intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chương trình giáo dục phổ thông

Chia sẻ: Nguyễn Kim Tuyền Hoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Ebook Tài liệu hướng dẫn lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông" được biên soạn với các nội dung giải thích thuật ngữ; sự cần thiết lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; các cấp độ, các bước và các công cụ lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; một số lưu ý khi thực hiện lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chương trình giáo dục phổ thông

  1. Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá Bộ Giáo dục và Đào tạo của Liên hợp quốc Nước CHXHCN Việt Nam United Nations Ministry of Education and Training Education, Scientfic and S.R. Viet Nam Cultural Organization Sáng kiến Bình đẳng giới và Giáo dục cho trẻ em gái tại Việt Nam: “Trao quyền cho trẻ em gái và phụ nữ vì một xã hội công bằng hơn” TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Hà Nội, tháng 4/2016
  2.  SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
  3.  SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TÁT CT Chương trình  GDĐT Giáo dục và Đào tạo GDMN Giáo dục mầm non GDPT Giáo dục phổ thông GDTH Giáo dục tiểu học GPI Chỉ số bình đẳng giới SGK Sách giáo khoa THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc
  5. MỤC LỤC Trang GIỚI THIỆU 8 GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ 10 PHẦN I. SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CT, SGK GDPT 13 1. Bình đẳng giới và bạo lực trên cơ sở giới trong GDPT ở Việt Nam 15 2. Thực trạng lồng ghép giới trong CT, SGK GDPT 17 3. Ý nghĩa của việc lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT mới 23 4. Vai trò của giáo dục và SGK trong thúc đẩy bình đẳng giới 24 PHẦN II. CÁC CẤP ĐỘ, CÁC BƯỚC VÀ CÁC CÔNG CỤ LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CT, SGK GDPT 26 1. Thế nào là lồng ghép giới? 27 2. Các cấp độ lồng ghép giới 28 3. Các bước lồng ghép giới 28 4. Công cụ lồng ghép giới 29 PHẦN III. MỘT SỐ LƯU Ý KHI THỰC HIỆN LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CT, SGK GDPT 40 1. Lưu ý chung khi thực hiện lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT 41 2. Lưu ý cụ thể khi thực hiện lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT 43 PHẦN IV. CÁC PHỤ LỤC 49 Phụ lục 1. Góc nhìn giới trong một số SGK hiện hành của Việt Nam 50 Phụ lục 2. Đề cương báo cáo kết quả phân tích giới 63 Phụ lục 3. Tài liệu tham khảo/nguồn tham khảo 66
  6. GIỚI THIỆU Trong khuôn khổ Sáng kiến của Bộ GDĐT và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc  (UNESCO) về Bình đẳng giới và Giáo dục cho trẻ em gái tại Việt Nam: Trao quyền cho trẻ em gái và phụ nữ vì một xã hội công bằng hơn”, Bộ phận thường trực đổi mới CT, SGK GDPT thuộc Bộ GDĐT, với sự hỗ trợ kỹ thuật của UNESCO và các chuyên gia tư vấn đã xây dựng Tài liệu hướng dẫn Lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT (Tài liệu hướng dẫn). Tài liệu hướng dẫn này được biên soạn trong bối cảnh Việt Nam tiếp tục cam kết thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) về Giáo dục chất lượng (Mục tiêu số 4) và Bình đẳng giới (Mục tiêu số 5) giai đoạn 2015 - 2030 của Liên hợp quốc, cũng như đang tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội khóa XIII về đổi mới CT, SGK GDPT và Quyết định số 404/ QĐ-TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đổi mới CT, SGK GDPT. Các mẫu biểu và bảng kiểm trong Tài liệu hướng dẫn này được chọn lọc chủ yếu từ hai tài liệu “Thúc đẩy bình đẳng giới trong giáo dục” (GENIA - UNESCO 2009) và “Thúc đẩy bình đẳng giới thông qua sách giáo khoa - Hướng dẫn phương pháp luận” (UNESCO 2009). Tài liệu hướng dẫn cũng được hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp của các đại biểu đến từ các trường đại học, cao đẳng sư phạm, các Sở GDĐT, Học viện Quản lý giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, các Vụ/Cục liên quan thuộc Bộ GDĐT tham dự hai khóa tập huấn được tổ chức tại Hà Nội (ngày 07-08/12/2015) và thành phố Hồ Chí Minh (ngày 09-10/12/2015) về Lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT và Hội thảo tham vấn ngày 26/01/2016 tại Hà Nội, cũng như ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, nhà giáo, chuyên gia giáo dục và giới.
  7. Tài liệu hướng dẫn được chia thành 3 phần chính, bao gồm:  Phần I. Sự cần thiết lồng ghép giới vào CT, SGK  GDPT.  Phần II. Các cấp độ, các bước và các công cụ SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT.  Phần III. Một số lưu ý khi thực hiện lồng ghép giới vào CT, SGK GDPT. Ngoài ra, còn có các phụ lục để cung cấp thêm các thông tin, ví dụ minh hoạ cụ thể, mẫu báo cáo kết quả phân tích giới và danh mục các tài liệu tham khảo. Mục tiêu của Tài liệu hướng dẫn này nhằm cung cấp thông tin và trang bị một số kỹ năng cần thiết cho các cán bộ trong ngành Giáo dục nói chung và các thành viên Ban xây dựng CT, Ban biên soạn SGK, Hội đồng quốc gia thẩm định CT, SGK nói riêng cách thức nhận biết định kiến và khuôn mẫu giới tồn tại trong CT, SGK hiện hành, để đưa ra các quyết định phù hợp, đảm bảo tốt nhất việc lồng ghép giới trong quá trình xây dựng CT, biên soạn SGK mới và thẩm định CT, SGK mới, cũng như trong quá trình dạy học ở các cấp học của GDPT, giúp tăng cường bình đẳng giới trong CT, SGK GDPT của Việt Nam. Tài liệu hướng dẫn này được thiết kế theo hướng mở nên có thể sử dụng một cách linh hoạt, để các nội dung, hình ảnh minh họa, bài học, bài tập và bài giảng trong CT, SGK GDPT mới được lồng ghép giới một cách linh hoạt, hài hoà và hiệu quả.
  8. Giải thích thuật ngữ 1. Giới là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ văn hoá, xã hội. Trong khi giới tính thường 10 là chỉ các đặc điểm sinh học, giới có thể thay đổi theo thời gian và không gian, phụ thuộc vào bối cảnh xã hội cụ thể. Các mối quan hệ giới giữa nam và nữ có thể có nhiều khác biệt giữa các nền văn GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ hóa, tầng lớp, chủng tộc và khu vực địa lí. 2. Giới tính là khái niệm chỉ những khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ, cũng như các đặc tính sinh học phân biệt nam và nữ. Một người có thể là nam hoặc nữ bất kể chủng tộc, tầng lớp, tuổi tác hoặc sắc tộc. Tuy nhiên, ý nghĩa xã hội gắn liền với sinh học của một người có thể khác nhau tuỳ thuộc vào dân tộc của họ. Một số người có thể có đặc tính sinh học của cả hai phái, nam và nữ, bởi sự phức tạp về mặt thể chất của họ. 3. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy tiềm năng của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. 4. Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. 5. Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ. Cụ thể là nhận thức hoặc hình ảnh/đặc điểm bị nhìn nhận sai lệch có thể mang tính tích cực (tạo nên những đặc tính có giá trị) hoặc tiêu cực (tạo nên những đặc tính kém giá trị hoặc gây phản cảm). 6. Góc nhìn giới hoặc lăng kính giới là việc nhìn nhận các sự việc/ vấn đề khác nhau có tính đến những khía cạnh về giới. 7. Lồng ghép giới là phương pháp tiếp cận và biện pháp mang tính chiến lược nhằm đạt được bình đẳng giới trong xã hội bằng cách đưa yếu tố giới vào mọi thiết chế cũng như các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
  9. Giải thích thuật ngữ 8. Lồng ghép giới vào CT, SGK được hiểu là quá trình và kết quả thực hiện việc tích hợp các vấn đề giới vào chính sách, chiến lược, 11 CT, SGK, vào quá trình dạy và học ở nhà trường cả giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. 9. Cân bằng giới là sự thể hiện mang tính định lượng đại diện và GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ tham gia của hai giới. Cân bằng giới tuy là một bước cần thiết nhưng chưa đủ để đạt được bình đẳng giới. 10. Công bằng giới là sự đối xử hợp lý với nam và nữ. Để đảm bảo công bằng, cần có các biện pháp khắc phục những yếu tố bất lợi về lịch sử và xã hội ngăn không cho phụ nữ và nam giới có vị thế bình đẳng với nhau. 11. Khuôn mẫu giới là sự khái quát hoá về đặc điểm, tính cách và vai trò của một nhóm người dựa trên giới tính của họ. Nói cách khác, khuôn mẫu giới là một tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho nam giới hay nữ giới, ví dụ như “con gái thì yếu mềm” còn “con trai thì mạnh mẽ” hoặc “đàn ông làm cảnh sát” còn “phụ nữ nội trợ”. Khuôn mẫu giới làm hình thành định kiến giới và dẫn đến cách nhìn sai lệch về một giới nào đó. Khuôn mẫu giới tạo áp lực về sự lựa chọn môn học, nghề nghiệp hay thể hiện sở thích, tiềm năng của bản thân. 12. Phân tích giới là quá trình xem xét tại sao có sự bất bình đẳng tồn tại giữa nam giới và nữ giới, việc hình thành và duy trì sự bất bình đẳng đó; sự bất bình đẳng giới gây nên những hệ quả gì cho cả nam giới và nữ giới trong các tình huống và hoàn cảnh nhất định. 13. Nhận thức giới là khả năng xác định và nhận thức được sự khác biệt và tình trạng bất bình đẳng còn tồn tại giữa nam giới và nữ giới. 14. Đáp ứng giới là việc xác định và nhận thức được sự khác biệt và tình trạng bất bình đẳng còn tồn tại giữa nam giới và nữ giới, để xây dựng các chính sách, sáng kiến nhằm đáp ứng nhu cầu, khát vọng, năng lực và đóng góp khác nhau của nam giới và nữ giới.
  10. Giải thích thuật ngữ 15. Nhạy cảm giới là sự nhận thức được các nhu cầu, vai trò, trách nhiệm mang tính xã hội của phụ nữ và nam giới nảy sinh từ 12 những đặc điểm sinh học vốn có của họ. Nhạy cảm giới là hiểu và ý thức được những sự khác biệt đó dẫn đến khác biệt giới về khả năng tiếp cận, kiểm soát nguồn lực và mức độ tham gia, hưởng GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ lợi trong quá trình phát triển của nam và nữ. 16. Kỳ thị giới là bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hoặc hạn chế dựa trên vai trò và chuẩn mực về giới do văn hoá xã hội tạo nên mà ngăn chặn một người được hưởng đầy đủ các quyền của mình. Ví dụ các em gái bị phân biệt đối xử khi không được khuyến khích học những môn được cho là nam tính, chẳng hạn như cơ khí. Các em trai có thể bị phân biệt đối xử theo cách tương tự khi họ bị trêu chọc khi theo đuổi ngành học được cho là “nữ tính”, chẳng hạn như điều dưỡng. 17. Bạo lực học đường trên cơ sở giới là mọi hình thức bạo lực (thể hiện rõ ràng hoặc ngấm ngầm), bao gồm sự lo sợ bạo lực, xảy ra trong môi trường giáo dục (bao gồm trong và ngoài trường, ví dụ như trong khuôn viên trường, trên đường đến trường hoặc từ trường về nhà, và trong các trường hợp khẩn cấp và xung đột) gây ra hoặc có khả năng gây ra nguy hại về thể chất, tinh thần hoặc tâm lý của trẻ (các em nam, nữ, liên giới tính và chuyển giới với các xu hướng tính dục khác nhau). Tình trạng bạo lực học đường trên cơ sở giới là hệ quả của các khuôn mẫu, vai trò hoặc đặc điểm được gắn cho hoặc được mong đợi từ các em vì giới tính hoặc bản dạng giới của trẻ. Tình trạng này còn có thể kết hợp với việc cô lập hoặc các hình thức gây tổn thương khác. 18. LGBTI là viết tắt của: Lesbian (đồng tính nữ), Gay (đồng tính nam), Bisexual (song tính), Transsexual/Transgender (hoán tính/ chuyển giới) và Intersex (liên giới tính).
  11. PHẦN I SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
  12. 14 SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Giáo dục là một quyền con người của trẻ em gái và trẻ em trai, phụ nữ và nam giới. Điều 26 của Tuyên bố toàn cầu về quyền con người, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948 và Mục tiêu 5 của Các Mục tiêu về Giáo dục cho mọi người (EFA) ghi rõ: “Đến năm 2005 loại bỏ được sự mất cân bằng giới trong giáo dục tiểu học và trung học” và “Đến năm 2015 đạt được bình đẳng giới trong giáo dục ở mọi cấp học”. Theo Báo cáo Giám sát Toàn cầu về Giáo dục cho mọi người năm 2012 và Viện Thống kê của UNESCO - UIS 2013, từ năm 1999 đến năm 2010, số lượng các em gái bỏ học trong độ tuổi tiểu học giảm đi một nửa và trong độ tuổi trung học đã giảm hơn một phần ba. Cũng theo báo cáo này, trên toàn thế giới, có 101/161 nước đã đạt được cân bằng giới trong giáo dục tiểu học (GDTH) và 66/160 nước đã đạt được cân bằng giới trong giáo dục trung học cơ sở (THCS). Thành tích học tập của trẻ em gái đã được cải thiện, đôi khi còn cao hơn trẻ em trai về khả năng ghi nhớ, hoàn thành, chuyển cấp học. Tuy nhiên, cũng theo báo cáo trên, thế giới vẫn còn có sự mất cân bằng giới nghiêm trọng. Năm 2005, có 94/149 quốc gia không đạt được mục tiêu cân bằng giới. Trẻ em không được đến trường phần lớn là trẻ em gái, đặc biệt ở khu vực Nam và Tây Á. Người lớn không biết chữ phần lớn là phụ nữ (trong số 781 triệu người lớn không biết chữ, có tới 2/3 là phụ nữ) - một tỷ lệ không đổi trong suốt 20 năm. Trẻ em trai cũng bị ảnh hưởng, các em bị đối xử bất lợi hơn trong giáo dục THCS, đặc biệt tại Đông Á và Thái Bình Dương. Giáo dục là một nghề được nữ tính hóa, nhưng giáo viên nữ chiếm phần lớn ở các cấp giáo dục bậc thấp, trong khi vị
  13. trí quản lí trong các hệ thống giáo dục/trường học phần lớn lại do nam giới đảm trách. Phân tích từ Tài liệu tập huấn của UNESCO về nhạy cảm giới (2002) cho thấy, hầu hết các chương trình giáo dục cơ bản còn xem nhẹ vai trò phụ nữ và cho rằng điều đó là hiển nhiên, phụ nữ thường 15 được nhìn nhận như là những người thụ hưởng thụ động, các kỹ năng truyền thống của nữ giới được xem là ít giá trị, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Tại gia đình, bố mẹ chưa quan SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG tâm đúng mực tới giáo dục dành cho trẻ em gái, ở nhiều nơi, trẻ em gái thường phải ở nhà để làm việc nhà hoặc kiếm tiền cho gia đình. Ở một số địa phương, còn quan điểm cho rằng trẻ em gái được đi học sẽ có ít cơ hội lấy chồng và không đủ kỹ năng làm vợ hoặc làm mẹ theo nghĩa truyền thống. Ở môi trường học tập, vẫn còn những giáo viên ưu tiên trẻ em trai trong giờ học. Chương trình và tài liệu học tập vẫn tồn tại quan điểm phụ nữ là những người sống phụ thuộc và chỉ phù hợp với công việc gia đình, có vị trí yếu thế hơn nam giới. Chương trình giáo dục thường tập trung chủ yếu vào việc giáo dục trẻ em gái thành những người vợ và người mẹ, không coi trọng vai trò của phụ nữ như là những người làm kinh tế, hay nắm giữ các vị trí quản lý quan trọng trong xã hội. Nội dung chương trình thiếu yếu tố giới dẫn đến hạn chế năng lực của phụ nữ và không khuyến khích nữ giới đặt câu hỏi về điều kiện sống của mình. Sách giáo khoa thường bao gồm các khuôn mẫu về nam và nữ, vai trò, trách nhiệm và giá trị của họ. Học sinh, giáo viên, các nhà quản lý và các bậc phụ huynh chưa ý thức được là có một số hình ảnh, nội dung học tập mang tính kỳ thị giới. 1. Bình đẳng giới và bạo lực trên cơ sở giới trong GDPT ở Việt Nam 1.1. Bình đẳng giới trong GDPT ở Việt Nam Báo cáo quốc gia về giáo dục cho mọi người năm 2015 của Việt Nam, cho thấy: Trong các chỉ tiêu vận động trẻ em nhập học thô, tuyển sinh mới các cấp học từ mầm non đến tiểu học, THCS và xóa mù chữ, chỉ số bình đẳng giới (GPI) qua tất cả các năm đều bằng 1,0 hoặc xấp xỉ 1,0, không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Điều
  14. đó chứng tỏ, tính chung cả nước, Việt Nam đã đạt được bình đẳng giới trong việc thực hiện mục tiêu về tiếp cận giáo dục. Tuy nhiên, xét riêng ở góc độ đối tượng và vùng miền, vẫn còn chênh lệch về giới ở các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, 16 vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn như vùng tây Bắc, Tây Nguyên, Đông nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Tỷ lệ giáo viên nữ các cấp học từ mầm non đến THCS đạt chuẩn đào tạo rất cao, GPI bằng 1,0. Đến năm học 2012 - 2013, tỷ lệ giáo viên là nữ trong tổng số giáo viên theo các cấp học giảm dần từ mầm non đến cấp THPT, đạt 99,68% đối với GDMN, 52,57% đối với giáo dục tiểu học, 33,20% đối với THCS và 27,14% đối với THPT (Báo cáo quốc gia về Giáo dục cho mọi người, Bộ GDĐT, 2015). Tỷ lệ cán bộ quản lý giáo dục là nữ trong tổng số cán bộ quản lý giáo dục ở cấp tỉnh và cấp huyện đạt trung bình các năm là 29,7%. Như vậy, về cơ bản Việt Nam đã đạt được hầu hết các chỉ tiêu đề ra về bình đẳng giới (Bộ GDĐT, 2014). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề về giới. Mặc dù tỷ lệ biết chữ ở dân số độ tuổi 15 trở lên của nữ có tăng dần từ năm 2006 tới năm 2014, nhưng tỷ lệ này qua các năm đều thấp hơn nam. Đáng chú ý là, càng ở cấp học lên cao (cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ), tỷ lệ nữ sinh càng thấp. Tương tự, có sự mất cân đối rất rõ ở tỷ lệ giáo viên nữ ở các bậc học, năm học 2012 - 2013 chỉ có 47% giáo viên nữ ở các bậc học trung học chuyên nghiệp, đại học và sau đại học. Có biểu hiện phân biệt đối xử giới tính trong đầu tư cho giáo dục, điều này thể hiện ở định mức chi giáo dục, đào tạo cho nữ thấp hơn cho nam giới, cụ thể là trong kết quả Điều tra mức sống dân cư Việt Nam năm 2012, mức chi bình quân cho giáo dục, đào tạo/1 người: nam 4,236 triệu đồng, nữ 3,830 triệu đồng (bằng 88,5% so với nam giới) (Tổng cục thống kê, 2012). 1.2. Bạo lực trên cơ sở giới trong GDPT ở Việt Nam Bạo lực trên cơ sở giới trong các cơ sở GDPT ở Việt Nam đang là một vấn đề gây nhiều bức xúc cho học sinh, nhà trường, gia đình
  15. và xã hội. Từ đầu năm học 2009 - 2010 đến tháng 5/2012, toàn quốc đã xảy ra 1.598 vụ việc học sinh đánh nhau trong và ngoài trường học. Bình quân cứ 5.260 học sinh thì xảy ra một vụ đánh nhau; cứ 9 trường thì có 1 vụ học sinh đánh nhau; cứ 5.555 học sinh thì có 1 học sinh bị kỷ luật cảnh cáo vì đánh nhau; cứ 11.111 17 học sinh thì có 1 học sinh bị buộc thôi học có thời hạn vì đánh nhau (Báo cáo của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, tháng 5/2012). SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Một nghiên cứu khác về bạo lực trên cơ sở giới tại trường học của Viện nghiên cứu Y - Xã hội phối hợp với tổ chức PLAN tại Việt Nam thực hiện từ tháng 3 đến tháng 9/2014 với 3.000 học sinh của 30 trường THCS, THPT trên địa bàn Hà Nội, công bố cho thấy, khoảng 80% học sinh trong đợt khảo sát này cho biết từ trước đến nay đã bị bạo lực trên cơ sở giới trong trường học ít nhất một lần, 71% bị bạo lực trong vòng 6 tháng qua. Trong đó, bạo lực tinh thần (mắng chửi, đe dọa, bắt phạt, đặt điều, sỉ nhục...) chiếm tỷ lệ cao nhất 73%, bạo lực thể chất (tát, đá, xô đẩy, kéo tóc, bạt tai, đánh đập...) là 41% và bạo lực tình dục (tin nhắn với nội dung tình dục, sờ, hôn, hiếp dâm, yêu cầu chạm vào bộ phận sinh dục, lan truyền tin đồn tình dục,...) chiếm 19%. 2. Thực trạng lồng ghép giới trong CT, SGK GDPT 2.1. Lồng ghép giới trong CT, SGK GDPT trên thế giới Trên thế giới, các nước đã có rất nhiều nghiên cứu về nội dung, hình minh họa trong SGK liên quan đến giới đã được thực hiện, chú ý đến nội dung kỳ thị giới, có nghĩa là sự phân biệt đối xử dựa trên cơ sở giới tính, đặc biệt là đối với phái nữ. Phạm vi nghiên cứu trong lĩnh vực này đã mở rộng đáng kể từ năm 1981 trở lại đây, một phần là nhờ có chương trình nghiên cứu quốc gia trên diện rộng do UNESCO khởi xướng sau Hội nghị Thế giới về Thập kỷ cho Phụ nữ của Liên hợp quốc: Bình đẳng, Phát triển và Hoà bình (Copenhagen, 1980). Chương trình này đã nghiên cứu SGK toàn bộ các bộ môn các cấp tại các nước châu Phi, châu Mỹ, châu Á và châu Âu. Trong những năm gần đây đã có một số nghiên cứu về giới được công bố, những nghiên cứu này đều có một điểm chung là phát
  16. hiện, đánh giá sự kỳ thị giới và định kiến đối với phụ nữ: như số lượng nhân vật nữ trong SGK phổ thông là khá ít trong khi ngược lại, ở các khoá đào tạo nghề trong lĩnh vực y tế và phúc lợi xã hội thì nhân vật nữ lại xuất hiện quá nhiều; nam giới và phụ nữ vẫn còn bị bó buộc trong tính cách, vai trò và các hoạt động kinh tế - 18 xã hội truyền thống. Nhân vật nữ, thường là vô danh, bị mắc kẹt trong môi trường gia đình và thể hiện tính hay làm điệu, mỏng manh, dễ xúc động và phụ thuộc. Còn nam giới đại diện cho sức SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG mạnh về tinh thần và thể chất, quyền uy và độc lập, là những đặc tính được coi trọng hơn. Hầu hết các báo cáo nghiên cứu đều đưa ra khuyến nghị kêu gọi hành động loại bỏ định kiến giới: các chiến dịch tuyên truyền nâng cao nhận thức, tập huấn, khuyến nghị cho các nhà xuất bản và thiết kế sách. Trong số những nghiên cứu này, có kết quả rà soát giới của 24 cuốn SGK môn Toán dùng trong GDTH tại ba nước nói tiếng Pháp ở khu vực châu Phi hạ Sahara (Cameroon, Bờ Biển Ngà và Togo) và một nước ở Bắc Phi (Tunisia) cho thấy, nhân vật cá nhân được liệt kê trong văn bản SGK của bốn nước với số lượng lần lượt là: 952 trong SGK của Togo, 991 trong SGK của Cameroon, 1.008 trong SGK của Bờ Biển Ngà và 1.361 trong SGK của Tunisia. Nhân vật nam được thể hiện quá nhiều trong sách, chiếm 67,6% ở Cameroon và 76,4% ở Togo. Ngoại trừ Bờ Biển Ngà, nam giới được thể hiện nhiều hơn trẻ em trai; hơn một phần ba số lượng nhân vật là đàn ông. Do đó nam giới là nhân vật được ưu tiên thể hiện hơn, thường được chọn nhiều hơn để dạy Toán. Những nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, có sự thiếu hụt đáng kể nhân vật nữ trong sách, chỉ chiếm tỷ lệ 21,4% ở Togo và 28% ở Cameroon. Ở Bờ Biển Ngà và Cameroon, nhân vật phụ nữ phần lớn bị bỏ qua, chỉ chiếm 6,2% và 11,5% ở từng nước. Một phát hiện nữa là, môn Toán ở cả 4 nước này thường do giáo viên nam đảm nhiệm giảng dạy. Kiến thức toán được dùng chủ yếu bởi đàn ông và trẻ em trai. Do đó, học sinh cả hai giới, cùng với bố mẹ và giáo viên, nhìn nhận rằng kiến thức Toán chỉ phù hợp cho nam giới thay vì nữ giới. Vì vậy, SGK ít có khả năng làm cho trẻ em gái hứng thú với việc học Toán.
  17. 2.2.Lồng ghép giới trong CT, SGK hiện hành của Việt Nam a) Lồng ghép giới trong CT GDPT Chương trình GDPT hiện hành được ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ GDĐT, bao gồm: 1) Những vấn đề chung; 2) Chương trình 19 chuẩn của 23 môn học và hoạt động giáo dục; 3) Chương trình các cấp học: Chương trình Tiểu học, Chương trình THCS SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG và Chương trình THPT. Trong CT giáo dục các cấp học đã có một số nội dung ở một số môn học đề cập đến việc lồng ghép giới (tôn trọng phụ nữ, không phân biệt giới tính, v.v..) ở mức độ nhất định. Ví dụ:  Trong CT giáo dục môn Đạo đức (Lớp 5), đã nêu được lý do vì sao phải tôn trọng phụ nữ; những việc cần làm thể hiện sự tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ; không phân biệt đối xử với chị em gái, bạn gái và những người phụ nữ khác trong cuộc sống hằng ngày; cư xử bình đẳng với bạn gái, chị em gái; học tập gương tốt của những người phụ nữ; chúc mừng mẹ, chị em gái, cô giáo, bạn gái nhân ngày 8/3; không chen lấn, xô đẩy, không dùng bạo lực với phụ nữ;....  Nội dung dạy học Thủ công và Kĩ thuật ở Tiểu học thuộc lĩnh vực Giáo dục Công nghệ, đã xác định được những kiến thức, kĩ năng được đưa vào CT là những kiến thức cơ bản, cần thiết đối với học sinh, không phân biệt vùng miền, giới tính để học sinh có thể ứng dụng vào cuộc sống.  Trong CT giáo dục môn Khoa học, nội dung về con người và sức khoẻ đã đặt ra yêu cầu cần đạt về kiến thức là nhận ra sự cần thiết phải thay đổi một số quan niệm của xã hội về vai trò của nam, nữ; yêu cầu cần đạt về kỹ năng là tôn trọng các bạn cùng giới và khác giới, không phân biệt nam, nữ.  Trong CT môn Giáo dục Hướng nghiệp, vấn đề giới khi chọn nghề (Lớp 10), đã đề cập đến khái niệm giới tính và giới; vấn đề giới trong chọn nghề và liên hệ bản thân khi chọn nghề.
  18. b) Lồng ghép giới trong SGK GDPT Phân tích từ các nghiên cứu rà soát SGK GDPT hiện hành của Việt Nam (Viện phát triển bền vững vùng Nam bộ, 2010) cho thấy, còn có nhiều biểu hiện định kiến giới/khuôn mẫu giới 20 trong SGK GDPT hiện hành. Cụ thể:  Giới tính nhân vật trong SGK: phụ nữ là “thiểu số”. Phân tích 76 cuốn SGK của 6 môn học từ lớp 1 đến 12 có 8.276 nhân vật trong SỰ CẦN THIẾT LỒNG GHÉP GIỚI VÀO CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG nội dung văn bản và 7.987 nhân vật trong các hình ảnh. Trong tổng số 8.276 nhân vật xuất hiện trong nội dung văn bản, nam giới chiếm 69%, nữ 24% còn lại 7% là trung tính về giới (ví dụ: từ “đứa trẻ”, “học sinh”, “nông dân”, “công nhân”, “giáo viên”, “phụ huynh”,…). Về hình ảnh, trong tổng số 7.987 nhân vật nam giới chiếm 58% và nữ 41%, còn lại xấp xỉ 1,0% là trung tính hoặc không rõ giới tính.  Sự chênh lệnh giữa nhân vật nam và nữ cũng có sự khác biệt theo các cấp học, càng lên cấp học cao sự chênh lệch càng lớn, nhất là ở cấp THPT. Trong văn bản, số nhân vật nam xuất hiện theo tỷ lệ lần lượt từ Tiểu học (51%), THCS (67%) và THPT 81%. Trong hình ảnh, nhân vật nam lần lượt là 56%, 57% và 71%.  Những ví dụ được đưa ra trong SGK về các nhân vật quan trọng trong cách lĩnh vực lịch sử, khoa học và văn hóa thường đều là nam giới: Khảo sát SGK từ lớp 1 đến 12 có 3.252 nhân vật lịch sử (95% là nhân vật nam) và 583 nhân vật đương đại, trong đó nhân vật nam giới chiếm 88%.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2