LUẬN VĂN:
Chi phí sản xuất kinh doanh và các
biện pháp quản lý chi phí x kinh
doanh tại xí nghiệp 24
LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quản trị tài chính là công
cụ quan trọng phục vụ cho việc quản lý kinh tế cả về mặt vĩ mô và vi mô. Hoạt động
trong cơ chế thị trường, việc tồn tại và phát triển là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp,
trong đó lợi nhuận là động lực chính hướng dẫn và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận, cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp
sản xuất phải thường xuyên quan tâm đến chi phí sản xuất. Do đó công tác quản lý chi phí
là công việc trọng tâm và luôn được xoay quanh trước các quyết định quản trị tài chính.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường có điều tiết và cạnh
tranh, khi quyết định lựa chọn phương án sản xuất một sản phẩm nào đó doanh nghiệp
luôn phải tính đến lượng chi phí bỏ ra và kết quả thu về. Doanh nghiệp có tồn tại hay
không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có đảm bảo bù đắp được chi phí bỏ ra trong quá
trình sản xuất hay không. Nghĩa là doanh nghiệp phải tính toán hợp lý chi phí sản xuất và
thực hiện quá trình sản xuất theo đúng kế hoạch đã đặt ra.
Chi phí và giá thành là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh kết quả việc quản
lý sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn. Phấn đấu tiết kiệm chi phí sản xuất là mục tiêu hàng
đầu của mọi doanh nghiệp và cũng là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy, công tác
quản lý chi phí sản xuất kinh doanh là khâu quan trọng đảm bảo cung cấp thông tin kịp
thời chính xác về kết quả hoạt động sản xuất, đáp ứng cho việc ra quyết định quản lý, là
yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng, tăng trưởng và phát
triển nền kinh tế nói chung.
Sau một thời gian thực tập tại xí nghiệp 24 - xí nghiệp thành viên của Công ty 22 -
TCHC - BQP, tìm hiểu được thực trạng quản lý kinh tế của xí nghiệp kết hợp với những
nhận thức của bản thân về tầm quan trọng cả công tác quản lý chi phí sản xuất, em đã lựa
chọn đề tài"Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí x kinh doanh
tại xí nghiệp 24" cho luân văn tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu theo 3 chương.
Chương I: Một số lý luận cơ bản về chi phí sản xuất kinh doanh và quản lý chi phí
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng về công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh tại xí
nghiệp 24 những năm qua.
Chương III: Một số vấn đề xuất nhằm tăng cường công tác quản lý chi phí sản xuất
kinh doanh tại xí nghiệp 24.
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ
QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Từ khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phần lớn doanh nghiệp đã từng bước
thích ứng với hoàn cảnh mới, không những thế còn góp phần đáng kể vào việc ổn định
kinh tế xã hội, đưa nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng. Điều đó càng chứng tỏ sức mạnh vật
chất của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước trong việc giúp Nhà nước
điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh những kết quả bước đầu, đứng trước những tình thế mới, thời cơ và
thách thức mới, các doanh nghiệp còn bộc lộ nhiều yếu kém. Mốc thời gian hội nhập
đang đến gần, trong khi đó nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động theo lối chờ đợi sự bảo hộ
của Nhà nước, chưa chủ động chuẩn bị khẩn trương những biện pháp sách lược sản xuất
kinh doanh cụ thể cho doanh nghiệp mình để thích ứng với lịch trình đã và sẽ cam kết.
Rõ ràng doanh nghiệp không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc tìm cách tăng
năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, tăng chất lượng hàng hoá
bán ra để tăng sức cạnh tranh, từng bước chiếm lĩnh thị trường trong nước và trên thế
giới.
Vì vậy để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp tất yếu phải
đặt công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh vào vị trí trọng tâm then chốt. Bởi quản
lý chi phí, giá thành sản phẩm sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp đi vào hoạt động kinh
doanh có lãi, thực hiện những mục tiêu đề ra.
1.1.2. Những tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động của doanh
nghiệp
Trong xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng
không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại biệt lập. Thực tế hiển nhiên là khi muốn thành
đạt, doanh nghiệp không chỉ phải nắm vững nguồn lực bên trong mà còn phải nắm vững
cả nguồn lực bên ngoài để có thể tận dụng được các cơ hội kinh doanh. Các nguồn lực
bên ngoài đó chính là môi trường kinh doanh.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, tác động của môi trường kinh
doanh đến hoạt động của doanh nghiệp có những nét cơ bản sau:
* Theo pháp luật quy định, các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, tự hạch toán đảm bảo lấy thu bù chi và không có sự phân biệt các thành phần kinh
tế. Điều đó một mặt tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, mặt
khác gắn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với kết quả cuối cùng, khuyến khích
các doanh nghiệp năng động hơn trong khai thác triệt để khả năng tiềm tàng giảm thiểu
chi phí, nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh.
* Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn chịu sự chi phối mạnh mẽ
bởi các quy luật của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh.
Bản chất của quy luật giá trị là sự trao đổi ngang giá của sản phẩm hàng hoá trên
thị trường, giá cả hàng hoá được xác định trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Từ
đó đòi hỏi người sản xuất muốn đạt được lợi nhuận siêu ngạch phải tìm ra các biện pháp
hạ thấp chi phí cá biệt so với mức chi phí chung của xã hội.
Nắm được quy luật cung cầu là điều kiện cơ bản đem lại sự thành đạt cho doanh
nghiệp trong kinh doanh. Vì quy luật cung cầu hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của hx thông qua sức mua và giá cả trên thị
trường. Ngày nay doanh nghiệp luôn phải tính toán "sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và
sản xuất như thế nào".
Trong môi trường kinh doanh mới, doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh để giành lợi
thế so với doanh nghiệp khác. Sự cạnh tranh có thể diễn ra ở mọi lĩnh vực, song quan
trọng nhất là cạnh tranh về chất lượng và giá cả hàng hoá. Bởi doanh nghiệp nào có chất
lượng hàng cao, giá bán hợp lý sẽ chiếm được thị trường tiêu thụ, tăng uy tín với khách
hàng. Muốn có được lợi thế này, doanh nghiệp phải có các biện pháp quản lý sử dụng chi
phí tiết kiệm mà chất lượng sản xuất vẫn đảm bảo, từ đó sẽ linh hoạt trong tăng giảm giá
bán nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
* Xu hướng toàn cầu hoá, đặc biệt là trong hoạt động kinh tế đem lại cho doanh
nghiệp nhiều cơ hội mới và cả những thách thức mới.
Theo xu hướng quốc tế hoá, ngày càng có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp hợp tác
liên doanh với nước ngoài để tranh thủ vốn, công nghệ sản xuất mới, mở rộng thị trường
và nâng cao trình độ quản lý. Doanh nghiệp nào nhanh nhạy dũng cảm đi đầu trong đổi
mới kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới sẽ có khả năng vươn lên chiếm lĩnh thị trường,
thắng thế trong cạnh tranh, tạo bước nhảy vọt về chất cho mình. Điều này rất yếu đòi hỏi
doanh nghiệp phải có những tính toán sát sao và điều cốt yếu là phải xác định được mức
sinh lời của đồng vốn, phải thấy được những chi phí nào bỏ ra là cần thiết đem lại hiệu
quả trong tương lai, từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn, hạn chế rủi ro trong kinh
doanh.
* Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục tiêu, là khát vọng của nhà kinh
doanh. Tôn trọng pháp luật, tôn trọng người tiêu dùng buộc doanh nghiệp phải cạnh tranh
lành mạnh để xác định được chỗ đứng trên thương trường. Lợi ích kinh tế trở thành động
lực mạnh mẽ, là mục tiêu kinh tế hàng đầu đối với doanh nghiệp kinh tế. Điều này nghĩa
là doanh nghiệp càng tiết kiệm chi phí bỏ ra bao nhiêu thì lãi thu về càng tăng bấy nhiêu.
Do đó các doanh nghiệp ngày nay không ngừng học hỏi áp dụng các biện pháp quản lý
kinh doanh tiên tiến hiện đại phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp mình.
* Phân phối lợi ích kinh tế không chỉ theo lao động mà còn theo giá trị vốn góp.
Tiền lương là giá cả hàng hoá sức lao động do đó việc thực hiện nguyên tắc phân
phối theo lao động căn cứ vào số lượng, chất lượng đóng góp để trả lương. Muốn giảm
chi phí sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải quan tâm tuyển chọn lao động đầu vào có
trình độ tay nghề cao, nhiệt tình với công việc. Mặt khác cơ chế phân phối lợi nhuận còn
lại của doanh nghiệp phải thể hiện sự quan tâm tới người lao động qua trích lập và sử
dụng quỹ khen thưởng phúc lợi nhằm tạo nguồn bổ sung cho người lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một hàng hoá đặc biệt có giá trị và giá trị sử
dụng. Người có vốn có thể bán quyền sử dụng vốn cho người thiếu vốn để hưởng lãi. Do
đó trong phân phối lợi ích kinh tế doanh nghiệp còn phải căn cứ vào giá trị mức vốn góp
của mỗi bên tham gia để phân chia lãi, đồng thời tính toán được chi phí sử dụng mỗi đồng
vốn từ đó các nguồn khác nhau để c họn phương án hiệu quả nhất. Đây là một đặc trưng
về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, người có vốn
không cần tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh mà chỉ cần góp vốn đầu
tư để kiểm lời.
Trên đây là một số tác động chủ yếu của môi trường kinh doanh đến hoạt động của
doanh nghiệp, người quản lý càng nắm rõ những ảnh hưởng đó càng có cơ sở để đưa ra
những quyết định phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình.
1.2. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm, nội dung và đặc điểm của chi phí sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để hoàn thành
việc sản xuất sản phẩm, cung ứng lao vụ trong một thời kỳ nhất định.
Hay chi phí doanh nghiệp chi ra cấu thành nên giá trị sản phẩm bao gồm:
C+ V + m.
Trong đó:
C: Hao phí lao động vật hoá, là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong
quá trình tạo ra sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ…
V: Hao phí lao động sống, là chi phí về tiền lương, tiền công.. phải trả cho người
lao động tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm.
m: Là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt động tạo ra giá trị
sản phẩm, dịch vụ lao vụ.
Chi phí sản xuất có một số đặc điểm sau:
- Chi phí sản xuất phát sinh thường xuyên và gắn liền với quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chi phí sản xuất tỷ lệ thuận với khối lượng sản xuất sản phẩm.
- Chi phí gắn liền với một thời kỳ nhất định.
Theo cơ chế kinh tế hiện hành, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động như một tổ
chức sản xuất kinh doanh độc lập tương đối nên chi phí sản xuất của họ chỉ gồm 2 bộ
phận là C và V. các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên, gắn liền với quá
trình sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định có thể là quý, tháng, năm. Mặc dù
những hao phí này gồm nhiều loại, nhiều yếu tố khác nhau nhưng trong điều kiện quan hệ
hàng hoá tiền tệ thì các chi phí lao động sống, lao động vật hoá đều được biểu hiện dưới
hình thái tiền tệ.
Để thu được lợi nhuận thì sau quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tổ chức việc
tiêu thụ sản phẩm. Công việc này đòi hỏi những khoản chi phí nhất định như chi phí đóng
gói, bảo quản, vận chuyển bốc dỡ sản phẩm. Mặtkhác hoạt động trong môi trường đầy
tính cạnh tranh như ngày nay, để sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận, doanh
nghiệp phải bỏ ra chi phí để nghiên cứu thị trường, chi phí tiếp thị quảng cáo giới thiệu
sản phẩm, thậm chí cả bảo hành sản phẩm. Những khoản chi này liên quan đến việc lưu
thông sản phẩm nên gọi là chi phí tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm để thực hiện được hoạt động kinh
doanh doanh nghiệp còn phải thực hiện nghĩa vụ với nhà Nhà nước như nộp thuế giá trị
gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Đối với doanh nghiệp, những khoản
thuế trên là những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kinh doanh. Vì thế nó là
khoản chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất,
chi phí tiêu thụ và các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Chi phí sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng, nó cho thấy tình
hình sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí cũng như trình độ quản lý của doanh nghiệp. Lợi
nhuận là mục tiêu của hoạt động kinh doanh còn chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
nhuận, vì vậy các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến công tác quản lý chi phí, bởi mỗi
đồng chi phí không hợp lý, hợp lệ đều làm tăng giá thành giảm lợi nhuận. Do đó hạ thấp
chi phí sản xuất kinh doanh là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
Để quản lý tốt chi phí sản xuất kinh doanh, thực hiện tiết kiệm chi phí hợp lý
doanh nghiệp cần tiến hành phân loại chi phí.
1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định gồm
nhiều loại có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá
trình sản xuất kinh doanh cũng khác nhau. Để kiểm soát quản lý hiệu quả chi phí sản xuất
kinh doanh phải tiến hành phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức khác nhau.
1.2.2.1. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố chi phí.
Theo cách phân loại này, người ta dựa vào công dụng kinh tế của chi phí phát sinh
lần đầu (còn gọi là dựa vào hình thái nguyên thuỷ của chi phí phát sinh) chỉ căn cứ vào
tính chất kinh tế của các khoản chi phí. Do đó những chi phí giống nhau được xếp vào
một yếu tố:
Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Là giá trị toàn bộ nguyên vật liệu, nhiên liệu, động
lực mà doanh nghiệp đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất
định.
Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương. Là toàn bộ tiền
lương, tiền công, chi phí có tính chất tiền lương trả cho người tham gia vào quá trình sản
xuất sản xuất sản phẩm.
Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn.
Chi phí khấu hao tải sản cố định: Là số tiền khấu hao tài sản cố định trích theo quy
định đối với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các chi phí đã trả cho các tổ chức cá nhân doanh
nghiệp về các dịch vụ thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp như tiền điện, nước, điện
thoại, tư vấn, kiểm toán.. và các dịch vụ khác.
- Chi phí khác bằng tiền: Là các khoản chi phí gồm thuế môn bài, thế sử dụng đất,
chi tiếp tân giao dịch.. và các chi phí khác.
Các khoản chi khác doanh nghiệp được phép tính vào chi phí sản xuất kinh doanh
gồm các khoản dự phòng giảm giá theo quy định.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố cho biết cấu loại chi phí mà
doanh nghiệp chi ra. Qua đó giúp doanh nghiệp biết được trọng tâm quản lý chi phí, kiểm
tra được tình hình thực hiện dự toán chi phí.
1.2.2.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo khoản mục giá thành.
Cách phân loại này căn cứ vào địa điểm phát sinh chi phí và công dung kinh tế cuả
chi phí. Tại mỗi địa điểm phát sinh chi phí lại căn cứ vào công dụng kinh tế của chi phí,
những chi phí có nội dung giống nhau lại được xếp vào một nhóm hình thành khoản mục
chi phí. Dựa vào căn cứ trên thông thường chi phí sản xuất của doanh nghiệp chia thành
các khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Gồm các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu
trực tiếp dùng vào sản xuất sản phẩm.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm các khoản trả cho người lao động trực tiếp sản
xuất ra sản phẩm như tiền lương, tiền công và các khoản trích nộp của công nhân mà
doanh nghiệp phải nộp theo quy định.
- Chi phí sản xuất chung: Là chi phí sử dụng cho hoạt động sản xuất, chế biến của
phân xưởng trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ như chi phí vật liệu, công cụ dụng
cụ,KHTSCĐ, tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên phân xưởng, chi phí
dịch vụ mua ngoài. Chi phí khác bằng tiền ở phân xưởng.
- Chi phí bán hàng: là chi phí liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
dịch vụ như tiền lương, khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng chi phí đóng gói vận
chuyển sản phẩm… và các chi phí khác.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là chi phí chi cho bộ máy quản lý và điều hành
doanh nghiệp như chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ, KHTSCĐ, chi phí khác bằng tiền
như chi phí tiếp tân giao dịch… và các khoản chi phí khác.
Cách phân loại này là cơ sở cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và định mức chi
phí cho kỳ sau.
1.2.2.3. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh thành chi phí cố định và chi phí
biến đổi.
Căn cứ phân loại là dựa vào mối quan hệ giữa chi phí phát sinh và khối lượng sản
phẩm hoàn thành để chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi:
- Chi phí cố định là những khoản chi phí mà sự biến động của chúng không đồng
thời với sự biến động khối lượng sản xuất. Nó là những khoản tồn tại và phát sinh ngay
cả khi không sản xuất ra sản phẩm như tiền KHTSCĐ, tiền thuê đất, chi phí quản lý
doanh nghiệp.
- Chi phí biến đối là chi phí có mối tượng quan tỷ lệ thuận với sản lượng sản xuất
như chi phí nguyên vật liệu, tiền lượng công nhân sản xuất…
Biểu đồ phản ánh mối quan hệ giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được mối quan hệ của từng loại
chi phí trong tổng số chi ra, giúp doanh nghiệp biết được hướng biến động của từng
khoản mục chi phí và chi phí bình quân trên đơn vị sản phẩm. Từ đó tìm ra biện pháp
quản lý thích ứng với từng loại để hạ thấp giá thành sản phẩm giúp cho việc phân tích
điểm hoà vốn để xác định được khối lượng sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.3 Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
1.2.3.1 Khái niệm, nội dung và đặc điểm của giá thành sản phẩm
Trong sản xuất kinh doanh, chi phí mới chỉ là mặt thứ nhất thể hiện sự hao phí đã
chi ra. Để đánh giá chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí phải được xem xét
trong mối quan hệ với mặt thứ hai - đó là kết quả sản xuất thu được biểu hiện dưới hình
thái tiền tệ hay còn gọi là giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động sống và
hao phí vật chất mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản
phẩm nhất định.
Giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau bên trong nó là chi phí sản
xuất đã chi ra và giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm hoàn
thành. Như vậy bản chất của giá thành là sự chuyển dịch giá trị của lao động vật hoá và
lao động sống và giá trị sản phẩm hoàn thành do đó giá thành là phạm trù kinh tế khách
quan.
Mặt khác, giá thành là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính của doanh nghiệp, do đó giá thành
mang tính chủ quan nhất định.
Có thể nói, giá thành là thứơc đo chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp, là căn cứ để doanh nghiệp xây dựng chính sách giá cả đối với từng loại sản phẩm
và đồng thời là cơ sở để người quản lý ra các quyết định trong sản xuất kinh doanh.
1.2.3.2. Phân loại giá thành
Phân loại theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành
- Giá thành kế hoạch.
Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng
kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản
xuất và chế tạo sản phẩm, giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là
căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của
doanh nghiệp.
- Giá thành thực tế.
Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế phát
sinh và tập hợp trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ tính được sau khi kết thúc quá trình sản
xuất chế tạo sản phẩm. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả
phấn đấu của doanh nghiệp trong tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế kỹ thuật, là cơ
sở xác định kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Phân loại giá thành theo phạm vi và chi phí cấu thành.
- Giá thành sản xuất: Là biểu hiện bằng tiền các hao phí vật chất và tiền lương trả
cho công nhân viên mà doanh nghiệp phải bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ
một loại sản phẩm nhất định. Giá thành tiêu thụ gồm giá thành sản xuất, chi phí bán hàng
và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm tiêu thụ.
Giá thành tiêu thụ là căn cứ để tính toán, xác định mức lợi nhuận trước thuế và lãi
vay của doanh nghiệp.
1.2.4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản xuất
Về bản chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm giống nhau,
chúng đều là các hao phí về lao động và các hao phí vật chất của doanh nghiệp. Tuy vậy
giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có sự khác nhau trên các phương diện
sau:
- Về thời gian: Chi phí sản xuất gồm toàn bộ chi phí lao động sống và lao động vật
hoá do doanh nghiệp chi ra trong một thời kỳ nhất định, còn giá thành lại là những khoản
chi phí được quy định vào thời kỳ đó. Ví dụ như khoản chi phí chờ phân bổ. Vì là khoản
chi lớn đã chi ra trong một kỳ nhất định nhưng nhằm đảm bảo cho giá thành ổn định và
hợp lý, chỉ một bộ phận chi phí này được tính vào kỳ đó, phần còn lại phải chờ để phân
bổ dần cho kỳ sau:
- Về đối tượng hạch toán:
Chi phí sản xuất biểu hiện toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp cho toàn bộ
sản phẩm được sản xuất, trong khi đó giá thành sản phẩm lại biểu hiện những chi phí sản
xuất của doanh nghiệp tính cho các sản phẩm thuộc đối tượng tính giá thành trong kỳ (tuỳ
theo ngành khác nhau mà đối tượng tính giá thành khác nhau).
- Về mặt lượng:
Chi phí sản xuất và giá thành có thể khác nhau khi có sản phẩm sản xuất dở dang
đầu kỳ, cuối kỳ. Sự khác nhau này thể hiện ở công thức tính giá thành tổng quát sau:
Zsx = D đk + C - D ck
Trong đó: Zsx: Tổng giá thành sản phẩm sản xuất
D đk: Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ.
D ck: Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
C: Tổng chi phí phát sinh trong kỳ.
Nhìn chung, giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm đồng nghĩa với việc
lãng phí hay tiết kiệm lao động xã hội. Nói cách khác, nó phản ánh kết quả của việc quản
lý, sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn của doanh nghiệp. Việc quản lý, sử dụng hợp lý các
nguồn trên là tiền đề, cơ sở để hạ giá thành sản phẩm và ngược lại. Đó là đòi hỏi khách
quan khi các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán kinh tế.
1.3. Sự cần thiết phải quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản
phẩm
1.3.1. Yêu cầu quản lý đối với chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản
phẩm
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một
loại mặt hàng lại trên cùng một địa bàn hoạt động nên để chiếm lĩnh được thị trường các
doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau về giá cả, chất lượng và mẫu mã sản phẩm trong
và ngoài nước. Bởi sản phẩm chỉ được khách hàng chấp nhận khi chất lượng đảm bảo, giá
bán hợp lý. Do đó vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải giảm tối đa các khoản chi
phí để hạ giá bán sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo chất lượng
cao, từ đó tạo cơ sở cho doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trên thương trường.
Thực tế cho thấy doanh nghiệp nước ta hiện nay còn tình trạng theo đuổi những
mục tiêu trước mắt, những hoạt động bề nổi mà chưa đặt ra một chiến lược lâu dài vững
chắc. Cụ thể như: để giới thiệu một loại sản phẩm hoặc tạo uy tín trên thị trường các
doanh nghiệp thường mở các chiến dịch quảng cáo rầm rộ, tiếp thị khuyến mại sản phẩm
làm tăng chi phí tiêu thụ nhưng thường không tìm cách cải tiến chất lượng sản phẩm bằng
cách áp dụng công nghệ mới. Như vậy để hoạt động kinh doanh hiệu quả, doanh nghiệp
phải so sánh giữa chi phí bỏ ra với kết quả đạt được, phải tự bù đắp chi phí bằng chính
khoản thu nhập của mình đảm bảo có lợi nhuận tăng tích luỹ, mở rộng quy mô kinh
doanh.
Chính vì vậy, yêu cầu quản lý đối với chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản
phẩm là cấp thiết tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị
trường.
1.3.2. Vai trò của công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản
phẩm
- Quản lý chi phí là hợp lý hoá các khoản chi phí trong quá trình hoạt động của
doanh nghiệp. Chi phí của doanh nghiệp phát sinh khách quan nhằm đảm bảo hoạt động
sản xuất kinh doanh được thường xuyên liên tục. Như vậy quản lý chi phí giúp tăng
cường hiệu quả mỗi đồng chi phí bỏ ra hay chính là việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Quản lý chi phí là chìa khoá quan trọng dể doanh nghiệp giảm được hao phí cá
biệt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch. Bởi muốn tồn
tại trong môi trường cạnh tranh của thị trường, doanh nghiệp phải phấn đấu có mức chi
phí cá biệt thấp hơn hoặc bằng mức hao phí xã hội. Để làm được điều này, doanh nghiệp
phải thực hiện tốt công tác quản lý chi phí.
- Quản lý chi phí giúp doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trong môi trường của
nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh bằng chi phí là một chiến lược cạnh tranh cơ bản của
doanh nghiệp, với chi phí thấp, giá bán hạ và chất lượng tương đương doanh nghiệp sẽ có
đủ sức mạnh để chiến thắng.
Trong công tác quản lý, doanh nghiệp có thể thông qua tình hình thực hiện kế
hoạch giá thành, kế hoạch chi phí để biết được tình hình sản xuất kinh doanh, biết được
tác động và hiệu quả của các biện pháp tổ chức kỹ thuật mà doanh nghiệp đã áp dụng. Từ
đó kịp thời đề ra các quyết định phù hợp với sự phát triển kinh doanh nhằm mục tiêu cuối
cùng là đạt được lợi nhuận cao nhất.
1.3.3. Ý nghĩa của việc phấn đấu giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm
Nhìn chung ở các doanh nghiệp hiện nay việc quản lý chi phí còn lãng phí làm
tăng giá thành sản phẩm. Tuy nhiên hoạt động trong nền kinh tế mang đầy tính cạnh tranh
như ngày nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý tiết kiệm chi phí, tính đúng tính đủ
chi phí vào giá thành sản phẩm. Bởi vì:
- Hạ giá thành giúp doanh nghiệp giành được lợi thế trong cạnh tranh giảm được
giá bán để tiêu thụ nhanh sản phẩm, đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn.
- Hạ giá thành là cơ sở cho doanh nghiệp giảm bớt lượng vốn lưu động đã sử dụng
vào sản xuất, tiết kiệm được chi phí nguyên vật liệu, chi phí tiền lương, chi phí quản lý.
Nghĩa là với khối lượng sản xuất như cũ doanh nghiệp chỉ cần một lượng vốn ít hơn hoặc
với lượng vốn như cũ doanh nghiệp có t hể mở rộng quy mô sản xuất.
- Hạ giá thành trực tiếp làm tăng lợi nhuận, nếu giá thành sản phẩm thấp thì lợi
nhuận thu được trên một đơn vị sản phẩm càng cao. Mặt khác, giá thành sản phẩm thấp
doanh nghiệp có thể hạ giá bán, tăng khối lượng tiêu thụ và tất yếu thu được nhiều lợi
nhuận.
1.4. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh và giá
thành sản phẩm.
Để đưa ra những biện pháp đúng đắn trong quản lý chi phí sản xuất kinh doanh,
nhà quản lý phải thấy được các nhân tố tác động đến sự phát sinh chi phí. Có nhiều nhân
tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến sự tăng giảm chi phí, song có thể quy lại ở một
số nhân tố chủ yếu sau:
* Nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật
Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng phát triển thì nó ngày càng tác động
mạnh mẽ tới chi phí sản xuất kinh doanh. Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật những
máy móc thiết bị hiện đại ngày càng nhiều và cho năng suất lao động tăng lên, làm giảm
lượng chi phí cho một đơn vị sản phẩm với trình độ chuyên môn hoá tự động hoá cao,
không chỉ có chi phí tiền lương được hạ thấp mà còn hạ thấp cả mức tiêu hao nguyên vật
liệu sản xuất ra sản phẩm. Nhiều loại vật liệu mới ra đời với tính năng tác dụng lớn hơn,
giá rẻ hơn cũng làm cho chi phí nguyên vật liệu làm giảm đáng kể.
Thực chất nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ là nhân tố khách quan
nhưng xét theo góc độ nhà quản lý thì nó mang lại tính chủ quan. Bởi lẽ nhân tố này có
tác động tích cực tới việc giảm chi phí hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự vận dụng
nhanh nhạy của nhà quản lý. Vấn đề đặt ra doanh nghiệp phải lựa chọn thành lựu khoa
học nào và trong thời điểm nào là phù hợp nhất với điều kiện doanh nghiệp Có như vậy
doanh nghiệp mới hạ thấp chi phí và giá thành sản phẩm mà vẫn nâng cao chất lượng sản
phẩm của mình.
* Nhân tố tổ chức sản xuất và lao động.
Tổ chức sản xuất là khâu đầu tiên cần giải quyết khi doanh nghiệp đi vào hoạt
động. Doanh nghiệp phải trả lời được ba câu hỏi "sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, và sản
xuất như thế nào". Việc bố trí khâu sản xuất hợp lý, dây chuyền sản xuất khoa học sẽ giúp
doanh nghiệp hạn chế sự lãng phí nguyên vật liệu động lực, giảm thấp tỷ lệ phế phẩm và
chi phí ngừng sản xuất.
Mặt khác, tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất hợp
lý, loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, thúc đẩy nâng cao năng
suất lao động dẫn đến giảm chi phí, hạ giá hệ thốngành sản phẩm. Đặc biệt bộ máy quản
lý phải là những có trình độ chuyên môn, có năng lực quản lý, năng động sáng tạo để
giúp cho doanh nghiệp xác định đưa phương án sản xuất tối ưu. Bố trí lao động đúng
ngành, đúng năng lực sẽ làm tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế, góp phần tích
cực vào việc hạ giá thành sản phẩm.
* Nhân tố tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có một lượng vốn tiền tệ
nhất định. Việc quản lý và sử dụng hiệu quả các loại vốn là một trong những hoạt động
tài chính chủ yếu của doanh nghiệp. Tổ chức sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng kịp thời nhu
cầu về vật tư tránh được các chi phí gián đoạn sản xuất do thiếu vật tư hoặc vật tư không
đúng chủng loại quy cách… Nếu phát huy tốt chức năng giám đốc tài chính, doanh
nghiệp có thể thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn, giảm bớt chi phí tiền vay, do đó hạ
thấp được giá thành sản phẩm.
Trên đây là nhóm nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến công tác quản lý chi phí và giá
thành sản phẩm. Nhà quản lý cần xem xét, nghiên cứu từng nhân tố và căn cứ vào điều
kiện tình hình của doanh nghiệp mình để đưa ra các phương hướng, biện pháp quản lý
phù hợp.
1.5. Một số phương hướng biện pháp chủ yếu để quản lý hiệu quả chi phí sản
xuất kinh doanh.
* Lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh
Lập kế hoạch chi phí là việc xác định toàn bộ mọi chi phí doanh nghiệp chia ra để
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của kỳ kế hoạch. Thông qua việc lập kế hoạch, doanh
nghiệp có thể kiểm tra tình hình sử dụng chi phí, phát hiện khả năng tiết kiệm chi phí để
thúc đẩy cải tiến biện pháp quản lý kinh doanh. Lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh
phục vụ đắc lực cho việc hoàn thành nhiệm vụ tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp. Vì lập
kế hoạch chi phí nghĩa là đã xây dựng cho doanh nghiệp một mục tiêu để phấn đấu. Khi
sản xuất kinh doanh mục tiêu này luôn được doanh nghiệp cố gắng thực hiện và đồng thời
cũng được doanh nghiệp tìm tòi khai thác tiềm năng hạ thấp chi phí và giá thành sản
phẩm.
*Chú trọng tới trang thiết bị máy móc công nghệ của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải luôn theo dõi tình trạng máy móc thiết bị, dây chuyền kỹ thuật.
Đối mới máy móc đi đôi với tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm điện năng, nâng cao năng
suất lao động… dẫn tới giảm chi phí hạ giá thành. Tuy vậy doanh nghiệp phải cần xem
xét một cách chiến lược hiệu quả của sự đầu tư mang lại.
* Quản lý và sử dụng lao động hiệu quả.
Muốn giảm chi phí tiền lương và tiền công cần tăng năng suất lao động cải tiến tổ
chức lao động, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề, hoàn thiện định mức lao động, tăng
cường kỷ luật lao động. Đồng thời áp dụng các hình thức thưởng phạt vật chất để người
lao động gắn bó và có trách nhiệm với công việc.
Đặc biệt, để xem xét chi phí tiền lương có hợp lý tiết kiệm hay không doanh
nghiệp cần nắm vững tình hình tăng năng suất lao động, mối quan hệ giữa tăng năng suất
lao động và tốc độ tăng tiền lương bìnhg quân, sự tác động của hình thức trả lương với
việc tăng năng suất lao động.
* Tổ chưc bố trí các khâu sản xuất kinh doanh hợp lý.
Nhà quản lý cần tổ chức các khâu trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh từ
khâu sản xuất đến lưu thông tiêu thụ sản phẩm một cách nhịp nhàng ăn khớp. Làm như
vậy nhằm tiết chi phí gián tiếp, hạn chế các chi phí phát sinh không cần thiết, sử dụng
mỗi đồng vốn bỏ ra một cách tiết kiệm và đạt hiệu quả cao nhất.
* Tăng cường phát huy vai trò của tài chính trong quản lý chi phí sản xuất kinh
doanh và hạ giá thành sản phẩm.
Quản lý chi phí sản xuất kinh doanh hiệu quả đòi hỏi sự quan tâm chú ý vào tất cả
các khâu trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp ở khậu sản xuất, cần đặc biệt chú ý
tới chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công vì bộ phận này chiếm tỷ trọng cao trong giá
thành sản phẩm sản phẩm. Ở khâu tiêu thụ cần xem xét hiệu quả mang lại do đầu tư vào
việc quảng cáo tiếp thị sản phẩm quản lý chi phí quản lý doanh nghiệp cần tập trung kiểm
tra đánh giá việc thực hiện định mức dự toán cho từng yếu tố chi phí đề ra trong kế hoạch.
Tóm lại, quản lý chi phí sản xuất kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối
với mọi doanh nghiệp. Việc quản lý có hiệu quả hay không hoàn toàn phụ thuộc vào bộ
máy quản lý. Đầu tiên là lập kế hoạch (dự toán) chi phí. Dự toán có hợp lý sát sao thì
doanh nghiệp mới có cơ sở để tiến hành theo dõi và phát hiện khả năng tiềm tàng để tiết
kiệm chi phí. Việc kiểm tra quá trình thực hiện, chấp hành kế hoạch dự toán cũng hết sức
quan trọng. Kiểm tra thường xuyên, phân tích, đánh giá sự biến động của chi phí trong
từng thời kỳ, doanh nghiệp mới có cơ hội để tìm tòi những biện pháp quản lý cụ thể thích
ứng với từng thời kỳ hoạt động của doanh nghiệp. Có như vậy các biện pháp này mới
phát huy được hết tác dụng trong hạ thấp chi phí và giá thành sản phẩm.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CỦA XÍ NGHIỆP 24
2.1. Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của xí nghiệp
Công ty 22 là DNNN thuộc tổng cục hậu cần được thành lập theo thông báo số
1119/ĐMDN ngày 13 -3 - 1996 của văn phòng Chính phủ và quyết định số 568/BQP
ngày 22/4/1996 của Bộ trưởng BQP, QĐ số 78/QĐ của chủ nhiệm TCHC trên cơ sở đổi
tên xí nghiệp chế biến thực phẩm 2, sáp nhập thễmn 24 thuộc cục quân lương và bổ sung
ngành nghề kinh doanh.
Ngày 2/7/1996 Công ty 22 TCHC được cấp lại giấy phép kinh doanh mang số hiệu
110747 có phạm vi hoạt động trong cả nước. Ngành nghề kinh doanh mà Công ty được
phép kinh doanh gồm:
- Sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm như lương khô, khẩu phần ăn, bánh
kẹo, bia nước ngọt (do xí nghiệp 22 đảm trách).
- Sản xuất các mặt hàng quân trang, quân dụng, dụng cụ cấp dưỡng, trang bị bếp
ăn cho các đơn vị quân đội, sao vạch, hình quân, binh chủng.
Đây là ngành nghề xí nghiệp 24 được phép sản xuất kinh doanh.
Công ty có 2 xí nghiệp thành viênlà xí nghiệp 22 và xí nghiệp 24. Trong đó xí
nghiệp 24 có địa điểm hoạt động xa văn phòng Công ty, trụ sở thị trấn Cầu Diễn - Hà
Nội.
Qua 4 năm hoạt động, một khoảng thời gian không dài để đưa ra một đánh giá
tuyệt đối với sự lỡn mạnh của Công ty, điều đó lại càng khó hơn đối với xí nghiệp có đặc
điểm đặc biệt như xí nghiệp 24. Tuy nhiên xí nghiệp 24 đã bước đầu khẳng định được
mình là một xí nghiệp không ngừng vươn lên trên đà tiến bộ chung của nền kinh tế trong
thời kỳ mở cửa. Điều này đang được chứng minh qua việc sản phẩm của xí nghiệp đang
chiếm lĩnh chỉ phạm vi quân đội mà trên cả toàn quốc.
2.1.2. Chức năng - nhiệm vụ - Đặc điểm sản xuất kinh doanh
xí nghiệp 24 - TCHC - BQP được tổ chức sản xuất kinh doanh theo chế độ hạch
toán phụ thuộc và quản lý tổ chức theo phân cấp của Công ty 22 - BQP.
Chức năng chủ yếu của xí nghiệp là sản xuất các dụng cụ cấp dưỡng như nồi
nhôm, bát đĩa inox.. sản phẩm sản xuất chủ yếu phục vụ cho công tác hậu cần quân đội,
ngoài ra còn phục nhu cầu của các thành phần kinh tế khác trong cả nước.
Xuất phát từ đặc điểm chịu sự quản lý trực tiếp của Công ty về mọi mặt. Xí nghiệp
có quyền tự chủ trong mọi kế hoạch của Công ty, thực hiện hạch toán phụ thuộc và chịu
sự ràng buộc về nhiệm vụ và quyền lợi đối với Công ty. Công ty chịu trách nhiệm cuối
cùng về các nghĩa vụ tài chính phát sinh do sự cam kết của các xí nghiệp thành viên. xí
nghiệp thực hiện phương án sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của Công ty và tự khai
thác lấy. Nếu sản phẩm sản xuất hoặc gia công cho bên ngoài xí nghiệp sẽ thanh toán tiền
với bên ngoài thông qua Công ty. Phòng kế toán tài chính Công ty sẽ giúp xí nghiệp trình
bày vốn với ngân hàng do cục chuyên ngành thực hiện nghiệp vụ thanh toán với khách
hàng cho các doanh nghiệp.
Trên cơ sở nhiệm vụ Công ty giao, xí nghiệp phải chủ động tổ chức thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh hoàn thành tốt các chỉ lệnh của BQP giao xí nghiệp được quan
hệ giao dịch tìm kiếm thị trường tạo việc làm, tiêu thụ sản phẩm. được ký các hợp đồng
kinh tế theo sự uỷ quyền của giám đốc Công ty.
Xí nghiệp đã xác định được vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong cơ chế thị
trường nên mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh đặt ra là phải đạt hiệu quả cao, đóng
góp nhiều cho ngân sách Nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn, chấp hành pháp lệnh kế
toán thống kê, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động, củng cố doanh
nghiệp ngày càng lớn mạnh.
2.1.3. Tổ chức bộ máy hoạt động của xí nghiệp
Ngành cơ khí hoạt động trong nền kinh tế thị trường đang diễn ra phức tạp, cùng
với sự tồn tại và phát triển của các ngành khác, với các khó khăn chung của nền kinh tế
nước nhà và các vấn đề như vốn công nghệ kỹ thuật. Trình độ tay nghề công nhân - sự
cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản phẩm. Do đó yêu cầu trong vấn đề tổ chức bộ máy
hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đòi hỏi phải kịp thời nhạy bén và hợp lý để sản xuất
kinh doanh hiệu quả.
Từ năm 1996 chuyển sang cơ chế hoạt động mới, xí nghiệp thực hiện từng bước
tinh giảm gọi nhẹ bộ máy quản lý, cải tiến cơ cấu quản lý đảm bảo tiết kiệm hiệu quả.
Hiện nay xí nghiệp có một bộ máy lãnh đạo hoàn chỉnh có kinh nghiệm. Cùng với ban
giám đốc toàn bộ công nhân viên trong xí nghiệp những năm qua đã nỗ lực làm việc hoàn
thành vượt mức kế hoạch đề ra, đem lại lợi nhuận cao cho Công ty, đóng góp nhiều cho
ngân sách Nhà nước.
Bảng 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động của xí nghiệp
Phó GĐ
Giám đốc
Phòng kinh doanh
Phòng hành chính
Phòng kỹ thuật
Phòng tổ chức SX - KD
Phòng tài chính kế toán
Phân xưởng cơ khí
Phân xưởng đột dập
Phân xưởng đúc rèn
Phân xưởng sản xuất phụ,
2.1.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý
- Giám đốc xí nghiệp trực tiếp chỉ đạo hướng dẫn phó giám đốc, các trưởng ban
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
- Phó giám đốc giúp việc cho giám đốc điều hành sản xuất, đồng thời trực tiếp
quản lý phòng kỹ thuật.
- Phòng tài chính kế toán :có chức năng quản lý sử dụng nguồn vốn tài sản của xí
nghiệp, thực hiện tốt công tác hạch toán kinh doanh, thực hiện chế độ tài chính kế toán
theo quy định hiện hành của Nhà nước, xây dựng kế hoạch và phân tích hoạt động kinh tế
- Phòng tổ chức sản xuất kinh doanh: là trung tâm phối hợp điều hành các hoạt
động của xí nghiệp như tổ chức thực hiện các lệnh sản xuất do Công ty ban xuống :đôn
đốc thực hiện kế hoạch sản xuất đàm phán, soạn thảo theo dõi việc thực hiện các hợp
đồng kinh tế, các chỉ tiêu sản xuất của xí nghiệp.
- Phòng kinh doanh: có chức năng lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm khách
hàng, mở rộng quan hệ với các đối tác cung cấp đầu vào.
- Phòng hành chính: Là nơi quản lý công văn tài liệu đi và đến, tiếp khách, tổ chức
nhân sự, tổ chức hội nghị.
- Phòng kỹ thuật: Là phòng chịu trách nhiệm nghiên cứu cải tiến chế thử, xây
dựng, phổ biến công nghệ và chỉ đạo sản xuất sản phẩm mới; thực hiện đề tài nghiên cứu
khoa học hàng năm: kiểm tra chất lượng vật tư nhập kho
Nhìn chung bộ máy tổ chức quản lý của xí nghiệp tương đối hợp lý với tình hình
thực tế, được thể hiện là một tập thể đồng nhất với một đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ
thuật giúp việc cho ban giám đốc nhiệt tình có năng lực.
2.1.3.2. Tổ chức sản xuất, tổ chức lao động của xí nghiệp.
Các phân xưởng sản xuất của xí nghiệp bao gồm:
- Phân xưởng cơ khí (gồm 32 người): Có nhiệm vụ sản xuất các sản phẩm cơ khí,
sản xuất chi tiết các sản phẩm theo yêu cầu của Công ty, theo hợp đồng với khách hàng.
- Phân xưởng đột nhập (gồm 44 người) có nhiệm vụ sản xuất các loại sản phẩm
như bát, đĩa, hình quân binh chủng.
- Phân xưởng đúc rèn (gồm 41 người): Có nhiềm vụ sản xuất đúc các loại xoong,
nồi.
- Phân xưởng sản xuất phụ, dịch vụ: Có nhiệm vụ cung cấp điện nước phục vụ
cho hoạt động toàn doanh nghiệp.
Mỗi phân xưởng có một quản đốc, một phó quản đốc, một thống kê viên.
* Đặc điểm quy trình kỹ thuật.
Các phân xưởng của xí nghiệp hoạt động độc lập với nhau, mỗi phân xưởng sản
xuất nhiều loại sản phẩm. Quy trình sản xuất các loại sản phẩm nhìn chung là phức tạp
gồm nhiều công đoạn, nhưng việc sản xuất chế tạo sản phẩm ở xí nghiệp còn mang nặng
tính thủ công, chưa áp dụng các loại máy móc hiện đại. Đơn cử như quy trính x bát inox
18 của xí nghiệp như sau:
Chuẩn bị phôi
Biểu 2: Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất bát inox 18:
Chuẩn bị phôi
Tạo hình
Tạo hình
Cắt biên
Xén viền miết
Cắt phôi
Đánh bóng, điện hoá
Cắt băng
Rửa sạch, lau khô
Đánh bóng, điện hoá
Cắt tấm
Rửa sạch, lau khô
Đánh bóng, điện hoá
KSC + bao gói
Lấy dầu
Thành phần
inox = 0,7
2.1.4 Tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp
xí nghiệp 24 có tổng số cán bộ công nhân viên là 180 người trong đó số nhân viên
quản lý là 41 người, lực lượng lao động trẻ chiếm khoảng 60% tổng số cán bộ công nhân
viên. xí nghiệp có ưu thế về nguồn lao động trẻ nhiệt tình với công vệc nhưng xí nghiệp
cần tập trug đào tào nâng cao tay nghề công nhân cũng như bồi dưỡng thêm trình độ
chuyên môn cho lực lượng quản lý xí nghiệp. Như vậy xí nghiệp mới có thể phát huy hết
khả năng tiềm tàng của mình.
Về quy mô vốn, theo bảng cân đối tài sản ngày 31/12/2000 thì tổng tài sản của xí
nghiệp là 16 039 164 301 đồng.
Trong đó: TSLĐ và ĐTNH: 3.935.984.568 đồng
TSCĐ và ĐTDH: 12.103.179.733
Với quy mô vốn như vậy, trong hoạt động sản xuất kinh doanh xí nghiệp đã đạt
được kết quả sau:
Bảng 3: kết quả hoạt động sản xuất xí nghiệp của năm 1999 - 2000
Chỉ tiêu Năm 199 Năm 2000 So sánh (%)
1. Doanh thu 15.704.012.950 17.162.71.505 +9,3%
2. Lợi nhuận 1.347.328.860 1.319.573.554 -2,1%
3. Các khoản nộp ngân sách 3.604.676.945 3.639.626.404 +0,1%
4. Tổng vốn 12.894.232.342 16.039164.301 +24,4%
5. Doanh lợi tổng vốn 10% 8% -2%
Qua bảng phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp trong 2
năm ta thấy doanh thu và vốn có chiều hướng tăng. Doanh thu tiêu thụ năm 2000 so với
năm 1999 tăng 9,3, vốn sử dụng tăng 24,4%. Trong khi đó lợi nhuận thực tế năm 2000 lại
giảm 2,1% so với năm 1999. Nguyên nhân là do việc quản lý chi phí sản xuất kinh doanh
của xí nghiệp còn chưa sát sao chặt chẽ theo đúng kế hoạch đặt ra. Mặt khác, việc xí
nghiệp đưa vào sản xuất chế thử một số sản phẩm mới theo yêu cầu của Công ty đã phát
sinh một số khó khăn và xí nghiệp chưa có những điều chỉnh kịp thời.
Tuy nhiên là xí nghiệp hoạt động chủ yếu theo chỉ lệnh của TCHC - BQP (được
bao cấp một phần) nên đời sống công nhân viên của xí nghiệp vẫn được chăm lo và cải
thiện với mức lương bình quân là 845000đ/ người/ tháng so với năm 1999 là 840000/
người/ tháng. Ngoài ra, xí nghiệp còn thực hiện tốt công tác thu nộp cho ngân sách với
mức đóng góp tăng 0,1% so với năm 1999.
Tóm lại, tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp nhìn chung là tốt, xí nghiệp
đã có cố gắng trong việc tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ kịp thời theo
yêu cầu của BQP và nhu cầu ngoài thị trường. Song để hoạt động kinh doanh được hiệu
quả hơn xí nghiệp cần chú trọng đến các biện pháp quảng lý chi phí nhằm giảm chi phí,
hạ giá thành so với giá thành của các doanh nghiệp khác cùng ngành.
2.2. Thực trạngv ề quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm
của xí nghiệp một số năm qua.
2.2.1. Những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến công tác quản lý chi phí sản
xuất kinh doanh.
Là xí nghiệp thành viên của Công ty 22 - TCHC - BQP hơn nữa là hoạt động trong
một ngành đang có nhiều doanh nghiệp tham gia nên xí nghiệp 24 cũng có những thuận
lợi và khó khăn riêng, đòi hỏi xí nghiệp cần tận dụng cơ hội cũng như giải quyết khó
khăn để có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả nhất.
* Về thuận lợi.
- Xí nghiệp luôn được sự quan tâm giúp đỡ chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo chỉ huy
Công ty và các phòng chức năng nhiệm vụ cũng luôn tạo thuận lợi cho xí nghiệp hoàn
thành tốt các nhiệm vụ sản xuất.
Để thực hiện nhiệm vụ Công ty giao xí nghiệp được Công ty cấp vốnm mà không
phải huy động vốn từ bên ngoài nên không phát sinh chi phí vốn vay. Mặt khác, xí
nghiệp ít gặp khó khăn trong giải quyết khâu đầu ra cho sản phẩm bằng việc tìm kiểm
khách hàng vì sản phẩm làm ra chủ yếu được giao nộp tài khoản cho Công ty.
- Công tác hạch toán kinh tế theo sự phân cấp của Công ty đã đi vào ổn định và có
nề nếp. Các phòng mban quản lý ngày càng tăng cường công tác kiểm tra giám sát chặt
chẽ hoạt động của xí nghiệp từ khâu lập kế hoạch đến thực hiện kế hoạch hoàn thành sản
phẩm.
- Các phòng ban đều được bổ sung thêm người theo biến chế, trình độ chuyên môn
của các nhân viên cũng được nâng cao, đáp ứng được yêu cầu của công tác tài chính tình
hình hiện nay.
* Về khó khăn.
Những năm qua, xí nghiệp phải thực hiện thêm nhiều mặt hàng mới, việc theo dõi
lập kế hoạch tính giá thành sản phẩm cho trên 80 mặt hàng đã ít nhiều ảnh hưởng đến
công tác hạch toán kinh tế, đặc biệt là công tác quản lý chi phí. Việc giám sát chi phí phát
sinh ở những mặt hàng mới thực hiện gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến kết quả hoạt
động của xí nghiệp xí nghiệp ở xa cơ quan Công ty nên việc đảm bảo kịp thời vốn co sản
xuất kinh doanh cũng như việc quan hệ trao đổi nhiệm vụ giữa hai bên cũng có trở ngại,
tất yếu làm tăng chi phí quản lý doanh nghiệp,
Việc trang bị máy móc thiết bị còn thiếu đồng bộ dẫn đến chi phí bỏ ra nhiều mà
thiếu hiệu quả. Việc tuyển chọn lao động đầu vào còn chưa đáp ứng được yêu cầu về
trình độ tay nghề và các phòng công nghiệp nên năng suất lao động chưa cao. Sự biến
động giá cả một số nguyên vật liệu chính trên thị trường nằm vừa qua đã ảnh hưởng đến
chi phí và giá thành của doanh nghiệp.
2.2.2. Thực trạng về chi phí sản xuất kinh doanh và việc quản lý chi phí sản
xuất kinh doanh của xí nghiệp 24
Nhận thức được tầm quan trọng của chi phí và giá thành sản phẩm những năm qua
xí nghiệp đã rất chú ý tới việc hạ thấp chi phí, đã cố gắng hạch toán đầy đủ chính xác chi
phí phát sinh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng tích luỹ cho xí nghiệp và
Công ty.
2.2.2.1. Đối tượng tập hợpcp sản xuất và tính giá thành sản phẩm
sản phẩm là xí nghiệp là sản phẩm cơ khí, nó trải qua nhiều công đoạn sản xuất
song sản phẩm hoàn thành trong cùng một phân xưởng. Do vậy đối tượng tập hợp chi phí
là từng phân xưởng chi tiết cho từng sản phẩm, còn đối tượng tính giá thành chính là các
sản phẩm hoàn thành.
2.2.2.2. Chi phí sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý chi phí sản xuất kinh
doanh phát sinh tại xí nghiệp 24
Tại xí nghiệp 24 chi phí sản xuất kinh doanh được phân loại theo khoản mục tính
giá thành sản phẩm, gồm 5 khoản mục chính là:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- Chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí sản xuất chung.
- Chi phí bán hàng.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp
xí nghiệp đã sử dụng phương pháp tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh gồm cả
phương pháp tập hợp trực tiếp và phương pháp tập hợp gián tiếp. Chi phí nguyên vật liệu
và chi phí nhân công liên quan trực tiếp đến việc chế tạo sản phẩm nên được tập hợp theo
phương pháp trực tiếp. Chi phí sản xuất chung thì được phân bổ theo tiền lương thực tế
của công nhân sản xuất. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp được phân bổ
theo tiêu chuẩn doanh thu tiêu thụ cho từng đối tượng chiu chi phí
sản phẩm sản xuất tại xí nghiệp gồm nhiều chủng loại kích cỡ khoảng 80 mặt hàng
quốc phòng và hàng kinh tế. Hơn nữa, mỗi phân xưởng cũng thực hiện sản xuất nhiều
mặt hàng nên chi phí phát sinh phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý chi phí. Cụ
thể, chi phí sản xuất kinh doanh và việc quản lý chi phí sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp
24 như sau:
Bảng 4: Chi phí x kinh doanh theo khoản mục giá thành
Khoản Năm 1999 Năm 2000 So sánh
mục Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ %
9330924246 65,91 10263253638 64,64 +932329392 +10
8934715155 9584249335
333217471 567307143
62991620 111697160
1124530085 7,94 1464051658 9,21 +339521573 +30,2
1032530085 1359544658
724090008,8 82761000
19591000 21746000
1245908184 8,8 199177802 12,6 +753269618 +60,5
602620146 895157502
202133161 1,43 188292335 1,2 -13840806 -9,85
22533312711 15,92 1961060901 12,35 -292271810 -12,97
1416793950
836538761
14.156828387 100 15875836354 100 1719007967 +12,14
Đánh giá tổng quát tình hình chi phí phát sinh tại xí nghiệp 24 qua hai năm ta thấy:
Chi phí sản xuất kinh doanh năm 2000 đã tăng so với năm 1999 là 1 719 007 967 đồng
với tỷ lệ 12,14%. Điều này một phần là do xí nghiệp phải thực hiện thêm một số chỉ tiêu
sản xuất Công ty giao. Tuy nhiên việc tăng giảm chi phí còn do ảnh hưởng của nhiều yếu
tố khách quan lẫn chủ quan trong công tác quản lý. Với mục tiêu hoạt động là hoàn thành
nhiệm vụ được giao và thu được lợi nhuận tăng tích luỹ, những năm qua xí nghiệp đều
hoàn thành việc sản xuất giao nộp sản phẩm cho Công ty, còn lợi nhuận tăng hay giảm
còn phụ thuộc công tác quản lý của xí nghiệp.
Xét trong mối quan hệ với lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh ta có bảng
sau:
Bảng 5: Mối quan hệ giữa tổng giá thành và lợi nhuận
ĐV: đồng
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 So sánh
1. Tổng giá thành 14156828387 15875836354 +1719007967
2. Lợi nhuận từ hoạt 1273369242 1303882592 +30513340
động sxkd
3. Doanh lợi giá thành 8,8% 8,2 -0,7%
Như vậy, tổng giá thành và lợi nhuận qua hai năm đều tăng song tốc độ tăng lợi
nhuận nhỏ hơn tốc độ tăng của giá thành nên mức doanh thu được năm 2000 so với năm
1999 đã giảm.
Để đưa ra những đánh giá chính xác và tìm được cách nhân tố ảnh hưởng, ta đi
phân tích chi tiết từng khoản mục.
* Về khoản mục chi phí nguyên vật liệu
Sản phẩm chính của xí nghiệp là các loại nồi, xoong, chảo, bát Inox.. nên xã hội
dùng nhiều loại vnl nhưng chủ yếu là nhôm, thép, Inox. Chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ
trọng lớn trong giá thành sản phẩm (khoảng 60 - 65%) và để phục vụ cho quá trình sản
xuất xí nghiệp thường phải mua ngoài nguyên vật liệu. Từ những đặc điểm đó, việc tiết
kiệm khoản chi nguyên vật liệu có ý mghĩa quan trọng trong việc phấn đấu hạ giá thành
sản phẩm.
Qua bảng 4, ta thấy chi phí nguyên vật liệu năm 2000 tăng 32329 392đ với tỷ lệ
10% so với năm 1999 và tăng 8,7% so với năm 1998 là do:
+ Sự thay đổi của tỷ trọng mặt hàng sản xuất: tăng những mặt hàng có giá trị lớn
như nồi quân dung Đk 60 - 1100 cái ( năm 1999 sản xuất 950 cái), bát inox 18 - 28000
cái, thêm những mặt hàng mới như bếp tàu Hải Quân…
+ Sự tăng giá của một số nguyên vật liệu chính trên thị trường như nhôm inox làm
tổng chi phí nguyên vật liệu tăng.
+ Do những chưa quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguyên nhiên liệu trong quá trình
sản xuất kinh doanh.
Trong chi phí nguyên vật liệu chi phí nguyên vật liệu chính chiểm tỷ trọng lớn
(khoảng 93%), sô với năm 1999 năm 2000 chi phí nguyên vật liệu chính tăng 649 534
180đ (tỷ lệ 7,3%). Do nhận thức được tầm quan trọng của việc quản nên xí nghiệp đã tập
trung quản lý chặt chẽ chi phí nguyên vật liệu chính, số tăng như trên là hộp lý so với quy
mô sản xuất của xí nghiệp.
Các loại nguyên vật liệu chính mà xí nghiệp sử dụng có nhiều trên thị trường nên
xí nghiệp đã tích cực tìm kiếm bạn hàng cung cấp thuận lợi về giá cả, đảm bảo chất lượng
cũng như địa điểm để giảm thiểu chi phí phát sinh như cước phí vận chuyển tiền thuê kho
bãi, chi phí bảo quản.. hơn nữa xí nghiệp còn hạn chế tối đa chi phí nguyên vật liệu tồn
kho bằng việc tính toán sát sao khối lượng sản xuất để mua nguyên vật liệu hoặc mua
xong bàn giao thẳng cho phân xưởng. Để biện pháp này có hiệu quả xí nghiệp phải quan
hệ tốt với các đơn vị cung cấp, đồng thời khai thác thêm nguồn cung cấp mới, chuẩn bị
sắp xếp các khâu sản xuất, cung ứng hợp lý đồng bộ.
Chi phí nguyên vật liệu phụ cũng tăng 234089672 đồng (tỷ lệ 70,25%) cho thấy xí
nghiệp đã chú trọng vào việc cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên tại các
phân xưởng sản xuất công nhân còn chưa sử dụng theo đúng định mức đề ra, gây thất
thoát trong sản xuất.
Chi phí nhiêu liệu như dầu, mỡ dùng để đánh bóng điện hoá sản phẩm tăng nhiều
(tăng 48705540đ với tỷ lệ 77,3%) là do xí nghiệp chưa chú ý đến tiết kiệm, xây dựng
định mức hợp lý cho yếu tố này, còn có tình trạng quản lý lỏng lẻo gây mất mát lãng phí
nhiên liệu dùng tại các phân xưởng.
* Về chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp gồm toàn bộ tiền lương chính, các khoản phụ cấp
BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất.
Xí nghiệp áp dụng cả hình thức lương thời gian và lương sản phẩm cho công nhân
sản xuất. Hình thức lương sản phẩm áp dụng cho số sản phẩm hoàn thành tức quỹ lương
được thành lập trên cơ sở đơn giá lương sản phẩm nhân với số lượng sản phẩm hoàn
thành. Hình thức lương thời gian áp dụng cho những ngày công nhân làm thêm vào ngày
nghỉ, lễ, tết.
Chi phí nhân công trực tiếp thường chiếm tỷ trọng từ 8% - 10% với số công nhân
tham gia sản xuất năm 2000 là 130 người trên tổng số lao động là 179 người. Xí nghiệp
đã chú trọng tới quản lý loại chi phí này sao cho đảm bảo được lợi ích người lao động mà
vẫn tiết kiệm chi phí.
Xí nghiệp đã cố gắng xây dựng định mức lao động hợp lý bằng việc cử nhân viên
kỹ thuật xuống từng phân xưởng bấm thời gian tính năng suất lao động của công nhân.
Ngoài tiền lương sản phẩm, lương thời gian, công nhân còn được nhận các khoản phụ cấp
như:
+ Phụ cấp độc hại, được tính cho mọi phân xưởng tuỳ theo mức độ độc hại từ 1000
- 200đ/sản phẩm.
+ Phụ cấp quốc phòng: 30% lương cơ bản.
+ Phụ cấp khác: Như phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên…
Ngoài ra, công nhân còn được thưởng nếu hoàn thành vượt mức kế hoạch
Số tiền được thưởng = số sản phẩm vượt kế hoạch đơn giá lao động định mức.
Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ được tínhb ằng19% theo lương cơ bản.
Như vậy, do đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi quân đội nên
các khoản phụ cấp tính vào lương tương đối cao với các doanh nghiệp khác cùng ngành.
Nhưng khoản này không trực tiếp làm tăng giá tríp nhưng lại tính vào chi phí sản xuất
nên sẽ làm tăng giá thành sản phẩm. Mức phụ cấp hàng năm được cấp trên căn cứ vào kế
hoạch lao động sản xuất và cho phép xí nghiệp trích, nên đây là nhân tố khách quan.
Chi phí nhân công trực tiếp tăng 339521573đ (tỷ lệ 30,2%) là do số công nhân sản
xuất tăng nhưng mặt khác còn do công nhân phần lớn chưa thực hiện được mức lao động
kế hoạch. Việc tuyển chọn công nhân sản xuất của xí nghiệp còn sơ sài chưa đáp ứng
được yêu cầu cần thiết do đó năng suất lao động thấp làm tăng chi phí. Hiện nay, trình độ
tay nghề bình quân của công nhân là bậc 4/7. Do đó xí nghiệp cần tăng cường bồi dưỡng
nâng cao tay nghề cho công nhân.
* Về chi phí sản xuất chung
Khoản chi phí này năm 2000 tăng khá cao so với năm 1999 (tăng 60,5%), trong
đó:
+ Chi phí khấu hao TSCĐ tăng 292537356 đồng với tỷ lệ 48,5% là do xí nghiệp
đưa thêm máy móc vào hoạt động sản xuất nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao như
máy cuốn inox, máy điện hoá. Tuy nhiên việc sử dụng còn chưa đồng bộ, chưa tận dụng
hết công suất gây lãng phí chi phí khấu hao.
+ Năng lượng phục vụ cho sản xuất cũng tăng từ 86127356 lên 133730420 đồng
với tỷ lệ55%. Năm vừa qua, nguồn năng lượng phục vụ cho sản xuất tăng do đơn giá
điện năng 10% tức là khoảng từ 810 đồng lên 880 đồng và do xí nghiệp đưa vào chạy thử
một số mô hình cải thiến mới như bộ nồi nấu ăn biên phòng, bếp tày Hải Quân. Song việc
sử dụng điện còn chưa được quản lý chặt chẽ theo đúng giời sản xuất quy định.
Kế toán của xí nghiệp không thực hiện theo dõi chi tiết các yếu tố chi phí sản xuất
chung nên khó quản lý chi phí phát sinh ở khoản này.
* Về chi phí bán hàng
Chi phí bán hàng klà khoản chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, khoản
chi này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng chi phí từ 1%- 2%. Sản phẩm hoàn thành xong
phần lớn được giao nộp tại kho cho công tuyên chi phí bán hàng chủ yếu là chi phí vận
chuyển, ít phát sinh chi phí bao gói, bảo quản sản xuất.Tuy nhiên xí nghiệp cũng có
những hội nghị giới thiệu sản phẩm với tòan quân, với các đơn vị, tổ chức khác ngoài
phạm vi quân đội để mở rộng tăng khối lượng hàng hoá kinh tế.
* Về chi phí quản lý doanh nghiệp
Khoản mục này chiếm tỷ trọng tương đối lớn từ 12% - 15%, trong đó khoảng 65%
chi phí nộp Công ty. Hàng năm Công ty căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của xí
nghiệp để quy định trích. Khoản này chi cho công tác điều hành quản lý hoạt động xí
nghiệp của Công ty như việc duyệt các hợp đồng kinh tế, trình bày vốn với ngân hàng, chi
giao dịch tiếp khách, các đoàn thanh tra của Tổng cục. Như vậy, là xí nghiệp thành viên
của Công ty, chịu sự chi phối điều hành trực tiếp của Công ty nên 65% chi phí QLDN ở
xí nghiệp phải nộp cho Công ty. Điều này cho thấy tính chủ động của xí nghiệp trong
hoạt động sản xuất kinh doanh còn bị hạn chế, gây khó khăn cho công tác quản lý chi phí
hạ giá thành sản phẩm.
Đây cũng là nguyên nhân khách quan làm cho giá thành sản phẩm ở xí nghiệp
tăng.
Về chi phí quản lý doanh nghiệp tại xí nghiệp
Bộ máy quản lý tại xí nghiệp là tương đối hợp lý với số lượng khoảng 41 cán bộ
nhân viên. song xí nghiệp còn chưa tập trung vào khâu then chốt, cụ thể: Ban tài chính
của xí nghiệp có 5 người lại làm việc trong phòng có diện tích chật hẹp làm giảm hiệu
quả công tác. xí nghiệp cần đầu tư thêm cho công tác quản lý tài chính tại xí nghiệp.
Nhân viên các phòng chưa làm đúng theo giờ quy định nên nhiều khi dẫn đến tình trạng
"người thừa, việc thiếu".
Các phòng ban đều được trang bị máy tính, fax, máy in nhưng chưa sử dụng hiệu
quả dẫn đến chi phí khấu hao TSCĐ tăng.
Chi phí giao dịch tiếp khách phát sinh thường vựợt kế hoạch gây lãng phí. Để
giảm được khoản này cần có sự thống nhất quản triệt của ban lãnh đạo xí nghiệp,.
Tóm lại, nămqua chi phí tăng mà doanh lợi thu được chưa cao. Nguyên nhân
khách quan là xí nghiệp phải thực hiện thêm chỉ tiêu Công ty giao, do xí nghiệp thực hiện
một số mặt hàng mới lần đầu tiên đưa vào sản xuất nên chưa xây dựng được định mức chi
phí nguyên vật liệu, định mức lao động phù hợp. Nguyên nhân chủ quan là do công tác
kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch chưa sát sao và chưa xử lý kịp thời đối với
những biến động phát sinh. Bộ phận kế toán xí nghiệp chưa theo dõi chi tiết các yếu tố
chi phí phát sinh trong khoản mục chi phí sản xuất chung làm giảm hiệu quả quản lý.
2.3. Tình hình quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và thực hiện kế hoạch giá thành
sản phẩm tại xí nghiệp 24.
Ở xí nghiệp 24 sản phẩm sản xuất đa dạng về chủng loại, kích cỡ nên chi phí phát
sinh cũng rất phức tạp. Tuy nhiên, để đảm bảo công tác quản lý chi phí được thực hiện
chặt chẽ nhằm tính đúng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, xí nghiệp đều tiến hành
lập kế hoạch giá thành cho từng loại sản phẩm căn cứ vào định mức chi phí, dự toán chi
phí, tình hình sử dụng tài sản, vật tư, lao động những năm qua tại xí nghiệp.
2.3.1. Phương pháp lập kế hoạch chi phí sản xuất và kế hoạch giá thành sản phẩm
của xí nghiệp.
Công tác lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp được coi là biện
pháp tài chính để quản lý chi phí vì nó phục vụ đắc lực cho việc hoàn thành nhiệm vụ,
đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả. Lập kế hoạch chi phí và giá thành sản
phẩm nghĩa là đã xây dựng cho xí nghiệp mục tiêu phấn đấu, có cơ sở để tìm tòi, khai
thác khả năng tiềm tàng trong sản xuất kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí và tăng lợi
nhuận cho xí nghiệp.
Để lập kế hoạch chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xí nghiệp căn cứ vào
định mức nguyên vật liệu do phòng kỹ thuật lập ra để dự toán chi phí nguyên vật liệu; căn
cứ vào đơn giá tiền lương do bộ phận lao động tiền lương lập ra trên cơ sở định mức sản
xuất của phòng kỹ thuật để lập kế hoạch chi phí nhân công trực tiếp; căn cứ vào quy định
của Nhà nước để lập ra kế hoạch trích theo lương và kế hoạch khấu hao TSCĐ; căn cứ
vào nhiệm vụ sản xuất để lập dự toán các loại chi phí khác như chi phí dịch vụ mua
ngoài, chi phí khác bằng tiền…
Để lập kế hoạch giá thành sản phẩm xí nghiệp căn cứ vào định mức kinh tế kỹ
thuật của từng loại vật tư, vào số lượng sản phẩm được Công ty giao cũng như hợp đồng
kinh tế với các đơn vị khác; căn cứ vào giá thành sản phẩm của năm trước và trên thị
trường; căn cứ vào biến động giá cả của thị trường cung cấp đầu vào cho xí nghiệp… Sau
khi phân tích tình hình thực hiện và quản lý giá thành năm trước, kết hợp với các căn cứ
trên xí nghiệp dự kiến mức độ hoàn thành kế hoạch, phát triển khả năng tiềm tàng để hạ
giá thành từ đó xác định giá thành đơn vị và giá thành tiêu thụ sản phẩm kỳ kế hoạch.
Trong quá trình lựa chọn phương pháp lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh và
giá thành sản phẩm, xí nghiệp đã cố gắng chọn cách tối ưu, khoa học nhất. Với mỗi
phương pháp khác nhau thì kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm
cũng khác nhau. Hiện nay, xí nghiệp căn cứ vào định mức trung bình tiên tiến của các
doanh nghiệp sản xuất cùng ngành và căn cứ vào các chỉ tiêu được giao để xây dựng
phương pháp lập kế hoạch chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Ngoài ra, xí
nghiệp cũng rất linh hoạt trong cách tính toán, ví dụ như khi phân bổ chi phí bán hàng,
chi phí quản lý doanh nghiệp, xí nghiệp chọn tiêu thức phân bổ là doanh thu tiêu thụ
nhưng nếu trong một thời kỳ, chi phí phát sinh lớn và giá thành sản phẩm không "gánh"
được nữa thì kế toán chuyển một phần sang tài khoản chi phí chờ kết chuyển (TK 142) để
đảm bảo cho giá thành được ổn định và hợp lý.
Khi xây dựng xong kế hoạch giá thành xí nghiệp trình cho Tổng cục duyệt làm căn
cứ để thực hiện.
Do xí nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm nên để đánh giá cụ thể công tác quản lý
chi phí cũng như tình hình lập và thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, ta chọn một loại
sản phẩm tiêu biểu chiếm tỷ trọng lớn trong số lượng các mặt hàng và được thực hiện liên
tục nhiều năm. Đó là mặt hàng inox 18 (sản lượng 28000 cái năm 2000).
Bảng 6: Giá thành kế hoạch bát inox - 18 (năm 2000)
Khoản mục ĐVT ĐMT Đơn giá Thành tiền
H 1999 2000 Tổng cục Đề nghị
duyệt năm duyệt năm
1999 2000
1. Thép inox 0,5 mm Kg 0,22 29.000 33.756 6.380.0 7.426,3
cộng NVL chính
2. Phớt đánh bóng Cái 0,008, 45.000 45.000 6.380.0 7.426,3
3. Bột đánh bóng 0,03 40.000 40.000 360.0 360,0 Kg
0,01 4.000 4.000 1.200.0 1.200,0 4. Dầu hoả Lit
5. Xà phòng Kg 0,005 2.500 2.500 40,0 40,0
6. Giẻ lau Kg 0,005 8.000 8.000 12,5 12,5
7. Hộp catton Cái 0,005 4.000 4.000 40,0 40,0
8. Giấy Gram Kg 0,005 5.000 5.000 20,0 20,0
9. Dây buộc Kg 0,005 15.000 15.000 25,0 25,0
cộng vật liệu phụ
10. Năng lượng Kw 1,5 828 880 75,0 75,0
11. Lương Cộng 0,16 16.800 21.000 1772,5 1.772,5
12. Ăn ca Cộng 0,16 2.500 3.000 1242,0 1.320,0
13. BHXH,BHYT.. đồng 19% 19.300 17.200 2688,0 3.360,0
14. KHTSCĐ đồng 400,0 480,0
15. Chi phí sử dụng đồng 510,7 638,4
khuôn mẫu
16. Thiệt hại sản phẩm đồng 772,0 772,0
17. Chi phí khác đồng 454,0 450,4
cộng giá thành sản xuất
18. Chi phí tiêu thụ đồng 94,8 94,8
19. Chi phí QLDN đồng 753,0 873,0
cộng giá thành tiêu thụ
2.3.2 Tình hình thực hiện kế hoạch chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của xí
nghiệp 24
Bảng 7: Giá thành sản phẩm - bát inox 18 năm 2000
Khoản mục ĐVT ĐMTH Đơn giá Thành tiền
1.
Qua số liệu trên bảng ta thấy xí nghiệp đã thực hiện được nhiệm vụ hạ giá thành
sản phẩm, giảm chi phí sản xuất kinh doanh ở mặt hàng bát inox 18. Cụ thể giá thành kế
hoạch là 18.287,4đ/1sp nhưng tình hình thực tế giá thành 18.204,9đ/sản phẩm. Như vậy
xí nghiệp đã thực hiện giảm được 82,5đ/1sp với số tương đối là 0,45%.
Để thấy rõ chất lượng công tác quản lý chi phí ảnh hưởng đến sự giảm giá thành
như trên, ta đi sâu phân tích từng yếu tố chi phí.
* Chi phí nguyên vật liệu chính.
Đối với từng loại sản phẩm khoản chi nguyên vật liệu trong giá thành có thể xác
định theo công thức:
Cv = Sl x m i x gi - F
Trong đó:
Sl: Là sản lượng sản xuất của một loại sản phẩm.
Gi: Đơn giá vật liệu xuất dùng.
m i: Mức tiêu hao bình quân từng loại NVL.
F: Giá trị phế liệu thu hồi.
Riêng mặt hàng bát inox 18 giá trị phế liệu thu không đáng kể nên xí nghiệp đã
không đưa vào tính trong giá thành sản phẩm.
Do đó khoản chi kế hoạch điều chỉnh theo thực tế là:
V = Sl1 x m ki x gki - FD
K
CvD
= 28.000 * 0,22 *33.756 = 207.936.960 đồng.
Khoản chi vật liệu thực tế là:
Cv1 = Sl1 x m li x gli - F1
= 28.000 * 0,22 * 33.700 = 207.592.000
K = CV
Mức chênh lệch giữa thực tế với kế hoạch sẽ là: Cv1 - CVd
= 207592000 - 207936960 = - 344960 đồng.
Qua đó ta thấy mức chi phí về thép inox kỳ thực tế giảm 344.960đ là do ảnh
hưởng nhân tố: mức tiêu hao bình quân, đơn giá vật liệu xuất dùng trong đó định mức
tiêu hao thực tế đạt được như kế hoạch đề ra nên không ảnh hưởng đến sự tăng giảm chi
phí nguyên vật liệu chính còn mức ảnh hưởng của đơn giá xuất dùng như sau:
Cvg = Sl1 x m li x (gli - gki)
= 28.000 * 0,22 * (33.700 - 33.756 = - 344.960)
Như vậy tổng mức chi nguyên vật liệu chính cho sản phẩm bát inox 18 kỳ thực tế
đã giảm 344.960đ là do đơn giá xuất dùng giảm. Thành tích này có được là do xí nghiệp
đã tìm được nguồn cung cấp rẻ giảm và giảm được chi phí thu mua vận chuyển.
Với chi phí nguyên vật liệu chính, xí nghiệp đã cố gắng đạt được như định mức đặt
ra là 0,22kg/1sp. Năm qua, giá cả của loại vật liệu thép inox trên thị trường có nhiều biến
động cụ thể là tăng 28750đ lên 33650đ/kg nhưng xí nghiệp đã thành công trong việc tìm
được nguồn cung cấp rẻ hơn so với kế hoạch đề ra, giảm được đơn giá xuất dùng là
56đ/kg thép inox. Ngoài quan hệ giao dịch với Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoà Bình,
Tiến Đạt… xí nghiệp đã mở rộng quan hệ với Công ty inox Đại Phát, chi nhánh gang thép
Thái Nguyên nên có thể chủ động tìm nguồn thay thế đồng thời giảm được chi phí thu
mua và do đó giảm được chi phí nguyên vật liệu. Để quản lý tốt khoản chi phí nguyên vật
liệu xí nghiệp cũng đặc biệt chú trọng đến việc mua nguyên vật liệu có chất lượng đảm
bảo nhằm chi phí phát sinh do sản phẩm hỏng.
* Chi phí vật liệu phụ
Loại chi phí này đã thực hiện giảm được 99đ/kg tương ứng với tỷ lệ 5,6% chủ yếu
là do:
+ xí nghiệp đã giảm được đơn giá xuất dùng bột đánh bóng bằng cách mua với
khối lượng lớn để được giảm giá. Ngoài ra còn có nguyên nhân khách quan là giá loại bột
này trên thị trường giảm.
+ Việc sử dụng nhiên liệu là dầu hoả để đánh bóng điện hoá sản phẩm là lãng phí
so với định mức đặt ra là 0,03l/1sp. Đây là nhân tố chủ quan trong công tác quản lý chi
phí vì công nhân khi sử dụng dầu chưa có ý thức tiết kiệm, để rơi vãi hoặc lấy quá định
mức cho phép.
+ Xà phòng sử dụng ở các phân xưởng năm 2000 đều đúng kế hoạch về định mức
và đơn giá nhưng thực tế tại các phân xưởng còn lãng phí chứng tỏ công tác xây dựng
định mức chưa sát sao.
+ Giẻ lau: Năm vừa qua, phòng kỹ thuật đã yêu cầu các phân xưởng sử dụng tiết
kiệm loại này bằng việc dùng lại không chỉ một lần nhưng vẫn phải đảm bảo cho mẫu mã
sản phẩm được bền đẹp. Thực tế xí nghiệp đã giảm định mức tiêu hao là 0,002kg/1sp tức
tiết kiệm được 16đ/1sp. Tuy nhiên xí nghiệp còn có thể tìm thêm nguồn cung cấp khác có
đơn giá rẻ và giảm đơn giá xuất dùng xuống dưới 8000đ/1kg.
+ Dây buộc: xí nghiệp đã chọn được nguồn cung cấp rẻ hơn so với kế hoạch đặt ra
nên giảm được 5đ/1sp.
Nhìn chung chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm
khoảng 5% nên xí nghiệp đã đặt trọng tâm công tác quản lý vào yếu tố chi phí nguyên vật
liệu. Thực tế cho thấy xí nghiệp đã cố gắng tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu, rẻ,
tiết kiệm chi phí thu mua để giảm chi phí đầu vào cũng như khai thác tiềm năng giảm chi
phí bằng việc theo dõi kiểm tra sát sao quá trình sản xuất tại từng phân xưởng. Song vẫn
không tránh khỏi việc quản lý sử dụng một số vật liệu phụ và nhiên liệu lãng phí do ý
thức trách nhiệm của công nhân chưa cao, các quản đốc phân xưởng chưa phát huy hết
chức năng giám sát kiểm tra đôn đốc thực hiện kế hoạch sản xuất.
* Chi phí tiền lương và các khoản tính theo lương.
Trong khâu lập kế hoạch giá thành sản phẩm, xí nghiệp không đi sâu chi tiết cho
chi phí nhân công trực tiếp và chi phí nhân viên quản lý phục vụ phân xưởng nên khó đưa
ra kết luận chính xác. Tuy nhiên nhìn vào bảng ta thấy, xí nghiệp đã hoàn thành kế hoạch
về định mức lao động là 0,16công /1sp với mức đơn giá tiền lương là 21000đ/1công tăng
4200đ/1công so với năm 1999. Điều này chứng tỏ xí nghiệp đã chú trọng bồi dưỡng tay
nghề công nhân, tổ chức các cuộc thi sát hạch nâng cao tay nghề cũng như quan tâm đến
đời sống người lao động (tăng mức phụ cấp độc hại, tăng đơn giá ăn so với năm 1999). Xí
nghiệp cũng cần so sánh giữa tốc độ tăng chi phí nhân công với tốc độ tăng năng suất lao
động để có những điều chỉnh hợp lý.
* Chi phí khấu hao TSCĐ.
Hàng năm, căn cứ vào thực tế của năm trước, triển vọng sản xuất trong năm tới,
tình hình thực tế về máy móc thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật tại xí nghiệp, kế toán lập
bảng kế hoạch chi tiết khấu hao TSCĐ và tình hình hao mòn TSCĐ. Từ đó căn cứ vào
bảng kế hoạch KHTSCĐ cùng sản lượng thực tế sản xuất ra kế toán hàng tháng trích
KHTSCĐ theo phương pháp tuyến tính.
Từ năm, 1999, theo quyết định số 166 của BTC, tài sản cố định của xí nghiệp được
trích hàng năm theo công thức.
Mức trích KH hàng năm = Error!
Tuy nhiên, thực tế do xí nghiệp do sản xuất sản xuất nhiều loại sản phẩm nên việc
trích khấu hao tính vào giá thành từng loại sản phẩm còn theo kiểu "bốc thuốc" nghĩa còn
áng chứng vào sản lượng sản xuất ra, còn xem xét liệu giá thành "gánh" được hay không,
do đó mức trích khấu hao phản ánh chưa được chính xác.
Mặt khác nhiều máy móc thiết bị tại xí nghiệp đã qua thời gian sử dụng, trích khấu
hao nhưng vẫn chưa thanh lý, thay máy mới gây ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng
sản phẩm.
* Chi phí thiệt hại sản phẩm
chi phí sản phẩm hỏng giảm làm cho giá thành sản phẩm giảm được 0,8đ/sản
phẩm so với kế hoạch. Thành tích này đạt được chủ yếu là do tay nghề công nhân đợc
nâng cao và chất lượng thép tốt.
Nếu xí nghiệp chú ý đến đổi mới máy móc, áp dụng công nghệ mới thì chi phí
thiệt hại sản phẩm còn giảm được nữa.
* Chi phí khác.
Là những chi phí nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ phục vụ cho việc quản lý phân
xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài. Xí nghiệp đã giảm được 3đ/ sản phẩm so với kế hoạch.
* Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp
- Chi phí bán hàng thực hiện theo đúng kế hoạch là do sản phẩm của xí nghiệp đã
quen thuộc với toàn quân, không phải bỏ thêm chi phí giới thiệu sản phẩm. Việc bảo gói
sản phẩm cũng được thực hiện cẩn thận hơn, tránh lãng phí nguyên vật liệu bao gói như
giấy, hộp catton.
Xí nghiệp chỉ bố trí một nhân viên ở khâu tiêu thụ sản phẩm, đảm trách việc giao
thông tại kho cho Công ty chi phí bán hàng đã giảm đến mức tối thiểu ở yếu tố tiền
lương.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 3đ/1 sản phẩm trong đó bao gồm cả chi phí
nộp Công ty và chi phí quản lý doanh nghiệp tại xí nghiệp.
Nhìn chung, chi phí quản lý doanh nghiệp của xí nghiệp xã trụ sở Công ty nên chi
phí đi lại giao dịch để giải quyết, thực hiện nhiệm vụ giữa hai bên tất yếu phát sinh. Việc
tiết kiệm chi phí này phụ thuộc vào ý thức và biện pháp quản lý của ban lãnh đạo xí
nghiệp.
Chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh ở xí nghiệp lãng phí chủ yếu ở chi phí điện
thoại, chi phí khấu hao ở các phòng ban do các nhân viên còn lạm dụng điện thoại công
để giải quyết việc riêng. Mặt khác, mỗi phòng ban đều được bố trí máy vi tính nhưng
chưa sử dụng hiệu quả, nhất là máy ở phòng hành chính văn thư hầu như không sử dụng
trong khi đó máy ở phòng tài chính mọi người phải thay nhau sử dụng để xử lý khối
lượng công việc lớn.
Như vậy, qua phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành loại sản phẩm bát
inox 18, ta thấy xí nghiệp đã rất nỗ lực thực hiện các biện pháp giảm phí hạ thấp giá
thành sản phẩm đặc biệt là chú trọng công tác quản lý chi phí nguyên vật liệu chính. Tuy
thế, đây mới chỉ là một khía cạnh trong công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh phát
sinh trong toàn xã hội nên không thể đưa ra một kết luận tương tự về việc quản lý chi phí
đối với các sản phẩm khác, nhưng ta có thể khẳng định về những cố gắng, những tìm tòi
của xí nghiệp trong việc tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm.
Thông qua công tác hạ giá thành sản phẩm bát inox 18 xã hội đã đóng góp một
phần vào thực hiện mục tiêu tăng tích luỹ của Công ty đồng thời hoàn thành xuất sắc
nhiệm BQP giao, nâng cao uy tín của xí nghiệp trong phạm vi quân đội và cả nước. Cụ
thể trong 28000 sản phẩm bát inox 18 thì có 27.410 sản phẩm là chỉ tiêu BQP giao với
đơn giá là 19310 đ/ sản phẩm, doanh thu đạt được là 529 278 100đồng, tiết kiệm được
2261 325 đồng cho BQP. 590 sản phẩm là hàng kinh tế được thực hiện theo đơn đặt hàng
của các đơn vị khác với đơn giá thoả thuận là 18.344đ/sản phẩm vẫn đảm bảo cho xí
nghiệp bù đắp được các chi phí, mặt khác còn giúp xí nghiệp mở rộng thị trường, tăng
sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
2.3.3 Một số biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành mà xí nghiệp đã và đang
thực hiện trong những năm qua.
Là xí nghiệp có quy mô nhỏ so với các doanh nghiệp cùng ngành hoạt động trong
nền kinh tế quốc dân, hơn nữa lại phụ thuộc vào sự quản lý của Công ty, do đó để tồn tại
và phát triển được xí nghiệp phải quán triệt nguyên tắc lấy thu bù chi và có lãi. Ngoài số
lãi thu được nộp Công ty xí nghiệp còn phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước,
mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống công nhân viên. Chính vì thế việc quản lý
chi phí sản xuất kinh doanh được xí nghiệp đặc biệt quan tâm. Thời gian qua xí nghiệp đã
rất cố gắng tìm tòi và áp dụng các biện pháp quản lý chi phí với đặc điểm của xí nghiệp
mình. Cụ thể là các biện pháp sau:
- Xây dựng kế hoạch chi phí.
Để có được một dự toán chi phí hợp lý đảm bảo tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh nhịp nhàng liên tục, hoàn thành kế hoạch đặt ra xí nghiệp căn cứ vào:
+ Định mức tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật do bộ phận kỹ thuật lập ra.
+ Căn cứ vào đường lối hướng dẫn của BQP thông qua thực hiện các chỉ tiêu được
giao, hướng dẫn củaBTC và áp dụng chế độ kế toán hiện hành.
+ Căn cứ vào những chỉ tiêu kế hoạch của xí nghiệp như kế hoạch sản lượng, kế
hoạch lao động, tiền lương, kế hoạch đầu tư mở rộng, kế hoạch đào tạo, kế hoạch sửa
chữa.
+ Căn cứ vào kinh nghiệm thực hiện chi phí kỳ trước hoặc các thống kê kinh tế kỹ
thuật được tích luỹ.
+ Căn cứ vào các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu chi phí.
- Tăng cường kiểm tra giám sát quá trình thực hiện chi phí và phân tích đánh giá
sự biến động của chi phí trong từng thời kỳ. Thông qua đó tìm ra các biện pháp quản lý
linh hoạt sắc bén như: mua nguyên vật liệu ở nơi thuận tiện, đánh giá việc thực hiện các
định mức tiêu hao vật tư…
- Thực hiện công tác quyết toán.
Quyết toán ở xí nghiệp là việc tổng hợp và thanh toán các khoản thu chi đã thực
hiện trong một thời kỳ nhất định vào báo cáo, sau đó báo cáo cho Công ty.
Thông qua công tác quyết toán, xí nghiệp một mặt rà soát và xử lý các chi phí thực
hiện trong kỳ, mặt khác xác định được kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong một kỳ nhất định. Khi thực hiện quyết toán, xí nghiệp vừa xác định được nguồn
kinh phí dùng để thanh toán cho các chi phí hợp lý hợp lệ vừa đưa ra biện pháp xử lý với
những chi phí không hợp lệ hoặc chưa được thanh toán.
2.4 Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và
giá thành sản phẩm tại xí nghiệp 24.
2.4.1 Những thành tích đạt được:
- Về công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm.
+ Căn cứ vào đặc điểm sản xuất và quy trình công nghệ, việc xác định đối tượng
tập hợp chi phí là từng phân xưởng chi tiết cho từng loại sản phẩm hoàn thành là hợp lý,
có căn cứ khoa học tạo điều kiện cho công tác hạch toán quản lý kinh tế ở xí nghiệp đạt
hiệu quả cao.
+ Tuy sản xuất nhiều loại sản phẩm nhưng xí nghiệp đã cố gắng tập hợp chi phí
sản xuất thường xuyên theo định kỳ hàng tháng nhằm đảm bảo cung cấp thông tin chính
xác cho lãnh đạo Công ty. Từ đó có biện pháp kịp thời nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của Công ty.
+ Việc tập hợp chi phí theo khoản mục là phù hợp với đặc điểm của xí nghiệp, tạo
điều kiện cho công tác tính giá thành cụ thể nhanh chóng cũng như việc quản lý các
khoản mục được thuận lợi.
- Xí nghiệp đã hoàn thành cơ bản hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật vật tư cho
các mặt hàng, thường xuyên cải tiến điều chỉnh định mức để phù hợp với sản xuất, thực
hiện quản lý chặt chẽ tiêu hao vật tư trong sản xuất. Đồng thời ra các quy chế quản lý kỹ
thuật cơ điện và làm thủ tục cấp thẻ đứng máy cho công nhân.
- Chủ động nghiên cứu tiếp cận sản phẩm mới, khắc phục sự cố kỹ thuật tạo sự chủ
động trong sản xuất hạn chế những chi phí phát sinh không đáng có. Năm vừa qua phòng
kỹ thuật đã nghiên cứu và thiết kế thành công sản phẩm mới: bếp tàu hải quân, xoong
biên phòng làm giảm chi phí mua ngoài.
- Xí nghiệp đã tổ chức công tác mua bán vật tư, luôn luôn tìm kiếm chọn mua loại
vật tư có giá rẻ chất lượng cao, đồng thời giảm chi phí thu mua.
- Xí nghiệp đã áp dụng chế độ thưởng phạt khuyến khích trong thực hành tiết kiệm
chi phí, tăng năng suất lao động, thực hiện tốt kế hoạch bồi dưỡng nâng cao tay nghề.
2.4.2 Những hạn chế cần khắc phục
- Xí nghiệp luôn tìm cách giảm chi phí tồn kho nhưng việc cung ứng vật tư còn
chậm, chưa đồng bộ ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất.
- Chi phí cố định như chi phí khấu hao và chi phí quản lý doanh nghiệp còn chiếm
tỷ trọng cao trong giá thành. Máy móc thiết bị của xí nghiệp chưa đồng bộ còn lạc hậu,
công suất giảm xuống nhưng vẫn với chi phí khấu hao và tiêu hao điện năng như cũ. Chi
phí QLDN lãng phí chủ yếu ở chi phí giao dịch điện thoại, chi phí dịch vụ mua ngoài…
Chính điều này làm cho chi phí cố định cao giảm hiệu quả kinh tế của xí nghiệp.
- Kế toán xí nghiệp chưa thể hiện chi tiết các yếu tố chi phí cho khoản mục chi phí
sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí QLDN trong giá thành từng loại sản phẩm. Vì
thế việc giám sát sự biến động của các loại chi phí này gặp khó khăn không đưa ra các
biện pháp xử lý kịp thời.
- Tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh và quản lý có lúc chưa đồng bộ, chưa chủ
động, chất lượng và tiến độ nhập hàng quốc phòng chưa đáp ứng được yêu cầu của cấp
trên.
- Chưa duy trì thường xuyên chế độ bảo dưỡng sửa chữa máy móc thiết bị, khuôn
mẫu đảm bảo phục vụ sản xuất liên tục. Chậm đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng công
nghệ mới.
- Công tác quản lý còn lỏng lẻo, còn để tình trạng ra vào bừa bãi không đúng quy
định gây mất mát tài sản của đơn vị.
- Việc thực hiện quy chế an toàn chưa cao còn để xảy ra mất an toàn trong sản
xuất. Việc tuyển chọn công nhân đầu vào thiếu chặt chẽ ở khâu tuyển chọn tay nghề, do
vậy công nhân có tác phong công nghiệp kém.
- Công tác quảng cáo tiếp thị còn yếu.
Trên đây là một số ưu nhược điểm trong công tác quản lý chi phí tại xí nghiệp, đòi
hỏi nhà quản lý phải nắm bắt kịp thời để duy trì phát huy những thành tích đã đạt được,
đồng thời nhanh chóng tìm ra biện pháp khắc phục những khó khăn đang tồn tại ở xí
nghiệp.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIẢM
CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ HẠ GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM Ở XÍ NGHIỆP 24
3.1 Kinh nghiệm quản lý chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm của
các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Đường lối chiến lược kinh doanh là rất quan trọng nhưng quan trọng không kém
đó là việc quản lý thực hiện chiến lược kinh doanh ấy. Nhiều doanh nghiệp đã thành công
nhờ những người lãnh đạo biết tìm ra thế mạnh của mình, khuyến khích nó phát triển
cũng như hiểu được điểm yếu để tìm cách khắc phục.
Về nguyên tắc, các nhà quản trị doanh nghiệp nói chung và quản trị chi phí nói
riêng thường tuân theo một số lý thuyết quản lý. Ngày nay, nhiều kỹ thuật tổ chức và
quản lý kinh doanh vẫn áp dụng các nguyên tắc của những lý thuyết này. Thậm chí, các lý
thuyết mới về quản lý cũng chịu ảnh hưởng một cách có ý thức hoặc không có ý thức
những lý thuyết này.
Trường phái ổn định có hai lý thuyết chính là"Lý thuyết quản trị khoa học" ở mỹ
của Frederic W,Taylor và "Lý thuyết quản trị hành chính" Theo đó, hiệu quả của quản trị
có thể được nâng cao bằng các biện pháp tăng năng suất lao động của công nhân. Nó bao
gồm sự khám phá thông qua các phương pháp khoa học của công nhân. Nó bao gồm sự
khám phá thông qua các phương pháp khoa học những nhân tố cơ bản trong việc sử dụng
con người thay do việc dựa vào kinh nghiệm: sự xác định những chức năng hoạch định
của nhà quản trị thay thế cho việc công nhân tự ý chọn phương pháp làm việc riêng; sự
lựa chọn và huấn luyện công nhân, phát triển tinh thần hợp tác thay vì khuyến khích
những nỗ lực cá biệt riêng lẻ. Ngày nay, tác dụng của những lý thuyết này đối với việc
tiết kiệm và quản lý chi phí thật to lớn. Song song với mục tiêu tăng trưởng và mở rộng,
các nhà doanh nghiệp biết rằng đội ngũ nhân viên chính là nguồn gốc của mọi xu thế. Họ
lấy đi chi phí nhân công nhưg nếu biết sử dụng họ hợp lý hiệu quả thì chính doanh nghiệp
đã tiết kiệm được một khoản chi rất lớn.
Theo quan điểm quản lý chi phí của các nhà kinh doanh Đức, hiệu quả của công
tác này không thể chỉ dựa vào một phòng ban, đơn vị trực tiếp thực hiện công tác mà phải
dựa vào sự phối hợp của nhiều bộ phận. Mối quan hệ chặt chẽ trong Công ty được đề cao
ngay từ việc xây dựng mô hình doanh nghiệp. Điều này cũng tương đồng với quan điểm
của người Nhật, trong đó trách nhiệm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
thuộc về mọi người, khác với quan điểm của người Mỹ có trách nhiệm ấy chỉ thuộc về
một vài cá nhân xuất sắc được chọn ra.
Trên phạm vi hẹp hơn, tuỳ thuộc vào quy mô và loại hình sản xuất mà doanh
nghiệp nên quyết định phương thức quản lý chi phí như thế nào.Tại Công ty hàng không
Airlines, do TSCĐ của Công ty có giá trị vô cùng lớn nên Công ty lựa chọn một khung
chi phí cao dành cho sửa chữa lớn TSCĐ (bao gồm sửa chữa lớn và chi phí kiểm tra trước
khi bay) và tham gia cả chi phí bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Tại Công ty P&G, sản phẩm của Công ty mới xuất hiện ở thị trường nhưng nhu
cầu với nó chưa ổn định, Công ty đã quyết định đưa ra những bước đầu tư bản đầu rất
mạnh vào khâu quảng cáo giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng. Mặt khác việc quản
lý chi phí của Công ty P&G một phần dựa vào việc đưa ra khung hình phạt nặng tương
xứng với mức thưởng cho thành quả làm ra.
Đối với Công ty Vinamilk, vươn lên trong cơ chế với lợi thế là sản phẩm tương đối
độc quyền, họ tận dụng triệt để thuận lợi của mức giá nguyên liệu đầu vào rẻ mạt, sau đó
tập trung phát triển nguồn nguyên liệu này cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập. Nhờ vậy,
dù có quy mô lớn, vinamilk vẫn duy trì được vị thế của mình bằng chiến lược quản lý chi
phí đầu vào chặt chẽ, do vậy làm giảm giá thành sản phẩm.
Trên đây là một số kinh nghiệmvề quản lý chi phí sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp đang phát triển trên thương trường mà xí nghiệp 24 có thể linh hoạt vận
dụng. Để thoát hản "vỏ bao cấp" mà cơ chế trước đây tạo ra, để khẳng định được vị trí
của mình trong phạm vi quân đội và cả nước, xí nghiệp 24 còn phải cố gắng nhiều trong
tăng cường quản lý chi phí để giảm giá thành sản phẩm so với giá của các doanh nghiệp
khác cùng ngành.
3.2. Yêu cầu đối với công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh nhằm thực
hiện mục tiêu phát triển xí nghiệp trong thời gian tới.
Nền kinh tế thị trường đã khiến cho các đơn vị sản xuất trở nên năng động hơn
trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào của sản xuất và tìm thị trường đầu ra cho sản
phẩm của doanh nghiệp mình. Mỗi doanh nghiệp phải tự mình đề các phương án kinh
doanh sao cho thu phải đủ chi đồng thời có lãi. Đó là việc không dễ trong nền kinh tế đầy
rủi ro và cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Để hoạt động sản xuất kinh doanh đúng hướng và
hiệu quả xí nghiệp phải đặt ra được mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong từng thời kỳ cũng
như lập kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó. Trong thời gian tới mục tiêu của xí nghiệp là:
- Mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh để hoàn thành nhiệm vụ BQP giao vươn ra
thị trường tiêu thụ ngoài phạm vi quân đội như các trường đại học, cao đẳng, học viện…
- Nâng cấp hệ thống máy móc trang thiết bị sử dụng tại xí nghiệp đặc biệt là dây
chuyền sản xuất, tự thiết kế cải tiến một số mô hình máy móc để giảm chi phí mua ngoài.
- Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân viên bằng các chương trình huấn
luyện gửi đi học chuyên tu, theo học các lớp tại chức.
Nâng cao tay nghề công nhân sản xuất bằng các cuộc thi sát hạch tay nghề chú
trọng ngay từ khâu tuyển chọn.
Thực hiện được những mục tiêu đó, xí nghiệp cần quan tâm tới nội dung quản trị
tài chính doanh nghiệp từ khâu huy động vốn, kiểm tra giám tình hình sử dụng vốn, các
chi phí phát sinh đến việc trích lập các quỹ… trong đó quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất
kinh doanh, phấn đấu hạ giá thành là tiền đề cơ sở để tăng lợi nhuận, tăng tích luỹ, mở
rộng quy mô sản xuất theo chiều rộng cũng như chiều sâu.
Để công tác quản lý đạt hiệu quả, người lãnh đạo doanh nghiệp phải luôn được
cung cấp các thông tin chính xác, kịp thời về mọi hoạt động kinh doanh nhằm đưa ra
những chính sách quản lý kịp thời và đúng đắn. Công tác của phòng Tài chính kế toán
chính là công cụ để người quản lý theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh hàng ngày. Vì
vậy cùng với sự tồn tại và phát triển của đơn vị công tác tài chính kế toán cũng cần không
ngừng được nâng cao hoàn thiện hơn nữa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn cho công tác
quản trị nội bộ.
Xí nghiệp phải có đội ngũ cán bộ nhân viên tài chính kế toán am hiểu nghiệp vụ tài
chính kế toán, nắm vững thông tin về giá trị tại thị trường đầu vào và đầu ra của xí
nghiệp. Cán bộ tài chính kế toán phải là người nhiệt tình trong công việc, năng động sáng
tạo, dám nghĩ dám làm và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đội ngũ nhân viên này ở xí
nghiệp cần chịu khó tìm hiểu học hỏi nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Công tác hạch toán chi phí ở xí nghiệp phải thuân theo các chuẩn mực kế toán
nước ta, tạo điều kiện cho xí nghiệp phát huy được nội lực cao hiệu qủa sản xuất và chất
lượng sản phẩm.
Vi tính hoá công tác quản lý chi phí. Trước những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuậtv à sự phát triển của công nghệ thông tin thì việc áp dụng thành tựu này
vào công tác quản lý chi phí làm chi phí được quản lý chặt chẽ hơn là tất yếu khách quan.
Hoàn thiện công tác quản lý chi phí phải hướng vào hiện đại hoá trong việc ghi chép, xử
lý số liệu nhằm nâng cao năng suất lao động quản lý, nhanh chóng thuận tiện trong việc
cung cấp các thông tin báo cáo cần thiết cho người quản lý trong quản trị nội bộ đơn vị.
Muốn làm được điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ nhân viên quản lý tài chính kế toán phải
thông thạo về thao tác xử lý trên máy tính cũng như biết sử dụng các phần mềm ứng
dụng.
Một số nguyên tắc nâng cao hiệu quả công tác tài chính kế toán mà xí nghiệp cần
vận dụng.
+ Hoàn thiện toàn bộ công tác kế toán từ chứng từ, tài khoản, sổ sách đến tổ chức
bộ máy TC - KT nhằm tăng cường mức độ chính xác và tốc độ phản ánh thông tin về biến
động tài sản, công nợ, đưa ra giải pháp tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh của xí nghiệp.
+ Nội dung phương pháp hạch toán đều dựa trên pháp lệnh thống kê, các chế độ
chứng từ kế toán, tài khoản kế toán. Song xí nghiệp cần dựa trên những đặc điểm riêng
của xí nghiệp mình mà có những sửa đổi bổ sung phù hợp. Hiện tại xí nghiệp đã áp dụng
hình thức kế toán chứng từ ghi sổ để phù hợp với việc phản ánh thông tin cho Công ty.
Đây là cả quá trình sửa chữa những sai sót thiếu khoa học trong thực tiễn để bổ sung hoàn
thiện dần về lý luận rồi lại dùng thực tiễn để minh chứng và kiểm nghiệm tính đúng đắn
của nó.
+ Kết hợp hài hoà, sáng tạo giữa máy móc thiết bị hiện đại với tiềm năng tri thức
con người. Không nên quá thiên lệch về một phương diện nào mà cần phát huy những ưu
thế và hạn chế nhược điểm mỗi bên bởi mọi sự cân đối đều đem lại lợi ích cao nhất.
+ Bảo đảm nguyên tắc phục vụ theo yêu cầu của kinh doanh trên cơ ở thực hiện
đúng các quy định về pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi khi thực hiện công tác kế toán
cần nhạy bén, chân thực phù hợp với các quy luật của thị trường về sản xuất kinh doanh.
Tuân thủ theo đúng các cơ chế chính sách luật định, khi có vấn đề bấp cập nảy sinh thì
cần thiết phải đề xuất kiến nghị với cấp có thẩm quyền để có biện pháp điều chỉnh thích
hợp.
3.3. Một số đề xuất nhằm tăng cường quản lý chi phí sản xuất kinh doanh đối
với xí nghiệp 24
Một là tăng cường công tác thu mua, dự trữ và sử dụng đúng định mức tiêu hao
nguyên vật liệu trong quá trình sã nhằm giảm chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản
phẩm.
Là những sản xuất mặt hàng cơ khí nên chi phí là rất lớn đòi hỏi xí nghiệp phải
luôn tăng cường giảm sát quản lý chặt chẽ để tiết kiệm khoản mục này. Qua bảng 4 ta
thấy chi phí nguyên vật liệu năm 2000 tăng 10% so với năm 1999 trong đó số tăng chủ
yếu ở nguyên vật liệu phụ và nhiên liệu, thực tế năm vừa qua sự tăng giá của nhiên liệu
và năng lượng đã làm ảnh hưởng đến chi phí nguyên vật liệu cụ thể là điện tăng từ 810
đồng lên 880 đồng.
Đối với sản phẩm của xí nghiệp, khoản chi nguyên vật liệu trong giá thành thường
phụ thuộc vào bốn nhân tố nhân tố số lượng sản phẩm sản xuất, đơn giá xuất dùng mức
tiêu hao nguyên vật liệu và giá trị phế liệu thu hồi. Do đó để tiết kiệm tối đa khoản chi
nguyên vật liệu, xí nghiệp phải theo dõi đánh giá sự biến động của những nhân tố này để
có biện pháp xử lý kịp thời.
+ Đơn giá xuất dùng nguyên vật liệu gồm giá trị nguyên vật liệu và chi phí mua
nguyên vật liệu. Xí nghiệp đã cố gắng trong mở rộng mối quan hệ với người cung cấp để
vừa tìm được nguồn nguyên liệu rẻ vừa đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên trong quá trình
thu mua xí nghiệp cần đề cao hơn nữa trách nhiệm vật chất đối với người thu mua để đảm
bảo chất lượng vật tư, phục vụ kịp thời cho sản xuất.
+ Mức tiêu hao nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất cũng là nhân tố có ý nghĩa
lớn trong việc hạ giá thành sản phẩm. Việc quản lý mức tiêu hao sát sao phụ thuộc vào
một phận quản lý kinh tế, bộ phận kỹ thuật và cả người lao động.
Phòng kỹ thuật phải liên tục bám sát các phân xưởng sản xuất để cải tiến định mức
tiêu dùng sao cho hợp lý tiết kiệm mà vẫn đảm bảo chất lượng. Định mức thực tế đã thực
hiện là 0,22kg thép/1sp (đối với bát inox) nhưng xí nghiệp có thể phấn đấu giảm còn
,21kg nếu nâng cao trình độ sử dụng nguyên vật liệu của công nhân hoặc máy móc thiết
bị và sử dụng thép có chất lượng thép tốt giảm số nguyên vật liệu hao hụt. Kỹ thuật có thể
linh hoạt hơn trong việc sử dụng vật liệu thay thế, bởi sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
đã tạo ra nhiều loại vật liệu giá rẻ mà tính toán năng sử dụng rất cao.
Ở xí nghiệp 24 việc thưởng phạt các bộ phận sản xuất còn chưa phổ biến, dẫn đến
công nhân còn chưa có ý thức tiết kiệm nguyên vật liệu trong sản xuất. Do vậy xí nghiệp
cần sử dụng thường xuyên hơn các đòn bẩy kinh tế như chế độ thưởng phạt nhằm hạ thấp
mức tiêu dùng nguyên vật liệu, gắn trách nhiệm vật chất đối với công nhân sản xuất như
phạt đền tiền nguyên vật liệu khi làm sản phẩm hỏng quá phạm vi cho phép, phạt sử dụng
quá định mức nguyên vật liệu, thưởng sáng kiến tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng cường
công tác thu hồi phế liệu. Có như vậy mới nâng cao tinh thần trách nhiệm của người sản
xuất, đảm bảo giảm chi phí nguyên vật liệu mà chất lượng sản phẩm vẫn cao.
+ Để đáp ứng kịp thời nhu cầu cho sản xuất xí nghiệp phải xây dựng hệ thống định
mức dự trữ vật tư thích hợp. Lượng dữ trữ này không được quá nhiều vì sẽ gây ứ đọng
vốn và thiệt hại trong quá trình bảo quản, đồng thời không được quá ít nguyên vật liệu
gây căng thẳng làm ách tắc quá trình sản xuất. Yêu cầu đặt ra đối với dự trữ nguyên vật
liệu là phải đủ để đáp ứng sản xuất đồng thời phải giảm thấp chi phí nguyên vật liệu trong
giá thành,.
Ở xí nghiệp, hệ thống kho bãi chưa đảm bảo tiêu chuẩn dự trữ nguyên vật liệu,
chưa xây dựng định mức dự trữ hợp lý. Xí nghiệp đã giảm tối thiếu chi phí dự trữ phát
sinh nên nguyên vật liệu chủ yếu là dùng đến đâu mua đến đó, điều này nhiêug khi không
đáp ứng kịp thời cho sản xuất hoặc do nhu cầu cấp thiết của sản xuất nên xí nghiệp phải
mua nguyên vật liệu với giá cao đặc biệt là loại vật liệu phụ, dẫn đến chi phí nguyên vật
liệu tăng trong giá thành. Để khắc phục tình trạng này, xí nghiệp cần xây dựng định mức
dự trữ vật tư thích hợp vừa đủ yêu cầu sản xuất (bằng cách căn cứ vào kế hoạch sản xuất
trong kỳ và lượng vật tư còn tồn đầu kỳ) vừa thích nghi với sự biến động liên tục của giá
cả trên thị trường, tức là xí nghiệp cần tính toán so sánh giữa chi phí giảm được giảm dự
trữ nguyên vật liệu với chi phí phát sinh do chậm đáp ứng yêu cầu sản xuất.
Xí nghiệp ngày càng phải chú trọng hơn tới kết cấu sản phẩm, tuy việc thay đổi kết
cấu không phụ thộc vào ý muốn chủ quan của xí nghiệp song xí nghiệp có thể giảm
những mặt hàng kinh tế có chi phí nguyên vật liệu cao nhưng đem lại ít lợi nhuận. Xí
nghiệp cần quan tâm tới việc thiết kế kiểu dang sản phẩm đẹp và tốn ít vật tư, cải tiến quy
trình công nghệ sản xuất để tiêu hao ít nguyên vật liệu.
Hai là: Chú trọng các biện pháp nâng cao năng suất lao động để giảm chi phí nhân
công.
Qua bảng (4) ta thấy chi phí nhân công năm 2000 tăng 30,2% so với năm 1999. Là
xí nghiệp quốc phòng được bao cấp một phần nên đơn giá sản phẩm của xí nghiệp được
tổng cục duyệt đối với mặt hàng quốc phòng. Do đó năm 2000 mức lương ối thiểu của
công nhân đã được tăng từ 144000 đồng lên 180000 đồng theo quy định của Nhà nước.
Số tăng ề chi phí nhân công một phần do xí nghiệp tuyển thêm lao động mặt khác còn do
năng suất lao động chưa cao. Muốn nâng cao năng suất lao động xí nghiệp cần chú ý hơn
tới các vấn đề sau:
+ Hiện nay, lao động ở xí nghiệp vẫn mang tính chất thủ công vì thế phòng kỹ
thuật cải tiến hoàn thành tốt định mức lao động bằng cách xuống từng phân xưởng theo
dõi thao tác của công nhân, bấm giờ cho việc hoàm thành sản phẩm. xí nghiệp cần đưa
nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến dây chuyền công nghệ để giảm bớt
lao động thủ công.
+ Tay nghề bình quân công nhân ở xí nghiệp là 4/7 cũng đã tổ chức các cuộc thi
tay nghề nâng cao trình độ cho công nhân nhưng cần chú trọng hơn đến chất lượng phong
trào. Để nâng cao trình độ công nhận, xí nghiệp có thể tổ chức những chương trình đào
tạo, giáo dục công nhân ngay tại xí nghiệp hoặc gửi đi doanh nghiệp khác để học hỏi kinh
nghiệm. Khi tuyển công nhân mới vào làm việc thì phải lựa chọn người có tay nghề cao,
có ý thức trách nhiệm trong công việc. Trong công tác quản lý lao động xí nghiệp cũng đã
tổ chức phát thẻ cho công nhân làm ca nhằm quản lý chặt chẽ quân số, giờ làm đảm bảo
trật tự an toàn trong xí nghiệp song cần yêu cầu thực hiện nghiêm túc việc đeo thẻ, kiểm
tra thẻ khi đứng máy hoặc ra vào xí nghiệp.
+ Duy trì các hình thức tiền lương, tiền thưởng hợp lý những tiền lương theo sản
phẩm, thưởng sản phẩm chất lượng tốt hình thức đẹp, thưởng năng suất lao động cao như
hiện nay. Mặt khác phải thực hiện chế độ thưởng phạt nghiêm minh như cắt lương, trừ
lương những người nghỉ không lý do.. Cách thức trả lương này gắn liền kết quả sản xuất
người công nhân với lợi ích vật chất của họ do đó sẽ thúc đẩy tăng năng suất lao động, tạo
được lòng tin của cán bộ công nhân viên với xí nghiệp đồng thời tăng cường kỷ luật lao
động cũng như tạo ra tác phong công nghiệp cao người lao động.
Sau khi sản phẩm hoàn thành, cần tổ chức tốt công tác kiểm tra kỹ thuật để xác
định chất lượng công việc, xác định lại định mức lao động để xem kế hoạch xây dựng đã
hợp lý chưa, qua đó khuyến khích tinh thần sáng tạo của công nhân làm cho năng suất lao
động tăng, chất lượng sản phẩm tốt hơn.
+ Đội ngũ nhân viên quản lý của xí nghiệp còn trẻ phần lớn đã qua đào tạo tại các
trường trung cấp, cao đẳng về kinh tế, kỹ thuật, một số có trình độ đại học, họ đều năng
nổ nhiệt tình với công việc. Xí nghiệp cần có kế hoạch tiếp tục đào tạo nâng cao chuyên
môn để tận dụng triệt để sức trẻ cho hoạt động của xí nghiệp.
Làm tốt các vấn đề trên chính là xí nghiệp đã vận dụng tốt ảnh hưởng tích cực của
nhân tố lao động và sử dụng con người với nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc
tăng năng suất lao động giảm chi phí nhân công.
Ba là: Vận dụng kịp thời những tiến bộ của cách mạng khoa học kỹ thuật hạ thấp
chi phí sản xuất doanh nghiệp.
Hiện tại, hệ thống máy móc ở ba phân xưởng của xí nghiệp còn chưa đồng bộ
thậm chí hiệu suất sử dụng thấp và lạc hậu so với các doanh nghiệp khách cùng ngành
nên dễ gây lãng phí nguyên vật liệu cho sản xuất. Do đó xí nghiệp cần nhanh chóng thanh
lý những tài sản cố định lạc hậu, không có khả năng khôi phục hoặc không cần sử dụng
để giảm chi phí khấu hao, đồng thời trang bị những máy móc có khả năng tự động hoá
cao, dây chuyển công nghệ tiên tiến để tăng năng suất và giảm chi phí nhân công.
Xí nghiệp cần đầu tư vốn, kinh phí để tạo điều kiện cho phòng kỹ thuật tự nghiên
cứu thiết kế những mô hình dây chuyền công nghệ mới vừa phù hợp với đặc điểm của xí
nghiệp vừa phù hợp với đặc điểm của xí nghiệp vừa có tính năng sử dụng cao. Năm vừa
qua, xí nghiệp đã ứng dụng một số đề tài cải tiến vào sản xuất như "thiết kế chế tạo dao
cắt thép L" thiết kế lắp đặt hệ thống hút độc tại phân xưởng dập và đã tiết kiệm được chi
phí dịch vụ mua ngoài. Điều này cho thấy bộ phận kỹ thuật của xí nghiệp có khả năng cải
tiến sáng chế áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất nên xã hội cần có chính sách đầu tư thích
đáng về chế độ khen thưởng cũng như kinh phí để thực hiện đề tài.
Bốn là: Tiết kiệm tối đa chi phí dịch vụ mua ngoài.
Năm vừa qua khoản chi phí sản xuất chung trong giá thành của xí nghiệp tăng 60,5
so với năm 1999. Ngoài tăng do chi phí khấu hao con số này tăng một phần là do chi phí
về năng lượng sử dụng trong xí nghiệp tăng. Đơn giá điện của Nhà nước tăng 10% là
nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến sự tăng chi phí ngoài ra còn do xí nghiệp trang
bị thêm hai dây chuyền sản xuất là máy cuốn inox và điện hoá nên chi phí ngoài ra còn do
xí nghiệp trang bị thêm hai dây chuyền sản xuất là máy cuốn inox và điện hoá nên chi phí
về năng lượng chạy thử cũng tăng.
Ở xí nghiệp như các doanh nghiệp khác, chi phí mua ngoài gồmnhiều khoản như
chi phí tiền điện nước, điện thoại dùng cho sản xuất ở phân xưởng và các bộ phận quản lý
doanh nghiệp. Các khoản này rất dễ bị lãngphí và sử dụng thiếu ý thức tiết kiệm. Xí
nghiệp cần có biện pháp nâng cao ý thức tiết kiệm cho cán bộ công nhân viên trong quá
trình sử dụng, đề ra nội quy, định mức sử dụng, lắp công tơ điện nước ở từng bộ phận sử
dụng, xử phạt những trường hợp quá định mức để quản lý chặt chẽ hơn các khoản chi
này. Ví dụ về tiền điện thoại các phòng cần phân tích các cuộc gọi của tháng trước để
thấy được các nào hợp lý, cuộc gọi nào là lãng phí từ đó xây dựng định mức sử dụng điện
thoại và khoán trả bằng tiền cho từng bộ phận. Nếu cá nhân sử dụng vượt mức cho phép
thì phải bỏ tiền trả phần vượt trội.
Năm là: xây dựng định mức chi tiêu cho khoản chi phí quản lý doanh nghiệp và
chi phí hành chính.
Như đã trình bày ở trên, chi phí quản lý doanh nghiệp trong xí nghiệp gồm cả chi
phí quản lý doanh nghiệp nộp cho Công ty nên khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp
chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong giá thành sản phẩm (12% - 15%). Đây là nguyên nhân
khách quan làm tăng giá thành sản phẩm do xí nghiệp chịu sự chi phối điều tiết trực tiếp
từ Công ty và mức trích là do Công ty quy định. Tuy nhiên xí nghiệp có thể chủ động
giảm các khoản chi phí đặt ra kế hoạch tức là tạo ra mục tiêu cụ thể để phấn đấu trong
quá trình thực hiện như giảm chi về tiếp khách, giao dịch đối ngoại, chi về mua sắm văn
phòng phẩm báo chí. Thực hiện được điều này cần có sự quán triệt của ban lãnh đạo xí
nghiệp cũng như tinh thần tự giác tiết kiệm của toàn thể cán bộ công nhân viên thông qua
cơ chế thưởng phạt đã đề ra.
Xí nghiệp thường xuyên giao dịch với Công ty bên Gia Lâm nên chi phí đi lại
xăng dầu, bảo dưỡng xe phát sinh khá lớn. Giảm được khoản chi này, xí nghiệp cần tập
trung phối hợp công việc để một lần đi lại có thể giải quyết được nhiều việc.
Sáu là: Chú trọng hơn để công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch chi
phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm, hoàn thiện hơn công tác hạch toán kế
toán.
Công tác lập kế hoạch chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đã được xí nghiệp
thực hiện cho mọi mặt hàng. Song, do xí nghiệp hoạt động trong môi trường mà tính cạnh
tranh chưa cao nên việc giám sát quản lý chặt chẽ chi phí theo kế hoạch đặt ra cũng chưa
được thực hiện triệt để. Sản phẩm hàng hoá của xí nghiệp là các sản phẩm có thể so sánh
được nên đồng thời với việc lập kế hoạch giá thành sản phẩm, xí nghiệp có thể đề ra
nhiệm vụ hạ giá thành đối với từng loại để xác định rõ thêm mức phấn đấu trong cả quá
trình hoạt động. Có như vậy, công tác kế hoạch hoá mới thực sự trở thành một biện pháp
quản lý hữu hiệu ở xí nghiệp.
Công tác kế toán ở xí nghiệp cần thể hiện chi tiết các yếu tố chi phí cho khoản mục
chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp trong giá thành
từng loại sản phẩm để giảm sát chặt chẽ hơn các loại chi phí phát sinh và những biến
động của chúng để đưa ra đánh giá kịp thời. Làm được điều này tất yếu khối lượng công
việc của từng kế toán viên sẽ tăng lên, đòi hỏi xí nghiệp cần trang bị thêm máy vi tính
(chứ không
chỉ có một máy như hiện nay).
Bảy là: Phối hợp nhịp nhàng các khâu sản xuất và quản lý tạo tính đồng bộ trong
cả quá trình hoạt động.
Quản lý chi phí sản xuất kinh doanh để hạ thấp giá thành sản phẩm đòi hỏi người
quản lý phải quan tâm tới nhiều khía cạnh từ việc cung cấp đầu vào của quá trình sản xuất
đến việc kiểm tra các yếu tố đó và đến cả việc tiêu thụ sản phẩm. Năm vừa qua, công tác
quản lý chi phí ở xí nghiệp chưa hiệu quả một phần do phối hợp các khâu chưa đồng bộ
nhiều khi hoạt động sản xuất phải ngừng để chờ nguyên vật liệu việc nhập kho sản phẩm
cho Công ty cũng chưa đúng tiến độ… Do phạm vi quản lý rộng như vậy nên để hạ thấp
giá thành sản phẩm các bộ phận quản lý, bộ phận sản xuất, cung ứng trong xí nghiệp phải
có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch đặt ra và linh hoạt
xử lý các vấn đề phát sinh.
Như vậy, qua nghiên cứu tình hình chi phí sản xuất kinh doanh và công tác quản lý
chi phí sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp 24 em xin đưa ra một số đề xuất như trên với
mong muốn đóng góp vào công tác nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp.
KẾT LUẬN
Chương trình đào tạo đúng đắn của nhà trường cùng với sự giúp đỡ quan tâm của
khoa Tài chính doanh nghiệp và xí nghiệp 24 đã tạo cơ hội cho em có điều kiện tiếp cận
thực tế, vận dụng kiến thức đã được trang bị ở trường vào thực tế. Trên cơ sở đó củng cố
kiến thức đã học, đi sâu tìm hiểu cách thức tổ chức công tác quản trị tài chính nói chung
và quản lý chi phí nói riêng. Quá trình thực tập tại xí nghiệp 24 cũng đã giúp em có được
cơ sở vững vàng để bước vào nghề nghiệp một cách tự tin tránh khỏi ngỡ ngàng vì giữa
thực tế và lý luận luôn có khoảng cách nhất định.
Trong luận văn này em đã làm rõ các vấn đề sau:
1. Nếu rõ bản chất của chi phí sản xuất kinh doanh và sự cần thiết phải quản lý chi
phí.
2. Lý luận về công tác quản lý chi phí tại các doanh nghiệp nói chung nhằm so
sánh với công tác đã thực hiện tại xí nghiệp 24.
3. Khái quát đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của xí nghiệp và ảnh hưởng của nó
đến công tác quản lý chi phí tại xí nghiệp.
4. Đưa ra một số đề xuất nhằm tăng cường biện pháp quản lý chi phí sản xuất kinh
doanh, hạ giá thành tại xí nghiệp.