intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chơi giữa mùa trăng – Thế giới của cõi mộng và sự huyền diệu

Chia sẻ: Bautroibinhyen17 Bautroibinhyen17 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

62
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hàn Mặc Tử là một hồn thơ lạ của phong trào Thơ mới. “Chơi giữa mùa trăng” cũng là thi phẩm mang đậm chất lạ của ông. Nó là cõi giới của huyền diệu, của mộng ảo. Chất lạ hay sự ảo diệu của nó toát lên từ nhan đề: Rõ ràng, mộc mạc nhưng vẫn gợi sự mơ hồ, mông lung; toát lên từ cái nhìn về trăng: một vầng trăng kì ảo;... Mời các bạn cùng tham khảo vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chơi giữa mùa trăng – Thế giới của cõi mộng và sự huyền diệu

Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 65 – 72<br /> <br /> An Giang University<br /> <br /> CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG – THẾ GIỚI CỦA CÕI MỘNG VÀ SỰ HUYỀN DIỆU<br /> Nguyễn Thị Chính1<br /> 1<br /> <br /> ThS. Trường Đại học Đồng Tháp<br /> <br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 29/10/13<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 24/02/14<br /> Ngày chấp nhận đăng: 03/15<br /> Title:<br /> Choi giua Mua Trang-A<br /> magical world<br /> Từ khóa:<br /> Hàn Mặc Tử, mùa trăng,<br /> huyền ảo, thơ văn xuôi<br /> Keywords:<br /> Han Mac Tu, moon seasons,<br /> fanciful, prose poem<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Han Mac Tu is considered one of greatest poets of the Tho Moi variations, in<br /> which “Choi giua mua trang” is characterized one due to its magical meanings.<br /> Its clarification has been included in its title such as being clear, simple and<br /> fantastic and also help the number of audiences imagine what a magical moon is.<br /> These clasified characteristics have been shown in the series of Han Mac Tu.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Hàn Mặc Tử là một hồn thơ lạ của phong trào Thơ mới. “Chơi giữa mùa trăng”<br /> cũng là thi phẩm mang đậm chất lạ của ông. Nó là cõi giới của huyền diệu, của<br /> mộng ảo. Chất lạ hay sự ảo diệu của nó toát lên từ nhan đề: rõ ràng, mộc mạc<br /> nhưng vẫn gợi sự mơ hồ, mông lung; toát lên từ cái nhìn về trăng: một vầng<br /> trăng kì ảo; từ một không gian thơ cũng đầy hư ảo, thực - mộng nhập nhòe và cả<br /> thể thơ văn xuôi - những câu thơ không chịu nương mình trong khuôn khổ. Thi<br /> phẩm thật sự là cõi giới chỉ có trong cảm nhận của riêng Hàn Mặc Tử.<br /> <br /> 1. Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) mất đã hơn 70 năm<br /> nhưng đến nay ông vẫn còn được xem là một hiện<br /> tượng thơ kì lạ trên diễn đàn thơ ca Việt Nam hiện<br /> đại. Vườn thơ “rộng rinh vô bờ bến” của ông đã<br /> đón nhận biết bao lần những người yêu thơ ông<br /> tìm đến. Nhưng, dù tiếp cận nó bằng lối ấn tượng,<br /> trực giác hay phương pháp khoa học thì nhiều<br /> người cũng đã thú nhận, hoặc như Hoài Thanh:<br /> “Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử ta<br /> không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai<br /> hiểu được” (Hoài Thanh, 2000, tr.187), hoặc như<br /> Chu Văn Sơn: “Thơ Hàn Mặc Tử vẫn cứ như một<br /> kí tự lạ lùng mà mỗi cách đọc, cách giải được đưa<br /> ra chỉ xem như một giả thuyết không ít vu vơ”<br /> (Chu Văn Sơn, 2003, tr. 211). Phải chăng vì thi<br /> nhân đã sở hữu “một tư duy thơ độc đáo” (Đỗ Lai<br /> Thúy, 2000, tr. 209), “một quan niệm thơ khác<br /> lạ”, “một thi học của cái tột cùng”? Kiểu tư duy,<br /> khí chất và bệnh tật cùng với quan niệm thơ của<br /> ông đã làm nên một thế giới thơ ca nhiều khác lạ<br /> so với đương thời, nhất là ở tính chất hư ảo, huyền<br /> bí của nó.<br /> <br /> 2. Chơi giữa mùa trăng là một áng thơ văn xuôi<br /> của Hàn Mặc Tử cũng chứa đầy chất lạ. Có thể<br /> xem nó như thế giới của cõi Mộng, của sự diệu ảo<br /> đầy siêu thực mà cũng đầy lãng mạn. Cái thế giới<br /> ấy được gợi lên từ nhiều yếu tố đậm nhạt khác<br /> nhau.<br /> 2.1 Đầu tiên đi từ nhan đề thi phẩm. Ngay từ nhan<br /> đề, tác giả đã đưa người đọc vào sự mơ hồ, mông<br /> lung dù câu từ tưởng đã rõ ràng và mộc mạc: Chơi<br /> giữa mùa trăng. “Mùa trăng” là cụm từ chỉ thời<br /> gian nhưng nó cũng gợi cả không gian. “Mùa<br /> trăng” là nói trăng rằm trung thu? Từ lúc nào đã<br /> được hiểu như vậy mặc dù chu kì trăng khuyết –<br /> tròn – khuất tháng nào cũng lặp lại và mùa nào<br /> cũng có. Và, dân gian thì chỉ dùng chu kì trăng để<br /> tính đơn vị thời gian là tháng. Những đêm trăng<br /> rằm mùa thu đã biến thành mùa trăng, nghĩa là có<br /> sự kéo dài thời gian, dàn trải nó ra thành mùa. Và,<br /> “mùa trăng” đã tạo được ấn tượng về không gian<br /> đậm nét. Đó là một không gian trăng như chảy<br /> tràn, lai láng, như dát chiếu vàng trên mặt đất, dát<br /> vàng trên mặt nước. Cả thời gian dài không gian<br /> <br /> 65<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 65 – 72<br /> <br /> An Giang University<br /> <br /> như được tắm gội, phủ đầy ánh trăng huyền hoặc,<br /> thơ mộng, còn gì huyền ảo hơn, kì thú hơn? Và<br /> ngay ở từ “chơi” dân dã cũng gợi sự mông lung.<br /> Đó là cuộc nô đùa, du ngoạn, hoạt động giải trí<br /> thuần túy dưới trăng của những đứa trẻ mười ba,<br /> mười lăm tuổi? Hay, thật ra nó là một cuộc chơi<br /> của ngôn từ, cuộc du ngoạn của những ý tưởng<br /> đầy ngẫu hứng ở người thanh niên giàu trí tưởng<br /> tượng, giàu mộng mơ lãng mạn nhưng cũng quá<br /> bất hạnh trong cuộc đời?<br /> <br /> tưởng nhưng cũng tận cùng Đau thương. Lí giải<br /> nguyên nhân vì sao trăng là nỗi ám ảnh trong thơ<br /> Hàn thì hầu như bài viết nào viết về tác giả này<br /> cũng ít nhiều có đề cập đến. Theo Thụy Khuê, đó<br /> là sự yêu thích, bởi vầng trăng quê nhà của thi<br /> nhân tuyệt đẹp, tuyệt kì ảo và đó cũng là cội<br /> nguồn tuổi thơ. Còn theo Thu Tứ, sở dĩ trăng hiện<br /> diện nhiều trong thơ Hàn là vì trong “Cô đơn, tù<br /> túng quá, Anh dựa vào cái mà thiên nhiên đã cho<br /> Anh nhiều nhất, dễ dàng tiếp cận nhất”. Và, đó<br /> còn là do bệnh lí (Trần Thanh Mại, 1941, tr.62),…<br /> Cách lí giải nào cũng hợp lí song đứng riêng lẻ thì<br /> nó đúng nhưng chưa đủ. Theo chúng tôi, tất cả<br /> những lí do ấy hợp lại thì thuyết phục hơn.<br /> <br /> 2.2 Tiếp theo là Trăng, đối tượng được đề cập trực<br /> tiếp, yếu tố trung tâm kiến tạo nên thế giới mộng<br /> mơ, huyền ảo. Trăng là của tự nhiên, của chung<br /> mọi người nhưng bao đời nay nó như đặc ân dành<br /> riêng cho thi sĩ: “Trăng vú mộng đã muôn đời thi<br /> sĩ / Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy” (Cảm xúc –<br /> Xuân Diệu). Người thì mơn trớn vẻ đẹp sáng<br /> trong vằng vặc giữa trời của nó (Truyện Kiều –<br /> Nguyễn Du), người thì nâng niu vẻ đẹp ấy đến<br /> nỗi: “Nâng tà áo bọc ánh trăng / Nỡ nào lãng phí<br /> ánh vàng lung linh” (Đêm mười bảy dưới trăng<br /> viết nhanh gửi bạn – Cao Bá Quát). Có thể nói,<br /> với thơ cổ, vầng trăng hiện hữu trong thơ bao giờ<br /> cũng kèm theo sứ mệnh của nó: nói hộ nỗi lòng<br /> thi nhân – nỗi lòng đắm say cái đẹp!<br /> <br /> Vì trăng chủ trì cả hơi thơ lẫn tứ thơ Hàn (Thu<br /> Tứ), là “một trong hai cái luận đề yêu dấu (trăng<br /> và hồn)”- “cái ám ảnh ghê gớm mà thi sĩ không<br /> thoát ly được” nên “Hành trình của đường thơ<br /> Hàn Mặc Tử lưu lại dấu vết trong những mảnh<br /> trăng” (Chu Văn Sơn, 2003, tr. 217] cũng không<br /> có gì khó hiểu. Thủa ban đầu trăng trong thơ Hàn<br /> mang vẻ đẹp huyền nhiệm của đất trời, nỗi rạo<br /> rực, khát khao của tuổi trẻ. Trăng lúc này là thế<br /> giới của giấc mơ, của hạnh phúc. Ở chặng tiếp<br /> theo, giai đoạn của những mê loạn, những giày<br /> vò, đau đớn của thân xác bệnh tật, trăng vẫn mênh<br /> mang trên những trang thơ nhưng nó đã thành nỗi<br /> ám ảnh nhức nhối, nói như Đào Trường Phúc: “nó<br /> vừa là cõi trú, vừa là vực thẳm đầy đọa tâm hồn<br /> ông” (Đào Trường Phúc, 1971, tr. 76). Có lúc nó<br /> là “trăng mơ”, “trăng thơm” nhưng có lúc nó là<br /> “trăng điên”, “trăng bệnh”. Và cuối cùng, khi ông<br /> đã vượt qua được những mê loạn, những tuyệt<br /> vọng, trăng lại trở về là thế giới cưu mang niềm<br /> mơ ước, là cõi trú yên bình. Trăng đúng là một ân<br /> sủng, là một sự đền bù mà cuộc đời dành cho ông,<br /> đặt cạnh ông trong lúc những người thân yêu của<br /> ông hoặc xa lánh hoặc buộc phải cách ly. Thật sự<br /> với Hàn Mặc Tử: “Chỉ có trăng sao là bất diệt /<br /> Cái gì hơn nữa cũng qua đi” (Thời gian).<br /> <br /> Đến với thơ ca hiện đại, nhất là với những vần thơ<br /> đã nhuốm màu tượng trưng, siêu thực, thơ về<br /> trăng xuất hiện không chỉ dừng lại là những rung<br /> động trước cái đẹp mà nó còn được mỹ hóa theo<br /> cái nhìn chủ quan của ấn tượng, của cảm giác, của<br /> năng lực tưởng tượng dồi dào. Nó không chỉ được<br /> nhìn ngắm bằng thị giác mà còn bằng linh giác,<br /> không chỉ là hình ảnh của một thiên nhiên trữ tình<br /> mà còn là kí hiệu, là biểu tượng mà qua đó người<br /> ta có thể thấu thị cả thế giới nội tâm, vô thức, tiềm<br /> thức của chủ thể. Đó là cả một cõi trăng huyền<br /> diệu nhưng cũng đầy hoang dại, ma mị đến kinh<br /> người: “Không gian dày đặc toàn trăng cả; Ôi kìa,<br /> bóng nguyệt trần truồng tắm / Lộ cái khuôn vàng<br /> dưới đáy khe; Bỗng hôm nay trước cửa bóng<br /> trăng quỳ / Sấp mặt xuống cúi mình theo dáng<br /> liễu; Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt”,… (Hàn<br /> Mặc Tử). Và, trăng đã từng là bầu bạn hóa giải<br /> nỗi cô đơn, thì giờ đây lại được mã hóa thành biểu<br /> tượng của nỗi cô đơn tràn ngập: “Sao vàng lẻ một,<br /> trăng riêng chiếc / Trăng ngà lặng lẽ buông như<br /> tuyết / Trong suốt không gian tịch mịch đời”<br /> (Xuân Diệu).<br /> <br /> Đã xuất hiện vô vàn trong thơ nhưng chưa ở ngòi<br /> bút nào trăng lại có nhiều biến ảnh khác lạ, linh<br /> động như ở thơ Hàn. Và, cũng không ở bài thơ<br /> nào của Hàn, nét thần tiên, thơ mộng, vẻ đẹp<br /> nhiệm mầu, kì ảo của trăng lại được khám phá<br /> đến tận cùng, đến bến bờ thật sự của nó như ở<br /> Chơi giữa mùa trăng. Ở đây, tác giả đã tạo dựng<br /> được một thế giới đích thực là của riêng ông, chỉ<br /> có ông mới nhìn thấy, cảm thấy được. Trước hết<br /> là cảm nhận của tác giả về Trăng:<br /> <br /> Trăng đã có một vị trí vô cùng đặc biệt trong thơ<br /> Hàn Mặc Tử - một hồn thơ nhiều khát khao mộng<br /> 66<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 65 – 72<br /> <br /> An Giang University<br /> <br /> “Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu,<br /> ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu<br /> người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận<br /> thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả<br /> tả... Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy,<br /> thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung<br /> động”.<br /> <br /> Dưới ánh trăng thấm đẫm, chảy tràn, bao la,<br /> huyền hoặc, vạn vật cũng như con người đều trở<br /> nên lung linh và nghiêng dần sang hư ảo. Sông<br /> thành một “đường trăng trải chiếu vàng”, dòng<br /> nước là “những dòng vàng”, thuyền đi trên sông<br /> dưới ánh trăng tưởng như “đương chở một thuyền<br /> hào quang, một thuyền châu ngọc”, dẫm chân lên<br /> cát mà tưởng như “bước trên phiến lụa”,… Còn<br /> con người nơi “Không gian dày đặc toàn trăng cả”<br /> ấy, như cũng không tin ở chính mình, ở cảm nhận<br /> của mình: “trăng mọc dưới nước hay mọc trên<br /> trời, và chúng mình đi thuyền trên trời hay dưới<br /> nước? - "Cả hai, chị ạ”… “Hai chị em đê mê<br /> không còn biết có mình và nhận mình là ai nữa”.<br /> <br /> Trăng là ánh sáng, được đồng nhất với ánh sáng.<br /> Đó là thứ ánh sáng êm dịu, tỏa rộng, phủ đầy<br /> đêm, một thứ ánh sáng thật dễ chịu. Vầng trăng<br /> thu của Hàn rất sáng, sáng nhất trong năm đã tỏa<br /> “ánh sáng tràn trề, tràn lan”, rực rỡ, chói lói. “Chỗ<br /> nào cũng có trăng, có ánh sáng cả”; “ngộp quá,<br /> sáng quá”. Và, không chỉ có màu sắc phiêu diêu<br /> đến nổi “đồng tử của chị tôi và tôi lờ đi vì chói<br /> lói” mà trăng của Hàn còn có hương thơm, có âm<br /> thanh tiếng nhạc: “ánh sáng càng thêm kỳ ảo,<br /> thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách<br /> ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say<br /> say gió xé rách lả tả (…) Vây chúng tôi bằng ánh<br /> sáng, bằng huyền diệu, chưa đủ, Ngưu Lang và<br /> Chức Nữ, chúa của đêm trung thu còn sai gió thu<br /> mang lại gần chúng tôi một thứ mùi gì ngào ngạt<br /> như mùi băng phiến, trong ấy biết đâu lại không<br /> phảng phất những tiếng kêu rên của thương nhớ<br /> xa xưa...”. Tác giả dường như căng mở tất cả các<br /> giác quan, lại chùi theo cảm xúc “say sưa”, “ngây<br /> ngất”, “đê mê” để nhìn ngắm, cảm nhận. Nhưng,<br /> ngay khi căng mở, thức nhọn các giác quan thì<br /> cũng không dễ gì cảm nhận được mùi thơm, tiếng<br /> nhạc của trăng, của ánh sáng. Ở đây, người thơ<br /> không chỉ dùng thị giác để nhìn vầng trăng trên<br /> nền trời mà ông dùng đến linh giác, tâm giác để<br /> cảm nhận nó – như cảm nhận sự tương giao huyền<br /> nhiệm của vạn vật trong vũ trụ. Cũng có thể người<br /> thơ đang tự tan biến, đang hóa thân vào đối tượng<br /> để tri nhận được sự huyền nhiệm, mơ hồ kia.<br /> <br /> … “Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá,<br /> tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho tượng Đức<br /> Bà Maria (…). Có phải chị không hở chị?" Tôi<br /> run run khi tôi có cái ý nghĩ: Chị tôi là một nàng<br /> Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh…- "A ha,<br /> chị Lễ ơi, chị là trăng, mà em đây cũng là trăng<br /> nữa!”<br /> Nếu ở trên người thơ như nghe thấy, cảm thấy<br /> được cả sự siêu hình, vô lượng của Trăng, của<br /> đêm trăng: “một đêm siêu hình, vô lượng, tượng<br /> trưng của một mùa ao ước xây bằng châu lệ, làm<br /> bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một<br /> nguồn khoái lạc chê chán…” thì đến đây, khi<br /> trạng thái “đê mê” được đẩy lên cao nhất thì<br /> người đã hóa thành trăng, tan biến hình hài trong<br /> trăng, hay trăng đã nhập vào người, đã hóa người.<br /> Không còn giăng mắc vào hiện thực bằng những<br /> từ ngữ “cứ ngỡ”, “có cảm tưởng”, “hình như”,<br /> “tưởng chừng”, mà đến đây đã là sự khẳng định<br /> “chị là trăng, mà em đây cũng là trăng”. Một sự<br /> say trăng đến kì lạ hay thi nhân đã thật sự sống<br /> trong thế giới là cõi Mộng của mình?<br /> Trăng xuất hiện vào đêm mà đêm là không gian<br /> của bóng tối nhưng dưới ánh trăng của Hàn ta<br /> thấy không có một vệt đêm, một vệt tối nào hiện<br /> hữu. Ở đâu cũng lấp lánh, cũng lung linh. Sắc<br /> màu lung linh, lấp lánh ấy phát ra từ những dòng<br /> vàng trên mặt sông, từ những vì tinh tú tỏa hào<br /> quang trên trời như đang rơi rụng xuống, từ màu<br /> trắng huyền hoặc của động cát. Và, càng lung<br /> linh, chói lói trong hình ảnh nhập hòa, trùng khít:<br /> người là trăng, trăng là người.<br /> <br /> Trăng là ánh sáng, trăng có hương thơm, trăng<br /> phát ra tiếng nhạc, và đó là vô hình. Song, chưa<br /> dừng ở đó, trăng của Hàn còn là vật thể hữu hình:<br /> "Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành<br /> trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao<br /> thoát được”;… " Chị tôi làm thinh, – mà từng lá<br /> trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc<br /> vàng”. Rõ ràng, Trăng của Hàn không phải là một<br /> tinh cầu đất đá, không phải là hình ảnh cố định,<br /> bất động trên bầu trời mà nó là vầng trăng kì ảo,<br /> huyền ảo bởi sự biến hóa kì diệu của nó.<br /> <br /> 2.3 Ở phương diện không gian và thời gian nghệ<br /> thuật của thi phẩm, ta càng thấy rõ đây là miền<br /> mơ, cõi mộng của người thơ. Có hai không gian<br /> <br /> Và sự huyền ảo không chỉ dừng ở đó. Vầng trăng<br /> của Hàn đã phủ sự ảo diệu lên vạn vật dưới nó.<br /> 67<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 65 – 72<br /> <br /> An Giang University<br /> <br /> trong Chơi giữa mùa trăng: Không gian thực và<br /> không gian ảo – Không gian vũ trụ và không gian<br /> tâm tưởng. Không gian thực là cảnh hai chị em<br /> chèo thuyền trên sông chơi trăng, du ngoạn dưới<br /> trăng. Ở đó có bến đò thôn Chùa Mo, có động cát<br /> Quảng Bình, có cảnh trăng càng lên cao thì thủy<br /> triều càng dâng lên cao. Song, hiện thực này cứ<br /> chuyển dần sang bờ hư ảo, cứ dần trở nên mông<br /> lung, nhòa đi để rồi cuối cùng thành ảo giác khi<br /> chủ thể trữ tình bằng những liên tưởng bất tận đã<br /> vượt thoát khỏi nó, hướng về thế giới của riêng<br /> ông.<br /> <br /> miền xa khuất. Những dòng vàng (lùa những dòng<br /> vàng trôi trên mặt nước), lá trăng (mà từng lá<br /> trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng)<br /> thì mới là những liên tưởng ẩn dụ dựa vào màu<br /> sắc hay hình dáng, song hình ảnh của động cát<br /> qua miêu tả của tác giả thì thật sự từ hiện thực nó<br /> đã thành hư ảo: “Động là một thứ hòn non bằng<br /> cát, trắng quá, trắng hơn da thịt của người tiên,<br /> hơn lụa bạch, hơn phẩm giá của tiết trinh, – một<br /> màu trắng mà tôi cứ muốn lăn lộn điên cuồng,<br /> muốn kề môi hôn, hay áp má lên để hưởng sức<br /> mát rượi dịu dàng của cát...”. Màu trắng của cát,<br /> sự mát rượi của cát dưới trăng là hình ảnh thực,<br /> cảm giác thực song khi tác giả đặt nó bên những<br /> hình ảnh trong mạch liên tưởng của ông, trắng<br /> hơn da thịt của người tiên, của lụa bạch thì cái<br /> thực, cái cụ thể này đã nhòe đi, bởi da thịt của<br /> người thì có thể hình dung nhưng người tiên đã là<br /> ảo; lụa bạch thì ai cũng biết nhưng da thịt của lụa<br /> bạch thì phải dùng đến tưởng tượng. Và đến<br /> (trắng) hơn phẩm giá của tiết trinh thì tất cả đã là<br /> trừu tượng, vô hình, hoàn toàn hư ảo. Hình ảnh<br /> thực khúc xạ qua chủ quan người thơ đã cập bến<br /> bờ hư ảo, đã vượt thoát khỏi vùng kiểm soát của lí<br /> tính.<br /> <br /> Thế giới hư ảo ấy đến từ những liên tưởng, những<br /> hình ảnh được tác giả đem ra so sánh hay đồng<br /> nhất hóa nó với hiện thực, những hình ảnh chỉ có<br /> trong huyền thoại, cổ tích, trong thẳm sâu tiềm<br /> thức con người. Đó là Ngưu Lang Chức Nữ, dòng<br /> Ngân Hà, bến Hàn Giang, một huyền thoại được<br /> kết tinh từ đỉnh cao của thứ tình yêu lãng mạn. Đó<br /> là cảnh nước Nhược non Bồng, động phủ thần<br /> tiên nơi đã từng in dấu bước chân Đào Nguyên<br /> tiên nữ. Câu chuyện lạc bước vào cõi tiên ngày<br /> nào của Từ Thức có nhiều ý nghĩa nhưng chắc<br /> chắn chuyện tình yêu giữa chàng và người tiên<br /> vẫn còn là thế giới mơ tưởng của con người.<br /> Đường đến với Cõi Tiên hay Đào Nguyên đã<br /> được dân gian mở lối và Tản Đà cũng đã dấn<br /> bước đến Thiên Thai. Ở đó, Cõi Tiên - Thiên Thai<br /> là biểu tượng của sự viên mãn đã vụt tầm, là hình<br /> ảnh của sự hoài vọng. Còn cõi Tiên của Hàn?<br /> Hướng đến nó là hướng đến thế giới của hạnh<br /> phúc, của sự thảnh thơi? Hướng về nơi, theo tâm<br /> thức người Việt là “luôn luôn được sống mà<br /> không cần phải nỗ lực”? Cõi Tiên của Hàn là nơi<br /> có Ngưu Lang Chức Nữ, có Từ Thức và người<br /> tiên, hướng đến những mối tình lãng mạn này để<br /> thỏa nguyện ước tuổi trẻ hay để xoa dịu mối tình<br /> đau hiện hữu trong đời? Cõi Tiên của Hàn còn là<br /> cảnh “vườn tiên sáng láng”: “ngập tràn ánh sáng”,<br /> “sáng quá”, là nơi “sông Ngân hà trinh bạch<br /> đương đắm chìm các ngôi sao đi lạc đường”,<br /> “…có một vì tiên nữ đang kêu thuyền để quá<br /> giang…”. Đọc thi phẩm, người đọc không còn<br /> cảm giác là người thơ đang tưởng tượng mà ông<br /> như đang mộng du trong thế giới thần tiên đó.<br /> <br /> Tạo nên thế giới hư huyền, ảo diệu như là cõi<br /> Mộng ấy còn có sự hiện diện của yếu tố thời gian.<br /> Chơi giữa mùa trăng cũng như phần lớn những<br /> tác phẩm khác của Hàn Mặc Tử không ghi rõ thời<br /> gian sáng tác, được xuất bản sau khi tác giả đã<br /> qua đời (in lần đầu năm 1941, nhà xuất bản Ngày<br /> Mới ấn hành; Nhà xuất bản An Tiêm tái bản năm<br /> 1969). Theo Thanh Thảo, Hàn Mặc Tử sáng tác<br /> thi phẩm này trước khi ông phát hiện mình bị<br /> bệnh nan y. Còn theo Đào Trường Phúc nó được<br /> sáng tác ở chặng đường cuối, giai đoạn tác giả đã<br /> tìm lại được sự bình tâm, chấp nhận định mệnh,<br /> chấp nhận sự tuyệt vọng.<br /> Chúng tôi cũng không đủ cơ sở để khẳng định đâu<br /> là thời gian chính xác nhưng nếu là sáng tác trước<br /> khi phát bệnh, theo chúng tôi, nó cũng thuộc thời<br /> gian kí ức, thời gian hoài niệm. Vì sao? Trong bài<br /> thơ, nhân vật người chị lúc ấy mười lăm tuổi,<br /> nhân vật tôi sẽ là mười bốn, mười ba hay mười<br /> hai? Theo tác giả Đỗ Lai Thúy, Hàn Mặc Tử bắt<br /> đầu làm thơ từ năm mười bốn tuổi (1926). Cho dù<br /> thế thì về mặt hình thức của tác phẩm – thể thơ<br /> văn xuôi, hơn nữa lại là một bài thơ văn xuôi toàn<br /> bích, thành tựu đáng kể của thể thơ này ở chặng<br /> đường thể nghiệm thì khó có thể được viết từ một<br /> cậu thiếu niên mà sản phẩm đầu tay trong sự<br /> <br /> Không gian ảo còn được gợi lên từ những hình<br /> ảnh được xây bằng ảo giác. Nét thực, cảnh thực<br /> neo vào bờ ý thức của thi nhân thật mỏng manh.<br /> Nó chỉ là điểm xuất phát ban đầu rồi sau đó người<br /> thơ như bị mê hoặc, như bị dẫn dụ, đắm mình<br /> trong những liên tưởng, càng lúc càng đi vào cõi<br /> 68<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 65 – 72<br /> <br /> An Giang University<br /> <br /> nghiệp thơ ca là tập thơ Đường luật! Thơ văn<br /> xuôi, theo như Hữu Đạt - mà cũng có sự đồng tình<br /> của nhiều người, “là đỉnh phát triển cao nhất của<br /> thơ tự do”. Và ngày nay, chúng ta cũng đã thừa<br /> nhận rằng: sự ra đời của thể thơ này không phải là<br /> sự pha trộn, kết hợp ngẫu hứng của thể loại mà<br /> thật sự nó là một nỗ lực tìm kiếm sự cộng hưởng<br /> các khả năng của thơ và văn xuôi để có thể thể<br /> hiện một cách đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất thế giới<br /> tinh thần sâu sắc, phong phú của cái tôi trữ tình.<br /> Như vậy, khó có khả năng thời gian ở đây thuộc<br /> về thì hiện tại. Và như vậy, tác giả đã dùng đôi<br /> mắt của tưởng tượng, đôi mắt của kí ức, tức trở về<br /> tuổi thơ, trở về kỉ niệm những đêm chơi trăng trên<br /> động cát Sa Kì để Chơi giữa mùa trăng? Trực<br /> diện, quan sát bằng lăng kính trong trẻo hay kì ảo<br /> của trẻ thơ để thấy được tất cả sự tinh khôi của vẻ<br /> Đẹp, bộc lộ được hết sự ngỡ ngàng của con người<br /> say cái Đẹp, khát khao cái Đẹp. Phục dựng lại<br /> cảnh đêm trăng bằng cách ấy hỏi sao Chơi giữa<br /> mùa trăng lại không lung linh, kì diệu. Mơ mộng<br /> biết là huyễn tưởng nhưng rõ ràng nó vẫn tồn tại<br /> như một sự bù đắp cho những thiếu vắng, những<br /> hẫng hụt của thực tại. Ở đây, khi người thơ đi vào<br /> xây lầu mộng cho mình, ông cũng vô tình hé mở<br /> cho người đọc bước vào một góc thế giới tinh<br /> thần của ông: Niềm khát khao hướng thượng –<br /> hướng thượng theo nghĩa hướng tới những giá trị<br /> nhân sinh, những vẻ đẹp kì diệu của cuộc sống<br /> bằng sức mạnh của nghệ thuật. Và với cái thế giới<br /> mà thật ra nó là cõi đời hay cõi mộng không thể<br /> phân định được ấy, phải chăng cũng chính là cõi<br /> trú của Hàn ở những tháng ngày Đau thương?<br /> <br /> trao cho bạn mình lúc còn sống là Trần Thanh<br /> Địch - em Trần Thanh Mại, thì nhà nghiên cứu<br /> này vẫn xem Chơi giữa mùa trăng là một bài văn<br /> xuôi mặc dù ông cũng nhận ra tính chất đặc biệt<br /> của loại văn xuôi này. Đó là “Một bài văn xuôi<br /> mới lạ xưa nay trong văn giới của toàn thể hoàn<br /> cầu cũng chưa ai nghĩ đến nó”. Và, khi nhà xuất<br /> bản An Tiêm tái bản Chơi giữa mùa trăng vào<br /> năm 1969, thì lúc đó vẫn còn ghi: “Chơi giữa mùa<br /> trăng là tập văn di cảo của Hàn Mặc Tử do nhà<br /> xuất bản An Tiêm xuất bản theo sự thỏa thuận của<br /> thi sĩ Quách Tấn”. Hơn nữa, ở vào những năm<br /> 1940 này, khái niệm thơ văn xuôi cũng chưa xuất<br /> hiện. Ý thức về hình thức thơ đặc biệt này thì đã<br /> có ở một số cây bút như Xuân Diệu hay Huy Cận<br /> qua những phát biểu cụ thể. Chẳng hạn, Xuân<br /> Diệu trong lời đề tựa cho tập Phấn thông vàng của<br /> mình, ông viết: “Xin đừng tìm trong phấn thông<br /> vàng những truyện có đầu đuôi, có công việc, có<br /> sáng hôm trước và chiều hôm sau. Ở đây chỉ có<br /> một ít đời và rất nhiều tâm hồn, hợp lại thành bao<br /> nghĩ ngợi bâng khuâng, không cốt để giải trí<br /> người ta, mà trái lại để xui trí người ta thêm bận<br /> vẩn vơ, lưởng vưởng”. Ở tập “truyện” này, theo<br /> quan niệm về thơ văn xuôi hiện nay thì có nhiều<br /> bài thuộc về thơ văn xuôi (Đó là thể thơ được<br /> trình bày dưới hình thức văn bản văn xuôi nhưng<br /> mang đậm chất thơ nhờ vào sự âm vang của nhịp<br /> điệu, việc sử dụng những biểu trưng nghệ thuật,<br /> việc hướng vào khai thác chiều sâu thế giới nội<br /> tâm của con người). Cũng vậy, cái tên “Trường<br /> ca” mà ông dùng để gọi tên sáng tác có hình thức<br /> văn xuôi của mình thì, theo chúng tôi, cả 10 văn<br /> bản ấy cũng là thơ văn xuôi nốt. Vậy thì, loại văn<br /> mà “chỉ có một ít đời và rất nhiều tâm hồn” hay<br /> cái tên gọi trường ca ấy đằng sau nó phải chăng là<br /> ý thức về tính chất đặc biệt của hình thức văn xuôi<br /> mà tác giả đã sáng tác? Nó không còn là loại văn<br /> xuôi bình thường nữa. Với Huy Cận cũng thế, ông<br /> gọi tác phẩm Kinh cầu tự mà ngày nay ta cho là<br /> thơ văn xuôi, là một tập kinh: “Đây là một tập<br /> kinh; Lời kinh chắc cũng có khác lời nói chuyện<br /> đôi ba; - cũng khác lời bàn bạc giữa công chúng”.<br /> Đặc điểm của câu kinh là có sự hài hòa, nhịp<br /> nhàng, cân đối, giàu tính nhạc và hình ảnh ở đó<br /> cũng lung linh, bí ẩn. Cộng thêm với không khí<br /> tôn giáo nó có khả năng mê hoặc, dẫn dụ con<br /> người. Đó cũng là thứ văn xuôi đầy ma lực, một<br /> thứ văn xuôi đặc biệt.<br /> <br /> 2.4 Kiến tạo nên cõi mơ huyền diệu của Chơi giữa<br /> mùa trăng cũng không thể không kể đến yếu tố<br /> thể loại của nó. Sở dĩ chúng tôi dùng từ thể loại vì<br /> đây là hình thức thơ có thể xét ở hai cấp độ. Nằm<br /> trong hệ thống thơ trữ tình thì nó là thể thơ văn<br /> xuôi bên cạnh thể thơ luật, thể Thơ mới, hay thể<br /> thơ tự do. Song, thơ văn xuôi lại chứa trong nó hai<br /> yếu tố tự sự và trữ tình, nó là sự giao thoa của hai<br /> thể loại văn xuôi và thơ. Và ở cấp độ này ta có thể<br /> xem nó với tư cách là thể loại. Thi phẩm được in<br /> khi tác giả đã thành người thiên cổ, sự định danh<br /> nó là thơ văn xuôi trong Thơ văn Hàn Mặc Tử<br /> (Phê bình và tưởng niệm) do Phan Cự Đệ biên<br /> soạn, Nhà xuất bản Giáo dục, 1993, hay trong<br /> Hàn Mặc Tử – Thơ và đời, Nhà xuất bản Văn học,<br /> 2004 chắc chắn không phải được ghi từ tác giả.<br /> Vì, Trần Thanh Mại, người đã giới thiệu thơ Hàn<br /> Mặc Tử từ những tư liệu gốc do chính thi nhân<br /> <br /> Hàn Mặc Tử viết rất nhiều về trăng, riêng có Chơi<br /> giữa mùa trăng là có hình thức thơ khác lạ. Đây là<br /> 69<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2