Chính sách quản lý giảng viên các trường đại học Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
lượt xem 3
download
Bài viết này tập trung nghiên cứu về giáo dục đại học và chính sách quản lý quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học Trung Quốc từ đó gợi ý bài học cho Việt Nam. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chính sách quản lý giảng viên các trường đại học Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- 576 CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRUNG QUỐC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Đỗ Thị Thu Hằng1 Nguyễn Thanh Lý Vũ Thị Thúy Hằng Phạm Văn Thuần Nguyễn Thị Na Tóm tắt: Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, thể chế chính trị và xã hội, do vậy các vấn đề gặp phải của hai nước trong quá trình phát triển có nhiều điểm giống nhau. So với Việt Nam, Trung Quốc là nước thực hiện chính sách đổi mới nói chung và thực thi cải cách giáo dục đại học sớm hơn Việt Nam hơn 10 năm. Chính vì vậy, trong quá trình phát triển và thực thi chính sách quản lý giáo dục và quản lý đội ngũ giảng viên của Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm đáng để Việt Nam nghiên cứu, học tập. Bài viết này tập trung nghiên cứu về giáo dục đại học và chính sách quản lý quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học Trung Quốc từ đó gợi ý bài học cho Việt Nam. Từ khóa: chính sách; quản lý đội ngũ giảng viên; bài học kinh nghiệm. 1. Giáo dục đại học và Chính sách phát triển giảng viên ở Trung Quốc Trung Quốc thực hiện cải cách và mở cửa chính sách vào năm 1978. Trong thời gian 40 năm đổi mới, đời sống kinh tế và xã hội của Trung Quốc đã có những thay đổi đột phá. Ngay từ những năm đầu của quá trình cải cách, Đảng Cộng sản và Quốc Vụ viện Trung Quốc đã rất coi trọng sự nghiệp giáo dục đại học, do đó ngay từ đầu, giáo dục đại học của Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. 1 Khoa Quản lý giáo dục – Trường ĐHGD-ĐHQGHN.
- CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRUNG QUỐC VÀ... 577 Từ năm 1949 khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập đến nay, sự nghiệp giáo dục Trung Quốc đã trải qua gần 70 năm phát triển. Nhìn lại chặng đường này, Zhang Letian (2009) cho rằng chính sách và việc thực thi chính sách là yếu tố quyết định hướng đi và tốc độ phát triển giáo dục. Hơn nữa, mỗi bước đi tiếp theo của sự nghiệp giáo dục đều không thể tách rời khỏi những chính sách, định hướng của Đảng và nhà nước. Có thể nói, trên mọi phương diện, ở mọi bậc học, với mọi thời kỳ, các chính sách luôn chi phối sự phát triển và cải cách giáo dục. Chính sách phát triển giáo dục đại học và chính sách quản lý đội ngũ giảng viên của Trung Quốc qua các thời kỳ Từ 1949 đến 1957: Đây là thời kỳ Trung Quốc mới được thành lập, là giai đoạn Trung Quốc tập trung tìm kiếm hướng phát triển cho giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, trong đó đã khôi phục và chỉnh đốn được đội ngũ giảng viên. Tháng 12 năm 1949, hội nghị toàn quốc về công tác giáo viên được tổ chức, hội nghị đã thảo luận các vấn đề của xây dựng, phát triển đội ngũ, từ đó các cơ quan hữu quan lần lượt ban hành các chính sách quy định về giảng viên. Các văn bản thống nhất coi giảng viên là cán bộ nhân viên Nhà nước do Trung ương thống nhất lãnh đạo. Tháng 7 năm 1950, Quốc vụ viện Trung Quốc đã ban hành Điều lệ tạm thời của các trường đại học, cao đẳng, trong đó chỉ rõ: giảng viên đại học, cao đẳng chia thành 4 bậc: trợ giảng, giảng viên, phó giáo sư và giáo sư, các bậc đều do hiệu trưởng nhà trường phong và báo cáo bằng hồ sơ cho Bộ Giáo dục. 1 Cũng trong giai đoạn này, năm 1954, có những quy định cụ thể về bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ, sát hạch, phân công công tác, tiền lương, phúc lợi… cũng như biên chế tổ chức của trường đại học. Năm 1955, Bộ Giáo dục Trung Quốc ban hành văn bản quy định thời gian làm việc và lượng công việc làm căn cứ xây dựng chế độ tiền lương cũng như xác định nhiệm vụ trọng tâm của giảng viên là giảng dạy. Ngoài ra, trong năm 1956, 1957, các vấn đề về điều kiện nâng hạng giảng viên từ trợ giảng lên giảng viên, từ giảng viên lên phó giáo sư, từ phó giáo sư lên giáo sư được quy định bổ sung. Như vậy có thể thấy, qua 7 năm phát triển, các chính sách quản lý giảng viên của Trung Quốc đã đề cập đến các phương diện của quá trình phát triển đội ngũ, do số lượng, chất lượng giảng viên được nâng lên rõ rệt. Từ năm 1957 đến 1966, đây là giai đoạn Trung Quốc tập trung vào việc đề xuất các chính sách điều chỉnh, phát triển nguồn lực giảng viên cho các các địa 1 (dẫn theo 余立等:《中国高等教育史(下册)》,华东师范大学出版社1994年版,第30 页. )
- KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 578 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL phương trên cả nước, bắt đầu phân cấp quản lý các trường đại học cho các tỉnh, thành phố, khu tự trị. Năm 1958, Quốc Vụ viện Trung Quốc có chỉ thị về “Công tác giáo dục”, với nội dung trọng tâm là “giáo dục phục vụ chính trị giai cấp vô sản, giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất Để thực hiện được phương châm đó, công tác giáo dục phải do Đảng lãnh đạo”.1 Trong giai đoạn này chính sách quản lý giảng viên tập trung vào các quy trình sát hạch, đánh giá nghiệp vụ của giảng viên, đây là căn cứ đề bạt, nâng hạng giảng viên, và nhà nước phân quyền quản lý giảng viên cho chính quyền địa phương.2 Từ năm 1966 đến 1976, là thời kỳ diễn ra cuộc đại văn hóa cách mạng ở Trung Quốc. Do những vấn đề về chính trị, xã hội đã ảnh hưởng lớn đển phát triển nhân lực nói chung và nhân lực giáo dục nói riêng, các chính sách phát triển giảng viên đại học bị ngưng trệ trong thời gian 10 năm dài. Từ năm 1976 đến 1986, sau khi cách mạng đại văn hóa kết thúc, cùng với sự khôi phục phát triển nhân lực của quốc gia, giáo dục đại học cũng đã khôi phục lại các chính sách pháp quy về chế độ quản lý giảng viên và bắt đầu có những cải cách trong phân cấp quản lý giáo dục đại học và quản lý giảng viên. Ở thời kỳ này, việc phê chuẩn nâng hạng giảng viên được chuyển từ Bộ Giáo dục sang các chính quyền cấp tỉnh, thành phố và khu tự trị phê duyệt. Năm 1984, Trung Quốc tiến hành cải cách thể chế kinh tế, cùng với đó nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong hoạt động của xã hội là tập trung hướng đến phát triển kinh tế thị trường và cải cách thể chế kinh tế. Do vậy các nhà nghiên cứu chính sách GD cho rằng tự chủ đại học được xác định là xu hướng không thể đảo ngược. Tháng 5 năm 1985, Trung ương đảng Trung Quốc đã ban hành “Quy định thể chế cải cách giáo dục”, trong đó có nêu: thể chế quản lý giáo dục trước đây tồn tại nghiêm trọng những yếu kém, không còn phù hợp với thời kỳ đổi mới chế chế kinh tế, mở cửa và hội nhập quốc tế. Vì vậy cần “thay đổi chế chế quản lý quá rộng và quá sâu của chính phủ đối với các trường đại học cao đẳng. Với sự chỉ đạo của quốc gia về giáo dục và phương châm giáo dục thống nhất trên toàn quốc, cần trao quyền tự chủ trong quản lý nhà trường cho các trường đại học cao đằng”3. Trong giai đoạn này, năm 1986, Trung ương Đảng và Quốc vụ viện đã họp và quyết định ban hành Điều lệ chức vụ giảng viên đại học trong đó quy đinh rõ: chức trách, nhiệm vụ cụ thể của từng bậc giảng viên, các điều khoản về điều kiện nhiệm chức, về đánh giá tư cách nhiệm chức, bổ nhiệm…, đồng thời cũng quy định về thủ tục tuyển dụng, hợp đồng tuyển dụng 1 见1958年9月19日《中共中央国务院关于教育工作的指示》(Chỉ thị công tác giáo dục của Quốc Vụ viện Trung ương, ngày 19 tháng 9 năm 1958) , 全国高等学校师资管理研究会:《 高校师资管理研究》,华东师范大学出版社1986年版,第184页) 2 闵唯方,《2006年人力发展教育发展报告》,北京出版社2006年版 3 (周远清:“高教管理体制改革和布局结构调整取得了历史性的重大进展”,见网大 网:http://edu.netbig.com/rank/r1/r01/507/20001215/90727.htm,2000-12-15)
- CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRUNG QUỐC VÀ... 579 giảng viên. Tuy vậy, do ảnh hưởng trong quan niệm về chức danh cũ, trong quá trình thực thi chế độ hợp đồng đối với giảng viên đã trở thành hình thức, và do đó chế độ hợp đồng đã biến thành chế độ hợp đồng suốt đời. Từ năm 1986 đến 1995, đây là thời kỳ cải cách toàn diện. Cải cách thể chế nhân sự được coi là nội dung trọng yếu của cải cách thể chế chính trị. Các vấn đề về quản lý trường đại học theo hướng tự chủ, phân quyền được quy định và thực hiện triệt để. Điều 13, Luật Giáo dục năm 1993 quy định rõ “quốc gia thực thi xây dựng chế độ sát hạch tư cách giáo viên, chế độ tuyển dụng, đề bạt giáo viên, thông qua sát hạch, khen thưởng, bồi dưỡng và đào tạo nâng cao tố chất giáo viên”. Đặc biệt, thực hiện Luật Giáo dục 1993, năm 1995 Quốc vụ viện Trung Quốc đã có quy định cụ thể về chính sách tuyển dụng giáo viên, hoàn thiện chế độ quản lý đối với giáo viên sau tuyển dụng. Từ năm 1995 đến năm 2005, đây là thời kỳ trấn hưng giáo dục, “lấy nhân tài làm gốc”, phát triển giáo dục mang màu sắc Trung Quốc Bước vào thế kỷ 21, xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển của nền kinh tế tri thức thúc đẩy sự phát triển của giáo dục các nước nói chung và Trung Quốc nói riêng. Trao đổi quốc tế và công nghệ thông tin đã làm thay đổi mọi mặt của xã hội, nhu cầu của người dân đối với giáo dục ngày càng cao. Để một đất nước phát triển ổn định, Trung Quốc xác định phải tập trung vào đào tạo, bồi dưỡng tài năng, xây dựng chiến lược con người, tập trung vào giáo dục, đầu tư. Phát triển khoa học và công nghệ được coi là yếu tố quyết định phát triển xã hội. Với chính sách “Giáo dục phải được đặt ở vị trí quan trọng chiến lược, coi phát triển sự nghiệp giáo dục là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của đất nước”1, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện các chương trình đặc biệt từ giữa những năm 1990 như Chương trình 211 được Quốc Vụ viện Trung Quốc thông qua năm 1995 nhằm hỗ trợ 100 trường đại học trọng điểm, 100 ngành học trọng điểm do Chính phủ lựa chọn để phát triển năng lực học thuật. Chương trình 985 nhằm xây dựng một số trường đẳng cấp thế giới. Chương trình 111 hỗ trợ trực tiếp một số trường đại học hàng đầu của Trung Quốc góp phần thu hút các học giả quốc tế có năng lực cao và giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu học thuật ở các trường đại học đẳng cấp thế giới. Các chính sách giảng viên cốt cán, thu hút nhân tài kiệt xuất cho các trường đại học được Chính phủ Trung Quốc đề cao ở giai đoạn này. Đặc biệt chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các ngành mới mà thế giới đang ưu tiên được quan tâm phát triển, thực hiện mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của các trường đại học so với các trường đại học trên thế giới. Để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục đại học trong thời kỳ mới, Bộ Giáo dục Trung Quốc đã ban hành chính sách 1 Dẫn theo 张国庆(2005),《公共政策分析》,复旦大学出版社.
- KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 580 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL thực thi đãi ngộ đối với vị trí công tác của giáo sư thỉnh giảng trong và ngoài nước thông qua “Kế hoạch Khuyến khích Trường Giang học giả”, trong đó có những chính sách đầu tư mạnh về tài chính, chính sách ưu đãi, khích lệ về vật chất và tinh thần đối với đội ngũ giáo sư này, cụ thể quy định về chế độ tiền lương, thưởng, bảo hiểm, phúc lợi, cũng như cung cấp các điều kiện cuộc sống tốt cho đội ngũ này. Có thể thấy, từ trong 10 năm từ 1995 đến 2005, giáo dục đại học ở Trung Quốc đã phát triển với bước tiến dài. Trong giai đoạn này, hầu hết các chính sách phát triển giáo dục đại học tập trung vào “phát triển đội ngũ để nâng cao chất lượng trường đại học”. Chính phủ Trung Quốc đã tập trung trí tuệ toàn dân tộc để xây dựng và nâng cao sức cạnh tranh cho các trường đại học, từ đó thúc đẩy kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phát triển. Đồng thời đưa giáo dục đại học phát triển trên con đường mang tính đặc sắc Trung Quốc. Từ năm 2005 đến nay: Trước những yêu cầu mới của thế kỷ 21, giáo dục cũng cần có những thay đổi cho phù hợp hơn. Trong đó nhấn mạnh việc hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp do các trường đại học sở hữu. Chính phủ Trung Quốc rất khuyến khích các trường đại học thương mại hoá các phát minh sáng chế của mình, tạo dựng các doanh nghiệp khởi nghiệp do chính các nhà khoa học đồng sở hữu với cơ quan nghiên cứu. Chính phủ cho phép các trường thành lập các khu kiểu mẫu đổi mới sáng tạo tự chủ và hỗ trợ tài chính cũng như về chính trị từ đầu những năm 1990. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp do trường đại học sở hữu đã chứng minh rằng các giảng viên, nhà nghiên cứu ở các trường đại học có thể tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội trực tiếp chứ không chỉ tập trung vào đào tạo và hợp tác với trường - ngành. Tháng 7 năm 2016, Bộ Giáo dục Trung Quốc lên kế hoạch triển khai xây dựng Đại học đẳng cấp quốc tế phiên bản 2.0 (World Class 2.0) với sự đầu tư ngân sách nhà nước mạnh mẽ hơn (Bộ Giáo dục Trung Quốc, 2013). Giai đoạn này trường đại học đẳng cấp quốc tế của Trung Quốc ngày càng có sức cạnh tranh cao, chính là nhờ vào chính sách tối ưu hóa đội ngũ giảng viên, tập hợp đội ngũ nhân tài ưu tú trong đó tập trung nâng cao trình độ một cách toàn diện. Với những chính sách toàn diện về quản lý giáo dục cũng như quản lý đội ngũ giảng viên, đặc biệt sự đồng bộ về chính sách trao quyền tự chủ cho các trường đại học, đặc biệt là cơ chế phân cấp quản lý tài chính và các chính sách liên quan đã tác động mạnh đến quá trình nâng cao chất lượng các trường đại học Trung Quốc, tạo những cơ hội, môi trường sáng tạo trong hoạt động cũng như trong quản lý đội ngũ giảng viên tại các trường đại học. 2. Quản lý đội ngũ giảng viên ở Việt Nam - những vấn đề đặt ra Theo dự báo, đến năm 2020, Việt Nam có khoảng 23,5 triệu học sinh và 4,5 triệu
- CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRUNG QUỐC VÀ... 581 sinh viên. Việc tăng tự nhiên quy mô học sinh, sinh viên hàng năm, việc giảm tỷ lệ học sinh, sinh viên/lớp, tỷ lệ sinh viên/giảng viên đòi hỏi quy mô đội ngũ phải tăng trung bình 5%/năm, đến năm 2020, số lượng nhà giáo cần có 1,25 triệu người, trong đó số giảng viên phải tăng gấp 4 lần hiện nay với ít nhất 25% có trình độ tiến sĩ (riêng các trường đại học, cao đẳng sư phạm yêu cầu 100% giảng viên có trình độ tiến sĩ)1. Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định về quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập. Theo đó phân hạng chức danh nghề nghiệp đối với giảng viên gồm: Giảng viên cao cấp (hạng I), giảng viên chính (hạng II), giảng viên (hạng III) với các mã số cụ thể. Tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của giảng viên được quy định cụ thể về: nhiệm vụ; tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng; tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đối với từng hạng giảng viên. Những quy định về mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp là cơ sở để các trường đại học tuyển dụng, sử dụng và quản lý giảng viên. Đồng thời, đó cũng là căn cứ để mỗi giảng viên tự bồi dưỡng, tự rèn luyện, phát triển liên tục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của trường đại học trong bối cảnh mới. Thông tư 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chế độ làm việc đối với giảng viên, bao gồm: Nhiệm vụ củacác chứcdanh giảng viên; quy định về thời gian làm việc, giờ chuẩn giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Các văn bản pháp quy, đặc biệt là các thông tư kể trên là căn cứ để các nhà quản lý cơ sở giáo dục đại học phân công, bố trí, sử dụng, nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động đối với giảng viên; là căn cứ để các cơ quan quản lý giáo dục kiểm tra, thẩm định, đánh giá, xây dựng chính sách, chương trình đào tạo và bồi dưỡng giảng viên. Các quy định cụ thể cũng là cơ sở để giảng viên xây dựng kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đồng thời, là cơ sở để người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học đánh giá, xếp loại giảng viên hằng năm và đảm bảo tính công khai, công bằng, dân chủ trong việc thực hiện chế độ, chính sách, quyền và nghĩa vụ của giảng viên. Theo báo cáo tại Hội nghị Tổng kết năm học giáo dục đại học và các trường sư phạm sáng ngày 11/8 của Bộ Giáo dục và Đào tạo 2, năm học 2016-2017, hệ thống 1 Nguyễn Hải Thập, Thực trạng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và những nội dung cần nghiên cứu khi xây dựng Luật Viên chức, Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 2009. 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội nghị Tổng kết năm học giáo dục đại học và các trường sư phạm sáng ngày 11/8/2017.
- KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 582 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL hiện có 235 trường đại học, học viện (bao gồm 170 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài), 37 viện NCKH được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, 33 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm, có 72.792 giảng viên đại học cao đẳng (công lập 57.634 người, ngoài công lập là 15.158 người), tăng 4,6% so với năm học 2015 – 2016, trong đó tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ là 16.514 người (tăng 21,4% so với năm học 2015 – 2016), thạc sỹ là 43.065 người nếu xét về số lượng, con số này đã tăng hơn. Đánh giá về công tác quản lý đội ngũ giảng viên trong các trường đại học Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 8 (khoá XI) cũng đã chỉ rõ, một bộ phận chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Kết quả cho thấy, nhìn chung, chất lượng giảng viên trong trường đại học nước ta hiện nay còn yếu. Mặt khác, hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên còn ít, số lượng bài báo công bố trên tạp chí chuyên ngành trong nước và quốc tế chưa nhiều. Nghiên cứu khoa học là yếu tố nền tảng khoa học của kiến thức và trình độ của giảng viên, nhưng chưa trở thành nhu cầu thực sự của giảng viên. Đề tài và các nội dung nghiên cứu khoa học vẫn còn nặng về hình thức, chưa gắn với yêu cầu của thực tiễn.1 Trong báo cáo tổng kết năm học 2016 – 2017 phương hướng, nhiệm vụ năm học 2017 – 2018 giáo dục đại học và các trường sư phạm đã nhận định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đặc biệt là các chính sách về chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đồng bộ, hiệu lực chưa cao. Việc tuyển dụng giảng viên có trình độ chuyên môn giỏi ở trong và ngoài nước tham gia giảng dạy tại các cơ sở đào tạo còn nhiều khó khăn do chính sách thu hút chưa đủ mạnh. Cơ chế quản lý và sử dụng cán bộ chưa tạo động lực để thu hút cán bộ giỏi về làm việc. Năm học này, số lượng giảng viên tăng so với năm học 2015-2016, tuy nhiên, tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và trình độ tiến sĩ trong toàn hệ thống vẫn ở mức thấp, đặc biệt là tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ ở các trường cao đẳng sư phạm còn thấp (chiếm ~ 3,4%). Số lượng giảng viên cơ hữu của các trường ngoài công lập vẫn còn thiếu (15.158 người chiếm khoảng 20% tổng số giảng viên trong toàn quốc) và có độ tuổi cao nên chưa tạo niềm tin về chất lượng đào tạo của một số trường ngoài công cập trong hệ thống. Cũng theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo,2 nhiều cơ sở đào tạo chưa chú 1 Dương Thị Thanh Xuân, “Nâng cao năng lực của đội ngũ GV đại học đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao”, Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2016, trang 59 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội nghịTổng kết năm học giáo dục đại học và các trường sư phạm sáng ngày 11/8/2017.
- CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRUNG QUỐC VÀ... 583 trọng đến kế hoạch xây dựng và phát triển nguồn giảng viên trẻ kế cận cũng như việc bồi dưỡng tạo nguồn giảng viên gửi đi đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài. Trong quá trình triển khai Đề án đào tạo giảng viên bằng NSNN (Đề án 911), nhiều ứng viên từ các cơ sở đào tạo không đáp ứng được những quy định về ngoại ngữ và các điều kiện cần thiết khác trong khi nhu cầu giảng viên có trình độ cao là rất lớn. Năng lực quản lý và quản trị nhà trường của một bộ phận cán bộ quản lý còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong bối cảnh chuyển đổi sang mô hình quản lý chất lượng dựa trên chuẩn, tiêu chuẩn và tự chủ đại học. Như vậy, giảng viên đại học cao đẳng có sự phát triển lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế nhất định làm cho những kết quả đạt được chưa đảm bảo được mục tiêu và kết quả đề ra. Kinh nghiệm quản lý đội ngũ giảng viên ở Trung Quốc và những gợi ý bài học cho Việt Nam Nghiên cứu về giáo dục đại học và chế độ quản lý giảng viên ở Trung Quốc và thực tế phát triển kinh tế xã hội Việt Nam cho thấy, việc phát triển, quản lý đội ngũ giảng viên trong các trường đại học là vấn đề trọng tâm hàng đầu cần được nghiên cứu, bởi đây là vấn đề cốt lõi ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của hệ thống giáo dục đại học. Những cách làm với những kết quả đạt được trong quản lý đội ngũ giảng viên có thể là những gợi ý hữu ích cho các trường đại học Việt Nam trong quản lý nhà trường cũng như quản lý đội ngũ. Chế độ quản lý giảng viên đại học ở Trung Quốc - cơ chế quản lý sáng tạo Để đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như thích ứng với yêu cầu cải cách của giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay, việc đổi mới chính sách quản lý giảng viên, áp dụng những mô hình quản lý mới, sáng tạo phù hợp với thực tiễn phát triển là yêu cầu tất yếu đối với mỗi trường đại học. Để công tác quản lý đội ngũ giảng viên đại học phát huy hiệu quả cần vận dụng sáng tạo lý thuyết khoa học vào xây dựng, thực hiện, triển khai hệ thống chính sách trong bối cảnh mới. Có thể thấy, chính sách quản lý giảng viên ở Trung Quốc có những bước cải tổ đột phá, tạo nên sự phát triển mạnh mẽ đối với hệ thống giáo dục đại học ở nước này. Cụ thể một số chính sách đặc trưng: Một là: Chính sách tuyển dụng và hướng dẫn đội ngũ giảng viên mới vào nghề: Trung Quốc đã có chính sách thu hút những nhà khoa học đẳng cấp quốc tế để xây dựng những nhóm nghiên cứu mạnh cho những vấn đề khoa học và kỹ thuật
- KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 584 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL tiên tiến, đồng thời chú trọng các tiêu chuẩn của khoa học hàn lâm trong nghiên cứu. Đội ngũ giảng viên trẻ được tuyển chọn theo quy trình có tính cạnh tranh cao trong môi trường quốc tế. Trong lựa chọn nhân tài, các trường đại học Trung Quốc thực hiện triệt để nguyên tắc lựa chọn người có tài đức vẹn toàn, làm việc hiệu quả cao. Và để phát triển đội ngũ giảng viên, Chính phủ Trung Quốc hỗ trợ tài chính một cách hào phóng trong một vài năm đầu cho các nhóm nghiên cứu đến khi nhóm có thể thu hút được các khoản đầu tư từ các tổ chức nhà nước, xã hội… hoặc đến khi họ đã gây dựng được danh tiếng. Từ năm 2007, khi được tuyển dụng chính thức, các giảng viên cứ 6 năm phải tham gia sát hạch giữa kỳ và cuối kỳ để tuyển dụng, bổ nhiệm lại. Để các giảng viên trẻ mới được tuyển dụng nâng cao được năng lực một cách hiệu quả, Trung Quốc đã ban hành chính sách, xây dựng chương trình cố vấn cho các giảng viên trẻ dưới 35 tuổi và xây dựng quỹ hỗ trợ 1500 triệu nhân dân tệ để hỗ trợ giảng viên trẻ trong nghiên cứu và sinh hoạt ăn ở. Hai là: Xác định ba con đường phát triển sự nghiệp cho giảng viên đương nhiệm; hợp nhất chế độ bổ nhiệm giảng viên Từ năm 2010 đến nay, giảng viên đương nhiệm có thể lựa chọn cho bản thân hướng phát triển sự nghiệp của mình bằng 1 trong ba con đường: (1) giảng dạy, (2) nghiên cứu; (3) giảng viên chính thức. Đối với giảng viên chính thức thường là các giáo sư vừa giảng dạy vừa nghiên cứu. Mỗi hướng lựa chọn đều có những tiêu chí và những đánh giá hiệu quả tương ứng để giảng viên có căn cứ xác định lựa chọn. Việc thăng tiến và mức lương của mỗi giảng viên được xem xét 3 năm một lần dựa trên các tiêu chí và kết quả đã được khoa xây dựng. Cả ba hướng này đều có những tỷ lệ mức lương khởi điểm tương đương nhau. Các giảng viên có thể tự lựa chọn hướng phát triển của bản thân và có thể thay đổi nếu đồng nghiệp đánh giá là phù hợp. Và tất cả giảng viên đều có thể đăng ký chuyển sang chế độ giảng viên chính thức khi họ đã đạt được những tiêu chuẩn, tiêu chí cao hơn. Cho đến nay, mức lương trung bình của giảng viên đã tăng 60% trong 4 năm qua, và hứa hẹn sẽ còn tăng trong những năm tới. 1 Trước năm 2013, chế độ giảng viên ở Trung Quốc tồn tại hai chế độ tiêu chuẩn giảng viên, một chế độ phát triển đội ngũ giảng viên theo ba con đường, một chế độ phát triển đội ngũ giảng viên chất lượng quốc tế. Điều này đã tạo ra những phân hóa trong trường đại học. Để khắc phục những hạn chế do hai chế độ tạo ra, đến năm 2013, Trung Quốc đã hợp nhất hai hệ thống này thành một chế độ duy nhất. 1 (Bộ Giáo dục và Đào tạo: Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên cao cấp hạng I, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 22)
- CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRUNG QUỐC VÀ... 585 Ba là: Triển khai toàn diện, quản lý hài hòa Trong thực thi chính sách tuyển dụng giảng viên, trường đại học được tuyển dụng theo vị trí việc làm trên nguyên tắc tuyển dụng công khai, cạnh tranh bình đẳng, tuyển người ưu tú, sát hạch nghiêm túc, quản lý hợp đồng. Đặc biệt các trường đại học Trung Quốc quản lý hài hòa đội ngũ giảng viên, thể hiện ở 5 khía cạnh sau: hài hòa giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học, hài hòa giữa tính ổn định và lưu động của đội ngũ, hài hòa giữa việc thu hút nhân tài và bồi dưỡng đội ngũ hiện có, hài hòa giữa số lượng và chất lượng đội ngũ, hài hòa giữa buông lỏng và thắt chặt. Với sự triển khai toàn diện, quản lý hài hòa đội ngũ giảng viên đã tạo cơ hội và không gian phát triển cho đội ngũ giảng viên đại học một cách bền vững. Bốn là: Xây dựng môi trường văn hóa tổ chức Để kiến tạo được môi trường thân thiện, văn hóa trong nhà trường, lãnh đạo quản lý nhà trường cần: quan tâm, tạo động lực để hướng đội ngũ giảng viên toàn tâm toàn ý cho sự phát triển của nhà trường; xây dựng môi trường quản lý hài hòa, công bằng, chính trực trong lãnh đạo; điều hòa tốt các mối quan hệ giữa các giảng viên, giữa giảng viên với các cấp quản lý chức năng trong nhà trường, nhằm tạo dựng môi trường đoàn kết, hợp tác, chia sẻ trong các nhà trường; để mỗi giáo viên đều có trách nhiệm tham gia vào hoạt động quản lý nhà trường. Như vậy, có thể thấy, để giáo dục đại học trở thành yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục đại học ở Trung Quốc đã thực hiện chiến lược “Khoa học giáo dục chấn hưng đất nước”, nghiên cứu áp dụng nhiều mô hình quản lý nhân lực giáo dục, nỗ lực xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, sáng tạo trong hoạt động quản lý đã tạo nên những thành công trong quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học, đưa giáo dục đại học Trung Quốc phát triển bắt kịp với những tiến bộ trong giáo dục đại học của quốc tế. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Từ những phân tích chính sách quản lý đội ngũ giảng viên ở Trung Quốc và những kết quả đạt được của họ đã gợi mở một số suy nghĩ và bài học kinh nghiệm đối với việc xây dựng chính sách quản lý giảng viên đại học ở Việt Nam như sau: l Đối với quản lý nhà nước - Xác định nhân tố nền tảng tạo nên hệ thống chất lượng giáo dục đại học và chất lượng đội ngũ giảng viên. - Xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đại học và phát triển đội ngũ giảng viên một cách toàn diện dựa trên mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và xu thế phát triển của thế giới về giáo dục đại học, trong đó tập trung đổi mới cơ chế thúc đẩy
- KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 586 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL phát triển năng lực của giảng viên, nâng cao chất lượng giảng viên thông qua xây dựng Chuẩn nghề nghiệp giảng viên. - Tạo lập hệ thống chính sách quản ttrị đại học dựa trên lý thuyết hiện đại vận dụng phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. - Triển khai hiệu quả các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển đội ngũ công chức, viên chức trong trường đại học, cao đẳng thông qua luật hóa đồng bộ thành các chính sách cụ thể như: + Chính sách quy hoạch đội ngũ; + Chính sách tuyển dụng, sử dụng; + Chính sách đào tạo, bồi dưỡng; + Chính sách về các yếu tố đảm bảo chất lượng giảng viên như: chính sách chế độ đãi ngộ, các chính sách điều kiện làm việc…. - Luật hóa các chính sách đối với đội ngũ giảng viên công lập và ngoài công lập để đảm bảo tính công bằng trong toàn bộ đội ngũ của hệ thống giáo dục đại học, tạo điều kiện cho quá trình dịch chuyển lực lượng giảng viên trong hệ thống công lập và dân lập. l Đối với công tác quản lý của các trường Đại học, Cao đẳng - Về tuyển chọn giảng viên: + Xây dựng phương thức tuyển chọn đảm bảo tính khách quan, khoa học và công bằng, đúng vị trí việc làm cần tuyển; + Đa dạng hóa chế độ tuyển dụng giảng viên theo hướng mở trên cơ sở hợp đồng để thu hút những lực lượng giảng viên ngoài xã hội vào đội ngũ viên chức thông qua các biện pháp thu hút, tạo nguồn nhân lực viên chức; + Xây dựng và hoàn thiện quy định cho việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức… cơ sở quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước. - Về sử dụng giảng viên: + Cần trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho giảng viên trên cơ sở quy định về quyền và nghĩa vụ của giảng viên. Việc giám sát trách nhiệm của giảng viên trao quyền tự chủ chính cho khoa, tổ bộ môn; + Tạo dựng môi trường văn hóa tổ chức, trong đó giảng viên có được tự chủ cao trong học thuật, có không gian cho sự sáng tạo, khuyến khích bằng chính sách cụ thể đối với hợp tác quốc tế, giao lưu trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động nghề nghiệp giảng viên; tạo môi trường làm việc khoa học, dân
- CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRUNG QUỐC VÀ... 587 chủ, khuyến khích giảng viên phát huy tài năng cống hiến cho nhà trường, cho đất nước; + Xây dựng quy chế (tiêu chuẩn và quy trình) đánh giá đội ngũ giảng viên dựa trên cơ sở năng lực thực tế, kết quả, hiệu suất, năng suất lao động thực tế. - Về đào tạo bồi dưỡng giảng viên: + Đào tạo, bồi dưỡng giảng viên cần dựa trên kế hoạch về quy hoạch, có tổ chức và mang tính trọng điểm; + Phân tầng giảng viên để có chiến lược bồi dưỡng, đảm bảo bồi dưỡng đúng nhu cầu cần bồi dưỡng cho giảng viên; + Linh hoạt áp dụng các hình thức bồi dưỡng đảm bảo tính hiệu quả, chú trọng bồi dưỡng thông qua hợp tác giáo dục với đồng nghiệp trong nước và quốc tế; + Đổi mới chính sách đảm bảo nguồn lực và phân bổ tài chính cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên. - Về kiểm tra, đánh giá đối với giảng viên: + Xây dựng đồng bộ chế độ kiểm tra, đánh giá giảng viên trong nội bộ nhà trường trên cơ sở quy định pháp lý của nhà nước và dựa trên cơ sở năng lực thực tế, kết quả, hiệu suất, năng suất lao động của giảng viên; + Đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống trong kiểm tra, đánh giá; kết quả đánh giá phản ánh đúng thực trạng, làm căn cứ điều chỉnh hoạt động quản lý đối với nhà quản lý và giúp giảng viên điều chỉnh phát triển năng lực bản thân. + Đa dạng hóa hình thức đánh giá, căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường và đặc điểm ngành học, môn học vận dụng phương thức đánh giá sáng tạo ví dụ áp dụng cách đánh giá dựa vào tính ứng dụng của sản phẩm, dựa vào tần suất được trính dẫn của ấn phẩm… - Về chính sách đãi ngộ: + Thực hiện chính sách trao quyền tự chủ thực sự, đầy đủ cho các cơ sở giáo dục đại học, trong đó hiệu trưởng có quyền thỏa thuận lương, phụ cấp với giảng viên đại học công lập. + Hoàn thiện chính sách cải cách tiền lương gắn với tinh gọn tổ chức bộ máy và cơ cấu lại đội ngũ giảng viên. + Thực hiện chính sách đa dạng nguồn thu, hoàn thiện chính sách tôn vinh, khen thưởng giảng viên.
- KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 588 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL Kết luận Đội ngũ giảng viên có vai trò quyết định chất lượng giáo dục của hệ thống giáo dục đại học. Việc phát triển đội ngũ giảng viên là đòi hỏi cấp thiết trong bất kỳ giai đoạn nào của xã hội. Xây dựng đồng bộ hệ thống chính sách để quản lý hiệu quả đội ngũ giảng viên là mục tiêu trọng tâm của phát triển giáo dục đại học của mọi quốc gia trên thế giới. Trung Quốc là nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về văn hóa, thể chế chính trị, xã hội... Những kinh nghiệm thành công trong cải cách kinh tế, xã hội nói chung và trong cải cách giáo dục nói riêng là những gợi ý cho chúng ta về bước đi và cách làm của Trung Quốc, để từ đó có những bài học trong việc xây dựng chính sách và thực hiện chính sách. Với bước tiến vượt bậc về sức cạnh tranh của giáo dục đại học Trung Quốc cho thấy cơ chế chính sách đối với giáo dục đại học của Trung Quốc là đồng bộ, khoa học và phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội Trung Quốc. Và để có được thành tích to lớn đó, chính sách quản lý đội ngũ giảng viên góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển về số lượng và chất lượng đội ngũ, từ đó tạo ra sự phát triển nhanh chóng về chất lượng giáo dục đại học ở nước này. Nghiên cứu về quá trình phát triển giáo dục đại học và chính sách quản lý đội ngũ giảng viên qua các thời kỳ ở Trung Quốc, nhóm nghiên cứu đã rút ra một số bài học để từ đó có những gợi ý về chính sách quản lý đội ngũ giảng viên cho chính phủ và các trường đại học Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Tài liệu tham khảo 1. 余立等:《中国高等教育史(下册)》,华东师范大学出版社1994年版. 2. 《中共中央国务院关于教育工作的指示》1958年9月19日. 3. 闵唯方,《2006年人力发展教育发展报告》,北京出版社2006年版. 4. 张国庆,《公共政策分析》,复旦大学出版社, 2005年版. 5. Nguyễn Hải Thập, Thực trạng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và những nội dung cần nghiên cứu khi xây dựng Luật Viên chức, Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 2009. 6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội nghị Tổng kết năm học giáo dục đại học và các trường sư phạm sáng ngày 11/8/2017. 7. Dương Thị Thanh Xuân, “Nâng cai năng lực của đội ngũ giảng viên đại học đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao”, Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2016, tr.58 - 61.
- 589 MANAGEMENT POLICY FOR CHINESE UNIVERSITY LECTURERS AND LESSONS FOR VIETNAM Đỗ Thị Thu Hằng1 Nguyễn Thanh Lý Vũ Thị Thúy Hằng Phạm Văn Thuần Nguyễn Thị Na Abstract: Vietnam and China are the two countries with many similarities in culture, politic institution and society, so the problems confronted by the two countries in the process of development are similar in many ways. In comparison with Vietnam, China carried out education reform ten years earlier. Hence, in the process of developing and practicing education and lecturer management policies of China, there is much experience that Vietnam can inquire. This article focuses on studying higher education and the policies of lecturer management in universities of China to suggest the lesson for Vietnam. Keywords: policy, lecturer management, experiential lesson 1. University of Education
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Những vấn đề của quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ ở trường đại học sư phạm
10 p | 150 | 22
-
Giải pháp phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giảng viên trẻ học viện Quản lý giáo dục trong bối cảnh hiện nay
9 p | 212 | 15
-
Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng công việc của giáo viên tại thành phố Vị Thanh, Tỉnh Hậu Giang
6 p | 101 | 9
-
Sổ tay giảng viên POHE
61 p | 97 | 9
-
Thực trạng và các giải pháp chính sách thúc đẩy gắn kết hoạt động khoa học, công nghệ với hoạt động đào tạo tại các trường đại học ở Việt Nam
17 p | 23 | 6
-
Chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học
8 p | 61 | 6
-
Động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên: góc nhìn lý thuyết nhu cầu mở rộng của Maslow
14 p | 45 | 5
-
Bài giảng Chính sách kinh tế - xã hội - Chương 1: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
8 p | 20 | 5
-
Mấy vấn đề về phương pháp luận nghiên cứu, giảng dạy
4 p | 35 | 3
-
Giảng viên và học viên sau đại học lần VI năm 2022 - Kỷ yếu ngày hội khoa học: Phần 2 (Dành cho Học viên Sau Đại học)
298 p | 4 | 3
-
Giảng viên và học viên sau đại học lần VI-năm 2022 - Kỷ yếu ngày hội khoa học (Dành cho Giảng viên - Tập 1): Phần 2
357 p | 9 | 3
-
Thúc đẩy thực hành chiêm nghiệm để phát triển chuyên môn trong giảng dạy ngôn ngữ
6 p | 6 | 2
-
Thực trạng thực hiện các chế độ chính sách đối với sinh viên trong các trường đại học công lập khối ngành kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh
7 p | 4 | 2
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường đại học Hà Nội
6 p | 7 | 2
-
Thực trạng quản lí hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mầm non: Nghiên cứu tại huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
8 p | 4 | 2
-
Quản lý đội ngũ giảng viên tại trường Đại học Hải Dương
4 p | 3 | 1
-
Đào tạo nguồn nhân lực ngành Thông tin - Thư viện đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong bối cảnh tự chủ đại học
9 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn