấu tích của tư tưởng thần dân, của gốc tích tiểu nông và đặc biệt<br /> những quan niệm giản đơn và ấu trĩ về nếp sống đô thị đã tạo ra cho Thăng<br /> Long – Hà Nội một sản phẩm đặc thù: những thị dân non mà biểu hiện rõ nhất ở<br /> sự yếu kém trong ý thức tuân thủ pháp luật. Sống giữa Thủ đô mà vẫn không ít<br /> người quen coi thói tục mới là luật, “phép vua thua lệ làng”, luôn tìm cách luồn<br /> lách, lẩn tránh, thậm chí còn chống đối pháp luật. Có lẽ đây cũng là một “truyền<br /> thống cố hữu” gây cản trở khá lớn cho quá trình quản lý và phát triển đô thị hiện<br /> đại.<br /> Chân dung người Thăng Long – Hà Nội biến động khá nhiều qua các giai<br /> đoạn lịch sử như là sản phẩm khách quan của những điều kiện xã hội cụ thể. Cái<br /> gọi là “người Hà Nội truyền thống” cũng rất khó xác định do những biến động<br /> <br /> ấy. Đọc trong sách “Vũ trung tuỳ bút”, chúng ta cũng bắt gặp những nhận xét<br /> của Phạm Đình Hổ về những biến động phong tục ở kinh thành trong vài chục<br /> năm cuối thế kỷ XVIII:<br /> “Khi ta còn nhỏ, phong tục hãy còn chuộng trung hậu, mọi người hàng<br /> <br /> ngày giao tiếp với nhau vẫn có ý khoan dung, giữ thói khiêm nhường. Ai làm<br /> điều gì xằng bậy chỉ sợ người khác biết mà chê cười… Nhưng từ thời chúa Trịnh,<br /> chính sự càng ngày càng nát. Tất cả lễ độ về giao tiếp, thù tạc, ăn uống, cư xử<br /> đều bị sửa lại, mỗi ngày một khác. Tập tục ngày càng kiêu bạc”(2).<br /> Như vậy, khó lòng xác định một chân dung qua muôn vàn biến thiên lịch<br /> sử. Và ngay ở một thời kỳ, chân dung ấy cũng mang những màu sắc rất khác<br /> nhau gắn với khu vực mà người ta cư trú. Có Hà Nội trung tâm phố cổ và có Hà<br /> Nội ngoại ô (ngày càng đẩy ra xa, sau các đường vành đai một, hai, ba, bốn); có<br /> Hà Nội sang trọng kiêu sa để chàng lính trẻ Quang Dũng mơ về “dáng kiều<br /> thơm” và có cả Hà Nội lầm than vất vả; Có Hà Nội mặt tiền xô bồ náo nhiệt và<br /> có Hà Nội lặng lẽ khiêm nhường trong ngõ hẻm v.v.. Cứ đọc và so sánh các tác<br /> phẩm văn chương trước Cách mạng viết về Hà Nội sẽ thấy rất rõ sự đa dạng<br /> này. Người Hà Nội trong “Tố Tâm”, trong “Lá ngọc cành vàng” đâu có giống<br /> người Hà Nội trong “Nhà nghèo”, “Cỏ dại’, và cũng khác xa những kiếp người<br /> trong các phóng sự của Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Đình Lạp. Trong vài thập<br /> kỷ qua, khuôn mặt người Hà Nội còn nhiều hình, nhiều vẻ hơn. Vì thế, việc cố<br /> gắng khái quát hoá, trừu tượng hoá danh hiệu “Người Hà Nội” xem chừng ngày<br /> càng trở nên khó khăn, phức tạp.<br /> 2. Có chăng một tính cách người Hà Nội?<br /> Liệu có tính cách người Hà Nội, mẫu số chung cho mọi kiểu người mà<br /> chúng ta vừa nhắc tới không?<br /> Khi bàn về điều này, các nhà nghiên cứu thường liệt kê rất nhiều phẩm<br /> chất (hầu hết là các phẩm chất tốt đẹp) như: yêu nước, yêu hoà bình, giàu lòng<br /> tự hào dân tộc; ham học hỏi, cầu tiến; lao động cần cù và có tay nghề khéo léo;<br /> sống có nghĩa tình v.v.. Nhưng có nhiều người đặt câu hỏi: những phẩm chất<br /> vừa kể đâu phải của riêng người Hà Nội? Một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian<br /> khi khái quát đặc trưng văn hoá gia đình người xứ Nghệ là hoà, hiếu, nhẫn,<br /> tình cũng đã nhận được từ đồng nghiệp câu phát vấn tương tự. Hình như những<br /> phẩm chất ấy, người vùng nào cũng có. Thực ra, mong muốn chỉ ra đặc trưng<br /> hay sự khác biệt trong tính cách con người ở một vùng miền nào đó không phải<br /> dễ dàng, nhất là khi họ có chung một cốt cách dân tộc, có những điều kiện kinh<br /> tế - lịch sử khá tương đồng và luôn có sự giao lưu văn hoá. Nhưng có điều này<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2