intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chiến tranh Ba mươi năm

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:35

218
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chiến tranh Ba mươi năm bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu lục địa thời bấy giờ. Mặc dù trên danh nghĩa đó là cuộc xung đột tôn giáo giữa những người Tin lành và những người Thiên chúa giáo, nhưng thật ra, động cơ chính của cuộc chiến bắt nguồn từ cuộc tranh giành quyền lực giữa nhà Habsburg và các cường quốc khác ở châu Âu. Một ví dụ điển hình là nước Pháp Thiên...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chiến tranh Ba mươi năm

  1. Chiến tranh Ba mươi năm Bản đồ Châu Âu năm 1648. . 1618–1648 Thời gian Châu Âu (Đức ban đầu) Địa điểm Hòa ước Westphalia Kết quả Tham chiến Thụy Điển Đế chế La Mã
  2. Thần thánh Bohemia Đan Mạch-Na Uy (Liên đoàn Thiên chúa giáo) Hà Lan Tây Ban Nha Pháp Áo Scotland Bayern Anh Sachsen Lực lượng ~45 vạn, ~475 nghìn, 15 vạn quân Thụy 30 vạn Tây Ban Nha, Điển, ~10 - 20 vạn quân Đức 75 nghìn quân Hà Lan, ~10 vạn quân Đức, 15 vạn quân Pháp . Chiến tranh Ba mươi năm bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu lục địa thời bấy giờ. Mặc dù trên danh nghĩa đó là cuộc xung đột tôn giáo giữa những người Tin lành và những người Thiên chúa giáo, nhưng thật ra, động cơ chính của cuộc chiến bắt nguồn từ cuộc tranh giành quyền lực giữa nhà Habsburg và các cường quốc khác ở châu Âu. Một ví dụ điển hình là nước Pháp Thiên chúa
  3. giáo, dưới sự lãnh đạo không chính thức của Hồng y Richelieu, đã ủng hộ những người Tin lành để làm suy yếu triều đình Habsburg và qua đó củng cố vị trí của nước Pháp như một cường quốc hàng đầu ở châu Âu. Điều này đã làm gia tăng căng thẳng giữa nước Pháp và triều đình Habsburg, sau đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh giữa Pháp và Tây Ban Nha. Chiến tranh 30 năm đã tàn phá nặng nề châu Âu, gây ra nạn đói và dịch bệnh (do các xác người chết không chôn kịp), làm giảm dân số của các thành bang ở khu vực nước Đức ngày nay và những vùng khác ở Ý, đồng thời khiến nhiều cường quốc châu Âu suy sụp. Cuộc chiến diễn ra trong 30 năm, nhưng những mâu thuẫn dẫn đến cuộc chiến đã bắt đầu trước đó rất lâu. Cuộc chiến kết thúc với Hiệp ước Munster, một phần của một thỏa thuận lớn hơn có ý nghĩa quyết định với lịch sử châu Âu sau này: Hòa ước Westphalia. Trong suốt cuộc chiến, dân số các thành bang ở khu vực nước Đức ngày nay giảm trung bình 30%, ở vùng Brandenburg, con số này là 50%, và nhiều vùng khác chứng kiến hai phần ba dân số thiệt mạng vì chiến tranh. Dân số nam giới của các thành bang thuộc nước Đức giảm một nửa. Dân số ở các tiểu quốc nay là Cộng hòa Séc và Slovakia giảm một phần ba. Chỉ riêng quân đội Thụy Điển đã phá hủy 2 nghìn lâu đài, 18 nghìn làng mạc và 1.500 thị trấn ở Đức. Mục lục [ẩ n] 1 Nguồn gốc của chiến tranh  1.1 Hòa ước Ausburg o
  4. 1.2 Tình hình các nước trước khi bước vào cuộc chiến o 1.3 Căng thẳng tôn giáo gia tăng o 1.4 Bạo lực bùng phát và nguyên nhân trực tiếp của cuộc chiến o 2 Diễn biến chiến tranh  2.1 Cuộc nổi loạn của người Bohemia o 2.1.1 Nguyên nhân trực tiếp của cuộc nổi loạn  2.1.2 Từ trận Sablat đến trận Stadtlohn  2.2 Sự can thiệp của Đan Mạch o 2.3 Sự can thiệp của Thụy Điển o 2.4 Sự can thiệp của Pháp o 3 Hòa ước Westphalia  4 Hậu quả của chiến tranh  5 Hệ quả chính trị của cuộc chiến  6 Biểu đồ các nước tham chiến  7 Chú thích  8 Đọc thêm  9 Liên kết ngoài 
  5. [ ] Nguồn gốc của chiến tranh [ ] Hòa ước Ausburg Hòa ước Ausburg (1555) do hoàng đế Karl V (Đế quốc La Mã thần thánh) ký, khẳng định kết quả của Nghị quyết Speyer 1526 và kết thúc cuộc xung đột giữa những người theo đạo Luther (sau này phát triển thành đạo Tin lành) và những người Thiên chúa giáo ở Đức. Hòa ước Ausburg bao gồm những điểm chính yếu sau: Các tuyển hầu ở Đức có thể chọn tôn giáo mà họ muốn theo, (Luther hoặc  Thiên chúa giáo). Những người theo đạo Luther sống trong một giáo phận theo đạo Luther  được tiếp tục tín ngưỡng của họ. Những người theo đạo Luther được giữ những vùng đất mà họ chiếm được  của nhà thờ Thiên chúa giáo từ sau Hòa ước Passau 1552. Những linh mục đứng đầu các giáo phận Thiên chúa giáo đã cải sang đạo  Luther phải từ bỏ các lãnh địa của mình. Khu vực hành chính nào đã chính thức chọn theo Thiên chúa giáo hoặc đạo  Tin lành thì không cho phép hành lễ khác với tôn giáo đã được chọn ở khu vực đó. Mặc dù Hòa ước Ausburg phần nào làm dịu đi sự căng thẳng, nó vẫn không thể giải quyết dứt điểm mâu thuẫn về tôn giáo. Cả hai phía, Tin lành và Thiên chúa giáo, giải thích hòa ước đó theo cách có lợi cho mình, đặc biệt, những người theo đạo Luther chỉ coi đó là một thỏa ước tạm thời. Thêm vào đó, học thuyết Calvin và những người theo học thuyết này ngày càng nhiều ở nước Đức trong những năm
  6. sau đó, tạo ra một tôn giáo thứ ba trong vùng, nhưng đạo Calvin không được đề cập đến trong bất kỳ điều khoản nào của Hòa ước Ausburg, vốn chỉ cho phép người theo Thiên chúa giáo và người theo đạo Luther ở Đức. Căng thẳng về chính trị và kinh tế ngày càng gia tăng giữa các quốc gia châu Âu vào đầu thế kỷ 17, cùng lúc với thời kỳ thám hiểm và khai phá mở ra đường tới những nguồn tài nguyên của Tân thế giới và sự ra đời của những học thuyết mới như chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, những mầm mống đầu tiên của chủ nghĩa dân tộc cũng bắt đầu cắm rễ ở châu Âu. [ ] Tình hình các nước trước khi bước vào cuộc chiến Tây Ban Nha chú ý đến các thành bang ở Đức vì có vùng đất Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở phía tây biên giới các thành bang này và những vùng đất khác thuộc Tây Ban Nha nằm trên lãnh thổ Ý ngày nay phải đi qua nước Đức mới đến được. Cuộc nổi dậy của người Hà Lan chống lại sự thống trị của Tây Ban Nha diễn ra trong suốt thập niên 1560, dẫn đến một cuộc chiến tranh giành độc lập và một thỏa ước ngừng bắn giữa hai phía vào năm 1609. Nước Pháp bị kẹp giữa hai quốc gia đều do nhà Habsburg cai trị (Tây Ban Nha và Đế quốc La Mã Thần thánh) và lại đang rất muốn mở rộng quyền lực của mình trước những người láng giềng là các thành bang nhỏ yếu thuộc nước Đức. Mối bận tâm đó của nước Pháp đã lấn át hoàn toàn các xung đột về tôn giáo và dẫn đến việc nước Pháp Thiên chúa giáo đứng về phe của những người theo đạo Tin lành trong cuộc chiến. Thụy Điển và Đan Mạch muốn kiểm soát các thành bang ở phía bắc nước Đức cận kề với biển Baltic vì các lợi ích kinh tế và chính trị gắn liền với vị trí chiến lược đó.
  7. Hoàng đế Ferdinand II (Đế quốc La Mã Thần thánh) đồng thời cũng là vua xứ Bohemia. Tín ngưỡng của ông là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến chiến tranh
  8. Friedrich V của Pfalz, vua xứ Bohemia, tranh do Gerrit von Honthorst vẽ vào năm 1634, hai năm sau khi ông qua đời. Friedrich được gọi là "vị vua mùa đông" của xứ Bohemia vì ông chỉ trị vì không tới hai tháng vào năm 1620 sau khi được quân nổi loạn bầu lên. Đế quốc La Mã Thần thánh, nằm trên vùng đất ngày nay là nước Đức và một số phần đất lân cận, là một liên bang giữa các quốc gia độc lập dưới sự lãnh đạo của Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh dòng họ Habsburg và một hội đồng các tuyển hầu. Một trong số vương công đó, dòng họ Habsburg nước Áo (nước Áo khi đó bao gồm cả xứ Bohemia và Hungary), là một quyền lực lớn ở châu Âu, cai trị vào khoảng tám triệu thần dân. Đế quốc La Mã thần thánh còn bao gồm một số thực thể chính trị lớn khác, như các thành bang Bayern, Pfalz, Hessen, Sachsen, lãnh địa của bá tước xứ Brandenburg và lãnh địa của Tổng giám mục xứ Trier và Wurttemberg (có khoảng từ 50 vạn đến một triệu dân). Ngoài ra, còn rất nhiều những lãnh địa độc lập khác, các thành phố tự do, các vùng đất thuộc quyền cai quản của một tu viện hoặc một tổng giám mục và những công hầu rất nhỏ mà phần lớn quyền hành không vượt quá phạm vi một ngôi làng, ở khắp nơi trên Đế chế. Nước Áo và xứ Bayern là những lãnh địa duy nhất có được một nền chính trị ở tầm mức quốc gia; liên minh giữa các thành bang có mối quan hệ cùng dòng tộc là rất phổ biến, một phần do tập tục thời đó thường chia các lãnh địa thừa kế cho nhiều người con trai khác nhau của người chủ lãnh địa. [ ] Căng thẳng tôn giáo gia tăng Căng thẳng về tôn giáo tiếp tục gia tăng vào nửa cuối thế kỷ 16. Hòa ước Ausburg không có hiệu lực khi một số linh mục cải đạo từ chối không từ bỏ giáo phận của mình và những nhà cai trị theo Thiên chúa giáo ở Tây Ban Nha và Đông Âu tiếp tục tìm cách khôi phục lại quyền lực của Thiên chúa giáo ở vùng mà họ cai quản.
  9. Những mâu thuẫn tôn giáo được thể hiện rõ ràng qua cuộc chiến tranh Köln (nổ ra năm 1582). Cuộc chiến tranh khởi phát do vị tuyển hầu đứng đầu thành phố Köln đổi sang đạo Calvin. Là một thành viên trong hội đồng có quyền bỏ phiếu bầu ra Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh, động thái của Köln có thể dẫn đến việc những người Tin lành sẽ chiếm đa số trong cuộc bầu cử hoàng đế, vị trí từ trước tới giờ luôn do một người Thiên chúa giáo nắm giữ. Trong chiến tranh Köln, quân đội Tây Ban Nha đã trục xuất tuyển hầu thành phố đó và thay ông ta bằng Tử tước xứ Bayern, một người Thiên chúa giáo. Sau th ắng lợi đó, những người Thiên chúa giáo tiếp tục bành trướng thế lực ở các vùng Bavaria, Wurzburg và nhiều thành bang khác. Những người theo đạo Luther sống ở đó bây giờ chỉ còn hai lựa chọn: hoặc cải đạo, hoặc bị trục xuất. Một số tuyển hầu ở các lãnh địa theo đạo Luther trước đó cũng cải sang đạo Calvin, như ở các xứ Pfalz (1560), Nassau (1578), Hasse Kassel (1603) và Brandenburg (1613). Những thay đổi trong cán cân lực lượng dẫn đến việc từ đầu thế kỷ 17, vùng hạ lưu sông Rhine và phía nam sông Donau hầu hết là do các lực lượng Thiên chúa giáo nắm giữ, trong khi những người Luther duy trì quyền kiểm soát ở phía bắc, còn những người theo đạo Calvin chia sẻ các vùng đất còn lại, như vùng trung tây nước Đức, Thụy Sĩ và Hà Lan. Tuy nhiên, những thiểu số của mỗi tôn giáo đó vẫn sống trộn lẫn với nhau. Ở một số lãnh địa và thành phố tự do, số lượng người theo đạo Calvin, Luther và Thiên chúa giáo gần như là bằng nhau. Những thành viên của dòng họ Habsburg lên làm Hoàng đế La Mã Thần thánh sau hoàng đế Karl V (Ferdinand I, Maximilian II, Rudolf II và Matthias) cho phép các thần dân được tự do theo tôn giáo mà họ chọn. Các vị hoàng đế nói trên cho phép các tín ngưỡng Gia Tô giáo khác nhau được cùng tồn tại, không ép buộc các thần dân để tránh không xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo. Điều này gây ra nhiều lo ngại cho những người cai trị Tây Ban Nha, vốn là họ hàng của Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh, nhưng đồng thời là những người sùng đạo Thiên chúa đến cực đoan. Trong khi đó, Thụy Điển và Đan Mạch đều là những quốc gia chính
  10. thức theo đạo Luther và do đó, ủng hộ những người Tin lành ở Đế chế La Mã thần thành, đồng thời xem đó là một phương tiện để mở rộng ảnh hưởng về kinh tế và chính trị của họ trong vùng. [ ] Bạo lực bùng phát và nguyên nhân trực tiếp của cuộc chiến Căng thẳng về tôn giáo bùng phát thành bạo lực ở thành phố tự do Donauworth của nước Đức vào năm 1606. Đa số những người Luther ở đó đã ngăn chặn một đám diễu hành của cư dân Thiên chúa giáo thuộc thị trấn Schwaben, dẫn đến một cuộc bạo loạn. Cuộc bạo loạn được mở rộng khi Nam tước Maximilian xứ Bayern (1573-1651) quyết định can thiệp trên danh nghĩa bảo vệ quyền lợi những người Thiên chúa giáo. Sau cuộc bạo động, những người Calvin tại Đức, vốn vẫn là một thiểu số, bắt đầu cảm thấy họ là những người bị đe dọa nghiêm trọng nhất. Họ liền tập hợp lại với nhau và thành lập Liên đoàn đoàn kết Phúc âm vào năm 1608, dưới sự lãnh đạo của Friedrich IV của Pfalz (1583-1610), một tuyển hầu có quyền bỏ phiếu bầu Hoàng đế (cũng cần nói thêm là con trai của ông này, Friedrich V, đã kết hôn với Elizabeth Stuart, con gái của James I của Anh). Sự việc phức tạp hơn bởi Pfalz là một thành bang nằm trên sông Rhine mà Tây Ban Nha đang muốn đánh chiếm. Thêm vào đó, sự ra đời của Liên đoàn đoàn kết Phúc âm dẫn đến việc những người Thiên chúa giáo cũng tập hợp lại trong tổ chức riêng của họ, Liên đoàn Thiên chúa giáo, được thành lập năm 1609, dưới sự lãnh đạo của chính Nam tước Maximilian. Năm 1617, trước nguy cơ hoàng đế Matthias (Đế quốc La Mã thần thánh) và vua xứ Bohemia khi đó, có thể qua đời mà không có người thừa kế, người họ hàng gần nhất của Matthias, người mà hai năm sau đó sẽ kế vị, Ferdinand II, được chọn làm Thái tử kế vị của xứ Bohemia. Tuy nhiên, Ferdinand II trưởng thành dưới sự giáo dục của Hội đoàn Thiên chúa giáo, một tổ chức của những người sùng đạo Thiên chúa giáo cực đoan muốn áp đặt sự thống nhất về tôn giáo trên toàn cõi châu Âu. Điều này khiến xứ Bohemia, vốn có rất nhiều cư dân theo đạo Tin lành, từ chối
  11. chấp nhận Ferdinand II làm vua của họ. Cùng với việc những người đại diện của Ferdinand II bị trục xuất khỏi Praha vào năm 1618, chiến tranh 30 năm đã bùng nổ. Cuộc chiến có thể được chia làm bốn giai đoạn: Cuộc nổi loạn của những người Bohemia  Sự can thiệp của Đan Mạch  Sự can thiệp của Thụy Điển  Sự can thiệp của Pháp  [ ] Diễn biến chiến tranh [ ] Cuộc nổi loạn của người Bohemia Giai đoạn 1618-1625 [ ] Nguyên nhân trực tiếp của cuộc nổi loạn Do không có con nối dõi, Hoàng đế La Mã thần thánh Matthias đã cố gắng sắp xếp một cuộc chuyển giao quyền lực trong trật tự khi ông vẫn còn sống bằng cách để người thừa kế của ông (một người Thiên chúa giáo cực đoan, Ferdinand xứ Styria, sau này là Ferdinand II (Đế quốc La Mã thần thánh) được bầu lên ngôi vua ở hai vùng khác nhau thuộc Đế chế, Bohemia và Hungary. Một số lãnh đạo của phe Tin lành ở Bohemia lo sợ rằng nếu Ferdinand lên ngôi, quyền được theo đạo Tin lành của họ sẽ không còn được bảo vệ như trong bức thư cam kết của Hoàng đế Rudolf II (Đế quốc La Mã thần thánh), tiên vương đồng thời cũng là anh trai của Matthias. Phe Tin lành ở Bohemia muốn chọn tuyển hầu Friedrich V của Pfalz (người kế vị của Friedrich IV của Pfalz, người thành lập Liên đoàn đoàn kết Phúc âm), làm người cai trị họ hơn. Tuy nhiên, cũng có những người Tin lành khác ủng hộ việc trao vị trí vua xứ Bohemia cho người Thiên chúa giáo. Năm 1617, Ferdinand được
  12. bầu làm Thái tử xứ Bohemia và sau khi Matthias qua đời, nghiễm nhiên là tự quân của xứ Bohemia. Khi đó, Ferdinand cử hai sứ thần, đều là người Thiên chúa giáo (Wilhelm Slavata von Chlum und Koschumberg và Jaroslav Borsita von Martinitz) làm đại diện cho Hoàng đế tại lâu đài hoàng gia Hradcany ở Praha vào tháng 5 năm 1618. Ferdinand muốn hai người này thay mặt ông cai trị xứ Bohemia. Theo những tư liệu dân gian, những người Hussite Bohemia, tức những người theo đạo Tin lành, đã bất ngờ bắt giữ họ, tổ chức một phiên luận tội chóng vánh và ném họ ra khỏi cửa sổ lâu đài, từ độ cao cách mặt đất hơn 20 mét. Thế nhưng họ vẫn sóng sót lành lặn. Những truyền thuyết của người Thiên chúa giáo kể rằng các thiên thần đã xuất hiện và cứu giúp họ, trong khi truyền thuyết của người Tin lành lại khẳng định họ rơi vào một đống phân bón ruộng ở dưới sân lâu đài nên may mắn sống sót. Sự kiện này, được biết đến dưới tên gọi Vụ vứt người ra cửa sổ thứ hai ở Praha, đánh dấu khởi đầu cho cuộc nổi dậy của người Bohemia. Không lâu sau đó, xung đột giữa những người Bohemia lan ra toàn cõi Đại Bohemia, Bohemia, Silesia, Lusatia và Moravia. Còn cuộc xung đột tôn giáo thì lan khắp châu Âu lục địa, đến Pháp, Thụy Điển và nhiều nước khác. Nếu cuộc nổi loạn của người Bohemia chỉ là một xung đột địa phương thì chiến tranh đã có thể kết thúc chỉ trong không đầy 30 tháng. Tuy nhiên, cái chết của Hoàng đế Matthias đúng vào lúc tình hình căng thẳng nhất đã khuyến khích những lãnh đạo Tin lành nổi loạn. Sự yếu đuối của Ferdinand (lúc này đã là Hoàng đế La Mã Thần thánh) và chính quyền Bohemia khiến chiến tranh lan nhanh tới biên giới phía tây nước Đức và Ferdinand phải viện đến sự trợ giúp của người cháu họ, Felipe IV của Tây Ban Nha. Những người Bohemia, đang muốn thành lập một liên minh chống lại Hoàng đế, đã bày tỏ ý định gia nhập Liên đoàn Tin lành, do Friedrich V của Pfalz, một người Calvin và trước đó là một ứng viên cho ngai vàng của xứ Bohemia, đứng đầu.
  13. Những người Bohemia nổi loạn gợi ý với Friedrich rằng ông sẽ trở thành vua xứ Bohemia nếu để họ gia nhập Liên đoàn Tin lành và nhận được sự bảo vệ của ông. Tuy nhiên, cùng lúc, những người Bohemia còn đưa ra đề nghị tương tự với công tước xứ Savoie, tuyển hầu xứ Sachsen và tuyển hầu xứ Transylvania. Những người Áo, kiểm soát tất cả các con đường liên lạc từ Praha ra ngoài, đã bắt được những lá thư đó và cho công khai thái độ hai mặt của người Bohemia. Điều này khiến người Bohemia mất đi rất nhiều sự ủng hộ, đặc biệt là ở vùng Sachsen. [ ] Từ trận Sablat đến trận Stadtlohn Cuộc nổi loạn lúc đầu phát triển theo chiều hướng có lợi cho những người Bohemia. Họ có được sự ủng hộ của vùng Thượng Áo, nơi giai cấp quý tộc chủ yếu là những người Luther hoặc Calvin. Vùng Hạ Áo cũng nổi dậy không lâu sau đó và năm 1619, bá tước Thurn dẫn một đội quân tiến sát Wien. Ở phía đông, tuyển hầu Transylvania, một người theo Tin lành, dẫn đầu một chiến dịch quả cảm tấn công Hungary với sự ủng hộ của hoàng đế của Đế quốc Ottoman. Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh, vốn đang phải đối phó với cuộc chiến tranh Uzkok, phải nhanh chóng huy động quân đội hòng ngăn chặn những người Bohemia và các đồng minh của họ đang ngày càng chiếm ưu thế ở khắp nơi trên đất nước của ông. Bá tước Bucquoy, tư lệnh quân đội của Hoàng đế La Mã Thần thánh, đánh bại một lực lượng lớn của Liên đoàn Tin lành do bá tước Mansfeld chỉ huy trong trận Sablat, ngày 10 tháng 6 năm 1619. Thất bại đó của quân nổi dậy đã cắt đứt liên hệ của bá tước Thurn, đang tiến sâu vào đất Áo, với Praha và ông buộc phải chấm dứt cuộc vây hãm Wien. Thất bại ở Sablat còn khiến những người Tin lành mất một đồng minh quan trọng, xứ Savoie, một địch thủ lâu đời chống lại sự bành trướng của dòng họ Habsburg. Xứ Savoie đã hỗ trợ những người Tin lành một khoản tiền rất lớn và thậm chí đã gửi quân đồn trú đến các pháo đài ở vùng hạ lưu sông Rhine. Tuy nhiên, thất bại của Mansfeld gây lúng túng cho quân đội Savoie khi kế hoạch của họ bị phá sản và họ buộc phải rút khỏi cuộc chiến.
  14. Dù sao, bất chấp trận Sablat, đội quân của bá tước Thurn vẫn là một mối đe dọa nguy hiểm với Hoàng đế La Mã Thần thánh, còn Mansfeld gom góp tàn quân và rút về phía bắc Bohemia. Các vùng Thượng và Hạ Áo đã chính thức ký một thỏa ước liên minh với những người Bohemia vào đầu tháng 8-1619. Ngày 17-8-1619, Ferdinand chính thức không còn là vua xứ Bohemia nữa và những người Bohemia đã chọn tuyển hầu Pfalz Friedrich V thay cho ông ta. Ở Hungary, dù những người Bohemia đã rút lại đề nghị về việc trao ngôi vua cho tuyển hầu Transylvania, xứ này vẫn chiến đấu ngoan cường trong cuộc nổi dậy và họ đã đẩy toàn bộ quân đội của Hoàng đế ra khỏi đất nước vào năm 1620. Johan Tzerclaes, công tước xứ Tilly, tư lệnh quân đội của xứ Bayern và Đế quốc La Mã Thần thánh Tây Ban Nha gửi quân đội từ Brussel dưới quyền chỉ huy của Ambrosia Spinola và Nelson Antonio Fernandez III, một viên tướng quyết đoán, sang giúp Hoàng đế. Ngoài ra, đại sứ Tây Ban Nha tại Wien, Don Inigo Velez de Onate, thuyết phục xứ Sachsen theo đạo Tin lành chống lại quân nổi dậy để đổi lấy quyền kiểm soát Lusatia. Những người Sachsen đã nghe theo và quân đội Tây Ban Nha ở phía tây
  15. đã ngăn được Liên đoàn Tin lành tiếp viện cho bá tước Thurn. Onate còn sắp xếp để tước vị tuyển hầu Pfalz được chuyển lại cho công tước xứ Bayern hòng đổi lấy sự ủng hộ của xứ Bayern và Liên đoàn Thiên chúa giáo. Dưới sự chỉ huy của tướng Tilly, quân đội của Liên đoàn Thiên chúa giáo (có một sĩ quan nổi tiếng là nhà khoa học người Pháp Rene Descartes) bình định vùng Thượng Áo, trong khi quân đội của Hoàng đế tấn công Hạ Áo. Hai cánh quân gặp nhau và cùng tiến về phía bắc vào xứ Bohemia. Ferdinand II đã đánh bại Friedrich V trong trận Bila Hora, gần Praha, một trận đánh có tính chất quyết định, ngày 8 tháng 11 năm 1620. Sau thất bại đó, xứ Bohemia phải hoàn toàn theo đạo Thiên chúa và bị dòng họ Habsburg cai trị thêm gần 300 năm nữa. Thất bại còn dẫn đến việc giải tán Liên đoàn đoàn kết Phúc âm và Frederick V mất toàn bộ các lãnh địa của ông. Xứ Pfalz bị chia nhỏ cho các quý tộc Thiên chúa giáo. Tước hiệu tuyển hầu xứ Pfalz được chuyển lại cho một người họ hàng xa của Friedrich V theo đạo Thiên chúa, công tước Maximilian của Bayern. Friedrich mất hết đất đai và phải lưu vong ở nước ngoài nhưng vẫn không ngừng vận động cho lý tưởng của ông ở Hà Lan, Đan Mạch và Thụy Điển. Sau khi cuộc nổi loạn thất bại, việc tịch thu của cải và đàn áp những người Bohemia theo đạo Tin lành diễn ra khắp nơi, hòng bảo đảm rằng xứ Bohemia sẽ trở về hẳn với đạo Thiên chúa sau hơn hai thế kỷ tồn tại của những tôn giáo khác biệt. Tây Ban Nha, vì muốn làm chủ vùng chiến lược ngay cạnh mạn sườn của Hà Lan để chuẩn bị cho việc tiếp tục cuộc chiến tranh 80 năm, chiếm giữ những lãnh địa của Friedrich, vùng Pfalz lưu vực sông Rhine. Giai đoạn thứ nhất của cuộc chiến ở miền đông nước Đức kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 1621, khi hoàng thân xứ Transylvania và Hoàng đế ký Hòa ước Nikolsburg, trao cho Transylvania một số lãnh địa ở Hungary, vốn thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh. Một số sử gia xem giai đoạn 1621-1625 là một phần riêng biệt của cuộc chiến tranh 30 năm, được gọi là “giai đoạn Pfalz”. Sau thất bại toàn diện của quân đội
  16. Tin lành tại Bila Hora và cuộc tháo chạy của hoàng thân xứ Transylvania, Đại Bohemia đã được Hoàng đế bình định. Tuy nhiên, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Palatinate. Giai đoạn này của cuộc chiến bao gồm những trận đánh nhỏ và những cuộc vây hãm của quân đội Tây Ban Nha. Mannheim và Heidelberg thất thủ vào năm 1622, Frankenthal thất thủ năm 1623 và toàn xứ Pfalz rơi vào tay người Tây Ban Nha. Tàn quân Tin lành, do Mansfeld và Christian nhà Brunswick chỉ huy, rút sang Hà Lan. Dù sự có mặt của đội quân đó đã giúp giải vây cho Bergen op Zoom khỏi lực lượng Thiên chúa giáo, phía Hà Lan không thể chu cấp nổi cho một đội quân lớn như vậy nên họ chuyển sang khu vực East Friesland gần đó. Mansfeld ở lại Hà Lan, còn Christian dẫn quân rong ruổi để giúp những đội quân Tin lành khác trong Vòng cung Hạ Sachsen và lôi kéo sự chú ý của Tilly. Nhận được tin Mansfeld không thể hỗ trợ, quân đội của Christian quyết định rút hẳn vào sâu trong biên giới Hà Lan. Ngày 6-8-1623, quân đội của Tilly đuổi kịp họ khi chỉ còn cách biên giới Hà Lan 10 dặm. Trận Stadtlohn đã nổ ra. Trong trận này Tilly đánh bại hoàn toàn những người Tin lành, tiêu diệt bốn phần năm quân số vào khoảng 15 nghìn quân của đối thủ. Sau thất bại nặng nề đó, Friedrich V, đang lưu vong ở The Hague, trước sức ép ngày càng lớn từ phía nhạc phụ James I của Anh, phải chấm dứt mọi can dự tới cuộc chiến, đành ngưng các kế hoạch quân sự của ông. Cuộc nổi dậy của người Tin lành đến đây hoàn toàn thất bại.
  17. Christian IV của Đan Mạch. Tổng chỉ huy lực lượng Tin lành giai đoạn 1625-1629 [ ] Sự can thiệp của Đan Mạch Giai đoạn 1625-1629 Nền hòa bình ở Đế chế không tồn tại được lâu khi xung đột tiếp diễn với sự can thiệp của Đan Mạch. Đan Mạch bắt đầu can dự vào cuộc chiến khi Christian IV của Đan Mạch, một người Luther, đồng thời là công tước xứ Holstein, giúp đỡ những người lãnh đạo theo Tin lành ở vùng Hạ Sachsen lân cận chống lại quân đội của Hoàng đế La Mã thần thánh. Đan Mạch lo sợ rằng chủ quyền của họ sẽ bị xâm phạm khi những quốc gia Tin lành bị đe dọa bởi các chiến thắng liên tiếp của phe Thiên chúa giáo. Vua Christian IV còn hưởng lợi nhờ chính sách trước đây của ông ở miền bắc Đức. Một ví dụ điển hình là vào năm 1621, Hamburg đã buộc phải chịu sự cai trị của người Đan Mạch và con trai thứ hai của Christian được cử làm linh mục thành phố Bremen. Vua Christian IV, dựa vào việc mở rộng ảnh hưởng ở miền bắc Đức, đưa vương quốc của ông đến sự ổn định và thịnh vượng mà khi đó ở châu Âu khó có nơi nào sánh bằng. Sự giàu có của Đan Mạch là nhờ vào thuế
  18. thu được từ vùng Oresund và tiền bồi thường chiến tranh từ Thụy Điển. Những tính toán của Đan Mạch trong cuộc chiến nhận được sự trợ giúp về tài chính từ phía người Pháp và người Anh. Đích thân Christian IV trở thành tư lệnh của quân đội Tin lành trên toàn Vòng cung Hạ Saxon với lực lượng lính đánh thuê lên đến 2 vạn quân sĩ. Chỉ huy lực lượng Thiên chúa giáo Albrecht von Wallenstein Để đối phó, Hoàng đế Ferdinand II đã viện đến sự trợ giúp về quân sự của Albrecht von Wallenstein, một quý tộc người Bohemia đã trở nên giàu có nhờ tịch thu của cải của những người đồng bào mình sau chiến tranh. Wallenstein cam kết đặt đạo quân ước tính từ 3 vạn đến 10 vạn binh sĩ tinh nhuệ của ông dưới sự chỉ huy Hoàng đế của Ferdinand II để đổi lấy những lãnh địa chiếm được nhờ chiến tranh. Vua Christian IV thiếu thông tin về lực lượng đối phương và bị liên quân của Wallenstein và Tilly đẩy lui nhanh chóng. Các đồng minh của ông cũng không giúp được gì nhiều như đã hứa hẹn: nước Anh quá yếu và bị chia rẽ, nước Pháp đang mắc kẹt trong một cuộc nội chiến, Thụy Điển quá bận rộn với cuộc chiến chống lại Liên bang Ba Lan-Litva, còn các xứ Brandenburg và Sachsen không
  19. mấy mặn mà trước những thay đổi với nền hòa bình còn quá mong manh ở miền đông nước Đức. Wallenstein đánh bại Mansfeld trong trận cầu Dessau (1626) và Tilly đánh bại quân Đan Mạch trong trận Lutter (1626). Mansfeld qua đời vài tháng sau đó do bệnh tật tại Dalmatia, mệt mỏi và hoàn toàn kiệt quệ sau thất bại khiến ông mất một nửa đội quân của mình. Quân đội của Wallenstein tiến xa hơn về phía bắc, đánh chiếm Mecklenburg, Pomerania và cuối cùng là cả Jutland. Tuy nhiên, Wallenstein không thể chiếm được thủ đô của Đan Mạch trên đảo Zealand. Wallenstein thiếu một đội thủy quân đủ mạnh trong khi cả Liên minh Hanseatic và Ba Lan, những bên không tham chiến, đều từ chối không cho phép quân đội của Đế chế xây dựng các hải cảng quân sự ở bờ biển Baltic. Wallenstein bèn quay về vây hãm Stralsund, bên tham chiến duy nhất ở bờ biển Baltic có đủ cơ sở vật chất để xây dựng một đội hải quân mạnh. Tuy nhiên, chi phí để thực hiện kế hoạch đó là quá cao so với việc chiếm được phần còn lại của Đan Mạch, nên Wallenstein quyết định đi tới thỏa thuận với địch thủ. Những cuộc thương lượng kết thúc với Hiệp ước Lubeck vào năm 1629, tuyên bố rằng vua Christian IV vẫn được quyền cai trị Đan Mạch nếu ông từ bỏ sự ủng hộ với các thành bang theo đạo Tin lành ở Đức. Trong hai năm tiếp theo sau đó, ngày càng nhiều vùng đất rơi vào tay các lực lượng Thiên chúa giáo. Đến đây, Liên đoàn Thiên chúa giáo thuyết phục được Ferdinand II lấy lại những lãnh địa của người Luther mà trước Hòa ước Ausburg thuộc quyền sở hữu của các nhà thờ Thiên chúa giáo. Được liệt kê chi tiết trong một chỉ dụ đặc biệt của Hoàng đế vào năm 1629, những lãnh địa này bao gồm hai tổng giáo phận, 16 giáo phận và hàng trăm nhà thờ. Cũng trong năm đó, Gabriel Bethlen, một trong những lãnh đạo quân sự có ảnh hưởng lớn của phe Tin lành, qua đời. Chỉ còn lại một mình cảng Stralsund tiếp tục cuộc chiến chống lại Wallenstein và Hoàng đế.
  20. [ ] Sự can thiệp của Thụy Điển Gustav II Adolf trong trận Breitenfeld (1631) Mẫu phục chế một nhóm bộ binh trong chiến tranh Ba mươi năm được trưng bày tại Viện bảo tàng chiến tranh Thụy Điển ở Stockholm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2