intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chủ đề 4: Khủng hoảng tài chính

Chia sẻ: In The End | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

33
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khủng hoảng tài chính xảy ra khi có sự gián đoạn trong hệ thống tài chính và sự gián đoạn này làm cho vấn đề lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức gia tăng trên các thị trường tài chính, dẫn tới việc chúng không còn khả năng tạo kênh dẫn vốn có hiệu quả từ người tiết kiệm tới những người có cơ hội đầu tư vào sản xuất. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo chủ đề 4 "Khủng hoảng tài chính" dưới đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chủ đề 4: Khủng hoảng tài chính

CHỦ ĐỀ 4: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH.<br /> Khủng hoảng tài chính xảy ra khi có sự gián đoạn trong hệ thống tài chính và sự gián đoạn này làm<br /> cho vấn đề lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức gia tăng trên các thị trường tài chính, dẫn tới việc chúng<br /> không còn khả năng tạo kênh dẫn vốn có hiệu quả từ người tiết kiệm tới những người có cơ hội đầu tư vào<br /> sản xuất. Sự bất lực của thị trường tài chính trong việc hoạt động có hiệu quả làm cho hoạt động của nền<br /> kinh tế bị suy giảm nghiêm trọng.<br /> 1. Khủng hoảng tài chính ở nền kinh tế tiên tiến:<br /> Có thể trải qua 2, hoặc 3 giai đoạn sau:<br /> - Giai đoạn 1: Sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng<br /> - Giai đoạn 2: Khủng hoảng hệ thống ngân hàng<br /> - Giai đoạn 3: Giảm phát nợ<br /> Giai đoạn 1: Sự khởi đầu cuộc khủng hoảng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giai đoạn 2: Sự khủng hoảng hệ thống ngân hàng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giai đoạn 3: Giảm phát nợ - Chỉ xảy ra khi hoạt động kinh tế giảm sút tác động làm mức giá<br /> giảm bất ngờ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> 1.1. Cuộc đại khủng hoảng ở Mỹ năm 1929 – 1933:<br /> Giai đoạn 1:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giai đoạn 2:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giai đoạn 3:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> Đại khủng hoảng là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929 đến hết các năm 1930<br /> và lấn sang đầu thập kỷ 1940, bắt đầu sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Phố Wall vào 29 tháng<br /> 10 năm 1929 (còn được biết đến như Thứ Ba Đen tối). Nó bắt đầu ở Hoa Kỳ và nhanh chóng lan rộng ra<br /> toàn Châu Âu và mọi nơi trên thế giới, phá hủy cả các nước phát triển. Thương mại quốc tế suy sụp rõ rệt,<br /> từ thu nhập cá nhân, thuế, lợi tức đều bị ảnh hưởng và suy thoái. Xây dựng gần như bị tê liệt ở nhiều<br /> nước. Từ thành thị đến nông thôn đều phải đối mặt với mất mùa, giảm từ 40 đến 60 phần trăm. Các lĩnh<br /> vực khai mỏ và khai thác gỗ bị ảnh hưởng lớn nhất. Đại Suy thoái kết thúc vào các thời gian khác nhau<br /> tùy theo từng nước. Nó bị coi là "đêm trước" của Thế chiến thứ hai.<br /> Nguyên nhân:<br /> - Theo trường phái Áo, nguyên nhân bắt nguồn từ sự can thiệp của Chính phủ vào thập kỷ 1920. Sự dễ<br /> dãi trong tăng tín dụng đẩy các ngân hàng dễ dàng cho vay, dẫn tới bùng nổ quá mức cung tiền ngay<br /> trước khi khủng hoảng, đẩy thị trường chứng khoán bùng nổ quá mức, ngân hàng cho vay quá<br /> nhiều, rủi ro quá mức không được quản lý. Khi thị trường chứng khoán sụp đổ, kéo theo sụp đổ dây<br /> chuyền của các thể chế tài chính do các khoản nợ xấu không đòi được.<br /> - Theo trường phái Keynes, cơ chế tự điều chỉnh của thị trường tự do không hoạt động được. Dù lãi<br /> suất giảm nhưng đầu tư không tăng được do kỳ vọng về tương lai quá bi quan.<br /> - Theo trường phái của kinh tế tiền tệ (monetarist), khủng hoảng là do sự xiết chặt quá mức của cung<br /> tiền năm 1930, và rằng Cục dự trữ Liên Bang đã sử dụng sai chính sách tiền tệ, đáng lẽ phải tăng cung<br /> tiền, thay vì đã giảm cung tiền.<br /> - Khủng hoảng nợ dưới chuẩn (Deft Deflation): Khi nợ bị đánh giá khó đòi, việc bán ra số lượng lớn<br /> với giá rẻ, làm cho tài sản nhìn chung lại càng mất giá, khiến các khoản nợ còn tồn lại càng giảm<br /> chất lượng (do tài sản thế chấp bị giảm giá). Vòng xoáy này như quả bóng tuyết càng ngày càng to,<br /> đẩy cả thị trường nợ và tài sản xuống, làm cho các thể chế tài chính và cá nhân trên thị trường vỡ nợ.<br /> Khi vỡ nợ nhiều quá, đẩy sản xuất và lợi nhuận xuống thấp, đầu tư đình trệ, việc làm mất và dẫn tới<br /> bẫy đói nghèo.<br /> - Sự bất công bằng trong giàu nghèo và thu nhập: Sự bất công bằng trong giàu nghèo được Waddill<br /> Catchings và William Trufant Foster cho là nguyên nhân của Đại Khủng Hoảng. Sản xuất ra quá<br /> nhiều hơn khả năng mua của thị trường (vốn đa số là người nghèo). Lương tăng chậm hơn so với<br /> mức tăng năng suất, dẫn tới lợi nhuận cao, nhưng lợi nhuận lại bị rót vào thị trường chứng khoán, mà<br /> không phải đưa tới cho người tiêu dùng. Do thị trường chứng khoán tăng nhanh, các doanh nghiệp mở<br /> rộng sản xuất, FED lại để mức lãi suất cho vay rất thấp, làm đẩy mạnh đầu tư quá mức. Nền kinh<br /> tế tăng nóng trong một thập kỷ, đến mức khả năng sản xuất quá cao so với mức hiệu quả và so với<br /> mức cầu. Như vậy, nguyên nhân của khủng hoảng là do đầu tư quá mức vào các ngành công nghiệp<br /> nặng thay vì vào lương và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nền kinh tế tăng quá mức hiệu quả và lạm phát<br /> quá cao.<br /> - Cấu trúc thể chế tài chính: Các ngân hàng bị cho là quá rủi ro, khi dự trữ quá ít, đầu tư quá nhiều<br /> vào thị trường chứng khoán và các tài sản rủi ro. Khối nông nghiệp thì quá rủi ro khi giá đất tăng quá<br /> 3<br /> cao, hiệu suất nông nghiệp thấp, trong khi nông dân đi vay quá nhiều để sản xuất, khi lãi suất đột ngột<br /> tăng cao thì họ lâm vào phá sản vì không thể sản xuất để trả lãi vay cao. Một số nhà kinh tế cho rằng<br /> nguyên nhân có thể là từ Bẫy Thanh khoản (khi các chính sách tiền tệ như giảm lãi suất và tăng cung<br /> tiền không thể thúc đẩy nền kinh tế).<br /> - Chế độ bản vị Vàng: Để chống lạm phát, các nước sau Thế chiến Thứ nhất áp dụng bản vị vàng (đồng<br /> tiền gắn chặt với một lượng vàng nhất định). Sốc bắt đầu từ vụ Sụp đổ của thị trường chứng khoán<br /> Mỹ, nhưng vì chế độ bản vị vàng mà khủng hoảng từ Mỹ lan rộng ra khắp thế giới. Chính vì các chính<br /> phủ tiếp tục giữ chế độ bản vị vàng, họ không thể đưa ra các chính sách tiền tệ nới lỏng để chữa<br /> khủng hoảng. Những nước nào thoát khỏi bản vị vàng sớm chính là những nước khôi phục kinh tế<br /> sớm.<br /> 1.2. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2009<br /> Giai đoạn 1:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giai đoạn 2:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực tài chính<br /> (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007 cho đến tận nay. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn<br /> từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp của cuộc khủng<br /> hoảng tài chính toàn cầu 2007-2010.<br /> a. Nguyên nhân:<br /> - Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển mạnh trong môi<br /> trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001.<br /> <br /> 4<br /> Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm bảo bằng tài<br /> sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự là một phát minh lớn<br /> về công cụ tài chính. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh tế liên quan đến chứng khoán hóa<br /> (thay vi 2 loại chủ thế kinh tế là người thế chấp - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay - nhận thế chấp<br /> như giao dịch tín dụng truyền thống), vì sự xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khoán<br /> hóa như hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng (CDS), vì sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục<br /> đích đặc biệt (SPV) và những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại<br /> những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn nghịch. Trong khi đó, mô hình giám<br /> sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các rủi ro này<br /> Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đối với bong bóng thị trường tài sản xảy<br /> ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực<br /> hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng;<br /> một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền<br /> gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn.<br /> - Thực tế, thị trường nhà ở bắt đầu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà đất giảm và chất<br /> lượng tài sản đảm bảo cho các MBS và các CDO giảm theo. Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho<br /> khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS<br /> và CDO cũng như một số tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và<br /> CDO sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007 khi đến lượt cả các<br /> SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả<br /> những tổ chức tài chính khổng lồ như Lehman Brothers sụp đổ.<br /> Bong bóng thị trường nhà ở: Sau khi bong bóng Dot-com vỡ vào năm 2001 và suy thoái kinh tế hiện<br /> rõ sau sự kiện 11 tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền<br /> kinh tế nước này khỏi suy thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng. Chỉ trong thời<br /> gian ngắn từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 12 năm 2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5%<br /> xuống còn 1,75%. Tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo. Điều này kích thích sự phát triển của<br /> khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong môi trường<br /> tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm, kể cả cho những người<br /> nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả là vay và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành<br /> bong bóng nhà ở. Năm 2005, có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua<br /> chỉ để không. Năm này, bong bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ. Từ quý IV năm<br /> 2005 đến quý I năm 2006, giá trị trung vịcủa giá nhà giảm 3,3%. Thời điểm đó, tổng giá trị lũy tích<br /> các khoản tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ dollar.<br /> - Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức tín dụng<br /> cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh khiến cho các<br /> loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - viết tắt của collateralized debt obligations) và chứng<br /> khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - viết tắt của mortgage-backed security) do các tổ chức<br /> tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng. Kết quả là bảng cân đối tài sản của các tổ chức này<br /> xấu đi và xếp hạng tín dụng của họ bị các tổ chức đánh giá đánh tụt. Cuộc khủng hoảng tín dụng<br /> nhà ở thứ cấp nổ ra.<br /> b. Diễn biến của khủng hoảng:<br /> Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial Corporation phải làm<br /> thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình mất giá mạnh như Countrywide<br /> Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra<br /> hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín<br /> dụng hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra.<br /> Từ Mỹ, rối loạn này lan sang các nước khác. Ở Anh quốc, ngân hàng Northern Rock bị chao đảo vì<br /> người gửi tiền xếp hàng đòi rút tiền gửi của mình ra.<br /> 5<br /> Trước tình hình đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tiến hành các biện pháp nhằm tăng mức độ thanh<br /> khoản của thị trường tín dụng chẳng hạn như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào các loại công<br /> trái Mỹ, trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ và trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ đảm bảo theo tín dụng nhà<br /> ở. Tháng Chín 2007, Cục Dự trữ Liên bang còn tiến hành giảm lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng<br /> (Fed fund rates) từ 5,25% xuống 4,75%. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã bơm 205<br /> tỷ Dollar Mỹ vào thị trường tín dụng để nâng cao mức thanh khoản.<br /> Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo kinh tế cuối<br /> năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính và quy mô của khủng<br /> hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố gắng<br /> giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2 năm 2008 nhưng không có hiệu quả như<br /> mong đợi.<br /> Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns, nhưng không nổi. Công<br /> ty này chấp nhận để JP Morgan Chasemua lại với giá 10 dollar một cổ phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều<br /> với giá 130,2 dollar một cổ phiếu lúc đắt giá nhất trước khi khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ<br /> liên bang New York cứu không nổi Bear Sterns và buộc lòng để công ty này bị bán đi với giá quá rẻ đã<br /> khiến cho sự lo ngại về năng lực can thiệp của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự<br /> sụp đổ của Bear Stern đã đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn.<br /> Tháng 8 năm 2008, đến lượt Lehman Brothers, một tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và lâu đời nhất<br /> của Mỹ, bị phá sản. Tiếp sau Lehman là một số công ty khác. Tháng 9 năm 2008, Thượng viện Hoa Kỳ<br /> thông qua Đạo luật Ổn định Kinh tế Khẩn cấp 2008 cho phép bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ chi tới 700 tỷ<br /> USD cứu nền tài chính của nước này bằng cách mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, đặc biệt là các<br /> chứng khoán đảm bảo bằng bất động sản.<br /> c. Tác động khủng hoảng:<br /> - Đối với Hoa Kỳ:<br /> Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy thoái từ tháng 12<br /> năm 2007. NBER dự đoán đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm trọng nhất ở Hoa Kỳ kể từ sau Chiến tranh thế<br /> giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng từ tháng 1 tới tháng 9 năm 2008, có 84 nghìn lượt người lao động Hoa<br /> Kỳ bị mất việc làm.<br /> Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời bị phá sản đã<br /> đẩy kinh tế Hoa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng. Đến lượt nó, tình trạng đói tín dụng lại ảnh hưởng đến khu<br /> vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu<br /> vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại<br /> làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị<br /> phá sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ là General Motors, Ford<br /> Motor và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội Hoa Kỳ cứu trợ,<br /> nhưng không thành công. Hôm 12 tháng 12 năm 2008, GM đã phải tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà<br /> máy của hãng ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh<br /> tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát.<br /> Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương tiện thanh toán phổ<br /> biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để nâng cao khả năng thanh khoản<br /> của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại.<br /> - Đối với thế giới<br /> Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy thoái, xuất<br /> khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền<br /> kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế<br /> khác đều tăng trưởng chậm lại.<br /> Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động nghiêm trọng cả về tài chính<br /> lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức trở thành khủng hoảng tài chính ở một số<br /> 6<br /> nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái,<br /> và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy<br /> thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày thành lập.<br /> Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ, nên cũng bị ảnh hưởng<br /> tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực<br /> của một cuộc khủng hoảng nợ.<br /> Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản xuất và tiêu<br /> dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng<br /> thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra đã làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương<br /> thực tăng cao trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộckhủng hoảng giá lương<br /> thực toàn cầu. Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp phải đợt mất giá chứng khoán nghiêm<br /> trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên<br /> Nhật, franc Thụy Sĩ đã khiến cho các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn<br /> cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở một số nước buộc họ phải xin trợ giúp<br /> của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tiền tệ khi won liên tục mất giá từ đầu năm<br /> 2008.<br /> d. Phản ứng của chính phủ Hoa Kỳ<br /> - Cục Dự trữ Liên bang<br /> Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, FED bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất<br /> và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục<br /> Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản<br /> cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6<br /> đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó còn tiếp<br /> tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy.<br /> Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà các tổ<br /> chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết khấu. Giữa tháng 12 năm 2008, Fed tuyên bố có kế<br /> hoạch thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng.<br /> Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ trì chương trình Term<br /> Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các<br /> tổ chức tài chính trả qua đấu giá. Tính đến tháng 11 năm 2008, đã có 300 tỷ dollar được FED đem cho vay<br /> theo chương trình này. FED còn tiến hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài chính với số tiền<br /> tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ tính đến tháng 11 năm 2008.<br /> - Chính phủ<br /> Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Tổng thống George W. Bush đã ký Economic Stimulus Act of<br /> 2008 theo đó chính phủ sẽ áp dụng một chương trình kích cầu tổng hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu<br /> dưới hình thức hoàn thuế thu nhập cá nhân.<br /> Trước tình hình khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, chính quyền Bush đã trình quốc hội thông<br /> qua gói tài chính 700 tỷ dollar. Ban đầu Hạ viện Hoa Kỳ do Đảng Dân chủ Hoa Kỳ chiếm đa số bác bỏ vì<br /> cho rằng không thể phí tiền để cứu không được quá nhiều tổ chức tài chính gặp khó khăn. Song sau khi kế<br /> hoạch sử dụng 700 tỷ dollar được điều chỉnh sang hướng chi cho cả các chương trình phục vụ đông đảo<br /> người dân nhằm kích thích tiêu dùng (như trợ giúp cho người thất nghiệp, hỗ trợ dinh dưỡng cho người<br /> nghèo và người thu nhập thấp, phát triển cơ sở hạ tầng), qua đó vực dậy nền kinh tế, nó đã được Thượng<br /> viện thông qua. Ngày 3 tháng 10 năm 2008, Tổng thống Bush đã ký Emergency Economic Stabilization<br /> Act of 2008 cho phép thực hiện gói kích thích 700 tỷ dollar<br /> 2. Khủng hoảng tài chính ở nền kinh tế mới nổi<br /> Trải qua 3 giai đoạn:<br /> - Giai đoạn 1: Sự khởi đầu cuộc khủng hoảng<br /> - Giai đoạn 2: Khủng hoảng tiền tệ<br /> 7<br /> - Giai đoạn 3: Khủng hoảng tài chính chính thức<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2.1. Khủng hoảng ở Hàn Quốc (1997 – 1998):<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giai đoạn 1<br /> 8<br /> Giai đoạn 2:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giai đoạn 3:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> a. Nguyên nhân:<br /> - Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém<br /> Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc<br /> đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này<br /> làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường<br /> hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo<br /> lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù<br /> đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn<br /> hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.<br /> - Các dòng vốn nước ngoài kéo vào<br /> Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập<br /> niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung<br /> tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn<br /> đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản<br /> vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã<br /> ồ ạt chảy vào các nước châu Á. (Hiện tượng thong tin bá t can xứng xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và<br /> rủi ro đạo đức.)<br /> - Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt<br /> Nguyên nhân trực tiếp cua khung hoang tà i chí́nh Hà n Quó c năm 1997 là những cuộc tấn công<br /> đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.<br /> <br /> 9<br /> Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ<br /> nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các<br /> nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước<br /> ngoài đồng loạt rút vốn ra.<br /> - Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lực xử lý khủng hoảng yếu kém.<br /> Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi<br /> đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà<br /> nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.<br /> b. Diễn biến cuộc khủng hoảng:<br /> Hàn Quốc được xếp hạng thứ 11 trong số những nền kinh tế lớn trên thế giới. Vào thời điểm<br /> khủng hoảng bùng phát, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân<br /> hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy<br /> ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của<br /> Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ<br /> hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp<br /> phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường<br /> chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải<br /> áp dụng các chính sách khắc khổ.<br /> Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.<br /> Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ USD của<br /> Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó Daewoo Motors phải bán lại<br /> cho General Motors.<br /> c. Hậu quả<br /> Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị<br /> trường chứng khoán, giảm giá tài sản. Dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo<br /> trong các năm 1997-1998.<br /> Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng Dollar<br /> Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này.<br /> Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới khủng hoảng tài<br /> chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng<br /> chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào giảm.<br /> d. Ý nghĩa<br /> Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có một hệ thống<br /> tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng<br /> Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung.<br /> Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và<br /> vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó,<br /> nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này.<br /> Bên cạnh đó, những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng<br /> hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và<br /> Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu Châu Á,...<br /> Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của các mô hình lý luận về<br /> khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài<br /> chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn<br /> như mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý thuyết về nguồn gốc<br /> khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ<br /> <br /> 10<br /> e. Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng<br /> Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị ảnh<br /> hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu vực<br /> doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ<br /> mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế.<br /> - Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô<br /> Hàn Quốc, đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ chế ổn định giá cả. Cụ<br /> thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu lạm phát. Đồng thời, các<br /> nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị<br /> ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378<br /> tỷ USD.<br /> - Cải cách khu vực tài chính<br /> Thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa và giảm nợ<br /> xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3) Tăng cường giám<br /> sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng và tài chính khác; (4)<br /> Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín<br /> dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị trường. Yellen (2007) cho thấy các ngân hàng của Hàn Quốc<br /> đã áp dụng phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm được tỷ lệ sở hữu gia đình tại<br /> các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho họ quyền chọn mua cổ phiếu, v.v...<br /> - Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp<br /> Hà n Quó c đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, củng cố<br /> các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao<br /> quyền lực và trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo thông<br /> lệ quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và<br /> sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài.<br /> - Cải cách các thị trường<br /> Hà n Quó c đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng<br /> thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng<br /> hơn, giúp xí nghiệp trở nên linh hoạt hơn.<br /> 2.2. Khủng hoảng tài chính Argentine (2001 - 2002)<br /> Giai đoạn 1:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giai đoạn 2:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 11<br /> Giai đoạn 3:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Khủng hoảng Argentina khởi đầu từ vấn đề quản lý nợ công yếu kém<br /> Nợ công luôn là vấn đề có tính chất thường trực đối với các nhà nước, do nhu cầu chi tiêu lớn vượt<br /> quá nguồn thu từ nền kinh tế hàng năm. Nợ công sẽ không phải là vấn đề lớn nếu như các nhà nước kiểm<br /> soát tốt các khoản chi tiêu của mình. Nhưng có thể nó sẽ là vấn đề lớn, thậm chí là nghiêm trọng nếu như<br /> các chính phủ vung tay chi tiêu vượt quá sức chịu đựng của nền kinh tế, bất chấp các cảnh báo.<br /> Về nguyên lý, khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt, các chính phủ có các giải pháp để tài trợ:<br /> - Tăng thu từ nền kinh tế (thông qua tăng thuế và phí). Đây là cách làm đơn giản, dễ thực thi nhất. Nhưng<br /> cách này ngày nay bị giới hạn do nó làm suy yếu và thu hẹp khu vực kinh tế tư nhân, suy giảm năng lực<br /> cạnh tranh trong hoạt động kinh tế của các thành phần kinh tế. Hơn nữa, nếu như tăng thu thuế và phí từ<br /> các hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ vi phạm các qui định của WTO cũng như các qui định trong khuôn khổ<br /> các hiệp định song phương hoặc đa phương khác.<br /> - Vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và/hoặc công trái quốc gia. Cách thức này<br /> không làm thay đổi lượng cung tiền trong nền kinh tế và không phát sinh lạm phát trong nền kinh tế. Tuy<br /> nhiên, do chính phủ tăng cường vay tiền trong dân chúng làm thay đổi cung và cầu về vốn trong nền kinh<br /> tế, do vậy, sẽ làm thay đổi lãi suất thị trường. Lãi suất có xu hướng tăng lên sẽ gây khó khăn cho các trung<br /> gian tài chính trong huy động nguồn.<br /> - Vay nước ngoài. Việc vay nước ngoài thông qua nhiều kênh khác nhau, chẳng hạn, như vay qua các<br /> kênh tài trợ chính thức (ODA), vay thương mại (chủ yếu vay các Eurobank), vay thông qua phát hành trái<br /> phiếu chính phủ. Việc vay nợ nước ngoài như vậy về nguyên tắc cũng không làm thay đổi cung tiền nên<br /> không phát sinh lạm phát. Tuy nhiên, phải hết sức thận trọng trong vấn đề vay nợ nước ngoài bởi mấy lý<br /> do sau: Thứ nhất, việc vay nợ luôn gắn với nghĩa vụ trả nợ và nếu không có chiến lược quản lý nợ quốc<br /> gia phù hợp và khả thi thì áp lực này sẽ ngày càng gia tăng, thậm chí, khó kiểm soát một khi thị trường tài<br /> chính có những diễn biến phức tạp gắn với nghĩa vụ của các đồng tiền đi vay (một số nước chịu rủi ro rất<br /> lớn từ sự biến động của lãi suất hay tỷ giá đồng tiền nước cho vay. Chẳng hạn, Malaysia năm 1999 đã<br /> phải chi thêm trên 1,9 tỷ USD để mua vào lượng JPY để trả gốc và lãi các khoản nợ vay cũ từ nước<br /> Nhật). Thứ hai, việc đi vay bằng đồng ngoại tệ sẽ phải được hấp thụ và điều này cũng đồng nghĩa với việc<br /> 12<br /> phải cung ra một lượng nội tệ tương đương để mua chúng (nếu như không muốn tình trạng đô la hóa trong<br /> nền kinh tế diễn biến phức tạp làm suy yếu chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương (NHTƯ). Với<br /> việc làm này thì để không tác động xấu đến lạm phát trong nền kinh tế bắt buộc các NHTƯ phải tăng<br /> cường hoạt động trên thị trường mở nhằm hút hết lượng nội tệ đã chi ra để hấp thụ ngoại tệ đi vay. Hoạt<br /> động này chỉ thực sự hiệu quả khi nghiệp vụ thị trường mở là hoàn hảo. Còn nếu không đạt được điều<br /> kiện này thì rất có thể việc tăng cường hoạt động hút tiền nội tệ của NHTƯ sẽ gây sốc cho thị trường và<br /> căng thẳng thanh khoản cục bộ. Thứ ba, cũng tương tự như việc chính phủ vay nợ dân chúng trong nước<br /> thông qua phát hành trái phiếu chính phủ hoặc cổng trái quốc gia, việc vay nợ nước ngoài cũng sẽ gây<br /> hiệu ứng làm tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ và điều này có thể sẽ gây ra các tác động không mong đợi<br /> đối với hệ thống các trung gian tài chính trong nền kinh tế.<br /> - Yêu cầu NHTƯ phát hành tiền để tài trợ thâm hụt ngân sách chính phủ. Đây là cách lựa chọn cuối cùng<br /> một khi các cách làm trên đây không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Tuy vậy, việc chính phủ vay tiền từ các<br /> NHTƯ cũng phải tuân thủ đúng các nguyên tắc về phát hành tiền của NHTƯ. Bởi nếu không như vậy thì<br /> rất có thể cái giá phải trả trong lương lai sẽ là rất lớn. Nguyên tắc phát hành tiền của NHTƯ là phải có bảo<br /> đảm bằng các chứng khoán hoặc vàng để bảo đảm rằng lượng tiền phát hành phù hợp với nhu cầu tiền<br /> trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cho dù việc phát hành tiền ra của NHTƯ tuân thủ nguyên tắc phát hành thì<br /> nó đã làm tăng lượng cung tiền và vì thế làm tăng lạm phát.<br /> a. Nguyên nhân khủng hoảng<br /> Chính quyền của Tổng thống Carlos Menem đã thi hành một loạt các biện pháp mạnh mẽ nhằm tái<br /> cấu trúc nền kinh tế, như: tư do hóa thương mại, xây dựng một nền kinh tế cạnh tranh thị trường, hầu<br /> như không có bất cứ sự can thiệp nào từ phía Chính phủ, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước và bán<br /> chúng cho các ông chủ nước ngoài...<br /> - Những cải cách như vậy một mặt nó giúp hấp dẫn dòng chảy ngoại tệ vào Argentina ngày một gia<br /> tăng. Đây được xem là một nguồn quan trọng giúp Chính phủ thanh toán các khoản nợ cũ. Nhưng mặt<br /> khác, dòng ngoại tệ chảy vào trong nước mạnh cũng chính là nguồn gốc của sự tiêu xài quá mức của<br /> chính phủ nước này (bằng việc Chính phủ đẩy mạnh đầu tư cho lĩnh vực viễn thông, năng lượng, nước<br /> sinh hoạt..). Đây cũng chính là căn nguyên của tình trạng sau này không trả được các khoản nợ của Chính<br /> phủ.<br /> - Năm 1991, Argentina thông qua Luật Chuyển đổi (có hiệu lực từ 1 /4/1991) trong đó có các qui định:<br /> Thiết lập hệ thống "chuẩn tiền tệ" (currency board); Ban hành đồng tiền mới là Reso thay thế đồng<br /> Austral với tỷ lệ qui đổi 1 Peso = 10.000 Austral; Ấn định tỷ lệ trao đổi giữa ARA (ký hiệu ISO của<br /> Peso) và USD là 1 ARA = 1 USD; Kiểm soát chặt việc in tiền, bảo đảm rằng lượng Peso lưu hành phải<br /> phù hợp với lượng USD lưu hành.<br /> + Để duy trì được tỷ giá 1 ARA = 1 USD, NHTƯ Argentina phải có lượng dữ trữ ngoại tệ Iớn để<br /> sẵn sàng can thiệp thị trường bất cứ lúc nào và với bất cứ dung lượng nào. Tuy vậy, Argentina lại không<br /> đáp ứng được đòi hỏi tiên quyết này.<br /> + Việc duy trì tỷ giá 1 ARA = 1 USD mặc dù giúp kiểm soát lạm phát (thông qua khống chế lượng<br /> Peso được phát hành phù hợp với lượng USD giao dịch trên thị trường), nhưng điều này lại khiến cho<br /> ngân sách Chính phủ bị thâm hụt càng nghiêm trọng. Nguyên do là với các qui định trong Luật Chuyển<br /> nhượng thì Chính phủ không được in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách.<br /> + Chính sách "chuẩn tiền tệ" cũng làm cho đồng Peso lên giá, hệ quả là hàng nhập khẩu từ nước<br /> ngoài rẻ hơn đáng kể so với hàng sản xuất trong nước. Sự suy yếu về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế<br /> trong nước so với quốc tế, hàng loạt doanh nghiệp trong nước bị phá sản, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng mạnh.<br /> + Việc cho phép dân chúng tự do lựa chọn nắm giữ USD hay ARA đã vô tình khiến tình trạng<br /> "chảy máu ngoại tệ" trong nền kinh tế, do dân chúng tăng cường chuyển từ đồng Peso sang nắm giữ USD<br /> để đi du lịch nước ngoài hay mua sắm các hàng hóa nhập khẩu giá rẻ. Điều này đã làm cho dự trữ ngoại tệ<br /> bị sụt giảm nghiêm trọng. Điều này khiến đồng Peso ngày càng bị mất giá so với USD. Xử lý bất cập<br /> <br /> 13<br /> nghiêm trọng này buộc Chính phủ phải tăng cường vay nợ nước ngoài để bù đắp đúng lượng ngoại tệ đã<br /> bị chảy ra nước ngoài.<br /> + Cũng do chính sách "chuẩn tiền tệ" khiến NHTƯ không làm tròn vai của mình khi là "cứu cánh<br /> cuối cùng". Khi hệ thống ngân hàng bị lâm vào khủng hoảng và cần sự giải cứu từ NHTƯ thông qua các<br /> khoản cho vay tái chiết khấu thì lại khống được đáp ứng.<br /> + Đồng Peso được neo chặt với USD nên về nguyên lý thì lãi suất của ARA phải tương đương với<br /> lãi suất USD. Nếu điều kiện này không được duy trì thì lập tức hoạt động Arbitrage sẽ xảy ra. Điều này<br /> hàm ý rằng, NHTƯ Argentina đã bị mất đi sự chủ động trong sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết kinh<br /> tế vĩ mô (chẳng hạn có thể tăng lãi suất để chống lạm phát hay giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng kinh<br /> tế).<br /> - Thêm vào đó, tình trạng tham nhũng tại nước này diễn biến hết sức phức tạp, hầu như rất khó kiểm soát<br /> và ngăn chặn, nên ngân sách Argentina vốn đã bị thâm thủng lại càng bị làm trầm trọng hơn.<br /> - Năm 1997, xuất hiện cú sốc tài chính tại khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, do cú sốc này có tốc độ lây<br /> lan quá nhanh nên chỉ sau đó 3 tháng, gần như nó đã lan sang khắp các châu lục Á, Âu, và vào tháng<br /> giêng năm 1999, cuộc khủng hoảng này lan sang châu Mỹ với việc NHTƯ Brazil chính thức tuyên bố phá<br /> giá đồng nội tệ của mình 29%. Là một nước lâng giềng cận kề, thì động thái này của Brazil đã gây tổn hại<br /> tới thị trường tài chính Argentina.<br /> - Hơn nữa, cũng trong thời điểm này thì đồng USD lên giá trên các thị trường hối đoái toàn cầu. Với việc<br /> duy cơ chế tỷ giá theo "chuẩn tiền tệ" khiến đồng ARA cũng bị lên giá theo. Hậu quả là xuất khẩu của<br /> Argentina bị tổn thương nghiêm trọng. Sự suy giảm trong xuất khẩu cũng như những khó khăn chung của<br /> nền kinh tế bên trong và bên ngoài đã khiến cho năm 1999 tăng trưởng nước này đạt âm 4% và liên tiếp 3<br /> năm sau đó (từ năm 2000 đến 2002) tăng trưởng của Argentina vẫn bị âm. Cuộc khủng hoảng Argentina<br /> bắt đầu từ đây.<br /> b. Diễn biến:<br /> - Bắt đầu từ năm 1999, đất nước này bộc lộ những dấu hiệu bất ổn về kinh tế với mức tiêu dùng giảm<br /> 2,1% và đầu tư giảm 12,8%. Cho đến năm 2001, những bất ổn đạt đến đỉnh cao, với mức tiêu dùng vào<br /> cuối quí 3 giảm sâu tới 5,8% và đầu tư giảm 17,5%, kéo theo tăng trưởng GDP âm và thất nghiệp tăng cao<br /> kỷ lục (18,3%). Tiền gửi ngân hàng liên tục sụt giảm (từ 18,63 tỷ USD ngày 2/7/2001 xuống còn 67,98 tỷ<br /> USD ngày 12/12/2001). Dự trữ ngoại hối (kể cả vàng) giảm từ 25,15 tỷ USD tháng 12/2000 xuống còn<br /> 20,56 tỷ USD vào tháng 9/2001. Phát súng đầu tiên báo hiệu cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử<br /> nước này là vào ngày 5/12/2001 khi IMF từ chối giải ngân khoản vay trị giá 1,24 tỷ USD. Số tiền này nằm<br /> trong khuôn khổ khoản vay trọn gói 39,7 tỷ USD (đã được thỏa thuận vào cuối tháng 12/2000), đẩy<br /> Argentina đứng trước nguy cơ vỡ nợ đối với các khoản nợ nước ngoài trị giá đến 146 tỷ USD (trong đó,<br /> riêng các khoản nợ Chính phủ đạt tới 132 tỷ USD, chiếm 46% GDP cùng năm của nước này).<br /> - Ngày 24/12/2001, Chính phủ Argentina chính thức tuyên bố đình chỉ các khoản nợ nước ngoài lớn nhất<br /> trong lịch sử. Nếu tính trung bình nợ nước ngoài bình quân/người của Argentina thì mỗi người phải gánh<br /> trên lưng mình tới trên 3.000 USD (kể cả những đứa trẻ mới chào đời).<br /> - Sau hơn một thập kỷ gắn chặt đồng Peso với USD theo tỷ giá qui đổi cố định 1:1, ngày 6/1/2002, Chính<br /> phủ Argentina đã phải phá giá đồng Peso 29% (1,4 Peso đổi 1 USD).<br /> - Năm 2002 tiếp tục là năm bất ổn trong lĩnh vực tài chính tiền tệ ở đất nước này với sự tụt dốc của thị<br /> trường chứng khoán.<br /> - Ngày 19/4/2002, NHTƯ Argentina quyết định tạm ngừng vô thời hạn tất cả các giao dịch ngoại hối cho<br /> tới khi Chính phủ có được một chương trình kinh tế ngăn chặn dòng vốn tháo chạy ồ ạt khỏi các ngân<br /> hàng thương mại (NHTM) (trung bình khoảng 100 triệu USD/ ngày). Song, quyết định này cũng không<br /> tồn tại được lâu, bởi ngày 26/4/2002, tức là chỉ 1 tuần sau khi ngưng hoạt động, các NHTM nước này mở<br /> cửa trở lại, tình hình càng trở nên tồi tệ hơn rất nhiều.<br /> - Những bất ổn về chính trị cộng với những sai lầm của Chính phủ trong ứng phó với khủng hoảng (thực<br /> hiện chế độ đa tỷ giá, áp dụng các biện pháp kiểm soát hành chính đối với giá cả, các biện pháp bảo hộ<br /> 14<br /> khác.) đã khiến cho tình hình ngày càng trở nên xấu đi trong năm 2002: thị trường chứng khoán suy sụp,<br /> đồng Peso bị mất giá mạnh, lạm phát bùng phát, thất nghiệp gia tăng, tăng trưởng kinh tế giảm sút nghiêm<br /> trọng.<br /> c. Bài học rút ra cho các nước khác:<br /> - Bài học về kiểm soát thâm hụt ngân sách<br /> Thâm hụt ngân sách là vấn đề có tính thường trực của hầu hết các Chính phủ, song, nếu không<br /> kiểm soát tốt thâm hụt ngân sách thì nguy cơ gia tăng nợ công là khó tránh khỏi. Nguyên tắc trong kiểm<br /> soát nợ công là "mỗi đồng nợ công ngày hôm nay phải được bù đắp bằng thặng dư ngân sách ngày<br /> mai". Nếu không đáp ứng được đòi hỏi có tính nguyên tắc này, mà lại để tái diễn tình trạng thâm hụt ngân<br /> sách cao và kéo dài thì sẽ gây nên những áp lực to lớn về nghĩa vụ trả nợ trong tương lai.<br /> Đồng thời, nó cũng làm dấy lên các quan ngại về tính bất an của môi trường kinh tế vĩ mô và kích<br /> thích các hoạt động đầu cơ thao túng thị trường. Những điều này khiến nguy cơ khủng hoảng nợ công<br /> luôn tiềm ẩn nhất là tại những nước có nền kinh tế thị trường còn yếu kém. Đối với Việt Nam, vấn đế<br /> kiểm soát thâm hụt ngân sách cần được đặt ra nghiêm túc, bởi thâm hụt ngân sách của Việt Nam vẫn là<br /> vấn đề tồn tại cố hữu, thậm chí đã và đang tiếp tục gây những quan ngại nhất định đối với cộng đồng tài<br /> chính quốc tế (Ngày 15/12/2010, Moody's đã quyết định hạ một bậc tín nhiệm của trái phiếu Chính phủ<br /> Việt Nam từ Ba3 xuống B1. Đầu tháng 8/2011, hãng đánh giá tín dụng công bố duy trì mức tín nhiệm nợ<br /> công của Việt Nam là B+ (đây là mức ngang với Mông Cổ và Venezuela nhưng thua Philipines và<br /> Indonesia). Vì hãng này cho rằng, họ chưa thấy sự chuyển biến rõ rệt trong việc cắt giảm chi tiêu công -<br /> điểm căn bản để xác định nợ công của Việt Nam.<br /> Hãng này cũng cho rằng nợ công của Việt Nam đã vượt ngưỡng 50% GDP đang cao hơn mức<br /> trung bình đối với hạng B. Ngày 19/8 hãng Standar & Poor's đã hạ một mức tín nhiệm của Việt Nam từ<br /> BA xuống BB - mức thấp nhất so với các nước Đông Nam Á chỉ ngang bằng với Bangladesh và Mông<br /> cổ), Những chỉ báo về nợ công của Việt nam có tốc độ tăng trưởng rất nhanh những năm gần đây đang đặt<br /> ra những vấn đề rất cấp bách phải tăng cường quản lý nợ công nếu không muốn những hệ quả xấu xảy ra<br /> như của Argentina.<br /> - Bài học về hiệu quả sử dụng vốn vay<br /> Sử dụng vốn vay để đầu tư là con dao hai lưỡi, thể hiện: Nếu như nguồn vốn vay được sử dụng<br /> hiệu quả thì sẽ đem lại những tác động tích cực, bởi đầu tư công thường hướng vào các khu vực kinh tế<br /> then chốt, tạo hiệu ứng lan tỏa, nên sự hiệu quả của các lĩnh vực được đầu tư từ vốn ngân sách, cho dù là<br /> đi vay để đầu tư, thì cũng có tác động kích thích các khu vực kính tế khác trong nền kinh tế quốc dân nâng<br /> cao hiệu quả.<br /> Nhưng ngược lại, nếu như đầu tư từ vốn ngân sách dàn trải, kém hiệu quả, ít hướng vào chi cho đầu<br /> tư phát triển mà chủ yếu hướng vào duy trì và nâng cao đời sống phúc lợi phồn vinh giả tạo, thậm chí lãng<br /> phí, thất thoát xuất phát từ tình trạng tham nhũng, sẽ có những tác động rất tiêu cực kìm hãm sự phát triển<br /> của các khu vực kinh tế khác và dẫn tới hiệu quả kinh tế xã hội sẽ bị suy giảm. Không những thế, các<br /> nghĩa vụ trả nợ sẽ thiếu cơ sở thực thi. Sự việc PMU 18, của Vinashin, Vinalines... gần đây đưa ra các báo<br /> động đỏ về sử dụng vốn vay mà không có sự kiểm soát chặt chẽ khiến vốn bị thất thoát lớn, đồng thời,<br /> cũng góp một phần không nhỏ khiến Việt Nam bị liệt vào nhóm các nền kinh tế "có rủi ro tín dụng cao".<br /> - Bài học về quản lý nợ công<br /> Tất cả các nước lâm vào khủng hoảng nợ công đều có nguyên nhân từ sự quản lý nợ công lỏng lẻo,<br /> thiếu một chiến lược quản lý nợ quốc gia hiệu quả. Thêm vào đó, sự thiếu minh bạch về thông tin kinh tế<br /> xã hội nói chung, trong đó đặc biệt là thông tin về thực trạng nợ công quốc gia sẽ khiến những nguy cơ<br /> tiềm ẩn về khả năng xảy ra khủng hoảng không được phát hiện và cảnh báo kịp thời.<br /> Một thực tế là, một số quốc gia việc thống kê tình hình nợ quốc gia thiếu trung thực, thậm chí che<br /> giấu những thông tin bất lợi để tiếp tục nhận được các khoản trợ giúp của nước ngoài và các tổ chức quốc<br /> tế; hoặc lợi dụng uy tín của quốc gia được nâng cao để tăng cường vay nợ tài trợ cho các khoản chi tiêu để<br /> duy trì đời sống phúc lợi giả tạo. Nếu như các quốc gia không có cơ chế để ngăn chặn những bất cập này<br /> 15<br /> thì khủng hoảng nợ trước sau cũng sẽ bùng phát, bởi không có bất cứ cơ sở tài chính nào để các quốc gia<br /> này có thể thực thi được các nghĩa vụ nợ của mình và làm khủng hoảng niềm tin từ các nhà đầu tư nước<br /> ngoài.<br /> - Bài học về kiểm soát năng lực trả nợ của nền kinh tế<br /> Về nguyên lý thì để các quốc gia có thể thanh toán được các khoản nợ gốc thì các món vay công<br /> phải được chính phủ kiểm soát chặt, bảo đảm không có bất cứ sự thất thoát nào. Nghĩa là, nếu như các<br /> khoản vốn vay đem đầu tư mà có sự thất thoát thì sẽ đe dọa trực tiếp đến khả năng thực hiện nghĩa vụ<br /> thanh toán nợ gốc trong tương lai.<br /> Cũng tương tự như vậy, để thanh toán các món lãi phát sinh theo các nghĩa vụ gắn với các khoản<br /> tiền mà chính phủ đã đi vay thì các khoản đầu tư này phải có lãi, bảo đảm rằng khoản lãi thu được từ hoạt<br /> động đầu tư này ít nhất giúp các Chính phủ vay nợ có thể thực hiện được nghĩa vụ trả lãi theo các hợp<br /> đồng vay nợ. Điều này cũng có nghĩa rằng, các khoản tiền vay của Chính phủ phải có mục tiêu rõ ràng và<br /> chắc chắn được quản lý tốt và luôn đạt hiệu quả cao.<br /> Nếu như chưa chắc chắn đáp ứng được các yêu cầu này thì tốt nhất các Chính phủ phải rất thận<br /> trọng, nếu như không muốn vướng vào chiếc bẫy nợ công trong tương lai khiến các quốc gia ít có lối thoát<br /> hữu hiệu mà không bị trả giá đắt. Đối với Việt Nam, nhằm tăng cường quản lý nợ công, ngày 27/7/2012,<br /> Thủ tướng Chính phủ đã công bố Quyết định số 958/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ<br /> nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong đó qui định: (i) Huy<br /> động vốn vay và trả nợ phải nằm trong giới hạn các chi tiêu an toàn về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước<br /> ngoài của quốc gia và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; (ii) Chủ động cải tiến công cụ quản lý nợ công,<br /> đa dạng hóa các hình thức vay vốn với chi phí hợp lý, chuyển đổi cơ cấu vay theo hướng tăng dần tỷ trọng<br /> huy động vốn vay trong nước, giảm dần mức độ vay nước ngoài và hạn chế bảo lãnh Chính phủ; (iii)<br /> Chính phủ thống nhất quản lý huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý nợ công và nợ nước<br /> ngoài của quốc gia hiệu quả, an toàn. Các qui định là cần thiết, song, việc kiểm soát tuân thủ vẫn là vấn đề<br /> lớn đặt ra hiện nay, bởi nợ công là con dao hai lưỡi, nó có thể khiến các quốc gia đối mặt với những bất ổn<br /> lớn nếu như không kiểm soát nợ công hiệu quả.<br /> * Câu hỏi thảo luận:<br /> 1. Nguyên nhân chính của khủng hoảng tài chính ở Mỹ là gì?<br /> - Nguyên nhân sâu xa của mâu thuẫn là do thông tin bất cân xứng (lý thuyết thông tin bất cân xứng).<br /> - Do sai lầm trong điều hành của chính phủ (lý thuyết về các kênh truyền dẫn của lý thuyết tài chính<br /> tiền tệ).<br /> - Do sự lạc quan thái quá của giới đầu tư (liên quan đến lý thuất tài chính hành vi).<br /> Diễn biến:<br /> - Năm 2001, Để khuyến khích nền kinh tế phát triển, FED hạ lãi suất. Chính phủ Mỹ vừa kỳ vọng sẽ<br /> khuyến khích nền kinh tế phát triển, vừa kỳ vọng kích thích người dân sở hữu nhà (để tạo an sinh xã<br /> hội). Người dân Mỹ đồng loạt đầu tư vào BĐS, làm giá BĐS tăng cao. Tạo nên bong bóng giá nhà<br /> đất. FED sợ nguy cơ khủng hoảng nên tăng lãi suất. Điều này làm cho các bong bóng BĐS vỡ. Từ đó<br /> kéo theo rất nhiều hệ quả phía sau và dẫn đến khủng hoảng tài chính. FED đã không lường hết được<br /> tác động của kênh truyền dẫn lãi suất ảnh hưởng đến giá cả như thế nào.<br /> - Chứng khoán hóa là quá trình chuyển những khoản nợ có tính thanh khoản thấp thành những chứng<br /> khoán có tính thanh khoản cao.<br /> Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính đến nền kinh tế Hoa kỳ?<br /> - Có khoảng 84 ngàn người thất nghiệp.Các tập đoàn lớn về tài chính và ngân hàng liên tục gặp khó<br /> khăn và sụp đổ.Tình trạng đói tín dụng kéo dài. Giá chứng khoán giảm mạnh. GDP giảm, cán cân<br /> thương mại mất cân bằng. Đồng USD giảm giá.<br /> - Nguyên nhân khủng hoảng 1 phần là do quá trình cho vay dưới chuẩn của các định chế tài chính tại<br /> Mỹ. Cho vay dưới chuẩn có nghĩa là, luật quy định phải đủ 30 điểm mới được vay, nhưng các định<br /> chế tài chính vẫn cho khách hàng vay miễn là khách hàng chịu lãi suất cao hơn.<br /> 16<br /> 2. Toàn cầu hóa ảnh hưởng như thế nào đến khủng hoảng tài chính tại thị trường mới nổi?<br /> Toàn cầu hóa làm cho khủng hoảng dễ xảy ra, và nếu có xảy ra thì sẽ trầm trọng hơn. Mức độ lan rộng<br /> khủng hoảng tương thích với sự tự do hóa và hội nhập.<br /> 3. Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế có giống nhau hay không?<br /> Khủng hoảng tài chính chỉ ảnh hưởng đến các tổ chức và lĩnh vực tài chính.Khủng hoảng kinh tế ảnh<br /> hưởng đến hầu hết các lĩnh vực. Rất khó có sự tách biệt ra
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2