intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chủ nghĩa hậu hiện đại, tồn tại hay không tồn tại - PGS.TS. Nguyễn Văn Dân

Chia sẻ: Phú Anh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

88
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam, các quan niệm về chủ nghĩa hậu hiện đại trên thế giới, phản ứng của các nhà khoa học đối với chủ nghĩa hậu hiện đại là những nội dung chính trong bài viết "Chủ nghĩa hậu hiện đại, tồn tại hay không tồn tại". Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài viết để nắm bắt chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chủ nghĩa hậu hiện đại, tồn tại hay không tồn tại - PGS.TS. Nguyễn Văn Dân

CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI ­ TỒN TẠI HAY KHÔNG TỒN <br /> TẠI?<br /> <br /> PGS.TS. NGUYỄN VĂN DÂN<br /> <br /> Ngày nay, có ý kiến cho rằng chủ  nghĩa hiện đại đã được thay thế  bằng <br /> chủ nghĩa hậu hiện đại; rằng thời kỳ hiện đại đã chấm dứt và bây giờ là thời  <br /> kỳ  hậu hiện đại. Tuy nhiên, thực chất cái gọi là chủ  nghĩa hậu hiện đại có <br /> phải chỉ  là sự   ảnh hưởng hay sự  nối  dài của chủ  nghĩa  hiện  đại không? <br /> Chúng tôi xin trình bày lại vấn đề này như sau.<br /> <br /> 1. Khái niệm “[chủ nghĩa] hậu hiện đại” ở Việt Nam<br /> <br /> Có lẽ thuật ngữ “hậu hiện đại” xuất hiện trên báo chí nước ta lần đầu tiên  <br /> là từ năm 1991, trong bản dịch một bài viết của Antonio Blach (Tây Ban Nha),  <br /> nhan đề: “Vài suy nghĩ về  cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại” ( Tạp chí văn  <br /> học, số 5­1991). Từ đó đến nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ Việt <br /> Nam đã nói nhiều đến hậu hiện đại. Gần đây, trên báo   Văn nghệ  số  18+18 <br /> ngày 30­4­2011, PGS.TS. Lê Huy Bắc có bài viết “Khái niệm chủ  nghĩa hậu <br /> hiện đại và truyện ngắn hậu hiện đại”, trong đó tác giả  tiếp thu ý kiến của <br /> một số  tác giả  nước ngoài để  khẳng định như  đinh đóng cột rằng chủ  nghĩa <br /> hậu hiện đại đã “bắt đầu từ  thơ Đađa (1916), truyện của Franz Kafka (1883­<br /> 1924) và kịch phi lý từ những năm 1950”. Và gần đây nhất, tháng 8­2011, GS. <br /> Phương Lựu đã cho xuất bản cuốn sách Lý thuyết văn học hậu hiện đại, trong <br /> đó ông tập hợp các bài đã viết về một số lý thuyết nghiên cứu văn học xuất  <br /> hiện từ  khoảng giữa thế  kỷ  XX mà trước đây được ông gọi là hiện đại thì <br /> nay ông lại gọi là hậu hiện đại. Có thể  nói, thuật ngữ “hậu hiện đại” đang trở <br /> thành một cái mốt trong các diễn đàn văn học.<br /> <br /> Lý do lên ngôi của khái niệm “hậu hiện đại” một phần là do trong giới văn <br /> nghệ nước ta đang có sự hẫng hụt về chủ nghĩa hiện đại. Nhiều người không <br /> biết chủ  nghĩa hiện đại có bao nhiêu trào lưu và những tác giả  tiêu biểu của <br /> chúng là ai. Đến khi gần đây thấy có người nói đến  hậu hiện đại, thế  là <br /> người ta chỉ  biết có hậu hiện đại và nghiễm nhiên coi các trào lưu hiện đại <br /> trong văn nghệ xuất hiện từ đầu thế kỷ XX là hậu hiện đại. <br /> <br /> Có người thấy người nước ngoài nói chủ nghĩa hậu hiện đại có gốc rễ từ <br /> chủ nghĩa Đađa (đầu thế kỷ XX), thế là cứ nghiễm nhiên đi dạy cho học sinh  <br /> <br /> <br /> 1<br /> rằng chủ  nghĩa hậu hiện đại có từ  thời Đađa... Thậm chí như  GS. Phương <br /> Lựu, trong khi viết giáo trình Lý luận văn học (xuất bản lần đầu thành ba tập <br /> vào những năm 1986­1988, đến năm 1997 tái bản thành một tập và tiếp tục tái  <br /> bản đến lần thứ 5 vào năm 2006) vẫn xếp “tiểu thuyết mới” và “kịch phi lý” ­ <br /> những trường phái văn học giữa thế kỷ XX ­ vào trong số các “chủ nghĩa hiện <br /> đại”, sau đó thấy nói đó là hậu hiện đại, thì trong các bài viết khác của mình <br /> từ năm 2000, ông lại quay sang nói là “hậu hiện đại”, nhưng có điều lạ là ông  <br /> vẫn giữ nguyên quan điểm của mình về các chủ nghĩa hiện đại nói trên trong  <br /> các lần tái bản cuốn sách lý luận kia. Tiếp đến khi viết lại bộ  giáo trình lý <br /> luận này thành ba tập, với tập 1 được xuất bản lần đầu từ  năm 2001 và tái  <br /> bản lần ba vào năm 2009 (với tập 3 có liên quan đến vấn đề   ở  đây đã được  <br /> xuất bản lần đầu vào năm 2005 và tái bản lần ba vào năm 2009), ông đã có ý  <br /> thức cắt những hiện tượng văn học nói trên cho sang phần nói về “chủ nghĩa <br /> hậu hiện đại”, nhưng vẫn để  sót “tiểu thuyết mới” ở phần nói về  chủ  nghĩa <br /> hiện đại trong khi đã “dán” nó vào phần “chủ nghĩa hậu hiện đại” rồi! Vậy là  <br /> trong  cùng một chương sách do cùng một người viết , cùng một hiện tượng <br /> vừa được gọi là “hiện đại chủ nghĩa” lại vừa được gọi là “hậu hiện đại chủ <br /> nghĩa”! Điều đó cũng chứng tỏ  là khi biên soạn giáo trình lý luận văn học, <br /> nhiều tác giả  Việt Nam thấy có người nước ngoài nói các trường phái kia là <br /> hiện đại thì họ cũng nói theo, bây giờ thấy người khác nói là hậu hiện đại thì  <br /> họ lại quay sang nói theo là hậu hiện đại. Thế là họ phải thực hiện một thao <br /> tác cắt dán máy móc mà không hề  có chủ  kiến, tự  mình phủ  định mình một  <br /> cách rất dễ dãi và hồn nhiên. Nghĩa là trong cùng một người hiện đang tồn tại  <br /> đồng thời hai cách gọi khác nhau cho một hiện tượng văn nghệ, mà đều là hai  <br /> cách gọi theo nước ngoài. Trong khi đó thì cũng vào thời điểm năm 2009, <br /> cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc <br /> Phi vẫn ghi nhận “tiểu thuyết mới” là một trong những trào lưu hiện đại chủ <br /> nghĩa.<br /> <br /> Đấy là thái độ đối với các trào lưu sáng tác nghệ thuật, còn đối với các lý <br /> thuyết nghiên cứu văn học thì thái độ  của các nhà nghiên cứu của nước ta <br /> cũng có những thay đổi rất hồn nhiên và dễ  dãi. Ví dụ  như  trường hợp vẫn <br /> của GS. Phương Lựu. Năm 1995 ông cho in cuốn sách Tìm hiểu lý luận văn  <br /> học phương Tây hiện đại, trong đó có giới thiệu “Lý luận phê bình của chủ <br /> nghĩa hậu cấu trúc”. Có nghĩa là lúc đó, người ta vẫn coi chủ nghĩa hậu cấu  <br /> <br /> <br /> 2<br /> trúc (hay giải cấu trúc) là một trong những lý thuyết hiện đại. Đến năm 2011, <br /> ông xuất bản cuốn sách Lý thuyết văn học hậu hiện đại, trong đó ông lại gọi <br /> chủ nghĩa giải cấu trúc là “mũi nhọn lý thuyết của chủ  nghĩa hậu hiện đại”.  <br /> Về cơ bản, việc giới thiệu lý thuyết giải cấu trúc giữa hai thời điểm 1995 và  <br /> 2011 không khác nhau nhiều, nhưng điều kỳ lạ là tác giả không hề có một câu  <br /> giải thích tại sao năm 1995 ông gọi nó là lý thuyết hiện đại, mà đến năm 2011 <br /> ông lại gọi nó là hậu hiện đại? Tình hình này có nguy cơ dẫn đến sự rối loạn  <br /> trong hệ  thống lý luận văn nghệ  Việt Nam. Đó chính là một tình trạng cấp <br /> thiết cần giải quyết.<br /> <br /> Bản thân tôi, từ  năm 2001 tôi đã viết bài “Chủ  nghĩa hậu hiện đại hay là <br /> hiện tượng chồng chéo khái niệm” đăng trên Tạp chí văn học số 9. Sau đó tôi <br /> đã nhiều lần bổ sung và sửa chữa để đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài số <br /> 3­2002 và  trong  sách  “Văn  học   hậu hiện  đại  thế   giới  ­  những  vấn  đề   lý  <br /> thuyết”, Nxb. Hội Nhà văn, 2003; cuối cùng in lại có bổ sung và chỉnh lý dưới <br /> nhan đề  “Cái gọi là ‘chủ  nghĩa hậu hiện đại’ ­ từ  khái niệm đến thực tiễn”  <br /> trong sách: Nguyễn Văn Dân,  Vì một nền lý luận ­ phê bình văn học chất  <br /> lượng cao, Nxb. Khoa học xã hội, 2005. Trong các bài viết của tôi, tôi đã phân <br /> tích và chỉ ra sự lạm dụng khái niệm hậu hiện đại cả trên thế giới lẫn ở Việt <br /> Nam đến mức đã biến nó thành một thuật ngữ vô nghĩa. Giờ đây, tôi xin nhắc <br /> lại những diễn biến chính của cuộc tranh luận để cho thấy bản chất của khái <br /> niệm “[chủ nghĩa] hậu hiện đại” trong mối quan hệ với vấn đề của chủ nghĩa  <br /> hiện đại.<br /> <br /> 2. Các quan niệm về [chủ nghĩa] hậu hiện đại trên thế giới<br /> <br /> Trên thế  giới có nhiều cách hiểu về  [chủ  nghĩa] hậu hiện đại. Và nhìn  <br /> chung, các ý kiến vẫn chưa phải là đã thống nhất. Từ  các ý kiến khác nhau, <br /> tôi phân ra ba nhóm quan niệm chính về  hậu hiện đại trong nghệ  thuật  như <br /> sau:<br /> <br /> 1. Chủ nghĩa hậu hiện đại như  là đỉnh cao của chủ  nghĩa hiện đại (quan <br /> điểm của Lyotard, Hassan), nói một cách khác nó là “cơn kịch phát của chủ <br /> nghĩa hiện đại”;  hay là sự  nối dài của chủ  nghĩa hiện đại  (quan điểm của <br /> Robert Hughes);<br /> <br /> 2. Chủ  nghĩa hậu hiện đại như  là sự  quay trở  về  với truyền thống để  <br /> chống lại chủ  nghĩa hiện đại  (Smith, Portoghesi, Lipovetsky...); đặc biệt là <br /> <br /> <br /> 3<br /> trong kiến trúc và nghệ thuật tạo hình, trong đó có sự kết hợp chiết trung giữa <br /> hiện đại với quá khứ (Christopher Masters);<br /> <br /> 3. Chủ  nghĩa hậu hiện đại như  là một sự  vượt khỏi chủ  nghĩa hiện đại, <br /> một phong trào lai tạp mới và tương phản với chủ  nghĩa hiện đại (Jencks,  <br /> Koehler...).<br /> <br /> Đây là các quan niệm lý thuyết về  bản chất của chủ nghĩa hậu hiện đại. <br /> Còn về đặc tính của chủ nghĩa hậu hiện đại thì chúng ta có thể nhận xét thấy <br /> rằng đa số các ý kiến đều nhấn mạnh đến tính phi lý tính hoặc phản lý tính,  <br /> tính  phi  xác   định,   phi  chủ  thể,  tính  phân mảnh  và  tính  đại chúng  của  nó. <br /> Nhưng nhìn chung, hầu hết các ý kiến đều lấy chủ nghĩa hiện đại làm yếu tố  <br /> quy chiếu để xác định cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại.<br /> <br /> Giả  sử  có sự  tồn tại của chủ  nghĩa hậu hiện đại  như  các tác giả  quan <br /> niệm, thì, để hiểu thế nào là chủ nghĩa hậu hiện đại, trước hết chúng ta phải <br /> xét xem thế nào là chủ nghĩa hiện đại.<br /> <br /> Chủ  nghĩa hiện đại là một khái niệm chủ  yếu được dùng để  chỉ  các trào <br /> lưu nghệ  thuật thuộc phong trào tiên phong  ở  nửa đầu thế  kỷ  XX. Đó là các  <br /> trào lưu văn học ­ nghệ  thuật cụ  thể  như: chủ  nghĩa biểu hiện, chủ  nghĩa <br /> Đađa, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa trừu <br /> tượng... Tất nhiên văn học nghệ thuật hiện đại không chỉ có các trào lưu trên <br /> đây, mà nó còn có những khuynh hướng tìm tòi độc đáo khác nữa như văn xuôi  <br /> phi lý của Kafka và của Camus chẳng hạn.<br /> <br /> Còn chủ nghĩa hậu hiện đại hiện đang được nhiều người dùng để chỉ các  <br /> trào lưu trong văn học và nghệ thuật ngoài chủ nghĩa hiện thực truyền thống  <br /> và ngoài chủ  nghĩa hiện thực xã hội chủ  nghĩa   ở  nửa cuối thế  kỷ  XX. Nhìn <br /> chung người ta cho rằng văn học nghệ  thuật hậu hiện đại mang tính phi lý  <br /> tính, tính phi chủ thể, tính phân mảnh, tính phi xác định về không gian và thời  <br /> gian, tính đại chúng, tính chiết trung giữa hiện  đại và truyền thống. Theo <br /> nhiều người thì điển hình cho chủ nghĩa hậu hiện đại trong kiến trúc và nghệ <br /> thuật tạo hình là chủ nghĩa chiết trung mới và chủ nghĩa biểu hiện mới, là sự <br /> kết hợp giữa hiện đại với quá khứ  truyền thống; trong nghệ  thuật tạo hình,  <br /> nhiều người còn coi  op art  (nghệ  thuật  ảo thị) và  pop art  (nghệ  thuật bình <br /> dân) là các trào lưu hậu hiện đại; trong sân khấu là loại nghệ thuật biểu diễn <br /> happening  (tạm dịch: “sân khấu ngẫu hứng”); trong  âm nhạc là loại nhạc  <br /> <br /> <br /> 4<br /> rock­and­roll; trong văn học là  tiểu thuyết mới, là kịch phi lý, là chủ  nghĩa <br /> hiện thực huyền  ảo của châu Mỹ Latin (trong đó cũng có cả sự kết hợp hiện  <br /> đại với quá khứ huyền ảo) với sự tiếp nối của nhà văn Italia Umberto Eco qua <br /> tiểu thuyết  Tên gọi của hoa hồng  (1980), của nhà văn người Czech Milan <br /> Kundera, của nữ văn sĩ người Anh Angela Carter... John Barth (1984) coi nhà <br /> văn Columbia G.G. Marquez, nhà văn hiện thực huyền  ảo nổi tiếng, tác giả <br /> của cuốn tiểu thuyết  Trăm năm cô đơn và là người đoạt giải thưởng Nobel <br /> Văn học 1982, là “một ví dụ điển hình về chủ nghĩa hậu hiện đại và một bậc  <br /> thầy trong nghệ thuật kể chuyện.”<br /> <br /> Bây giờ  chúng ta hãy xem  chủ  nghĩa hậu hiện đại thực sự  có khác chủ  <br /> nghĩa hiện đại không.<br /> <br /> Người ta nói rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là phi lý tính. Nhưng từ đầu thế <br /> kỷ XX, một số trào lưu hiện đại chủ nghĩa cũng đã chủ trương coi trọng trực  <br /> giác và cảm tính. Điển hình là chủ  nghĩa Đađa. Trong bản Tuyên ngôn Đađa <br /> 1918, Tristan Tzara đã tuyên bố: “Chúng tôi không công nhận bất cứ  một lý  <br /> thuyết nào.” Theo ông, đối với người sáng tạo thì tác phẩm nghệ thuật “không <br /> có căn nguyên và không có lý thuyết”. Lý trí bị chủ nghĩa Đađa phủ nhận triệt  <br /> để  qua lời tuyên bố  của Tzara: “Nước mưa của quỷ  sứ  đổ  xuống lý trí của <br /> tôi.” Chủ  nghĩa siêu thực, trong bản Tuyên ngôn đầu tiên của chủ  nghĩa siêu  <br /> thực do André Breton viết năm 1924, cũng phản đối chủ nghĩa thực chứng và <br /> chủ nghĩa duy lý, nó chủ trương một kiểu “Hành vi tự động mang tính tâm lý  <br /> thuần túy, (...), không có bất cứ  một sự  kiểm soát nào của lý trí”; và nó tin <br /> tưởng vào “sức mạnh toàn năng của mơ  mộng”; nó chủ  trương một phương  <br /> pháp sáng tác cũng giống như  của chủ  nghĩa Đađa: “Các bạn hãy viết thật  <br /> nhanh mà không cần có một chủ đề định trước, nhanh đến mức các bạn không <br /> thể  dừng tay được và không muốn đọc lại mình.” Còn trong chủ  nghĩa biểu  <br /> hiện thì có trường phái dã thú và nhóm Nhịp cầu là hai trường phái phản đối <br /> chủ nghĩa thực chứng duy khoa học. Năm 1929, M. de Vlaminck, họa sĩ biểu <br /> hiện người Pháp theo trường phái  dã thú, đã tuyên bố: “Khoa học giết chết <br /> hội họa.” Sau đó ít lâu ông còn thổ  lộ: “Tôi thể  hiện chân lý bằng bản năng <br /> của mình mà không cần phương pháp, một chân lý không phải chân lý nghệ <br /> thuật mà là chân lý nhân bản.” Nhóm  Nhịp cầu  cũng chủ  trương thể  hiện <br /> những hiện tượng cảm tính, thuộc về bản năng.<br /> <br /> <br /> <br /> 5<br /> Người ta nói chủ nghĩa hậu hiện đại là phi chủ thể, là chủ thể bị giải thể,  <br /> là mang tính phân mảnh. Nhưng chúng ta hãy xem, trước chủ  nghĩa hậu hiện <br /> đại,   chủ   nghĩa   Đađa   đã   chủ   trương   như   thế   nào   về   tác   phẩm   của   mình: <br /> “Người nghệ sĩ mới sáng tạo ra một thế giới mà các thành phần của nó đồng  <br /> thời là các phương tiện, đó là một tác phẩm điều độ  và có hạn định, một tác <br /> phẩm không có chủ  đề.” Cả  chủ  nghĩa siêu thực cũng vậy. Trong chủ  nghĩa  <br /> lập thể, chủ  thể bị phân mảnh hơn bao giờ  hết (xem những bức họa lập thể <br /> của G. Braque, của Picasso). Và còn những sáng tác của Kafka và Camus nữa!  <br /> Các nhân vật của họ  đều là những con người không có tính cách;  ở  Kafka  <br /> nhân vật còn không có cả tên gọi. Về mặt này có thể coi Kafka là tiền bối của  <br /> tiểu thuyết mới, của kịch phi lý. (Giống như ở Kafka, nhân vật nữ chính trong  <br /> cuốn tiểu thuyết Ghen tuông của Alain Robbe­Grillet, một đại diện của tiểu  <br /> thuyết mới, cũng chỉ được gọi là A..., còn “anh chồng ghen” thì chẳng bao giờ <br /> được gọi tên hoặc được mô tả. Các vở kịch phi lý của Ionesco và của Beckett <br /> đầy rẫy những nhân vật vô danh. Nếu như  Kafka đặt cùng một cái tên “K.”  <br /> cho nhân vật chính của cả hai cuốn tiểu thuyết của mình, thì Ionesco cũng đặt  <br /> cùng một cái tên “Bérenger” cho nhân vật chính trong một loạt vở  kịch quan  <br /> trọng của ông.)<br /> <br /> Về  tính phi xác định về  không gian và thời gian của chủ  nghĩa hậu hiện <br /> đại, chúng ta cũng thấy nó có mặt trong hội họa siêu thực (điển hình là trong <br /> bức họa “Sự  tồn tại dai dẳng của ký  ức” (1931) của Salvador Dali (René <br /> Magritte ­ họa sĩ siêu thực người Bỉ  ­ cũng có một bức tranh cùng tên nhưng <br /> không nổi tiếng bằng bức của Dali), hay trong sáng tác của Kafka ( Lâu đài); <br /> cho nên nói như  Chuchin­Rusov rằng “con người hậu hiện đại có khả  năng <br /> vui sướng cảm thấy được tự  do bay bổng trong ‘chiều cạnh thứ tư của văn  <br /> hóa’, không biết đến mọi giới hạn về  thời gian và lãnh thổ, điều mà người  <br /> bạn ở thời hiện đại của nó không thể nào nghĩ tới”, thì chỉ đúng trong thực tế <br /> đời sống xã hội của thế giới toàn cầu hóa ngày nay, chứ không đúng trong văn <br /> học và nghệ thuật, khi mà từ lâu Salvador Dali đã cho phép chúng ta có thể đi <br /> du ngoạn sang một thế giới siêu thực huyễn tưởng phi không gian và phi thời <br /> gian. <br /> <br /> Còn về  tính đại chúng của chủ  nghĩa hậu hiện đại thì sao? Có thể  chấp <br /> nhận quan điểm cho rằng các trào lưu của chủ nghĩa hiện đại nửa đầu thế kỷ <br /> XX có phần nào xa lánh đại chúng. Tzara đã từng tuyên bố  rằng người bình <br /> <br /> <br /> 6<br /> thường thì không thể hiểu nổi một tác phẩm Đađa. Nhưng nếu vì thế  mà nói <br /> rằng chủ  nghĩa hậu hiện đại quay về  với đại chúng thì cũng chưa hẳn đã  <br /> đúng. Đại chúng chắc là khó lòng mà hiểu được một số màn diễn đôi khi quá  <br /> khích của sân khấu  happening, khó mà hiểu được những vở  kịch phi lý của <br /> Beckett hay của Ionesco, những cuốn tiểu thuyết của nhóm tiểu thuyết mới, <br /> v.v...<br /> <br /> Còn ý kiến cho rằng chủ  nghĩa hiện đại chủ  trương độc thoại trong khi <br /> chủ nghĩa hậu hiện đại chủ trương đối thoại cũng là một ý kiến không chính  <br /> xác. Đối thoại có rất rất ít trong tiểu thuyết mới cũng như  trong kịch phi lý. <br /> Các cuốn tiểu thuyết  Bỏ  lại ý đồ  (tiếng Pháp:  La Modification) của Michel <br /> Butor và  Đường đi Flandres  của Claude Simon, hai đại diện nổi tiếng của <br /> nhóm tiểu thuyết mới, hầu như  không có đối thoại. Bérenger, nhân vật điển  <br /> hình của nhà soạn kịch phi lý nổi tiếng Ionesco, có những màn độc thoại rất <br /> thống thiết. Hai ông già bà già trong vở  kịch  Những chiếc ghế  của ông chủ <br /> yếu cũng diễn độc thoại. Việc khuyến khích đối thoại vì một nền dân chủ là <br /> một việc làm hợp lý, nhưng không vì thế mà khái quát hóa rằng đặc điểm của  <br /> xã hội hậu hiện đại là “đối thoại”! <br /> <br /> Người ta cũng nói nhiều đến một đặc tính nghệ  thuật có khả  năng phân <br /> biệt chủ nghĩa hậu hiện đại với chủ nghĩa hiện đại, đó là sự có mặt của chủ <br /> nghĩa chiết trung mang tính kết hợp giữa hiện đại với quá khứ  truyền thống <br /> trong chủ  nghĩa hậu hiện đại. Nhưng đặc điểm này chỉ  thể  hiện rõ rệt trong <br /> kiến trúc, trong nghệ thuật tạo hình hậu hiện đại, và một chút trong văn học <br /> của chủ  nghĩa hiện thực huyền  ảo. Trong kiến trúc, chủ  nghĩa hậu hiện đại <br /> mang tính chiết trung được đại diện chủ  yếu bởi Robert Venturi và Michael  <br /> Graves của Hoa Kỳ, James Stirling và Ralph Erskine của nước Anh... Erskine <br /> đã thiết kế  một tòa nhà mang tên  Con thuyền Noe, tòa nhà được xây dựng <br /> phỏng theo hình con tàu thủy đang chui qua một chiếc cầu cất và được xây <br /> dựng ngay bên cạnh chiếc cầu Hammersmith  ở  London nó được mô phỏng  <br /> theo hình ảnh tưởng tượng về con thuyền của Noe trong  Kinh thánh, và việc <br /> thiết kế  chiếc mái của nó giống hình một chiếc cầu cất đã làm cho tòa nhà <br /> trông giống như một con tàu thủy đang lướt qua gầm cầu.<br /> <br /> Thế  nhưng xét kỹ  thì ta thấy cái xu hướng quay về  với quá khứ  cũng  <br /> không chỉ đặc trưng cho nghệ thuật hậu hiện đại. Trong các trào lưu hiện đại  <br /> <br /> <br /> <br /> 7<br /> chủ nghĩa trước đây thì cũng đã có trào lưu quay trở về với tâm hồn của người <br /> nguyên thủy. Điều này không hề  mâu thuẫn với tư  tưởng đoạn tuyệt truyền <br /> thống của chủ  nghĩa hiện đại, bởi vì truyền thống mà chủ  nghĩa hiện đại <br /> muốn đoạn tuyệt là thứ  truyền thống của xã hội tư  sản khủng hoảng chứ <br /> không phải là tất cả  các loại truyền thống của loài người. Xu hướng trở  về <br /> với cuộc sống nguyên thủy, với cuộc sống hoang dã nguyên sơ, đã trở  thành <br /> một trong những xu hướng chủ yếu của đời sống nghệ thuật cuối thế kỷ XIX  <br /> đầu thế  kỷ  XX.  Trong  số  những người  đại  diện  cho xu hướng  đó  có  A. <br /> Rimbaud, nhà thơ  Pháp cuối thế  kỷ  XIX. Cùng trong xu hướng đó, đến năm <br /> 1891, đúng năm Rimbaud mất, họa sĩ tài ba Paul Gauguin đã rời nước Pháp  <br /> hiện đại, từ  bỏ  cái xã hội “tội lỗi và được tổ  chức tồi”, “được điều hành <br /> bằng vàng bạc” như  lời ông nói, đến sống tại đảo Tahiti thuộc quần đảo <br /> Polynésie trên biển Nam Thái Bình Dương, dành quãng đời còn lại của mình <br /> để  vẽ  những người dân bản xứ   ở  đây với tâm hồn nguyên sơ  chưa bị  biến <br /> chất của họ. Và không chỉ  có Gauguin; một loạt các họa sĩ châu Âu đã lên <br /> đường sang châu Phi, sang Nhật, sang  Ấn Độ. Một số nghệ sĩ theo chủ  nghĩa <br /> biểu hiện cũng coi nghệ  thuật nguyên thủy, nghệ  thuật dân gian và nghệ <br /> thuật dân dã ngoại lai là những nguồn cảm hứng vô tận. Có lẽ   riêng đối với  <br /> kiến trúc thì sự khác biệt giữa chủ nghĩa hậu hiện đại với hiện đại là tỏ ra rõ  <br /> rệt hơn cả, bởi vì trong trào lưu kiến trúc hậu hiện đại, phát triển mạnh kể từ <br /> những năm 1970, người ta thấy có sự thể hiện của chủ nghĩa chiết trung trong  <br /> việc kết hợp hiện đại với quá khứ truyền thống để  phản đối tính cứng nhắc  <br /> khô cằn và tính duy lý trừu tượng của kiến trúc hiện đại.<br /> <br /> Vậy là về  mặt lý thuyết, những gì mà những người đề  xướng chủ  nghĩa <br /> hậu hiện đại chủ trương thì hầu hết đã có ở chủ nghĩa hiện đại. Như vậy, cái <br /> nghĩa cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là giai đoạn kịch phát của chủ nghĩa  <br /> hiện đại là có vẻ  xác đáng và bao quát hơn cả.  Vì mức độ  kịch phát đó mà <br /> chủ  nghĩa hậu hiện đại còn có thể  được gọi là chủ  nghĩa siêu hiện đại hay <br /> chủ  nghĩa tối hiện đại (tiếng Pháp: “ultramodernisme”). Và vì được dùng để <br /> chỉ  một giai đoạn của chủ  nghĩa hiện đại, nên khái niệm “hậu hiện đại” trở <br /> nên không cần thiết và không hợp lý bằng khái niệm “siêu [hoặc   tối] hiện <br /> đại”. <br /> <br /> 3. Phản ứng của các nhà khoa học đối với chủ nghĩa hậu hiện đại<br /> <br /> <br /> <br /> 8<br /> Liên quan đến vấn đề  phản  ứng của các nhà khoa học đối với chủ  nghĩa <br /> hậu hiện đại, tôi muốn nói đến việc báo Văn nghệ số  16 năm 2010 có đăng <br /> bài “Sự kiện Sokal với mặt trái của lý thuyết hậu hiện đại” của GS. Phương  <br /> Lựu. Bài viết nói đến tác động bài báo của Sokal đối với việc hiểu rõ “mặt  <br /> trái của lý thuyết hậu hiện đại”. Song thực chất “vụ  Sokal” thuộc loại hiện  <br /> tượng gì? <br /> <br /> Thế  giới gọi hiện tượng liên quan đến “vụ  Sokal” là hiện tượng “ngụy  <br /> tạo văn hóa­khoa học”, nằm trong phạm trù “ngụy tạo” nói chung. Trong văn <br /> hóa­khoa học,  ở một chừng mực nào đó, kiểu ngụy tạo phi vụ lợi có một tác  <br /> động tích cực nhất định, chẳng hạn như  nó cảnh tỉnh giới văn hóa­khoa học <br /> về  một thói a dua, ham chạy theo mốt mà bỏ  quên các nguyên tắc về   tính  <br /> nghiêm cẩn của tri thức [tiếng Anh: “intellectual rigour”]. <br /> <br /> Ngụy tạo văn hóa­khoa học phi vụ  lợi có thể  đã xuất hiện từ  lâu, nhưng <br /> lịch sử  chủ  yếu ghi nhận những vụ  ngụy tạo từ  cuối thế  kỷ  XIX đến nay. <br /> Trong tinh thần đó, vụ  ngụy tạo khoa học Alan Sokal 1996  ở Mỹ cũng nằm  <br /> trong xu hướng giễu nhại và châm biếm những cái mà ông gọi là thói phi lý  <br /> thời thượng trong việc lạm dụng khoa học. Xu hướng sùng bái các trào lưu  <br /> triết học được gọi là hậu hiện đại  ở  phương Tây trong những thập kỷ  cuối  <br /> thế  kỷ  XX đã biến các lý thuyết được gọi là hậu hiện đại trở  thành thời  <br /> thượng. Và việc xuất hiện những phản  ứng chống lại chúng là điều đương <br /> nhiên. Một trong những phản  ứng đó là công trình Mê tín cao ngạo: Cánh tả  <br /> học thuật và những cuộc tranh cãi của nó với khoa học  (1994) của hai nhà <br /> khoa học Mỹ Paul R. Gross và Norman Levitt. Đọc xong công trình này, Sokal <br /> đã phẫn nộ về những cái mà ông cho là “sự giả mạo tri thức”, về thái độ chủ <br /> quan của chủ  nghĩa hậu hiện đại trong việc nghi ngờ  tính khách quan của  <br /> khoa học. Và thế  là ông quyết định làm một phép thử. Ông viết một bài báo <br /> với những cứ  liệu và lập luận giả  mạo đủ  mức phi lý để  làm cho bài báo  <br /> không có giá trị, nhưng nó lại có hơi hướng “hậu hiện đại” và có vẻ đáng tin  <br /> để có thể đánh lừa Ban biên tập Tạp chí Social Text [“Văn bản xã hội”], một <br /> tờ  tạp chí hàng đầu của giới học thuật và theo khuynh hướng chủ  nghĩa cấu <br /> trúc   phân  giải   (có   người   dịch  là   chủ   nghĩa   giải  cấu,   chủ   nghĩa   giải   kiến  <br /> tạo...), một chủ nghĩa được coi là tiêu biểu của trào lưu hậu hiện đại. Sokal <br /> đăng bài báo với mục đích là để  thử  xem tờ  tạp chí theo khuynh hướng hậu <br /> hiện đại đó sẽ  đăng bài theo chất lượng khoa học của bài viết hay theo tên  <br /> <br /> <br /> 9<br /> tuổi và khuynh hướng quan điểm của người viết. Quả nhiên bài viết của ông  <br /> đã được đăng không phải vì chất lượng, (thực sự đó là bài viết ngụy tạo khoa  <br /> học), mà là vì khuynh hướng được gọi là “hậu hiện đại” của bài viết với tên  <br /> tuổi của một giáo sư đại học ngành vật lý. Như vậy, ở đây có một sự đối đầu  <br /> về quan điểm giữa các nhà khoa học theo xu hướng giải cấu trúc với các nhà  <br /> khoa học tự  nhiên phản đối nó, coi nó là một sự  vô nghĩa thời thượng [tiếng <br /> Anh: “fashionable nonsense”], một sự lạm dụng thuật ngữ khoa học.<br /> <br /> Như  thế, Sokal và các nhà khoa học khác đã phản đối  chính cái bản chất <br /> của cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại chứ không phải như GS. Phương Lựu ­ <br /> vì có định kiến muốn bảo vệ chủ nghĩa hậu hiện đại ­ đã cho rằng họ phản  <br /> đối cái “mặt trái” của nó. Thực tế, trong trường hợp của chủ nghĩa hậu hiện  <br /> đại, không có mặt trái và mặt phải gì  ở  đây. Điều này cho thấy một thực tế <br /> khách quan mà từ  lâu tôi đã lưu ý rằng cái gọi là chủ  nghĩa hậu hiện đại  <br /> không hề nhận được sự đồng thuận tán thành của các học giả ngay ở phương  <br /> Tây. Và, cũng giống như các học giả phương Tây gọi nó là một sự lạm dụng <br /> thuật ngữ, tôi cũng đã gọi nó là một sự lạm dụng khái niệm.<br /> <br /> Trong khi đó  ở  nước ta, thói sùng ngoại không phân biệt đã làm cho chủ <br /> nghĩa hậu hiện đại được giới thiệu như  một sự  nhất trí cao không phải bàn <br /> cãi trong tất cả các lĩnh vực văn học­nghệ  thuật. Và vì không gán nổi được <br /> một đặc trưng riêng nào cho chủ  nghĩa hậu hiện đại, hầu như  tất cả  những <br /> người  ủng hộ  hậu hiện đại đều có khuynh hướng gọi các trào lưu hiện đại  <br /> đầu thế kỷ  XX là hậu hiện đại, từ  chủ  nghĩa Đađa đến chủ  nghĩa siêu thực,  <br /> từ  Kafka đến kịch phi lý... Nhiều người chỉ  nghe người nước ngoài nói thế <br /> nào về hậu hiện đại thì nói theo như thế ấy mà không hề có ý thức rõ ràng về <br /> nó. Chẳng hạn có người khi đọc thấy một ý kiến vô căn cứ  của một người <br /> nước ngoài cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại có những đặc điểm gần với chủ <br /> nghĩa Marx, thế là lấy ngay ý kiến đó làm tiêu chuẩn để phán xét hậu hiện đại <br /> mà không hề  biết rằng quan điểm của một chủ  soái hậu hiện đại (Francois  <br /> Lyotard) lại cho rằng chủ nghĩa Marx là một “đại tự sự” cần phải xóa bỏ. Và <br /> gần đây, tôi cũng lại bắt gặp ý kiến của một tác giả Việt Nam cho rằng “chủ <br /> nghĩa hậu hiện đại chịu ảnh hưởng sâu đậm của chủ  nghĩa Marx”! Điều này  <br /> thật là khôi hài. Nó càng chứng tỏ  trong số  những người cổ  xúy cho [chủ <br /> nghĩa] hậu hiện đại, có nhiều người chẳng hiểu gì về  [chủ  nghĩa] hậu hiện  <br /> đại. Có những người trước đây từng làm theo sách nước ngoài xếp một số <br /> <br /> <br /> 10<br /> trường phái văn học và một số lý thuyết nghiên cứu vào cái ô “hiện đại”, thì  <br /> nay, thấy những người nước ngoài khác gọi chúng là hậu hiện đại, thì họ lại <br /> quay sang nói theo là “hậu hiện đại”. Rõ ràng ở đây có một sự bắt chước rất  <br /> tùy tiện. Còn có những người thì, với thói bắt chước a dua, lại sẵn sàng bịa  <br /> tạc ra đủ  thứ  chuyện xung quanh thuật ngữ này! Thực tế, vụ  Sokal cho thấy <br /> trong những cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại cũng có cái tỏ ra tầm phào một <br /> cách “mê tín cao ngạo” đến mức fashionable nonsense!<br /> <br /> 4. Kết luận<br /> <br /> Tóm lại, trong lĩnh vực nghệ thuật, ngoại trừ lĩnh vực kiến trúc, khái niệm <br /> “chủ nghĩa hậu hiện đại” chỉ  nên hiểu là chỉ cái đỉnh cao hay “giai đoạn kịch  <br /> phát” của chủ  nghĩa hiện đại. Với nghĩa “kịch phát”, thuật ngữ  “hậu hiện <br /> đại” hoàn toàn có thể  được thay bằng thuật ngữ  “hiện đại”, hoặc chính xác <br /> hơn là thay bằng thuật ngữ “siêu hiện đại” hay “tối hiện đại”. Theo tinh thần  <br /> này, những hiện tượng “mới lạ” trong văn học đương đại mà hiện đang được  <br /> nhiều người cho là “hậu hiện đại”, thực chất vẫn là một sự “nối dài” của chủ <br /> nghĩa hiện đại. Chỉ  có quan niệm như  vậy thì chúng ta mới xác định được  <br /> đúng đặc điểm và tính chất của chúng. Không nhất thiết cứ mỗi khi muốn gây  <br /> ấn tượng lại phải cầu viện đến thuật ngữ “hậu hiện đại”, để rồi lại phải vất  <br /> vả cố công tìm kiếm các đặc tính để gán cho nó nhằm chứng minh cho quyền  <br /> tồn tại của nó mà thực ra các đặc tính đó lại chính là của [chủ  nghĩa] hiện  <br /> đại. <br /> <br /> Mặt khác, khi phê bình, chúng ta nên hết sức tránh định kiến, đặc biệt là <br /> định kiến chính trị.  Ở  Việt Nam, có nhiều người do xuất phát từ  định kiến  <br /> chính trị cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại có một chủ trương mang tính “cách  <br /> mạng” là xóa bỏ  đại tự  sự, nên có vẻ  có ác cảm với những ai phản đối hậu <br /> hiện đại. Ví dụ mới đây có tác giả đã viết: “Hiện đại thì ra đời từ những năm <br /> 50 của thế  kỷ  XX, bản chất nhất nguyên, một trung tâm, nên mấy ông cộng <br /> sản khoái. Còn hậu hiện đại, ra đời những năm 70 của thế  kỷ  trước, nó vốn  <br /> đa nguyên, nhiều trung tâm, nên các ông nhà ta hay mè nheo, chê bôi. Nếu đánh  <br /> đồng hiện đại và hậu hiện đại với nhau, thì có liên quan gì đến vấn đề ý thức  <br /> hệ   không?”   (Vũ   Xuân   Tửu,   “Lại   chuyện   bên   lề   hội   nghị   viết   văn”, <br /> http://trannhuong.com, 13­9­2011). Tác giả  này đã tỏ  ra không hiểu một tý gì <br /> về chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại, cả về bản chất và thời gian xuất hiện <br /> <br /> <br /> <br /> 11<br /> của chúng, chỉ thấy có người nói đến chữ “đa nguyên” thì vội bám vào để liên  <br /> hệ  đến chính trị. Người này không hề  biết ­ vì không chịu tìm hiểu thông tin  <br /> hay vì mắc phải một lỗ  hổng kiến thức ­ rằng chủ  nghĩa hiện đại đã xuất <br /> hiện từ đầu thế kỷ XX chứ không phải đến “những năm 50 của thế kỷ XX”, <br /> và nó không hề nhất nguyên một tý nào; rằng trước Đổi mới, chủ nghĩa hiện <br /> đại đã bị những người cộng sản giáo điều phản đối kịch liệt ra sao; rằng chỉ <br /> sau Đổi mới, chủ nghĩa hiện đại mới được đánh giá lại một cách khách quan <br /> và công bằng. Xuất phát từ  một định kiến mang tính chính trị, tác giả  đoạn  <br /> văn trên đã dựng lên câu chuyện về  “sự  khoái chí của mấy ông cộng sản”  <br /> dành cho chủ nghĩa hiện đại và về thái độ “mè nheo, chê bôi” của mấy ông đó <br /> dành cho chủ  nghĩa hậu hiện đại. Thực tế  là trước đây “mấy ông cộng sản”  <br /> không hề  khoái chủ  nghĩa hiện đại, họ  đã phê phán kịch liệt chủ  nghĩa hiện <br /> đại khi họ  gọi các trào lưu hiện đại chủ  nghĩa là “nghệ  thuật tư  sản phản  <br /> động và suy đồi”! Còn bây giờ, sau khi được “cởi trói”, nhiều “ông cộng sản”  <br /> cũng tán dương hậu hiện đại chẳng kém gì tác giả  nói trên. Câu chuyện này <br /> cho thấy cái lỗ hổng về kiến thức đã có tác hại như thế nào đến tư duy logic  <br /> của một người muốn làm phê bình.<br /> <br /> Về  phần tôi, khi tôi phân tích những quan niệm sai lầm và ngộ  nhận về <br /> hậu hiện đại, thì cũng có người do xuất phát từ  định kiến chính trị, nên hiểu <br /> sai rằng tôi là người bảo thủ  vì đã phản đối, “chê bôi” chủ  nghĩa hậu hiện  <br /> đại. Nhưng qua những gì tôi đã phát biểu, tôi chưa bao giờ  nói là mình phản  <br /> đối và phủ  nhận chủ  nghĩa hậu hiện đại, mà tôi chỉ  phản đối việc áp đặt vô  <br /> cớ  cái tên gọi “hậu hiện đại” cho các trào lưu nghệ  thuật vốn đã được thế <br /> giới định danh từ  lâu là “hiện đại”. Tôi chỉ  xuất phát từ  tính logic để  chỉ  ra <br /> những điều vô lý trong những lập luận bắt chước của những người a dua nói <br /> theo  một luồng  ý kiến “vô nghĩa thời thượng” của nước ngoài về  hậu hiện <br /> đại, từ  đó cảnh báo nguy cơ  về  một sự  rối loạn hệ  thống lý luận văn học.  <br /> Như  thế  thì không thể  nói là tôi phản đối và phủ  nhận chủ  nghĩa hậu hiện <br /> đại, bởi lẽ người ta  không thể phản đối và phủ nhận “cái không tồn tại” , mà <br /> tôi chỉ  phản đối cách dùng tên gọi hậu hiện đại cho những hiện tượng văn  <br /> học nghệ  thuật đương đại mà thực chất chúng chính là sự  nối dài của chủ  <br /> nghĩa hiện đại, ngoại trừ lĩnh vực kiến trúc. Tôi cũng chẳng phải bận tâm hay <br /> lo sợ  đến cái điều chỉ  tồn tại trong tưởng tượng của các nhà phê bình. Đơn <br /> giản là tôi chỉ thấy nực cười và vô nghĩa đối với những lý lẽ  ngụy khoa học  <br /> <br /> <br /> 12<br /> của nhiều nhà lý luận phê bình và của cả  một số nhà văn nhà thơ  ở  nước ta  <br /> trong vấn đề được gọi là “hậu hiện đại”.<br /> <br /> Những điều phân tích trong bài này cho thấy sức sống bền bỉ của các trào  <br /> lưu hiện đại chủ  nghĩa và vai trò của chúng trong văn học nghệ  thuật đương <br /> đại của thế giới. Tiếc rằng ở nước ta, thói quen sính ngoại đã làm cho nhiều <br /> người chỉ đơn giản nói theo các quan điểm cổ xúy cho hậu hiện đại mà không <br /> hề có cái nhìn suy xét để phân biệt những điều vô lý trong các ý kiến về hậu <br /> hiện đại, đến nỗi họ  sẵn sàng từ  bỏ  những quan điểm cũ của mình để  đem <br /> những cái trước đây họ đã gọi là chủ nghĩa hiện đại dâng cho “ngôi đền” hậu  <br /> hiện đại mà không hề  biết rằng ngôi đền đó chẳng có gì đáng để  được thờ <br /> cúng.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 13<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2