Chính sách đối ngoại Trung Quốc
lượt xem 73
download
Hiện nay lợi ích kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc đang mở rộng ra toàn cầu trong hơn 1 thập kỉ vừa qua chứ không còn giới hạn trong phạm vi khu vực chau Á TBD kể cả ở các khu vực mà trước đây nằm ngoài sự tính toán của Bắc Kinh, đáng chú ý là Mỹ Latin và Trung Đông.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chính sách đối ngoại Trung Quốc
- Chính sách đối ngoại Trung Quốc 1
- A- LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay lợi ích kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc đang mở rộng ra toàn cầu trong hơn 1 thập kỉ vừa qua chứ không còn giới hạn trong phạm vi khu vực chau Á TBD kể cả ở các khu vực mà trước đây nằm ngoài sự tính toán của Bắc Kinh, đáng chú ý là Mỹ Latin và Trung Đông. Ngoại giao của Trung Quốc đang ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế ở hầu như tất cả các mức độ của hệ thống toàn cầu. và các chính sách của ngoại giao TQ hiện đang ảnh hưởng tới nhận thức, các mối quan hệ, các thể chế và tiến trình của quốc tế. Trung Quốc cũng đã tập trung xử lí hoặc giải quyết các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống mà cộng đồng quốc tế đang phải đối phó. Ở Châu Á, khu vực chiến lược của TQ, nước này đã trở thành nước có sức mạnh vượt trội, tham gia sâu vào tất cả các mặt kinh tế và an ninh. Trung Quốc đã trở thành một điểm tựa của sự thay đổi trong trật tự khu vực, đảm bảo một cách chắc chắn rằng vai trò then chốt của quốc gia này ở Châu Á sẽ được củng cố hơn trong tương lai. Những xu hướng đó đã làm nảy sinh những câu hỏi sau: Đâu là các mục tiêu của TQ trong vai trò là một nước lớn trong khu vực và trên thế giới? Trung Quốc thực hiện những mục tiêu đó như thế nào và nhửng ảnh hưởng lên các khu vực trên thế giới. Hành vi quốc tế của Trung Quốc sẽ dẫn đến đâu? Các lợi ich bên ngoài và chính sách đối ngoại của TQ thay đổi như thế nào khi tiềm lực kinh tế và quốc phòng của nước này được tăng cường. Và cuối cùng có phải là chính sách đối ngoại của Trung Quốc là đối trọng với lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ hay không? Ở một vài điểm, các nhà lãnh đạo TQ đã có câu trả lời với các câu hỏi quan trọng này. Những nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc nói về “hòa bình, phát triển và hợp tác” như là những nét chính của nền ngoại giao Trung Quốc, và họ cho rằng chính sách đối ngoại của Trung Quốc tìm kiếm “để thúc đẩy một môi 2
- trường quốc tế hòa bình và ổn định nhằm xây dựng một xã hội khá giả nhiều mặt.”. Gần đây các nhà lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố thực hiện chiến lược quốc tế “phát triển hòa bình” nhằm xây dựng một “thế giới hài hòa”. Những quan điểm này thường được xuất hiện trong những cuộc tranh luận công khai của chính quyền TQ về ngoại giao của nước này. Tuy nhiên, các khẩu hiệu và các chính sách này được cho là không làm các nhà quan sát bên ngoài không hài lòng, nghi kị và lo lắng. Điều đó không có nghĩa là các mục tiêu của TQ là hoàn toàn sai lầm hoặc là là sự che đậy một cách khôn ngoan các ý định thực sự của Bắc Kinh, một điệp khúc phổ biến tại Hoa Kỳ; hơn nữa, các khẩu hiệu và chính sách này không đủ để giải thích cho tính đa diện của những lợi ích và hành động của Trung Quốc. Các đặc điểm chính thức của chính sách đối ngoại của TQ đã bị làm méo mó dưới nhiều mức độ của nhận thức, các động cơ thúc đẩy và chính sách đã đã tạo nên các hành vi của TQ trên thế giới. Bằng cách đó họ không nắm bắt được tính năng động của hoạt đối ngoại của Trung Quốc và làm che lấp sự hiểu biết bên ngoài về hành vi của Trung Quốc. Do đó để trả lời cho câu hỏi về những ý định của Trung Quốc hiện nay và trong tương lai, các nhà phân tích phải sử dụng tổng hợp các biện pháp phân tích bao gồm các tuyên bố, phân tích và hành vi của TQ (và động cơ thúc đẩy của các nhân tố này) nhừm đánh giá các mục tiêu của nước này với vai trò là một nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Cuối cùng, tài liệu này đánh giá các hành vi quốc tế trong hiện tại và tương lai của TQ, bao gồm cả các quan hệ quốc tế (song phương và đa phương) và các chính sách đối ngoại nước này sử dụng để thực hiện các quan hệ quốc tế. Việc Trung Quốc nhận thức như thế nào về những lợi ích khu vực và toàn cầu của nó và những chiến lược và những chính sách nước này sử dụng để theo đuổi những lợi ích như vậy có tác dụng trực tiếp tới sự ổn định và an ninh khu vực Châu Á và toàn cầu. Hơn thế nữa, sự hiểu biết về nhận thức, những chiến lược và các công cụ của 3
- ngoại giao Trung Quốc sẽ chỉ ra định hướng trong tương lai của hành vi quốc tế của Trung Quốc. Tài liệu này chứng cho rằng để hiểu rõ hành vi quốc tế của Trung Quốc thì cẩn phải xem xét nhiều tầng lớp, mỗi tầng lớp đó lại gắn với việc xem xét các hành động hiện tại và định hướng trong tương lai của Trung Quốc. Các tầng lớp này bào gồm: (1) lăng kính lịch sử mà các nhà hoạch định chính sách của TQ nhìn nhận thế giới và vai trò của nước này trên thế giới. (2) nhận thức của Trung Quốc về môi trường an ninh quốc tế hiện tại, (3) mục tiêu chính sách đối ngoại của Trung Quốc và (4) những hoạt động chính sách đối ngoại cụ thể của Trung Quốc nhằm thực hiện các mục tiêu nước này đặt ra. Cách tiếp cận này nhằm cung cấp một khuôn khổ phân tích, một mô hình sắp xếp nhằm đánh giá các ý định trong hiện tai và tương lai của TQ và ý nghĩa với Mĩ bằng việc xem xét sự thay đổi rộng rãi và nhanh chóng của các hành vi quốc tế của TQ .Cách tiếp cận này phải là biện pháp xử lí toàn diện với tất cả các mặt của chsinh sách đối ngoại và an ninh quốc gia của TQ. Ví dụ, nghiên cứu này không xem xét việc hiện đại hóa quân đội TQ và các hoạt động quân sự của TQ ở khu vực Đông Á khi mà các chủ để này nằm trong các dự án nghiên cứu độc lập và ngoài phạm vi nghiên cứu này. Để nghiên cứu hành vi quốc tế của Trung Quốc, tài liệu này sử dụng nguồn tài liệu công khai của Trung Quốc cũng như các của nhà phân tích của phương Tây. Những nguồn nguyên bản này đã được bổ sung bằng văn bản một loạt các cuộc phỏng vấn ở Trung Quốc năm 2005, 2006, 2007 và 2008 với các quan chức, các nhà phân tích và các học giả đã tham gia nghiên cứu và hoạch định chính sách trong chính sách đối ngoại và vấn đề an ninh quốc gia của Trung Quốc. Tài liệu này bao gồm phần giới thiệu, sáu chương nội dung và một chương kết luận. Tiếp theo phần giới thiệu này, chương hai xem xét các lăng kính mà các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc và các nhà phân tích sử dụng để đánh gia vai trò của Trung Quốc trong các vấn đề toàn cầu. Những lăng kính này, phần 4
- lớn bắt nguồn từ lịch sử của Trung Quốc cũng như các ưu tiên quốc gia lâu dài của nước này đều phản ánh và thể hiện các xu hướng được thể hiện trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của TQ. Những lăng kính này được giới thiệu như là các đặc điểm truyền thống của hành vi quốc tế của TQ. Chương ba xem xét nhận thức của Trung Quốc về môi trường an ninh quốc tế hiện nay, trọng tâm cụ thể là các thách thức mà nước này phải đối mặt. sự nhận thức rõ ràng điều quan trọng về những thách thức đang ở phía trước. Chương bốn, năm và sáu nói chi tiết về mục tiêu đối ngoại hiện nay của Trung Quốc như một chủ thể quốc tế và chính sách cụ thể Bắc Kinh sử dụng khi thực hiện các chính sách này của Bắc Kinh theo đuổi chúng. Ý nghĩa và sự liên quan của hành động quốc tế của Trung Quốc được diễn Tóm tặt lại từ chương hai đến chương sáu, chương bảy điểm lại những thách thức đa chiều mà TQ phải đối mặt khi thực hiện các mục tiêu lâu dài và mục tiêu hiện nay. Kết luận của nghiên cứu này (Chương 8) tổng hợp các tranh luận trong tài liệu thành các nhận định phân tích về nội dung hiện tại và tương lai của hành vi quốc tế của TQ. Chương này đánh giá hệ quả của các nhận định này với quan hệ Mĩ – Trung với trọng tâm là các điểm tương đồng và đối lập trong lợi ích toàn cầu của Mĩ và TQ. 5
- Chương 2 TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI Trung Quốc Hành vi quốc tế của Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi ba “lăng kính” nhận thức có tính lịch sử đã định hình cách các quan điểm của các nhà hoạch định chính sách về môi trường bên ngoài Trung Quốc, về vai trò của Trung Quốc trong các vấn đề quốc tế, và thi hành các chính sách. Những lăng kính này phản ánh các xu hướng và quan điểm của Trung Quốc về hệ thống quốc tế và vị trí của Trung Quốc trong hệ thống ấy. Những lăng kính này là tất cả những quan niệm liên quan đến khái niệm vai trò quốc gia của Trung Quốc và thường không được bàn luận một cách công khai, cũng như không được xuất hiện trong các văn bản chính phủ. Hơn nữa , những ý tưởng này đã ảnh hưởng đến việc nghiên cứu, phân tích, hoạch định về quan hệ đối ngoại và chính sách đối ngoại Trung Quốc. Ba lăng kính Phục hưng quốc gia Trước hết, có một niềm tin đã ăn sâu ở Trung Quốc rằng nó đang trong quá trình đòi lại vị trí một “đại quốc” (da guo) đã mất. Các nhà hoạch định chính sách, phân tích và truyền thông Trung Quốc đã miêu tả sự nổi lên gần đây của Trung Quốc như là một sự “phục hưng” (fuxing) hay là “chấn hưng” (zhenxing) để giành lại vị trí cường quốc trên thế giới. Họ thường đề cập đến ảnh hưởng toàn cầu thực sự của Trung Quốc trong các triều đại Hán, Tần, và cuối nhà Minh đầu nhà Thanh – mặc dù Trung Quốc chỉ có những mối liên hệ rất hạn chế với Hy Lạp cổ, đế chế La Mã, Byzantium hoặc Ấn Độ trong những giai đoạn này. Tờ Global Times bình luận “Trung Quốc đang trên đường trở thành một “đại quốc xu cường” (da er qu qiang). Đối với nhiều người Trung Quốc, sự nổi lên gần đây thực ra là lần thứ tư trong lịch sử. Họ chỉ ra rằng 6
- trong các triều đại trước, Trung Quốc đã là một xã hội phát triển rất cao, tinh tế về văn hóa và phát triển về kỹ thuật, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế toàn cầu và, với vị trí này, đã từng được thế giới kính trọng và tôn sùng. Về các thời kỳ trước đó, các nhà phân tích và hoạch định chính sách Trung Hoa khẳng định rằng Trung Quốc chưa bao giờ là chưa bao giờ là một kẻ thống trị chuyên quyền dựa trên áp bức và bạo lực (khái niệm ‘bá đạo’ badao) mà là một nước lớn ôn hòa (khái niệm ‘vương đạo’ wangdao), đã thu hút được các quốc gia khác bởi lòng tốt hợp đạo lý, sự giàu có về văn hóa, kinh tế và sự phát triển về kỹ thuật. Đối với nhiều người Trung Quốc, Trung Quốc gần đây đang quay trở lại với vai trò một nước lớn ôn hòa như trong quá khứ, điều đó giúp Trung Quốc sửa chữa những sai lầm trong lịch sử làm nước này suy tàn trong 150 năm qua kể từ cuộc Chiến tranh nha phiến vào những năm 1840. Hơn nữa, khái niệm “ cường quốc” hiện nay của Trung Quốc là rất chung chung và không được các học giả và các nhà hoạch định chính sách định nghĩa rõ ràng. Khái niệm của Trung Quốc dường như kết hợp xung quanh quan điểm (trong đó, có cả quan điểm của người Trung Quốc): được can dự đến bất cứ quyết định quốc tế quan trọng nào ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc (như Trung Quốc định nghĩa). Việc các nước lớn khác phải làm theo Trung Quốc là một đặc điểm nhất quán trong những cuộc thảo luận của Trung Quốc về vai trò nước lớn trong hệ thống quốc tế. Những bài bình luận về Trung Quốc cho đến nay đã thảo luận rất ít về việc Trung Quốc sẽ làm gì với địa vị cường quốc ngoài việc ngăn chặn sự áp lực của các nước khác và mở rộng sức mạnh quốc gia toàn diện của nó. Quan điểm của người Trung Quốc cho rằng những hành vi trong quá khứ của họ là của một cường quốc ôn hòa không chỉ là cách nói tự tôn dân tộc (cho dù là 1 phần của quan điểm đó) mà là về quan điểm phổ biến của TQ về quyền và vai trò toàn cầu mà họ được kế thừa. Nhận thức này có thể được tìm thấy trong những lập luận của Trung Quốc khi họ cho rằng Trung Quốc hiện nay nên được xem 7
- như một cường quốc bởi dân số đông, lịch sử lâu đời, truyền thống văn hóa giàu có, nền kinh tế lớn đã hội nhập vào kinh tế thế giới, là thành viên thường trực hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc và sở hữu vũ khí hạt nhân. Quan trọng hơn, hình ảnh vĩ đại của TQ trong quá khứ đã hình thành quan điểm về sự trỗi dậy của TQ trong các hoạt động quốc tế và cách nhìn của thế giới về TQ. Học giả Yan Xuetong đại học Thanh Hoa phát biểu: Sự trỗi dậy của Trung Quốc được cho là tự nhiên…(người Trung Quốc) tin rằng sự đi xuống của Trung Quốc là một sai lầm mang tính chất lịch sử mà nên được sửa chữa...người Trung Quốc xem sự nổi lên của họ như việc giành lại vị thế quốc tế đã mất hơn là đạt được một điều gì đó mới... Họ coi sự nổi lên của Trung Quốc như việc khôi phục lại sự công bằng hơn là giành được ưu thế so với các quốc gia khác. Tâm lí nạn nhân Quan điểm thứ hai và có liên quan được thể hiện trong những bài viết của người Trung Quốc là Trung Quốc là nạn nhân của “100 năm của sự xấu hổ và bẽ mặt” (bainian guochi) trong tay của các nước phương Tây và các nước khác, đặc biệt là Nhật Bản. Bắt đầu với cuộc chiến tranh nha phiến, Trung Quốc bị xâm lược, chia rẽ, làm yếu đi bởi các nước bên ngoài đến tận khi Mao Trạch Đông thống nhất Trung Quốc và thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa năm 1949. Di sản này đã để lại một ấn tượng sâu sắc đến sự nhận thức và bản sắc quốc gia của rất nhiều người Trung Quốc. Đảng Cộng sản đã đẩy mạnh tuyên truyền câu chuyện này kể từ lúc mới bắt đầu để họ có thê danh chính ngôn thuận lên cầm quyền. Đảng cộng sản Trung Quốc khẳng định rằng họ sẽ bảo vệ Trung Quốc khỏi tây hóa và phong hóa hoặc là bị chia rẽ và bị Phương tây hóa. Việc đã trở thành nạn nhân trong quá khứ đã khiến các nguy cơ xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ trở nên nhạy cảm, đồng thời khiến TQ nhấn mạnh những nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ 8
- của nhau trong ngoại giao của nước này. Những quan điểm này củng cố thêm cách nhìn nhận về quyền lực đã được nói đến bên trên. Hơn nữa, tâm lí nạn nhân khiến cho những nỗ lực của nước này nhằm khẳng định lại vị thế đã mất là hai mặt của cùng một đồng xu, tạo ra những nỗ lực của Trung Quốc để dành lại “vai trò xứng đáng” của họ trong quan hệ quốc tế hiện đại. Tâm lí nạn nhân đã này hiện đang thay đổi trong thời gian gần đây. Những quan chức và học giả Trung Quốc đã thảo luận về việc hình thành quan điểm “tâm lí cường quốc”, nhấn mạnh tới những thành tựu đáng kể trong việc phát triển kinh tế và sự nổi lên của Trung Quốc trong các vấn đề thế giới. Cho đến nay, quan điểm về vấn đề “nạn nhân” này vẫn tồn tại một cách dai dẳng và phổ biến trong những người theo chủ nghĩa dân tộc; và rõ ràng đã trở thành một động lực thúc đẩy hình thành dư luận quần chúng và ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ trong các cuộc khủng hoảng ngoại giao với Mĩ và Nhật. An ninh phòng thủ là khái niệm thứ ba gây ảnh hưởng tới tư duy của Trung Quốc trong các vấn đề đối ngoại. Quan điểm này bắt nguồn từ những nỗi sợ hãi của Trung Quốc đã xuất hiện từ trong lịch sử rằng các cường quốc bên ngoài đang cố gắng kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy, có thể gây áp lực lên nước này (trong khủng hoảng) hay lợi dụng sự yếu kém bên trong của Trung Quốc. Những nỗi sợ hãi này được đề cập đến trong lịch sử chính thức của Đảng Cộng Sản. Họ đã gợi lại các cuộc xâm lược sau Chiến tranh nha phiến, những nỗ lực của Mỹ và Liên Xô nhằm ngăn cản việc Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân và tái thống nhất Đài Loan. Những vấn đề lịch sử này được dùng để củng cố tính hợp pháp của ĐCS như là vị cứu thế của một TQ yếu kém và bị chia cắt, đồng thời gây nên hiệu ứng lo ngại về các ý đồ của các nước lớn có thể làm TQ mất an ninh một cách sâu sắc. Tình trạng mất an ninh trên được phản ánh bằng nhiều cách khác nhau trong chính sách chính thức của Trung Quốc và là yếu tố quan trọng để hiểu được các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức thế nào về ý đồ của họ. Những nhà 9
- lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố công khai rằng: “Trung Quốc sẽ không bao giờ trở thành bá quyền và không bao giờ tấn công để bành trướng”. Truyền thống văn hóa của Trung Quốc là “ủng hộ hòa bình”, “tập trung phòng thủ”, “tạo ra sự đoàn kết”. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không đe dọa quốc gia nào khác, thậm chí họ phải đối mặt với những nguy cơ an ninh từ cả những nước trong khu vực và các cường quốc có lợi ích trong khu vực, tất cả các nước này đều đã từng phá hoại Trung Quốc trong quá khứ. Trung Quốc nói rằng họ không theo đuổi việc chiếm giữ, xâm lấn và chinh phục những vùng lãnh thổ của các quốc gia khác. Họ thường xuyên nói rằng những lần sử dụng vũ lực trong quá khứ và những cuộc tranh chấp lãnh thổ đều được giới hạn, có mục đích trừng phạt và là kết quả của sự khiêu khích từ bên ngoài. Các quan điểm trên đã trở nên phổ biến trong lịch sử của Đảng Cộng sản về vấn đề can thiệp quân sự ( trong các cuộc chiến tranh Việt Nam, Triều Tiên, Ấn Độ), khi cho rằng TQ đã thực hiện chiến lược quân sự tự vệ khi bị khiêu khích bởi các đối tượng thù địch bên ngoài. (Nhiều nhà lịch sử phương Tây còn đang tranh luận về vấn đề này). Quan điểm an ninh phòng thủ của Trung Quốc biểu hiện trong các chính sách đặt ưu tiên cao trong việc tối đa hóa an ninh xung quanh khu vực ngoại vi của Trung Quốc đặc biệt khi liên quan tới phòng thủ biên giới và toàn vẹn lãnh thổ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lo sợ về việc các cường quốc bên ngoài sử dụng vũ lực và các phương tiện cưỡng bức khác (ví dụ như : lệnh cấm vận, lệnh trừng phạt) nhằm ép Trung Quốc đưa ra các quyết định không mong muốn, đặc biệt trong một cuộc khủng hoảng quân sự. Những bài viết của Trung Quốc về học thuyết vũ khí hạt nhân nhấn mạnh chỉ cần sở hữu đủ số vũ khí hạt nhân để tránh bị đe dọa bởi kẻ thù có trang bị vũ khí nguyên tử chứ không cần sở hữu một lượng lớn và đa dạng vũ khí nguyên tử phục vụ cho các mục đích quân sự như chiến tranh hạt nhân. Một bước phát triển quan trọng trong tư duy của người Trung Quốc là việc nước này bắt đầu coi trọng vấn đề tình thế “lưỡng nan về an ninh” trong các vấn đề 10
- đối ngoại. Các quan chức và học giả Trung Quốc từ giữa những năm 1990 bắt đầu nhận thấy một số hành động nhất định của Trung Quốc (được thực hiện để bảo vệ lợi ích an ninh của Trung Quốc) bị cho rằng đang đe dọa đến các nước xung quanh Trung Quốc; họ đã bắt đầu hiểu rằng hành động “tự vệ” của mình đã làm tăng những phản ứng từ các nước khác và làm tăng sự mất ổn định và cạnh tranh an ninh ở Đông Á. Nhận thức này của Trung Quốc đã nhấn mạnh vấn đề tái bảo đảm là một đặc điểm của ngoại giao Trung Quốc, một đề tài sẽ được chi tiết hơn dưới đây. Các ưu tiên ngoại giao dài hạn Ba lăng kính lịch sử của Trung Quốc được phản ánh rõ hơn bằng ba ưu tiên ngoại giao lâu dài: chủ quyền và thống nhất lãnh thổ, phát triển kinh tế, vị thế quốc tê và sự tôn trọng của quốc tế. Trong khi những lăng kính lịch sử tương đối trừu tượng, những ưu tiên này cụ thể hơn và thúc đẩy một cách rõ ràng chính sách đối ngoại và an ninh của Trung Quốc từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949. Những lăng kính này không chỉ là hiện tượng hậu 1978. Biểu hiện chính sách cụ thể của ba ưu tiên này và trọng tâm tương ứng của giới lãnh đạo đã thay đổi rất nhiều trong hơn 25 năm qua- và sẽ còn tiếp tục làm thay đổi. Trong khi chính sách đối ngoại của Mao nhấn mạnh vào chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và vị thế (giữa các ý kiến cải cách khác), trong thời kỳ cải cách, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã rõ ràng và kiên định đặt ưu tiên phát triển kinh tế quốc gia trong các quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Chủ quyền và thống nhất lãnh thổ Bảo vệ chủ quyền và thống nhất lãnh thổ là lợi ích quốc gia then chốt của Trung Quốc và được thể hiện trong các chính sách đối ngoại như theo đuổi sự an toàn ở biên giới Trung Quốc, thúc đẩy sự thống nhất Đài Loan, hạn chế những mối đe dọa của nước ngoài với lãnh thổ Trung Quốc (bao gồm cả các yêu sách lãnh thổ trên biển), và giảm đến mức thấp nhất sự can thiệp từ bên ngoài vào sự phát triển 11
- và chính trị Trung Quốc[13]. Trung Quốc chia sẻ biên giới trên bộ với 14 quốc gia và đường bờ biển của nước này dài khoảng 14,500km. Trung Quốc thường xuyên tranh chấp lãnh thổ trên bộ và trên biển với các quốc gia láng giềng trong sáu thập kỷ qua. Tranh luận về tranh chấp biên giới và ngăn chặn sự xâm lấn của nước ngoài vào Trung Quốc là mối quan ngại chính của ngoại giao Trung Quốc. Những nỗ lực thành công của Trung Quốc những năm 1980 trong việc đàm phán lấy lại Hong Kong và Macao thường xuyên được ca ngợi là những thành công lớn về phương pháp tiếp cận chính sách đối ngoại của Chủ tịch Giang Trạch Dân. Tất nhiên, thống nhất hai bờ Đài Loan là một yếu tố lâu dài trong nỗ lực của TQ nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Gần đây, Trung Quốc nhận thức rằng nước này đang phải đối mặt với nhiều mối đe dọa bên trong đối với sự thống nhất lãnh thổ của từ “những nhóm ly khai”, như Hồi giáo Uighurs ở tỉnh Tân Cương, và Đạt La Lạt Ma. Việc chính sách đối ngoại Trung Quốc gần đây tập trung vào vấn đề chống khủng bố là biểu hiện của mong muốn ngăn cản các nhóm này liên kết với Al Qaeda hay các nhóm khủng bố nguy hiểm khác. Có rất ít tranh luận về vị trí ưu tiên hàng đầu của vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Phát triển kinh tế Việc phát triển kinh tế được coi là ưu tiên chính trong chính sách đối ngoại là một hiện tượng của thời kỳ cải cách. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến những nỗ lực của Trung Quốc trong 30 năm để đảm bảo môi trường ổn định bên ngoài để cải thiện mức sống của người dân và xây dựng " sức mạnh toàn diện của quốc gia" giúp đạt được sự hồi sinh thần kỳ. Lời phát biểu của Đặng Tiểu Bình năm 1992 " chỉ có phát triển mới là điều thuận theo đạo lý " (fazhan caishi ying daoli 发展才是硬道理) vẫn tiếp tục ảnh hưởng chính đến chính sách đối ngoại Trung Quốc. Thủ tướng Ôn Gia Bảo phát biểu "Lời cuối cùng là về vấn đề phát triển, đó không chỉ là cơ sở để giải quyết tất cả các vấn đề nội bộ mà còn là cơ 12
- sở để tăng cường sức mạnh ngoại giao của chúng ta và là cơ sở để cạnh tranh quyền lực giữa các quốc gia ". Wang Yizhou, một học giả nổi tiếng của Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, làm cụ thể logic của sự phát triển chính sách đối ngoại: Các mối đe dọa chính đến an ninh quốc gia Trung Quốc không phải là bị lực lượng bên ngoài xâm lược hay tiến hành một cuộc chiến tranh , mà là việc liệu rằng Trung Quốc có thể duy trì sự ổn định, trật tự, và phát triển lành mạnh hay không?... Phát triển về chính trị văn hóa xã hội và giá trị là tất cả các thành tố trong quan niệm về phát triển. Với điều kiện tiên quyết tập trung vào phát triển kinh tế, thông qua tất cả các khía cạnh của sự phát triển nêu trên, Trung Quốc có thể nâng cao vị thế và gia tăng một cách mạnh mẽ ảnh hưởng trên trường quốc tế trong thế kỷ mới, và có thể thực thi chính sách ngoại giao của mình trên cơ sở vị thế nước lớn. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển của Trung Quốc phải tính đến cả các yếu tố trong nước và ngoài nước. Trong suốt hơn 2 thập kỷ đầu của công cuộc cải cách và phát triển (tính đến khoảng 2002), chính sách của Trung Quốc đã chủ yếu tập trung vào thực hiện ấm no( wenbao (温饱), hay mức độ phát triển kinh tế để cho nhân dân Trung Hoa đủ cơm ăn áo mặc. Chủ tịch Giang Trạch Dân, trong Đại hội Đảng lần thứ 16 vào tháng 11 năm 2002, tuyên bố rằng Trung Quốc đã đạt được mục tiêu trên và đặt ra mục tiêu phát triển mới bằng cách kêu gọi "xây dựng một xã hội khá giả toàn diện" trong hai thập kỉ tới (quanmian Jianshe xiaokang shehui全面建设小康社会) . Mặc dù ý nghĩa cụ thể của khẩu hiệu này còn gây tranh cãi, nhưng hiểu theo cách chung nhất thì nó có nghĩa là Trung Quốc muốn trở thành cường quốc hạng trung ổn định và thịnh vượng với một tầng lớp trung lưu khá lớn vào trước năm 2020. 13
- Sự phát triển không ngừng của kinh tế Trung Quốc cũng là yếu tố quan trọng để duy trì khả năng tiếp tục lãnh đạo của Đảng. Khi những nền tảng, lí luận của Đảng đã không còn phù hợp nữa thì đã được thay thế bằng logic kinh tế với yêu cầu những nhà lãnh đạo của Trung Quốc cần phải tạo ra những cơ hội để phát triển kinh tế lớn hơn nữa cho người dân. Vị thế quốc tế Đã từ lâu những nhà hoạch định và học giả của Trung Quốc xem Trung Quốc là một trung tâm quyền lực đáng được tôn trọng trong hành xử quốc tế. Kể từ khi thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã liên hệ vị thế của TQ với các yếu tố như là ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, ưu thế sỡ hữu vũ khí hạt nhân , với một dân số đông, đất đai rộng và vị thế là một cường quốc trong lịch sử ở châu Á. Nhận thức của Trung Quốc về vị thế quốc tế của mình thay đổi từ sau thời kì Mao nắm quyền và bắt đầu công cuộc cải cách, đặc biệt là kể từ sự sụp đổ của Liên Xô và sự kiện Thiên An Môn. Nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn thổi phồng các yếu tố này để giữ TQ có vai trò nước lớn. Mặc dù chưa rõ rằng các nhà lãnh đạo xác định vị thế của họ như thế nào trải qua các thời kì như vậy nhưng việc tối đa hóa vị thế luôn là mục tiêu hàng đầu trong các quyết định về mặt chính sách đối ngoại của TQ. Bên cạnh đó, việc Trung Quốc nhấn mạnh vị thế của mình gắn liền với sự nhạy cảm của nước này về cả hình ảnh và vai trò của nước này trong chính trị quốc tế, vốn là những khái niệm dễ nhận thấy với Trung Quốc. Trung Quốc quan tâm đến hình ảnh của mình vì nước này muốn được thừa nhận là một thành viên của cộng đồng quốc tế và không muốn bị đứng ngoài hay nói cách khác là bị cô lập, đặc biệt là trong các thể chế quốc tế. Trung Quốc chú trọng đến danh tiếng của mình vì những lợi ích mà họ cho rằng có thể có được như thương mại, viện trợ, công nghệ và đầu tư khi trở thành thành viên tích cực của các tổ chức 14
- quốc tế. Việc TQ tăng cường các biện pháp ngoại giao sau sự cố Thiên An Môn năm 1989 để xây dựng lại hình ảnh và thanh danh của mình là 1 ví dụ của giá trị của các yếu tố này với CSĐN của Trung Quốc, cả ở mặt hình thức và nội dung. Biểu hiện nhiều hơn gần đây của ưu tiên dài hạn đó là bắt đầu từ thập kỉ 90 của chính phủ TQ nỗ lực thiết lập vị thế của Trung Quốc với tư cách là 1 “cường quốc đầy trách nhiệm”. Việc TQ nhấn mạnh vào yếu tố vị thế, một thuộc tính phi vật chất của các nhà nước đã đưa TQ đến vị trí tương ứng của một cường quốc trong hệ thống chính trị thế giới và tạo nên những ý kiến về sức mạnh của họ. Đó là bởi vì nhiều nhà chiến lược Trung Quốc nhận thấy vị thế là yếu tố “sống còn” đối với vị trí của Trung Quốc giữa các trung tâm quyền lực và đảm bảo cho sự tích tụ cả quyền lực lẫn ảnh hưởng của Trung Quốc. Các nhà hoạch định chính sách và học giả Trung Quốc tranh luận rằng những nỗ lực cải thiện vị thế quốc tế là quan trọng bởi vì những quốc gia khác đã thể hiện sự quan tâm với sự ảnh hưởng đang lên của Trung Quốc trong chính trị toàn cầu. Nói cách khác, nâng cao hình ảnh và danh tiếng (và những chính sách thực hiện) sẽ giúp Trung Quốc cải thiện mối lo ngại về “mối đe dọa Trung Quốc” và như vậy, sẽ giúp tránh được những khó khăn để trở thành một thành viên mạnh, thịnh vượng và có ảnh hưởng trong cộng đồng quốc tế. Việc Trung Quốc phấn đấu nhằm đạt được uy tín và vị thế quốc tế thể hiện trong nhiều chính sách và hành động phản ánh sự ủng hộ của Trung Quốc với luật lệ, quy tắc và thể chế quốc tế. Các nhà hoạch định chính sách và học giả Trung Quốc thường xuyên nói về việc Trung Quốc đang đóng góp vai trò tích cực và có tính chất xây dựng hơn trong các tổ chức quốc tế- như Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc, tổ chức Thương Mại Thế Giới và nhiều tổ chức an ninh khu vực khác-đã chứng minh rằng Trung Quốc là một động lực vì sự ổn định và phát triển kinh tế. Các nhà phân tích Trung Quốc thường xuyên kêu gọi thực hiện mục tiêu 15
- hành động như là một cường quốc có trách nhiệm để giải thích cho các hoạt động của Trung Quốc đối với các thể chế đa phương và các vấn đề an ninh phi truyền thống. Những hoạt động trên, theo đại sứ Trung Quốc Wang Yi là để nâng cao vị thế quốc tế của Trung Quốc và có nhiệm vụ như là “hòn đá tảng cho nỗ lực của Trung Quốc để gia nhập vào hàng ngũ của những cường quốc hàng đầu trên thế giới”. Chương 3: Nhận thức hiện nay về môi trường an ninh quốc tế Cách TQ đánh giá môi trường an ninh bên ngoài của họ là nền tảng kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách của TQ khi họ hoạch định chính sách đối ngoại. Các cách đánh giá này đóng một vai trò không thể thiếu trong các tranh luận về các mục tiêu và chính sách mà nước này nên theo đuổi và khi các nhận thức này thay đổi thì hành vi của TQ cũng thay đổi. Các nhà hoạch định chính sách của TQ và các nhà phân tích đã nhấn mạnh nhiều khía cạnh của môi trường an ninh hienj nay. Sáu nhận thức nổi bật trong số đó được nghiên cứu trong chương này. Nhưng trước tiên phải nói đến hai niềm tin đã bao phủ lên quan điểm của TQ về môi trường an ninh hiện nay. Thứ nhất là niềm tin rất lớn rằng tương lai của TQ ngày càng được gắn với cộng đồng quốc tế. Các nhà lãnh đạo TQ hiểu rằng mô hình phát triển hiện nay của TQ kết hợp với sự gia tăng nhanh chóng của quá trình 16
- toàn cầu hóa sẽ đưa TQ ngày càng hội nhập sâu hơn vào cộng đồng quốc tế. Việc TQ thành công trong việc chấn hưng quốc gia phụ thuộc vào sự gần gũi và các mối quan hệ với các cường quốc trên thế giới và khu vực, các thị trường và thể thế quốc tế. Sách trắng quốc phòng của TQ năm 2008 đã viết “ Tương lai và số phận của TQ ngày càng phụ thuộc chặt chẽ hơn với cộng đồng quốc tế. TQ không thể phát triển khi bị cô lập với phần còn lại của thế giới cũng như thế giới không thể có thịnh vượng và ổn định khi không có sự góp mặt của TQ”. Thậm chí trong khi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra từ mùa thu năm 2008 và ảnh hưởng là sự giảm sút chóng mặt của tốc độ phát triển kinh tế, chủ tịch Hồ Cẩm Đào vẫn trấn an Hội nghị kinh tế trung ương vào tháng 12 năm 2008 rằng định hướng hội nhập kinh tế toàn cầu của TQ là hoàn toàn đúng đắn là nên được tiếp tục. Niềm tin thứ hai liên quan đến những nghi ngại phổ biến trong các nhà hoạch định chính sách của TQ về phạm vi của các mối đe dọa với TQ. Với một vài người thì TQ đã ở trong trạng thái an toàn nhất trong 200 năm qua và ảnh hưởng cũng như vị thế quốc tế của nước này đều đang tăng lên. Với một số khác thì các mối đe dọa an ninh mà TQ phải đối mặt rất da dạng và đang tăng lên, điều đó thách thức khả năng của TQ trở lại vị thế của một siêu cường. Sự đối lập giữa hai quan điểm trên được phản ánh vào các đánh giá an ninh chính thức của TQ như sách trắng quốc phòng. Nhưng những tranh luận như vậy ít khi được phản ánh vào chính sách của TQ. Việc các nhà lãnh đạo nhấn mạnh vào yếu tố đồng thuận khi quyết định các chính sách và thúc đẩy sự thống nhất trong nhận thức trong Đảng đã hạn chế ảnh hưởng của các tranh luận như vậy với việc xây dựng các chính sách trên thực tế. Cuối cùng, việc tương đối cân bằng giữa các mối đe dọa bên ngoài và cơ hội trong các đánh giá của TQ (cả công khai và nội bộ) sẽ là chỉ báo quan trọng cho nhận thức trong tương lai của TQ. Quan điểm hiện nay của chính quyền TQ là TQ đang có môi trường an ninh bên ngoài thuận lợi cho việc tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Theo như chi tiết 17
- dưới đây thì các nhà lãnh đạo TQ tin tưởng rằng môi trường hiện nay, vì nhiều lí do, đang tạo ra cơ hội chiến lược mà có thể sẽ kết thúc sau 20 năm nữa và có thể giúp TQ tiếp tục tăng cường tiềm lực quốc gia và xây dựng xã hội khá giả hài hòa. Các nhà hoạch định chính sách của TQ tìm kiếm việc mở rộng tối đa cơ hội này và nếu có thể thì kéo dài tối đa đến mức có thể. Xung đột giữa các cường quốc. Đặc điểm quan trọng của đánh giá môi trường an ninh bên ngoài của TQ là sự tin tưởng vào khả năng chiến tranh giữa các cường quốc, điều sẽ khiến TQ không tập trung vào phát triển đất nước là ít xảy ra. Sách trắng quốc phòng TQ năm 2008 đã viết “những yếu tố góp phần gìn giữ hòa bình và ngăn chặn chiến tranh đã tăng lên….vì vậy hạn chế nguy cơ các cuộc chiến tranh có quy mô toàn cầu, tổng lực và tương đối kéo dài”. Điều đó không có nghĩa là các nhà chiến lược của TQ tin tưởng rằng những xung đột giữa TQ và Mĩ xung quanh vấn đề Đài Loan là không thể xảy ra. (thậm chí, quân đội TQ đặc biệt quan tâm chuẩn bị cho chiến tranh với Đài Loan), hơn nữa, điều đó có nghĩa là phạm vi của quan hệ giữa các cường quốc đã thay đổi từ Chiến tranh lạnh, giảm bớt khả năng xảy ra xung đột vũ trang giữa các cường quốc. Kết luận quan trọng này ban đầu được Đặng Tiểu Bình đề ra vào giữa những năm 80 và trực tiếp đối lập lại cách đánh giá của Mao về “đánh sớm, đánh lớn, chiến tranh hạt nhân”. Kết luận của Đặng đã thay đổi quan điểm bi quan của Mao và tạo nên cơ sở lí thuyết cho chính sách đối ngoại quốc tế hóa và hỗ trợ cho phát triển kinh tế mà ông ta theo đuổi. Kết luận ban đầu của Đặng sau đó đã giúp các nhà lãnh đạo kế nhiệm đưa ra khẩu hiệu “hòa bình và phát triển là xu thể của thời đại”. Kết luận mấu chốt này được Đặng liên tiếp nhắc lại trong các năm 80 và 90 đã tạo ra cơ sở cho chính sách đối ngoại thời kì mở cửa của TQ và khẩu hiệu này vẫn tiếp tục tồn tại trong chính sách đối ngoại của TQ. Tiếp theo sự đi xuống của quan hệ Trung Mĩ vào cuối thập kỉ 90 (đặc biệt là sau sự kiện đánh bom Đại sứ quán Mĩ ở Belgrade và các sự kiện khác), đã có 18
- những tranh luận lớn và quan trọng trong nội bộ TQ về vấn đề “hòa bình và phát triển” liệu có phải là đặc điểm chính xác của môi trường an ninh bên ngoài của TQ. Sau nhiều cuộc thảo luận nội bộ, các nhà lãnh đạo TQ kết luận rằng dự báo then chốt này vẫn không thay đổi. Kết quả của dự báo chiến lược này là vào năm 2002, chủ tịch Giang Trạch Dân đã tuyên bố ở Đại hội Đảng CS TQ lần thứ 16 rằng 20 năm tói là thời kì của cơ hội chiến lược cho sự phát triển và tăng trưởng của TQ. Đặc điểm mà Giang Trạch Dân đưa ra và sau đó được Hồ Cẩm Đào tái khẳng định tiếp tục là kết luận lí thuyết then chốt chứng minh cho việc tiếp tục chính sách đối ngoại của thời kì mở cửa là tập trung vào giữ ổn định, phát triển kinh tế và ở phạm vi rộng hơn là tăng cường sức mạnh toàn diện. Đại sứ đã nghỉ hưu Thẩm Quốc Phương đã phát biểu vào tháng 6 năm 2007 rằng: 20 năm đầu của thế kỉ này là cơ hội chiến lược sống còn mà TQ phải giành lấy và sử dụng vào mục đích tốt. Hai tập kỉ vừa qua đã xuất hiện những yếu tố chiến lược để xây dựng một xã hội khá giả toàn diện. TQ đã xây dựng chính sách đối ngoại, chiến lược chung và các hoạt động đối ngoại xung quanh mục tiêu này. Mục đích của các hoạt động ngoại gia cũng để đạt được mục tiêu này. Đánh giá cho rằng khả năng xảy ra chiến tranh giữa các cường quốc là thấp được cân bằng bởi lo ngại của TQ về những mối đe dọa đa chiều và đang gia tăng với TQ, châu Á và thế giới. Sách trắng quốc phòng 2008 đã đưa ra cách đánh giá toàn diện của TQ về các vấn đề: hòa bình và sự phát triển của thế giới đang phải đối mặt với một loạt các khó khăn và thách thức khác nhau. Cuộc đua giành giật những nguồn lợi chiến lược, các vị trí chiến lược và sự thống trị chiến lược đã tăng lên. Trong khi đó, chủ nghĩa bá quyền và chính trị dựa trên quyền lực vẫn tồn tại, những bất ổn khu vực tiếp tục chưa có hướng giải quyết, các điểm nóng tiếp tục gia tăng và các xung đột và chiến tranh cục bộ vẫn xuất hiện. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế có nguyên nhân từ khủng hoảng cho vay dưới chuẩn ở Mĩ đang gia tăng một cách nhanh chóng. Về mặt phát triển kinh tế thế giới, các vấn đề như 19
- năng lượng và thực phẩm đang trở nên nghiêm trọng hơn, tạo nên những sự đối lập sâu sắc. Các nguy cơ kinh tế được biểu lộ trong một thế giới liên kết lẫn nhau, có tính hệ thống và mang tính toàn cầu. Các vấn đề như khủng bố, thảm họa môi trường, biến đổi khí hâu, các bệnh dịch nghiêm trọng, tội phạm xuyên quốc gia và cướp biển đã trở nên phổ biến. Các nhà chiến lược của TQ gợi lại các căng thẳng trong quá khứ giữa Mĩ và EU, Mĩ và Nga trong thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 21 để cho rằng các mâu thuẫn và đối lập giữa các cường quốc đã tăng lên và những mâu thuẫn này là nguồn gốc của sự bất ổn toàn cầu. Nhiều nhà phân tích TQ đã gắn vấn đề này với chính sách đơn phương của Mĩ. Các sách trắng quốc phòng của Mĩ, bao gồm cả bản năm 2008 tiếp tục xem “ chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền” là nhân tố làm bất ổn tình hình an ninh quốc tế. Đoạn này rất phổ biến khi TQ đề cập đến chính sách đối ngoại và các hoạt động trên thực tế của Mĩ. Tiền Kì Tham, nguyên phó thủ tướng và là người phụ trách CSĐN của TQ lâu năm đã tóm tắt quan điểm của giới lãnh đạo ĐCSTQ về hiện trạng của quan hệ giữa các nước lớn trong một bài phát biểu cá nhân thẳng thắn duy nhất Mĩ muốn thực hiện chủ nghĩa đơn phương nhưng không thể thống trị thế giới…Quan hệ giữa các cường quốc tiếp tục được đánh dấu bằng hợp tác và cạnh tranh, trao đổi song phương và kiềm chế song phương cũng như cạnh tranh và thỏa hiệp trong một thời gian dài nữa. Đặc biệt, xu hướng hợp tác sẽ lấn át xu hướng mâu thuẫn. Các cường quốc sẽ tiếp tục duy trì quan hệ song phương ổn định Lo ngại nổi bật khác của TQ được nêu bật trong 3 sách trắng quốc phòng gần đây là sự đe dọa đến sự ổn địn của khu vực và thế giới của sự gia tăng quân sự hóa trong chính trị thế giới. Sách trắng quốc phòng năm 2008 đã đưa ra đánh giá thẳng thắn nhât trong những năm qua” Ảnh hưởng của an ninh quân sự trong quan hệ quốc tế đang tăng lên. Cuộc cạnh tranh quân sự trên bình diện quốc tế đang gia 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chính sách đối ngoại của Trung Quốc từ thập niên 90 đến nay
32 p | 217 | 39
-
Nghiên cứu ngoại giao chuyên biệt: Hướng đi, ưu tiên mới của Ngoại giao Việt Nam đến năm 2030 - Phần 1
153 p | 45 | 22
-
Biển đông và chính sách của Trung Quốc dưới góc nhìn quan hệ quốc tế
9 p | 128 | 18
-
Chính sách đối ngoại của Mỹ ở biển Đông trong trong những thập niên đầu thế kỉ XXI
9 p | 106 | 11
-
Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Trung Quốc
11 p | 110 | 8
-
Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước Đông Bắc Á giai đoạn 1986 - 2006
11 p | 118 | 8
-
Tác động của mục tiêu phát triển trong báo cáo chính trị tại Đại hội 19 Đảng Cộng sản Trung Quốc đến chính sách đối ngoại đối với Việt Nam
13 p | 90 | 8
-
Phản ứng chính sách của Úc trước sự trỗi dậy của Trung Quốc
9 p | 88 | 7
-
Tổng thống Obama và châu Á - Đương đầu với thử thách mang tên Trung Quốc
8 p | 89 | 6
-
Nhận thức của Trung Quốc về sức mạnh quốc gia - Sách tham khảo: Phần 1
186 p | 17 | 6
-
Từ chính sách “mở cửa” Trung Quốc hiểu thêm về tính thực dụng trong chính sách đối ngoại của Mỹ những năm cuối thế kỷ XIX
6 p | 59 | 4
-
Tôn giáo trong chính sách đối ngoại của Mỹ
9 p | 112 | 4
-
Hỏi - đáp về chính sách đối ngoại Việt Nam hiện nay: Phần 2
95 p | 9 | 4
-
Từ thuyết “Ngũ tri” trong triết học phương Đông đến tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay
9 p | 8 | 3
-
Vai trò của một số chủ thể thứ yếu trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay
7 p | 71 | 3
-
Tìm hiểu Trung Quốc những năm đầu thế kỷ 21: Phần 2
338 p | 3 | 2
-
Quan niệm chính sách đối ngoại mới của Liên bang Nga
7 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn