intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cho lợn nạc hậu bị ăn để có thành tích cao

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

129
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chọn lọc di truyền trong nhiều năm qua đã cho kiểu gen có tỷ lệ nạc cao và đã sản xuất được thịt xẻ có chất lượng cao và đã nâng cao được hiệu quả thức ăn. Tuy nhiên, hệ thống ghi chép đàn trên toàn thế giới cho thấy giảm lượng mỡ trong cơ thể gia súc đã làm giảm thời gian khai thác của lợn cái và làm tăng đáng kể tỷ lệ lợn cái bị loại thải. Giảm số lượng lợn hậu bị do sinh sản kém và các bệnh ở chân là những vấn đề...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cho lợn nạc hậu bị ăn để có thành tích cao

  1. Cho lợn nạc hậu bị ăn để có thành tích cao Chọn lọc di truyền trong nhiều năm qua đã cho kiểu gen có tỷ lệ nạc cao và đã sản xuất được thịt xẻ có chất lượng cao và đã nâng cao được hiệu quả thức ăn. Tuy nhiên, hệ thống ghi chép đàn trên toàn thế giới cho thấy giảm lượng mỡ trong cơ thể gia súc đã làm giảm thời gian khai thác của lợn cái và làm tăng đáng kể tỷ lệ lợn cái bị loại thải. Giảm số lượng lợn hậu bị do sinh sản kém và các bệnh ở chân là những vấn đề đặc biệt được quan tâm. Những chiến lược về dinh dưỡng làm tăng năng xuất và tăng thời gian khai thác của lợn hậu bị là một lĩnh vực có nhiều tranh luân trái ngược nhau. Nhiều cố vấn cho rằng lợn hậu bị có tính di truyền cần phải khuyến khích phát triển đủ lượng mỡ dữ trữ trước khi phối giống bằng khẩu phần có tỷ lệ protein thấp. Việc này sau đó sẽ cung cấp một nguồn năng lượng dự trữ, mà nguồn năng lượng đó một phần được
  2. sử dụng trong thời gian cho con bú lần đầu, trong khi mức độ chất béo còn lại đủ để cho phép phối giống lặp lại thành công. Độ dày mỡ lưng lúc phối giống lần đầu là 18-20mm, mặc dù trong thực tế điều này rất khó, nếu có thể, có thể đạt được với kiểu gen hiện nay. Nghiên cứu gần đây ở Đơn vị Phát triển lợn ở Stotfold, thực hiện bởi Hội Đồng Gia súc và Thịt ở Anh đã nghiên cứu hai chiến lược dinh dưỡng: Thứ nhất là giảm lượng mỡ bằng việc sử dụng khẩu phần protein thấp và thứ hai là cho lợn hậu bị ăn để chúng thể hiện hết tiềm năng di truyền của chúng cho việc tăng thịt nạc. Tổng số 455 lợn hậu từ bị 5 công ty giống đã đựơc sử dụng cho thí nghiệm, những lợn hậu bị này được nuôi đến lứa đẻ thứ 6 để đánh giá ảnh hưởng của dinh dưỡng đến thời gian khai thác của lợn hậu bị và lợn nái trẻ. Lợn hậu bị được nuôi từ 30kg với khẩu phần Lysine thấp hoặc cao, và từ 50 kg tới lúc phối giống lần đầu với khẩu phần gồm 3227 Kcals DE và 1% hay 0.5% lysine. Từ khi phối giống đến lứa đẻ đầu tiên, mức lysine được điều chỉnh xuống 0.75 và 0.55%.
  3. Kết quả cho thấy việc cố gắng tăng lượng mỡ dự trữ ở lần phối giống lần đầu bằng cách làm giảm lượng protein trong khẩu phần đã làm chậm thành thục giới tính và giảm số con trên lứa đẻ. Bảng 1 chỉ ra rằng sự khác nhau giữa lợn cái hậu cho ăn khẩu phần có hàm luượng lysine cao và thấp đến lúc phối giống ở lần động dục lần thứ 3. Tám lợn hậu bị mỗi nhóm được giết thịt- những con lợn được ăn khẩu phần Lysine cao đã có độ dày mỡ lưng 11.9mm được so với những lợn có khẩu phần Lysine thấp và độ dày mỡ lưng là 15.6mm. Bảng 1 dưới đây đã chỉ ra rằng nuôi dưỡng lợn hậu bị với khẩu phần protein thấp có tuổi thành thục về tính sẽ kéo dài hơn 12 ngày so với những lợn cho ăn khẩu phần protien cao. Chúng cũng kéo dài thời gian phối giống lần đầu thêm 13 ngày và những con lợn này có trọng lượng nhẹ hơn 11kg so với những con được ăn khẩu phần có 1% lysine. Bảng 1: ảnh hưởng của hàm lượng lysine cao so với Lysine thấp trong quá trình nuôi dưỡng
  4. Lysine: Tỷ lệ năng Thấp (0.5%) Cao (1%) lượng trong khẩu phần Từ những lợn được giết thịt Trọng lượng lúc phối 133 113 giống Độ dày mỡ lưng lúc 11,9 15,6 phối Lợn hậu bị duy trì trong đàn Tuổi thành thục giới 164 176 tính (ngày) Tuổi phối giống (ngày) 220 233
  5. Trọng lượng lúc phối giống (ngày) 136 125 ở lứa đẻ đầu tiên lợn hậu bị cho ăn khẩu phần protein thấp đẻ ít lợn con sống hơn và tổng số lợn con sinh ra ít hơn (Bảng 2). Những lợn hậu bị được nuôi với khẩu phần có tỷ lệ Lysine cao và sau đó thay đổi bằng khẩu phần có tỷ lệ lysine thấp trong quá trình mang thai có số con đẻ ra trên lứa ít hơn so với những con cho ăn khẩu phần có tỷ lệ lysine thấp suốt trong quá trình mang. Bảng 2: ảnh hưởng của khẩu phần thức ăn có hàm lượng lysine cao so với khẩu phần có hàm lượng lysine thấp trong quá trình nuôi dưỡng và có chửa Khẩu phần lysine so với tỷ lệ năng lượng (cao so với thấp)
  6. Nuôi dưỡng Thấp Thấp Cao Cao (30 kg đến lúc phối giống) Thấp Thấp Mang thai Cao Cao Số con sinh ra 10,6 9,1 9,9 9,5 sống Tổng số con 11,5 10,1 10,6 10,4 sinh ra Tiến sỹ Pinder Gill, Quản lý kỹ thuật trại lợn MLC, người có trách nhiệm cho thí nghiệm, nghĩ rằng kết quả buộc chúng ta phải nghĩ lại những khuyến cáo khẩu phần của lợn hậu bị. Ông ta nói, " rõ ràng rằng hạn chế sinh trưởng của lợn hậu bị đã làm giảm số con của lứa đẻ đầu tiên, chúng ta nên cho chúng biểu hiện tiềm năng di truyền của chúng về sự phát triển nạc bởi vì điều này cũng dẫn đến thành thục giới tính sớm hơn và có thành tích sinh sản tốt hơn".
  7. Nếu lợn hậu bị gầy hơn ở lứa đẻ thứ nhất, cho ăn ở thời kỳ cho con bú cần phải bảo đảm rằng sự giảm trọng lượng phải tối thiểu thông qua việc sử dụng khẩu phần đậm đặc để kích thích sự thu nhận thức ăn. Tiến sỹ Gill cảm thấy rằng có một cách để đạt được điều này là sử dụng một khẩu phần trong thời gian cho con bú đặc biệt đối với lợn hậu bị và có thể cho lợn nái đẻ lứa thứ 2. Những gợi ý cho thời gain dài hơn của 2 chế độ dinh dưỡng sẽ được trình bày khi phân tích số liệu đến lứa đẻ thứ 6 được hoàn thành và có một sự đánh giá đầy đủ về ảnh hưởng của nó lên giá lợn con được thực hiện.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2