BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
PHAN THỊ LỆ DUNG
CHUYÓN BIÕN KINH TÕ, X· HéI HUYÖN Mü §øC (Hµ T¢Y)
Tõ N¡M 1991 §ÕN N¡M 2008
Chuyên ngành
: Lịch sử Việt Nam
Mã số
: 9.22.03.13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Am
HÀ NỘI - 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết quả khoa học của
luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận án
Phan Thị Lệ Dung
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn PGS.TS Nguyễn
Văn Am, quý thầy, cô giáo trong Bộ môn Lịch sử Việt Nam, Khoa Lịch sử,
Khoa Lý luận Chính trị - Giáo dục Công dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
đã chỉ bảo, động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Chi cục Thông Kê tỉnh Hà Tây, Huyện ủy,
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Nhân dân và các phòng ban huyện Mỹ Đức:
Phòng Thống kê, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Phòng Tài
nguyên - Môi trường; Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Hà Nội, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Trung tâm Thông tin - Thư viện -
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành
luận án.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn động viên, ủng hộ và giúp đỡ tôi để tôi có niềm tin, động lực
hoàn thành tốt luận án này.
Hà Nội, tháng 2 năm 2020
Tác giả luận án
Phan Thị Lệ Dung
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Nguồn tài liệu ................................................................................................ 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ........................ 5
6. Đóng góp của luận án .................................................................................... 6
7. Bố cục của luận án ........................................................................................ 7
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................ 8
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về kinh tế - xã hội Việt Nam thời
kỳ đổi mới ......................................................................................... 8
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội tỉnh Hà Tây ....... 15
1.2. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu ...................................................... 18
1.3. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu ...................... 19
Chƣơng 2: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN MỸ ĐỨC VÀ SỰ CHUYỂN BIẾN
KINH TẾ, XÃ HỘI TẠI ĐỊA PHƢƠNG TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1996 . 20
2.1. Những yếu tố tác động đến sự chuyển biến kinh tế, xã hội huyện
Mỹ Đức ........................................................................................................... 20
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ....................................................... 20
2.1.2. Đặc điểm dân cư, truyền thống lịch sử ........................................... 25
2.2. Tình hình kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức trƣớc năm 1991 ................. 29
2.2.1. Tình hình kinh tế ............................................................................. 31
2.2.2. Tình hình xã hội .............................................................................. 46
iv
2.3. Đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và sự vận dụng của huyện
Mỹ Đức về phát triển kinh tế, xã hội ........................................................... 48
2.3.1. Đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Đảng, Nhà nước........ 48
2.3.2. Kế hoạch, biện pháp thực hiện của Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân huyện Mỹ Đức .......................................................................... 50
2.4. Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức từ năm 1991 đến năm 1996 ... 51
2.4.1. Chuyển biến về kinh tế ................................................................... 51
2.4.2. Chuyển biến xã hội ......................................................................... 67
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 72
Chƣơng 3: CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN MỸ ĐỨC TỪ
NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2008 ......................................................................... 74
3.1. Bối cảnh lịch sử mới và yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh chuyển biến kinh
tế, xã hội huyện Mỹ Đức ............................................................................... 74
3.1.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................... 74
3.1.2. Đường lối, chính sách tiếp tục đối mới phát triển kinh tế, xã hội của
Đảng, Nhà nước và sự vận dụng vào thực tiễn địa phương huyện Mỹ Đức ........ 75
3.2. Chuyển biến kinh tế ............................................................................... 81
3.2.1. Sự chuyển biến về cơ cấu ngành kinh tế ......................................... 83
3.2.2. Sự chuyển biến về cơ cấu thành phần kinh tế ............................... 119
3.2.3. Sự chuyển biến về cơ cấu vùng kinh tế ........................................ 121
3.3. Chuyển biến xã hội ............................................................................... 124
3.3.1. Dân số............................................................................................ 124
3.3.2. Lao động và việc làm .................................................................... 125
3.3.3. Công tác xóa đói, giảm nghèo....................................................... 127
3.3.4. Những vấn đề văn hóa xã hội ....................................................... 128
3.3.5. Trợ giúp xã hội cho các đối tượng chính sách .............................. 131
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 132
v
Chƣơng 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ
HỘI HUYỆN MỸ ĐỨC TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2008 ...................... 134
4.1. Chuyển biến kinh tế, xã hội Mỹ Đức trải qua hai giai đoạn phát triển .... 134
4.2. Sự chuyển biến kinh tế ở Mỹ Đức phù hợp yêu cầu phát triển và tiềm
năng của địa phƣơng ................................................................................... 136
4.3. Kinh tế huyện Mỹ Đức có chuyển biến nhƣng chƣa bền vững ........ 139
4.4. Sự chuyển biến về kinh tế đã tác động đến sự chuyển biến về xã hội
của Mỹ Đức .................................................................................................. 143
4.5. Kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức còn nhiều khó khăn và thách thức .. 144
KẾT LUẬN .................................................................................................. 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 152
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
BCH Ban chấp hành
BQ Bình quân
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CTQG Chính trị Quốc gia
CNXHKH Chủ nghĩa xã hội
ĐTV Đơn vị tính
HĐND Hội đồng nhân dân
HTX Hợp tác xã
Kilogramme
Kg km2 kilômet vuông
KHXH Khoa học xã hội
NN – PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sư
TS Tiến sĩ
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Diện tích trồng trọt các cây hàng năm - 1976 ................................ 33
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất lương thực huyện Ứng Hòa và huyện Mỹ Đức
năm 1985 và 1990 ........................................................................... 34
Bảng 2.3. Tình hình chăn nuôi huyện Mỹ Đức năm 1976 .............................. 35
Bảng 2.4. Máy móc sử dụng trong sản xuất nông nghiệp huyện Mỹ Đức năm 1976 . 36
Bảng 2.5. Cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp huyện Mỹ Đức ............................ 51
Bảng 2.6. Diện tích, năng suất, sản lượng lúa cả năm của huyện Mỹ Đức từ
năm 1991 đến năm 1995 ................................................................. 54
Bảng 2.7. Diện tích, sản lượng một số cây công nghiệp ở huyện Mỹ Đức thời
kỳ 1991 - 1995 ................................................................................ 55
Bảng 2.8. Tình hình chăn nuôi trâu, bò, lợn của huyện Mỹ Đức từ năm 1991
đến 1995 .......................................................................................... 56
Bảng 2.9. Tình hình chăn nuôi vùng gò đồi tỉnh Hà Tây năm 1995 .............. 57
Bảng 3.1. Kết quả dồn ô đổi thửa của huyện Mỹ Đức .................................... 86
Bảng 3.2. Tổng hợp diện tích chuyển đổi cơ cấu cây trồng – vật nuôi huyện
Mỹ Đức (đến 30/2/2007) ................................................................ 90
Bảng 3.3. Giá trị và cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1995 - 2005 ... 91
Bảng 3.4: Sản xuất lương thực huyện Mỹ Đức thời kỳ 1995 – 2005 ............. 93
Bảng 3.5: Kết quả sản xuất chăn nuôi của huyện (2006 - 2008) .................... 95
Bảng 3.6. Tổng hợp trang trại trên địa bàn huyện Mỹ Đức (tính đến 30/7/2007) ... 103
Bảng 3.7. Vận tải hàng hóa và hành khách ................................................... 117
Bảng 3.8. Tổng số vốn đầu tư trên địa bàn huyện thời kỳ 1995 - 2005........ 119
Bảng 3.9. Cơ cấu GDP của Mỹ Đức theo thành phần kinh tế (%) ............... 121
Bảng 3.10. Dân số huyện Mỹ Đức thời kỳ 1996 - 2008 ............................... 124
Bảng 3.11. Lao động và cơ cấu lao động theo ngành kinh tế thời kì 1995 – 2003 .... 126
Bảng 4.1. Sự chuyển biến cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ năm
1995 - 2005 ................................................................................... 135
Bảng 4.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ Đức thời kỳ 1995 - 2005 ............ 140
Bảng 4.3. Cơ cấu GDP của Mỹ Đức so với toàn tỉnh và cả nước năm 2000
và 2003 ......................................................................................... 140
viii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Giá trị và cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp huyện Mỹ Đức
năm 1995 .......................................................................................... 59
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu ngành kinh tế huyện Mỹ Đức năm 1991 và năm 1995 ...... 64
Biểu đồ 2.3. Dân số trong độ tuổi lao động huyện Mỹ Đức 1991 – 1994 [119] .. 68
Biểu đồ 3.1. Chuyển biến cơ cấu ngành kinh tế huyện Mỹ Đức từ 1996
đến 2008 ........................................................................................... 82
Biểu đồ 3.2: Sự phát triển của ngành chăn nuôi lợn từ năm 1996 đến
năm 2008 .......................................................................................... 97
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế huyện Mỹ Đức năm 2003127
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế là hoạt động sản xuất của cải vật chất, là toàn bộ phương thức
sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội. C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho rằng,
sản xuất vật chất là cơ sở cho sự phát triển của xã hội loài người. Vì vậy, kinh
tế, xã hội là hai lĩnh vực quan trọng nhất trong tiến trình lịch sử phát triển
nhân loại nói chung và mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng. Phát triển kinh tế, xã
hội trở thành mục tiêu hàng đầu của các nước trên thế giới và là thước đo
quan trọng bậc nhất cho thấy sự cường thịnh của mỗi dân tộc trong các giai
đoạn phát triển. Việt Nam luôn coi trọng sự phát triển của kinh tế, xã hội.
Hơn ba thập niên qua, công cuộc đổi mới đất nước của Việt Nam đã chứng
minh sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế, xã hội.
Tiếp thu chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhân dân các
địa phương ra sức phát triển mọi mặt của đời sống, đặc biệt là kinh tế, xã hội.
Xây dựng kinh tế, xã hội ở cấp huyện nhằm giải quyết những vấn đề căn bản
của địa phương, đồng thời góp phần củng cố, tăng cường tiềm lực kinh tế
trong tỉnh cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên,
sự chuyển biến kinh tế, xã hội đó không giống nhau về mô hình, tốc độ, lộ
trình, sự thành công hay chưa thành công. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào
đặc điểm của mỗi địa phương; sự nhận thức và cách thức lãnh đạo chuyển
biến kinh tế, xã hội của từng huyện trong lợi thế so sánh với địa phương khác.
Mỹ Đức là vùng bán sơn địa, nằm ở phía Nam của đồng bằng Bắc Bộ, ở
tận cùng phía Tây Nam của tỉnh Hà Tây trước đây và của Thủ đô Hà Nội hiện
nay. Tháng 10 - 1991, Chính phủ tách tỉnh Hà Sơn Bình thành 2 tỉnh: Hà Tây và
Hòa Bình. Cùng với 13 huyện thị khác, Mỹ Đức trở thành 1 huyện của tỉnh Hà
Tây. Thực hiện chủ trương của Đảng, dựa vào lợi thế và tiềm năng sẵn có, huyện
Mỹ Đức đã phát triển theo hướng đổi mới, ra sức phát triển kinh tế. Bên cạnh đó,
2
tình hình xã hội Mỹ Đức không ngừng có sự chuyển biến sâu sắc. Vì vậy, việc
nghiên cứu về kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức chẳng những giúp chúng ta đánh
giá khách quan, trung thực về những mặt mạnh, mặt hạn chế kinh tế, xã hội của
địa phương; mà còn chỉ ra những nét đặc thù, cũng như vai trò của huyện Mỹ
Đức đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Hà Tây và cả nước.
Quá trình phát triển kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức, mặc dù đạt được
những thành tựu nhất định, song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng vốn có. Kinh
tế, xã hội huyện Mỹ Đức vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải giải quyết.
Nghiên cứu về chuyển biến kinh tế, xã hội ở huyện Mỹ Đức thực sự cần thiết,
giúp cho các cơ quan ban, ngành của huyện có cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn
về tình hình kinh tế, xã hội của địa phương, từ đó hoạch định các chiến lược
phát triển huyện. Bên cạnh đó, giúp chúng ta đánh giá vai trò của Đảng bộ,
chính quyền, đoàn thể nhân dân huyện Mỹ Đức trong sự chuyển biến kinh tế,
xã hội của địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế,
xã hội ở huyện Mỹ Đức trong giai đoạn hiện nay và tiếp theo.
Nghiên cứu về sự chuyển biến kinh tế, xã hội của nhiều địa phương và sự
phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam nói chung, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới
đất nước, cho đến nay, có khá nhiều công trình khoa học. Song chưa có công
trình chuyên sâu, hệ thống về sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức
(Hà Tây) từ năm 1991 đến năm 2008. Vì vậy, nghiên cứu về chuyển biến kinh
tế, xã hội huyện Mỹ Đức còn góp phần bổ sung, cung cấp thêm tư liệu cho việc
nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy lịch sử địa phương và giáo dục truyền thống
lịch sử cho nhân dân huyện Mỹ Đức.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu
“Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức (Hà Tây) từ năm 1991 đến năm
2008” làm đề tài luận án Tiến sĩ Lịch sử của mình.
3
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về sự chuyển biến kinh tế, xã hội của
huyện Mỹ Đức (Hà Tây) từ năm 1991 đến năm 2008.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu trên phạm vi địa giới hành
chính huyện Mỹ Đức theo sự phân chia địa giới từ năm 1991 đến năm 2008
của tỉnh Hà Tây, bao gồm thị trấn Đại Nghĩa (Tế Tiêu) và 21 xã: Phúc Lâm,
Mỹ Thành, Đốc Tín, Vạn Kim, Đồng Tâm, Thượng Lâm, Tuy Lai, Bột
Xuyên, An Mỹ, Hồng Sơn, Lê Thanh, Xuy Xá, Phùng Xá, Hợp Tiến, Phù Lưu
Tế, Hợp Thanh, Đại Hưng, An Tiến, An Phú, Hùng Tiến, Hương Sơn.
Phạm vi thời gian: Từ năm 1991 đến năm 2008. Tháng 9 - 1991, Quốc
hội khóa VIII, kỳ họp thứ 9 ra nghị quyết tách một số tỉnh. Tháng 10 - 1991,
Chính phủ tách tỉnh Hà Sơn Bình thành 2 tỉnh: Hà Tây và Hòa Bình, huyện
Mỹ Đức thuộc quyền quản lý của tỉnh Hà Tây. Năm 2008, huyện Mỹ Đức và
tỉnh Hà Tây sáp nhập vào Thành phố Hà Nội.
Năm 1996, Đảng ta khẳng định: nước ta đã cơ bản ra khỏi khủng hoảng
kinh tế, xã hội; những kết quả đạt được cho phép chuyển nước ta vào thời kỳ
mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng bộ,
chính quyền huyện Mỹ Đức lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội theo hướng đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đó, luận án trình bày sự
chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức qua hai giai đoạn: từ năm 1991
đến năm 1996 và từ năm 1996 đến năm 2008.
Tuy nhiên, để làm sáng tỏ hơn sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện
Mỹ Đức, luận án còn mở rộng phạm vi thời gian nghiên cứu trước năm 1991
và không gian một số địa phương lân cận của tỉnh Hà Tây để xem xét và có
cái nhìn so sánh mang tính toàn diện.
4
Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu về sự chuyển biến kinh tế, xã
hội của huyện Mỹ Đức từ những năm 1991 đến 2008. Về sự chuyển biến kinh
tế, luận án tập trung đi sâu nghiên cứu theo chuyển biến cơ cấu kinh tế (cơ
cấu ngành, cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng kinh tế). Về chuyển biến xã hội,
luận án tập trung nghiên cứu về vấn đề: dân số; lao động - việc làm; công tác
xóa đói giảm nghèo; đời sống văn hoá xã hội (giáo dục - đào tạo, văn nghệ thể
thao, thông tin truyền thông, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân), trợ giúp xã
hội cho các đối tượng chính sách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Luận án làm rõ bối cảnh lịch sử, những yếu tố tác động đến quá trình
phát triển kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức từ năm 1991 đến năm 2008.
- Trình bày những chuyển biến về kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức từ
năm 1991 đến năm 2008, trên những nội dung cơ bản.
- Rút ra một số nhận xét, đánh giá về đặc điểm chuyển biến kinh tế, xã
hội, phân tích những tiềm năng, xu hướng và những vấn đề tiếp tục đặt ra góp
phần làm cơ sở lý luận, thực tiễn cho việc hoạch định những chủ trương, biện
pháp đối với các cấp lãnh đạo địa phương đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội
của huyện trong giai đoạn hiện nay và tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trên cơ sở phân tích về điều kiện tự nhiên, cơ sở kinh tế, dân cư và
truyền thống lịch sử, luận án sẽ làm rõ những yếu tố tác động đến sự chuyển
biến kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức (1991 - 2008).
- Luận án tái hiện lại một cách trung thực và tương đối hệ thống về
chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức từ năm 1991 đến năm
2008. Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế, luận án lý giải những nguyên
nhân của thành tựu, hạn chế thời kỳ này.
5
- Từ kết quả nghiên cứu, bước đầu nêu lên một số đặc điểm sự chuyển
biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức có ý nghĩa tham khảo trong quá trình phát
triển kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức hiện nay và giai đoạn tiếp theo.
4. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, luận án đã khai thác và sử
dụng kết hợp nhiều nguồn tư liệu khác nhau:
- Những quan điểm, tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Hồ Chí Minh;
các Văn kiện, Nghị quyết, Chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh
tế, xã hội. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp nghiên cứu sinh có quan điểm,
phương hướng nghiên cứu đúng các vấn đề do đề tài luận án đặt ra.
- Báo cáo chính trị, tổng kết của Đảng ủy, HĐND, UBND và các Sở,
Ban ngành tỉnh Hà Tây; của huyện ủy, UBND huyện Mỹ Đức; tài liệu do Chi
cục Thống kê tỉnh Hà Tây và huyện Mỹ Đức công bố qua các năm từ 1991
đến 2008. Đây là nguồn tài liệu rất quan trọng làm cơ sở để nghiên cứu sinh
khai thác và xây dựng luận án.
- Các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, sách tham khảo, bài
nghiên cứu khoa học, các luận án về kinh tế, xã hội đã công bố có liên quan
tới đề tài. Đây là tài liệu tham khảo để giúp chúng tôi so sánh đối chiếu với
kết quả nghiên cứu của luận án.
- Là đề tài luận án thuộc lịch sử địa phương, vì vậy, tác giả rất coi trọng
công tác điền dã, tiến hành điều tra khảo sát thực tế để thu thập tài liệu, thực
hiện công tác xác minh, giám định tư liệu, ở các địa phương của huyện Mỹ
Đức. Đặc biệt là nguồn tư liệu báo chí Hà Tây từ năm 1991 đến năm 2007 tại
phòng Ngoại văn – Thư viện Hà Nội. Tư liệu điền dã góp phần bổ sung thiếu
sót của tư liệu thành văn luận án.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
* Phương pháp luận
Luận án sử dụng phương pháp luận sử học Mác xít, quan điểm, tư
tưởng, chủ trương của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế, xã hội.
6
* Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp lôgic,
nhằm phục dựng bối cảnh lịch sử và sự chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ
Đức; trên cơ sở đó rút ra những đặc điểm làm cơ sở để tiếp tục phát triển kinh
tế, xã hội ở địa phương hiện nay và trong giai đoạn tiếp theo.
Luận án sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu chuyên ngành lịch sử
với các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phân tích, tổng hợp, so sánh,
đối chiếu, thống kê toán học để làm rõ sự chuyển biến kinh tế, xã hội giữa hai thời
kỳ, giữa huyện Mỹ Đức với địa phương khác có nét tương đồng hay khác biệt.
Trong quá trình nghiên cứu, nghiên cứu sinh coi trọng việc sưu tầm, tập
hợp, chỉnh lý, đối chiếu thẩm định tư liệu lịch sử để phục vụ nghiên cứu đề tài.
Là đề tài lịch sử địa phương nên nghiên cứu sinh rất chú trọng làm tốt
công tác điền dã khảo sát thực tế lịch sử địa phương để làm phong phú thêm
nguồn tư liệu của luận án.
6. Đóng góp của luận án
- Trên cơ sở những tư liệu đã chỉnh lý, luận án tái hiện một cách hệ
thống, chân thực về sự chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức từ năm
- Từ kết quả nghiên cứu, luận án làm rõ những thành tựu, hạn chế, lý
1991 đến năm 2008.
giải nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế của sự phát triển kinh tế, xã
- Luận án rút ra một số nhận xét về sự chuyển biến kinh tế, xã hội đặc
hội huyện Mỹ Đức (1991 - 2008).
thù của địa phương; về vai trò của Đảng bộ, chính quyền, các ban ngành,
đoàn thể chính trị - xã hội địa phương đối với sự phát triển kinh tế, xã hội
- Những kết quả của luận án là cơ sở để các cơ quan chức năng huyện
của huyện Mỹ Đức.
Mỹ Đức hoạch định chính sách phát triển kinh tế, xã hội; là nguồn tài liệu
7
phục vụ cho nghiên cứu, biên soạn, dạy học các ngành khoa học liên quan
đến địa phương.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Chương 2: Khái quát về huyện Mỹ Đức và những chuyển biến kinh tế,
xã hội tại địa phương từ năm 1991 đến năm 1996.
Chương 3: Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức từ năm 1996
đến năm 2008.
Chương 4: Một số nhận xét về chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ
Đức từ năm 1991 đến năm 2008.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về chuyển biến kinh tế, xã hội của Việt Nam nói chung và
ở địa phương nói riêng là một mảng đề tài thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học và cơ quan nghiên cứu. Đã có nhiều công trình, bài viết
đề cập đến vấn đề này dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Có thể chia
thành các nhóm công trình như sau:
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về kinh tế - xã hội Việt Nam
thời kỳ đổi mới
Năm 1986, đất nước đổi mới toàn diện, có rất nhiều nhà lãnh đạo, nhà
khoa học tập trung nghiên cứu về sự sự chuyển biến kinh tế và xã hội của
đất nước. Trước hết phải kể đến, cuốn “Đổi mới đòi hỏi bức thiết của đất
nước và của thời đại”của Trường Chinh, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1987. Tác
giả đã chỉ ra một số sai lầm của cơ chế quản lý kinh tế ở Việt nam trước
1986 và nêu quan điểm kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc bố
trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế và củng cố
quan hệ sản xuất mới, đổi mới quản lý kinh tế. Đây là cơ sở lý luận giúp
luận án luận giải về chuyển biến kinh tế của địa phương Mỹ Đức.
Tác giả Nguyễn Văn Thường với cuốn“Một số vấn đề kinh tế - xã hội
sau 20 năm đổi mới ở Việt Nam: Dự án hỗ trợ tổng kết 20 năm Đổi mới ở
Việt Nam” do Nxb KHXH xuất bản năm 2007. Tác giả đã phân tích, lý giải
những thành tựu quan trọng của các lĩnh vực đời sống xã hội qua 20 năm
tiến hành đổi mới đất nước, trong đó có đề cập đến đường lối đổi mới công
nghiệp, chính sách an sinh xã hội, những giải pháp thúc đẩy giáo dục... Qua
đó, chúng ta hiểu rõ hơn về sự chuyển biến kinh tế, xã hội dưới tác động của
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
9
Về sự đổi mới kinh tế của đất nước còn có một số công trình tập
trung nghiên cứu về quá trình đổi mới tư duy của Đảng như: “Nhìn lại quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng (1986-2005)” của Tô Huy Rứa,
Hoàng Chí Bảo, Lê Ngọc Tòng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005; “Đổi
mới tư duy lý luận của Đảng về CNH, HĐH ở nước ta” do Lê Quang Phi
chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007; đáng chú ý là cuốn“Đổi mới tư duy
và công cuộc đổi mới ở Việt Nam”, Nguyễn Duy Quý, Nxb KHXH, Hà
Nội, 2009. Đặc biệt là cuốn sách của tác giả Nguyễn Duy Quý đã đề cập
đến quá trình đổi toàn diện, đồng bộ của Đảng, đặc biệt là đổi mới tư duy,
trong đó là tư duy kinh tế: chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Nguyễn Ngọc Hà với công trình của “Đường lối phát triển
kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
(1986-2011)”, Nxb Chính trị -Sự thật, Hà Nội, 2012, đã làm rõ quá trình
hình thành những quan điểm, chủ trương của Đảng cũng như quá trình triển
khai thực hiện đường lối phát triển kinh tế về nông nghiệp.
Về sự chuyển biến kinh tế, đặc biệt là sự chuyển biến về cơ cấu kinh
tế đã được các nhà khoa học tập trung nghiên cứu. Một số tác giả cũng đề
cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế như: Phan Thanh Phố, “Những
vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam”, Nxb Giáo Dục , Hà
Nội, 1996; Nguyễn Văn Khanh với “Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế
nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới”, Nxb
CTQG, Hà Nội 2003, Vũ Hồng Tiến, “Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong
thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam”, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội,
2005; Nguyễn Xuân Oánh, “Đổi mới - Vài nét lớn của một chính sách kinh
tế Việt Nam”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Các công trình trên đã đề
cập trực tiếp các vấn đề kinh tế, xã hội trên cả nước với nhiều cách tiếp cận
khác nhau như: chuyển biến cơ chế quản lý, chuyển biến về cơ cấu (ngành,
10
thành phần, vùng) kinh tế, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp; đề cập đến
các vấn đề xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và khẳng định
trong thực tế chủ trương của Đảng trong đổi mới là đúng đắn.
Bàn về chuyển biến cơ cấu kinh tế, một số công trình đi sâu vào
từng lĩnh vực: thành phần, cơ cấu ngành, vùng kinh tế. Cuốn “Đổi mới và
phát triển các thành phần kinh tế” do Đỗ Hoài Nam chủ biên, Nxb
CTQG, Hà Nội, 1993. Tác giả đã nêu thực trạng nền kinh tế Việt Nam và
các thành phần kinh tế, đánh giá lại vị trí, vai trò của từng thành phần
kinh tế (nhà nước, tập thể, tư nhân, gia đình) đối với sự phát triển kinh tế
chung của đất nước.
Năm 2001, tác giả Vũ Đình Bách chủ biên cuốn:“Đổi mới tăng cường
các thành phần kinh tế nhà nước: lý luận, chính sách và giải pháp” do Nxb
CTQG, Hà Nội xuất bản. Công trình làm rõ lý luận cơ bản về thành phần
kinh tế nhà nước, vai trò của thành phần kinh tế này trong nền kinh tế quốc
dân. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp thúc để làm cho kinh tế nhà nước
thể hiện được vai trò là điều tiết nền kinh tế.
Nghiên cứu về các thành phần kinh tế, còn có công trình nghiên cứu
về thành phần kinh tế tư nhân. Luận án tiến sĩ lịch sử của Phạm Thị Lương
Diệu về đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân
từ năm 1986 đến năm 2005”, bảo vệ tại Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2012, đã làm rõ đường lối của Đảng
trong quá trình lãnh đạo kinh tế tư nhân thời kỳ đổi mới.
GS.TS. Đỗ Hoài Nam, tác giả của cuốn “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành và phát triển mũi nhọn”, Nxb KHXH, Hà Nội, 1996. Tác giả chỉ tập
trung vào cơ cấu ngành kinh tế, sự chuyển dịch của cơ cấu ngành kinh tế ở
nước ta và chỉ rõ trong các ngành kinh tế, mỗi địa phương phải có những
chiến lược để xây dựng ngành kinh tế mũi nhọn, phù hợp với đặc trưng, tiềm
năng của từng vùng.
11
Về sự chuyển biến cơ cấu vùng kinh tế, có nhóm tác giả Nguyễn Xuân
Thu, Nguyễn Văn Phú đồng chủ biên cuốn “Phát triển kinh tế vùng trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội,
2006, các tác giả đã phân tích, đánh giá các lợi thế so sánh vùng kinh tế ở
các địa phương đáp ứng công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Nghiên cứu kinh tế vùng, phải kể đến công trình nghiên cứu chuyên
khảo của tác giả Lê Thu Hoa: “Kinh tế vùng ở Việt Nam - từ lý luận đến
thực tiễn”, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2007, là một công trình đã đề cập
đến lý thuyết kinh tế tăng trưởng đối với sự phát triển các vùng kinh tế ở
Việt Nam.
Đặng Văn Thắng, Phạm Ngọc Dũng - tác giả của cuốn “Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và
triển vọng”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, đã đi sâu phân tích thực trạng cơ
cấu kinh tế công - nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng có sự chuyển biến
mạnh mẽ từ năm 1986 đến năm 2000. Các tác giả đã làm rõ những nhân tố
tác động đến sự chuyển biến kinh tế công - nông nghiệp ở vùng đồng bằng
sông Hồng, từ đó đánh giá những nét đặc trưng riêng của khu vực này.
Cuốn: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vùng đồng bằng sông
Hồng trong bối cảnh hội nhập quốc tế” của TS. Đỗ Thị Thanh Loan, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, năm 2016. Tác giả đã tập trung nghiên cứu một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế; đồng
thời tác giả đã phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
những năm gần đây gắn với những mối quan hệ chủ yếu, phát hiện các vấn
đề đặt ra; từ đó đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp nhằm đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của vùng trong bối cảnh mới của hội
nhập kinh tế quốc tế.
12
TS. Phạm Thị Khanh làm chủ biên cuốn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng phát triển bền vững của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2010. Đây là công trình đề cập tới những vấn đề lý luận cơ bản về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững; các nhân tố ảnh
hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững. Từ
kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững của
một số nước châu Á, tác giả rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Trên cơ sở nêu lên thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển bền vững ở Việt Nam, từ đó đưa ra quan điểm và giải pháp chủ yếu
nhằm thúc đẩy cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam.
Ngoài ra, còn phải kể đến một số công trình nghiên cứu chuyên sâu
của các nhà Kinh tế học, Chính trị học đề cập đến lí luận, đường lối, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong đó, đáng chú ý là Vũ
Đình Bách, “Kinh tế học vĩ mô”, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2013; Lê Văn Sang
“Các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới”, Nxb Thống kê, Hà Nội,
2014... Các tác giả biên soạn các công trình với mục đích giảng dạy, làm cơ
sở lý luận về những vấn đề kinh tế học: tăng trưởng, phát triển, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế...
Kinh tế của đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước, năm 2016, Ban Kinh tế Trung ương xuất
bản cuốn “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới về phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam”,Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Công
trình nghiên cứu đã góp phần thể hiện bức tranh tổng quát về quá trình phát
triển tư duy lý luận và tổ chức, kinh nghiệm thực tiễn về phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; góp phần tuyên truyền, khẳng định sự đúng đắn và thành
quả, cũng như sự cần thiết tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện những chủ trương,
13
định hướng, giải pháp xử lý hiệu quả các vấn đề đặt ra về phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh mới; nâng cao năng lực cạnh tranh, chất
lượng phát triển, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Năm 2017, xuất bản công trình“Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta - Lý luận và thực tiễn” của PGS. TS Vũ
Văn Phúc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã chỉ ra những đặc
trưng mang tính quy luật, bản chất của kinh tế thị trường; thực tiễn phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đánh giá những
mặt hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó; đưa
ra những kiến nghị xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta trong thời gian tới.
Bên cạnh sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế, xã hội cũng không
ngừng phát triển. Các nhà quản lý, nhà khoa học cũng tập trung vào nghiên
cứu về sự chuyển biến của xã hội.
Tác giả Trần Nguyễn Tuyên với công trình“Gắn kết tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội” Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2010,
đã làm rõ những quan niệm về tăng trưởng kinh tế của các nhà kinh tế học,
các tổ chức kinh tế, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trên cơ sở đó, tác giả đã nêu chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam là tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội là sự phát triển
bền vững của đất nước.
Cuốn “Cơ cấu xã hội Việt Nam và những vấn đề xã hội bức xúc trong
quá trình đổi mới” của nhóm tác giả Đỗ Nguyên Phương và Trần Xuân
Kiên, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, năm 2010. Các tác giả đã cho thấy
rằng, để giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa cơ cấu xã hội - giai cấp với
tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, yêu cầu quan trọng hàng
đầu ở Việt Nam hiện nay là phải phát huy được sức mạnh tổng thể của dân
14
tộc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Sức mạnh của cả dân
tộc chỉ có thể được phát huy khi mọi thành viên trong xã hội đều có khả
năng nhận được sự công bằng tương đối trong từng lĩnh vực cụ thể; đồng
thời việc thực hiện các biện pháp huy động sức mạnh đó lại chính là cơ chế
để giải quyết công bằng dựa trên các thành quả tăng trưởng.
PGS, TS. Nguyễn Văn Mạnh chủ biên cuốn “Vai trò của nhà nước đối
với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới ở
Việt Nam”, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010. Tác giả đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận về
phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và đưa ra khái niệm, nội dung cơ
bản của phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; Phân tích quan điểm
và chủ trương, chính sách của Đảng đối với phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội trong tiến trình đổi mới. Trên cơ sở phân tích thực trạng thực
hiện vai trò của nhà nước đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã
hội ở nước ta trong tiến trình đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội: giáo
dục và đào tạo, dân số, kế hoạch hóa gia đình, y tế, chăm sóc sức khỏe, an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo...
Năm 2016, PGS. TS. Nguyễn Thọ Khang - TS. Bùi Thị Kim Hậu công
bố công trình “Giải quyết những vấn đề kinh tế và xã hội ở Việt Nam cấp
bách hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật. Tác giả đã luận giải cơ sở
lý luận chung về giải quyết những vấn đề kinh tế và xã hội cấp bách trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin; nhận thức của đảng ta về giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội cấp
bách từ Đại hội VI đến nay, thực trạng giải quyết qua các thời kỳ; những
giải pháp để giải quyết những vấn đề kinh tế và xã hội cấp bách ở nước ta
trong thời gian tới.
Tác giả Nguyễn Đình Lê (chủ biên), với công trình “Một số vấn đề
biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam (1986 – 2000)”, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội năm 2017, đã cho thấy cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội có quan
15
hệ chặt chẽ với nhau, sự chuyển biến cơ cấu kinh tế luôn tác động đến biến
chuyển cơ cấu xã hội và ngược lại. Tác giả đã làm rõ một số nội dung:
những yếu tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam;
biến đổi kinh tế và biến đổi xã hội Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2000.
Ngoài ra còn có nhiều luận văn, luận án đi sâu nghiên cứu về vai trò
lãnh đạo của Đảng nhằm phát triển kinh tế gắn với thực hiện chính sách xã
hội, đảm bảo an ninh quốc phòng trong thời kỳ đổi mới. Có thể kể đến các
luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng của Phạm Đức Kiên về “Đảng lãnh đạo kết hợp
phát triển kinh tế với thực hiện sách xã hội từ năm 1991 đến năm 2006”,
bảo vệ năm 2011 tại Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh; Luận án Tiến sĩ lịch
sử đảng của Lê Nhị Hòa về “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp
phát triển kinh tế với đảm bảo quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm
1996 đến năm 2006”, bảo vệ năm 2012 tại Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận án Tiến sĩ của Lê Quang Phi về đề tài “Đảng lãnh đạo sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm 2002”, bảo vệ tại Học
viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh năm 2012, đã làm rõ yêu cầu khách
quan chủ trương của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn; làm rõ,
chủ trương, quá trình lãnh đạo, thành tựu, hạn chế và rút ra một số bài học
kinh nghiệm của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các công trình và bài viết trên đây mặc dù trình bày ở nhiều góc độ,
khía cạnh khác nhau, nhưng là những tài liệu quan trọng cung cấp nhiều vấn
đề về lý luận và thực tiễn giúp chúng tác giả định hướng nghiên cứu để hoàn
thành luận án.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội tỉnh Hà Tây
Về lịch sử Hà Tây và tình hình kinh tế, xã hội của Hà Tây đã có một
số tác giả nghiên cứu, chủ yếu dưới dạng các bài báo đăng trên các tạp chí,
hoặc là một số công trình mang tính khái quát.
16
Năm 1973, Chi Cục Thống kê Hà Tây đã xuất bản cuốn “4 năm xây
dựng kinh tế văn hóa của tỉnh Hà Tây” (1969 - 1972). Đây là công trình
dưới dạng là một tập tài liệu lưu trữ có 27 trang, nhưng đã cung cấp những
thông tin cơ bản về địa lý, dân số cũng như các chỉ tiêu tổng hợp kinh tế
quốc dân, nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải,
thương nghiệp, y tế, văn hóa, đời sống của tỉnh Hà Tây trong 4 năm 1969
đến năm 1972. Tài liệu này góp phần làm rõ về đặc điểm tình hình kinh tế,
xã hội huyện Mỹ Đức trước năm 1991.
Năm 2004, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội đã xuất
bản cuốn “Hà Tây thế và lực mới trong thế kỷ XXI”. Công trình này đã khái
quát về con người và mảnh đất Hà Tây qua các giai đoạn hình thành và phát
triển, với những danh nhân tiêu biểu, những di tích lịch sử - văn hóa và
những nền tảng cơ bản về kinh tế - xã hội; các tác giả đã trình bày tổng quan
các lĩnh vực của tỉnh Hà Tây: tổ chức chính trị - xã hội, - an ninh - quốc
phòng, tổ chức hành chính, kết cấu hạ tầng, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế,
xã hội, các tác giả đã làm rõ về các ngành kinh tế trọng điểm, các thành phần
kinh tế, các làng nghề truyền thống, các khu công nghiệp, các dự án hợp tác
quốc tế, các lĩnh vực văn hóa xã hội (báo chí, giáo dục - đào tạo, y tế, thể
thao...). Trên cơ sở đó, các tác giả đã rút ra những bài học thành công và nêu
những thách thức tạo thế và lực cho tỉnh Hà Tây bước vào thế kỷ XIX, xứng
đáng là vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng Sông Hồng.
Xét riêng về huyện Mỹ Đức, công trình trên đã cung cấp một cách
khái quát kinh tế, trong đó tập trung lĩnh vực du lịch từ năm 2000 đến năm
2005. Đây là một tư liệu quan trọng giúp cho tác giả thấy được vị trí, đặc
điểm cũng như thế mạnh của huyện Mỹ Đức trong toàn tỉnh.
Cuốn “Địa chí Hà Tây”của tác giả Đặng Văn Tu và Nguyễn Tá Nhí
đồng chủ biên, do Sở Văn hóa thông tin Hà Tây xuất bản năm 2011 là một
công trình lịch sử địa phương công phu. Với gần 1000 trang sách, cấu trúc
thành 5 phần: Đất và người Hà Tây, Lịch sử truyền thống, kinh tế, văn hóa -
17
xã hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh với Hà Tây, nhóm tác giả đã cung cấp
những vấn đề cơ bản nhất về tự nhiên, lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh.... của Hà Tây. “Địa chí Hà Tây” với những tư liệu
chung của toàn tỉnh thực sự là có giá trị, để tác giả phân tích, so sánh kinh
tế, xã hội của huyện Mỹ Đức với các địa phương khác trong tỉnh.
Ngoài ra còn có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập
đến các lĩnh vực khác của tỉnh Hà Tây như: “Hà Tây - làng nghề - làng
văn” do Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây xuất bản năm 1994; “Di tích Hà
Tây” do Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây xuất bản năm 1999; “Hà Tây 10
năm xây dựng và phát triển kinh tế xã hội” của tác giả Khuất Hữu Sơn,
Tạp chí Ngoại Thương, số 45, năm 2000; “Nông nghiệp Hà Tây 10 năm
đổi mới” của tác giả Nguyễn Công Tít, Tạp chí Ngoại Thương số 45, năm
2000; “Văn hóa Hà Tây”, Trung tâm Văn hoá Thông tin - Sở Văn hoá
Thông tin, 2005; ... Một số luận án đã bảo vệ thành công, tuy nhiên các
tác giả chủ yếu nghiên cứu ở góc độ của các nhà kinh tế học. Chẳng hạn,
luận án: “Định hướng và những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển
các ngành tiểu, thủ công nghiệp trong nông thôn tỉnh Hà Tâ y”, LATS
Kinh tế: 5.02.05 của tác giả Lê Mạnh Hùng (Đại học Kinh tế Quốc dân)
năm 2005: Luận án đã trình bày rõ về cơ sở lý luận và thực tiễn về phát
triển các ngành tiểu, thủ công nghiệp trong nông thôn. Thực trạng phát
triển các ngành tiểu, thủ công nghiệp trong nông thôn tỉnh Hà Tây. Định
hướng và những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển các ngành tiểu,
thủ công nghiệp trong nông thôn tỉnh Hà Tây. Luận án “Phát triển làng
nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn ở Hà Tây”, LATS Kinh tế: 62.34.01.01 năm 2006, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả Đỗ Quang Dũng đã phân tích, đánh giá
thực trạng từ đó xác định rõ những mặt tích cực, hạn chế trong việc phát
triển làng nghề ở Hà Tây. Đề xuất những giải pháp phù hợp dưới góc độ
quản lý nhà nước nhằm phát triển làng nghề ở Hà Tây gắn với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp...
18
Xét riêng về huyện Mỹ Đức, cho đến nay có thể khẳng định chưa có
công trình nào chuyên sâu về sự chuyển biến kinh tế, xã hội. Vấn đề này chủ
yếu được tập trung trong bản báo cáo hàng năm, báo cáo chuyên đề, niên
giám thống kê của Đảng Bộ, UBND, Chi cục thống kê của huyện. Đặc biệt
là, được trình bày khái quát qua 4 cuốn lịch sử Đảng bộ của huyện. Từ năm
1988 đến năm 2016, các xã và thị trấn huyện Mỹ Đức đã sưu tầm, biên soạn,
xuất bản lịch sử Đảng bộ của địa phương mình. Các tư liệu của lịch sử Đảng
bộ xã còn rời rạc, chưa có sự thống nhất, nhưng cũng ít nhiều cung cấp cho
tác giả những số liệu cụ thể để tác giả bổ sung, làm rõ sự chuyển biến kinh
tế, xã hội trong toàn huyện.
1.2. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được một số
vấn đề sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu tập trung về các vấn đề kinh tế,
xã hội Việt Nam trong thời kì đổi mới đã khái quát về những vấn đề cơ bản
của về sự chuyển biến kinh tế, xã hội ở Việt Nam nói chung. Còn các công
trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và kinh tế, xã hội tỉnh Hà Tây đã đề
cập đến một số khía cạnh về kinh tế, xã hội, nhưng đi vào các nội dung cụ
thể như kinh tế nông nghiệp, môi trường, vấn đề việc làm, y tế... Ngoài ra,
các công trình nghiên cứu đề cập đến chủ trương, chính sách đổi mới phát
triển kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức mang tính chất cung cấp thông tin, dữ
liệu mà chưa đưa ra được những đánh giá, nhận định mang tính tổng quát
về tình hình kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức qua các thời kỳ, nhưng giai
đoạn 1991 - 2008, đặc biệt từ năm 2000 đến năm 2008 được đề cập ít, phân
tích chưa sâu.
Thứ hai, hầu hết các công trình nghiên cứu trên tìm hiểu dưới góc độ
kinh tế, địa lí, chính trị..., còn về góc độ lịch sử thì dừng lại ở một vấn đề cụ
thể, trong một phạm vi hẹp mà chưa có cái nhìn tổng thể về quá trình chuyển
19
biến kinh tế, xã hội trong toàn tỉnh Hà Tây và chưa làm rõ được sự chuyển
biến của kinh tế, xã hội cũng như những nét đặc thù riêng của huyện Mỹ
Đức so với các địa phương khác.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên chưa đưa ra được những đánh
giá khách quan về đặc điểm, vị trí, vai trò của kinh tế, xã hội của huyện Mỹ
Đức trong gần 20 năm đổi mới (1991 - 2008) đối với sự phát triển chung của
tỉnh Hà Tây cũng như những đánh giá về vai trò, sự đóng góp của Đảng bộ,
chính quyền, nhân dân đối với sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện.
1.3. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất, luận án làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển
biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức.
Thứ hai là, trình bày tương đối toàn diện, có hệ thống về thực trạng
chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức từ năm 1991 đến năm 2008.
Thứ ba là, đưa ra một số nhận xét bước đầu về những thành tựu và
hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra
cho sự phát triển kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức trong những giai đoạn hiện
nay và giai đoạn tiếp theo.
20
Chương 2
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN MỸ ĐỨC VÀ SỰ CHUYỂN BIẾN KINH TẾ,
XÃ HỘI TẠI ĐỊA PHƢƠNG TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1996
2.1. Những yếu tố tác động đến sự chuyển biến kinh tế, xã hội
huyện Mỹ Đức
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Mỹ Đức là huyện nằm ở tận cùng phía Tây Nam của tỉnh Hà Tây. Điểm cực nam của huyện thuộc xã Hương Sơn có tọa độ 22033’ vĩ độ Bắc và 1050 22’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Chương Mỹ. Phía Nam giáp tỉnh Hà Nam. Phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình. Phía Đông giáp huyện Ứng Hoà, ranh giới
là con sông Đáy.
Mỹ Đức nằm ở vị trí bản lề chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi, có
dãy núi đá phía vôi chạy dọc về Tây nên có ý nghĩa quan trọng về an ninh quốc
phòng cũng như vị trí chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Hà Tây.
Qua các tuyến đường quốc lộ 21B, quốc lộ 6, huyện Mỹ Đức giao lưu
kinh tế, trao đổi hàng hóa với các huyện trong tỉnh cũng như với các tỉnh khác
như Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam. Địa bàn Mỹ Đức là vùng chuyển tiếp giữa
vùng đồng bằng Nam Hà Nội và vùng núi Tây Bắc. Ngoài tuyến đường bộ,
huyện Mỹ Đức còn có hệ thống đường thủy với 2 sông Đáy và sông Mỹ Hà
có giá trị giao thông cũng như kinh tế lớn. Với vị trí giao thông thuận lợi rất
có ý nghĩa trong việc tiếp nhận các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới, phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế dịch vụ, thương mại và du lịch
cũng như thúc đẩy sự chuyển biến, xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, Mỹ Đức là huyện ngoại thành, cách xa so với các trục giao
thông chính (đi vào khoảng 40km so với trục Quốc lộ 6 nối Hà Nội – Xuân Mai
– Hoà Bình và cách khoảng 37km so với thị xã Phủ Lý). Mỹ Đức nằm trong
vùng phân lũ của Hà Tây, vì vậy, điều kiện thu hút đầu tư kém hơn hẳn so với
những huyện xung quanh như Chương Mỹ, Thanh Oai, Phú Xuyên, Ứng Hoà.
21
Điều kiện tự nhiên
* Địa hình
Mỹ Đức là huyện bán sơn địa, địa hình tương đối độc đáo, có tính chất
bản lề chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng. Địa bàn huyện có đầy đủ các
yếu tố cấu thành về mặt địa chất như núi đá, đồi đất, sông suối, hồ đầm, vùng
đồng chiêm trũng và dải đất bãi bồi ven sông Đáy. Đây là nét độc đáo của
huyện Mỹ Đức tạo sự đa dạng về kinh tế, xã hội so với các huyện khác trong
tỉnh Hà Tây. Nó cũng là cơ sở để huyện Mỹ Đức hình thành các vùng kinh tế
khác nhau. Mặt khác, với kết cấu địa hình đó, đất Mỹ Đức giàu tiềm năng
kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, có nguồn nguyên liệu phong phú cho việc
phát triển công nghiệp xây dựng và có thế mạnh về du lịch, dịch vụ.
Tuy nhiên, với vị trí là cửa ngõ của vùng rừng núi Hòa Bình nên địa
bàn huyện Mỹ Đức luôn gánh chịu những nguồn nước lũ từ nhiều nơi đổ về từ
sông Tích, sông Hồng đổ vào sông Đáy, lũ từ miền rừng núi huyện Lương
Sơn, huyện Kim Bôi dồn xuống suối Sỏi, suối Đường rồi đổ vào sông Thanh
Hà và nước từ phía đầm Cửa Kỷ (Chương Mỹ) tràn xuống làm cho vùng đồng
chiêm trũng, hàng năm cứ về mùa mưa bão, những cơn hồng thủy lại gây nên
cảnh lụt lội, vùng đồng chiêm trũng mênh mông một biển nước gây nhiều khó
khăn cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Với đặc trưng kinh tế nông nghiệp, vị trí nằm trong phạm vi vùng phân
lũ của Hà Tây, địa hình lại kẹp giữa sông Đáy ở phía Đông và dãy núi đá vôi
ở phía Tây, nên diện tích đất bị úng trũng của huyện Mỹ Đức khá lớn (diện
tích đất bị úng trũng và bị biến đổi do chịu ngập úng thường xuyên như bị
glây hoá, than bùn hoá… chiếm 26,04% tổng diện tích đất tự nhiên) [29, tr 3].
Đây là một thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản, nhưng lại gây khó khăn cho
phát triển trồng trọt, đòi hỏi sự đầu tư lớn về thuỷ lợi và khoa học kỹ thuật.
* Tài nguyên đất
Mỹ Đức có hai nhóm đất cơ bản là đất đồng bằng và đất đồi núi.
- Đồng bằng chủ yếu là đất phù sa được bồi đắp, đất phù sa không
được bồi đắp và đất phù sa glây. Loại đất đồng bằng của Mỹ Đức thích hợp
22
với nhiều loại cây lương thực - thực phẩm, cây rau màu, cây công nghiệp và
một số cây ăn quả.
Tuy nhiên, đất đồng bằng ở đây có độ phì trung bình, hàm lượng dinh
dưỡng trong đất không cao, do tập trung ở địa hình trũng, thường xuyên bị
ngập nước vào mùa mưa nên có hiện tượng glây hóa, nhiều nơi đất chua, có
nơi còn lầy lụt, năng suất lúa chiêm ổn định, còn vụ mùa thường bị ngập,
tập trung ở các xã ven núi, từ xã Tuy Lai đến xã Hồng Sơn, đặc biệt là xã
Hợp Thanh, Hợp Tiến, Hùng Tiến đến Đốc Tín, Vạn Kim. Nó đòi hỏi phải
có đủ hệ thống thủy lợi để giải quyết úng, kết hợp với các biện pháp kỹ
thuật cải tạo đất tốt để tăng năng suất cây trồng.
- Đất đồi núi chủ yếu là đất nâu vàng trên phù sa cổ, đất đỏ vàng trên đá
phiến sét, phân bố ở vùng đồng bằng phẳng ở các xã Tuy Lai, Hồng Sơn. Đất
vùng đồi núi được hình thành do quá trình phong hóa trên các loại đá, chỉ
thích hợp cho trồng cây công nghiệp (chè, lạc, mía, dâu tằm), cây lâm nghiệp
(lim, mơ, tre bương, mây), cây lương thực (sắn, khoai), các loại cây ăn quả và
cây làm thuốc. Mặt khác, mưa lũ ở một số xã miền núi còn làm cho núi, đồi
phong hóa, đất đai bạc màu, cằn cỗi, làm cho năng suất cây trồng, vật nuôi
còn thấp so với các địa phương khác của tỉnh Hà Tây.
Với diện tích đất ngập nước và nửa ngập nước khá lớn (chiếm 23,32%
tổng diện tích đất tự nhiên) [29, tr 3], huyện Mỹ Đức coi đó điều kiện thuận
lợi để đưa thuỷ sản – chăn nuôi dần trở thành ngành chính trong nông nghiệp.
Như vậy, Mỹ Đức là huyện có tài nguyên đất nông nghiệp phong phú,
là yếu tố quan trọng trong việc phát triển các vùng chuyên canh cây lương
thực và các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Với diện tích đất phù sa
màu mỡ chiếm 24,94% tổng diện tích đất tự nhiên [29, tr 3], khí hậu nhiệt đới
ẩm và nguồn nước tưới chủ động, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp. Sự đa dạng về thổ nhưỡng và truyền thống canh tác lâu đời của người
dân là điều kiện tốt cho phát triển nông nghiệp với tốc độ cao và cơ cấu sản
phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
23
* Khí hậu
Khí hậu huyện Mỹ Đức vừa mang đặc tính của kiểu khí hậu miền Bắc
nước ta, với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh; vừa do
đặc trưng về địa hình riêng, nên khí hậu nơi đây phân hóa thành hai mùa nóng
và lạnh. Mùa nóng trùng với mùa mưa, mùa lạnh trùng với mùa khô.
Với khí hậu đó, tạo những thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp,
đặc biệt là trồng nhiều loại sản phẩm cây trồng như cam, mít, hồng xiêm, vải,
nhãn, na, đu đủ... và cho phép trồng các loại cây cận nhiệt và ôn đới có giá trị
kinh tế cao như chè, các loại cây vụ đông (su hào, bắp cải, súp lơ, khoa tây...).
Khí hậu đặc trưng này còn thuận lợi cho phát triển ngành kinh tế du lịch của địa phương. Lễ hội chùa Hương với nhiệt độ ấm áp (16 - 200 C) trong không khí trong lành, khung cảnh nên thơ của mưa bay, mưa phùn, trùm lên
một màn trắng hư ảo, mong manh trên núi rừng Hương Sơn.
Tuy nhiên, do sự chênh lệch về lượng mưa quá lớn giữa các mùa tạo
nên tình trạng thừa nước về mùa mưa, làm cho nhiều nơi thường xuyên bị
ngập úng, không có khả năng tưới tiêu, nhất là xã ven núi... ảnh hưởng đến
đời sống của nhân dân, phát triển nông nghiệp và hoạt động du lịch.
* Tài nguyên nước
Mạng lưới thủy văn của huyện Mỹ Đức khá phong phú bao gồm sông Đáy,
sông Mỹ Hà, suối Yến, suối Long Vân, suối Tuyết Sơn, hồ Quan Sơn, hồ Tuy Lại,
hồ Vĩnh An có ý nghĩa lớn trong sản xuất nông nghiệp và phát triển du lịch.
- Sông Đáy: dài 48 km, là chi lưu của sông Hồng, bắt nguồn từ Hát Môn
huyện Phúc Thọ, chiều sâu trung bình của sông 0,6 - 0,8m, rộng trung bình 10m,
có chỗ 13 - 16m. Đây là sông tiêu lũ cho một số huyện của tỉnh Hà Tây, trong đó
có huyện Mỹ Đức và làm nhiệm vụ chuyển lũ sông Hồng qua đập Đáy.
- Sông Mỹ Hà: Bao bọc phía (trừ phía Đông Nam) là sông đào dài trên
3 km, hợp lưu với sông Đáy tại Hội Xá. Sông Mỹ Hà là chi lưu của sông Đáy
chịu ảnh hưởng của lũ rừng từ vùng Hòa Bình đổ về. Sông kéo dài từ Quan
Sơn đến Hội Xá, mực nước sông Mỹ Hà phụ thuộc vào mực nước sông Đáy
và lượng lũ từ Hòa Bình.
24
- Hệ thống các suối: suối Yến, suối Long Vân, suối Tuyết Sơn đều có
nguồn nước ngầm Caxtơ cung cấp, tạo ra dòng chảy quanh năm. Dòng suối
Yến dài 3 km cùng với các suối khác tạo nên cánh đồng bán ngập ở khu du
lịch thắng cảnh Hương Sơn, mặt suối Yến cao hơn sông Đáy gần 2 m, hàng
năm vẫn phải tháo nước ra sông Đáy.
- Hệ thống các hồ như: Quan Sơn, Tuy Lai, Vĩnh An có ý nghĩa rất lớn
trong việc cung cấp nguồn nước tưới cho nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và đặc
biệt cho việc phát triển du lịch nghỉ ngơi cuối tuần với các hoạt động vui chơi như
chèo thuyền, câu cá và thưởng thức các món đặc sản (tôm, cá, cua, ốc...).
Các sông suối của huyện Mỹ Đức có nhiều giá trị trong việc bồi đắp một
lượng phù sa đáng kể, tạo nên vùng phù sa bồi tích màu mỡ, tạo điều kiện cho
việc trồng cây hoa màu, phát triển cây công nghiệp (đặc biệt là cây dâu tằm).
- Ngoài ra, do cấu tạo địa chất của núi đá vôi nên ở địa bàn còn có
nguồn nước ngầm ở các kẽ nứt Caxtơ đã tạo ra sự mát mẻ và những cảnh đẹp
kỳ thú trong các hang động ở chùa Hương, đồng thời cũng tạo nên sự huyền
bí hấp dẫn du khách, phát triển kinh tế du lịch.
Tài nguyên nước dồi dào, nhưng phân hoá theo mùa quá rõ rệt và bị bồi
lấp mạnh (đặc biệt là sông Đáy), dẫn đến tình trạng ngập úng trong mùa lũ và
thiếu nước trong mùa khô. Mỹ Đức cần đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi để vừa
đảm bảo duy trì vai trò là vùng phân lũ cho Hà Tây và thủ đô Hà Nội, vừa tạo
điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hoá trên địa bàn huyện.
* Tài nguyên sinh vật
Do có dãy núi đá vôi ở phía Tây nên diện tích rừng tự nhiên của huyện
còn nhiều, chủ yếu là kiểu rừng kín xanh mưa ẩm nhiệt đới. Vì thế, thế giới
động thực vật ở đây khá phong phú và đa dạng. Với 350 loài thực vật thuộc
92 họ, có nhiều loại cây quý hiếm, cây làm thuốc, cây đặc sản và cây phong
cảnh như lành vanh, cây sưa, cây nho vàng, cây lát hoa, cây cỏ roi ngựa, cây
thảo nam, kim ngân, mơ, rau sắng, củ mài.... là những loại cây đặc trưng ở
đây. Chính những loại cây này góp phần đem lại nguồn lợi kinh tế cho huyện,
nhất là trong dịch vụ du lịch chùa Hương.
25
Bên cạnh đó, giới động vật của huyện Mỹ Đức khá phong phú: có 88 loài
chim, 35 loài bò sát, trong đó có những loài lại rất độc đáo, quý hiếm được ghi
vào sách đỏ của Việt Nam và thế giới như: gà lôi trắng, trăn đất, rái cá, kì đà
mốc, báo hoa mai, beo, báo gấm, vượn đen, voọc má trắng, o rô vẩy...
Rừng ở Mỹ Đức được coi là tiềm năng kinh tế của huyện, không chỉ có
giá trị về môi trường du lịch mà còn có giá trị về nghiên cứu khoa học.
* Tài nguyên khoáng sản
Huyện Mỹ Đức không phải là huyện có quá nhiều loại khoáng sản, tuy
nhiên tập trung 2 khoáng sản chính là than bùn và đá vôi:
Than bùn phân bố rải rác ở 10 xã miền núi, tập trung lớn nhất ở xã
Đồng Tâm, Thượng Lâm và vùng Hương Sơn. Tổng trữ lượng khoảng 100
triệu tấn nhưng chưa được khai thác nhiều.
Đá vôi phân bố thành dải kéo dài từ xã Đồng Tâm đến xã Hương Sơn
với chiều dài trên 40km, rộng 1 – 2km, cao trung bình 50 – 100m, trữ lượng
ước tính khoảng 600 triệu m3 [29, tr 4]. Nhiều dãy núi có xen đá đỏ, đá xanh
đen, đá đen granit. Đây là nguồn nguyên liệu để sản xuất vật liệu xây dựng
(đặc biệt là xi măng), sản xuất phân vi sinh cung cấp cho ngành công nghiệp
của huyện và cung ứng cho những vùng lân cận.
Bên cạnh đó, huyện Mỹ Đức còn có nguồn đất sét để sản xuất xi măng,
gạch ngói với trữ lượng lớn, tập trung ở các xã ven núi từ Đồng Tâm tới An
Phú. Đây là những loại khoáng sản có giá trị kinh tế, khai thác phục vụ trực
tiếp cho công nghiệp của Mỹ Đức.
Như vậy, với vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên của huyện Mỹ Đức
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế đa dạng các ngành: nông - lâm -
công nghiệp kết hợp với du lịch, dịch vụ.
2.1.2. Đặc điểm dân cư, truyền thống lịch sử
Dân cư
Vùng đất phía Đông, dòng sông Đáy là ranh giới của huyện Mỹ Đức,
với phù sa mầu mỡ do sông Hồng - sông Đáy bồi tụ đã tạo nên một dải đất bãi
cao, rộng trải dài từ địa bàn xã Phúc Lâm xuống tới xã Đốc Tín. Điều kiện tự
26
nhiên thuận lợi như vậy, nên dân cư chủ yếu sống tập trung tại đây, chiếm 70
% dân số của huyện Mỹ Đức [5, tr 16].
Cư dân huyện Mỹ Đức chủ yếu là dân tộc Kinh, chỉ có một số ít đồng
bào Mường cư trú ở An Phú, Cao Dương và My Sơn (hai huyện Cao Dương
và My Sơn đã cắt về Hòa Bình năm 1948). Những cư dân Mường có gốc từ
Kim Bôi (Hòa Bình) do bị chế độ lang đạo hà khắc áp bức, bóc lột đã rời bỏ
bản làng đi xuống vùng đất Mỹ Đức để khai phá, lập nghiệp khá sớm và họ
sinh sống, sản xuất hòa quyện với người Kinh.
Mật độ cư dân tập trung ở những xã ven Đáy, nơi có diện tích canh tác
khá rộng, đất đai phì nhiêu và thuận tiện giao thông thuỷ bộ. Các xã vùng núi
đồi ở phía Tây có mật độ thấp, cư trú phân tán.
Người dân Mỹ Đức cần cù, giản dị, trung thực, chịu khó và có tinh thần
đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Đây chính là một tiềm lực to lớn đối với sự phát
triển kinh tế, xã hội và làm cho Mỹ Đức không có sự phức tạp về chính sách
dân tộc.
Truyền thống lịch sử
Huyện Mỹ Đức là vùng đất giàu truyền thống lịch sử văn hóa, truyền
thống lao động sản xuất và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
* Truyền thống về văn hóa:
Trên vùng đất cổ, nhân dân Mỹ Đức đã xây dựng nên những ngôi đình,
chùa, miếu, quán có tiếng ở trong vùng, thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc.
Hầu hết các ngôi đình trên địa bàn huyện đều lấy những người có công với
dân với nước thờ làm Thành hoàng. Đó là: Đình làng Bột Xuyên thờ Nguyễn
Uy đại vương là bộ tướng của vua Hùng Vương thứ 18. Đình Phúc Khê thờ
Lê Phụng Hữu là Đô Thống Thượng tướng đời nhà Lý. Đền Kim Bôi, xã Vạn
Kim thờ ba vị Nhất Lang, Nhị Lang, và Tam Lang là những tướng lĩnh phù
giúp Lý Nam Đế chống quân xâm lược phương Bắc, góp phần xây dựng nước
Vạn Xuân, Đình Thượng Tiết thờ thần hoàng là Ngô Vương Quyền.
Hệ thống chùa chiền ở huyện Mỹ Đức còn được dựng trong các hang
động ở vùng núi Hương Sơn tạo nên thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam. Đó
27
là quần thể về đạo phật, có 11 chùa, đền, trong đó chùa Thiên Trù tọa lạc ở
địa thế đẹp, phong cảnh không giống các chùa khác trong quần thể chùa, đền
ở Hương Sơn. Ngoài ra, Hương Tích là chùa nằm ở trong, là trọng điểm của
thắng cảnh Hương Sơn. Động Hương như một miệng rồng. Thiên nhiên đã
ban tặng cho Mỹ Đức một thắng cảnh Hương Sơn đầy ắp di tích văn hóa, lịch
sử, một trung tâm phật giáo nằm lọt trong cảnh nước non hùng vĩ. Với vẻ đẹp
huyền bí một vùng văn hóa phật giáo ở nơi sơn thủy hữu tình, du khách đến
Hương Sơn đã thỏa trí giữa bầu trời và cảnh vật. Chúa Trịnh Sâm khi đến vãn
cảnh ở Hương Tích đã đề 5 chữ lên động Hương: “Nam thiên đệ nhất động”.
Lễ hội chùa Hương bắt đầu từ ngày 6 tháng 1 âm lịch hàng năm và đến hết
tháng 3 âm lịch kết thúc.
Mặc dù là một huyện xa trung tâm Kinh thành Thăng Long, việc học
hành của con em trong các gia đình ở Mỹ Đức ngày trước gặp khó khăn, song
ở đây cũng có nhiều người đỗ đạt cao ở các triều đại phong kiến. Tại làng Lê
Xá huyện Chương Đức trấn Sơn Nam, nay là thôn Lê Xá (xã Lê Thanh) có
hai cha con Nguyễn Công Khuê và Nguyễn Kỳ Nhậm. Ông Nguyễn Công
Khuê sinh năm 1686, thi đỗ Hoàng Giáp năm Canh Dần (1710) niên hiệu
Vĩnh Thịnh thứ 6 đời vua Lê Dụ Tông. Tên tuổi của ông được khắc tại Văn
Miếu - Hà Nội. Con trai ông là Nguyễn Kỳ Nhậm, sinh năm 1709, thi đỗ tiến
sĩ khóa Quý Sửu (1733), niên hiệu Long Đức thứ hai Lê Duy Phường.
Với truyền thống tôn sư, trọng đạo, hiếu học và lễ hội đó đã tạo nên đặc
trưng riêng của con người nơi đây cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất cũng
như tạo nên văn hóa riêng cho ngành du lịch làm giàu kinh tế địa phương.
* Truyền thống lao động sản xuất:
Với điều kiện địa hình đa dạng, nhưng phức tạp, nên cư dân huyện Mỹ
Đức ngay từ lâu đời đã phải chống chọi với thiên nhiên để phát triển nghề
nông nghiệp cổ truyền. Từ đó, rèn luyện bản lĩnh, ý chí của nhân dân huyện
hăng say vượt khó, vượt khổ lao động sản xuất.
Bên cạnh nghề nông, huyện Mỹ Đức còn có nhiều nghề thủ công truyền
thống, điển hình là dệt, nhuộm, thêu, mây tre đan, mộc…Trên địa bàn huyện đã
28
hình thành một số làng nghề điển hình như Phùng Xá, Thượng Lâm, Phúc Lâm,
An Phú, Đại Nghĩa, Phù Lưu Tế. Đó là những tiền đề kinh tế quan trọng, nếu
được khai thác hiệu quả, đây cũng sẽ là một sản phẩm du lịch đặc sắc, góp phần
tạo nên sự phong phú, đa dạng và độc đáo cho ngành du lịch của huyện.
* Truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm:
Với địa bàn huyện là cửa ngõ ra vào giữa miền rừng núi Hòa Bình với
vùng đồng bằng phía nam tỉnh và đồng bằng Bắc Bộ, nên thời kỳ lịch sử nào
của đất nước, huyện Mỹ Đức cũng sát cánh cùng cả dân tộc kiên cường đấu
tranh chống giặc ngoại xâm.
Thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân Mỹ Đức đã tụ nghĩa dưới ngọn
cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng do các nữ tướng Chu tước, Vĩnh Hoa, Vận
Mông chỉ huy chống lại sự thống trị của nhà Hán. Thế kỷ X, nhân dân Mỹ
Đức xung vào đạo quân của Đinh Bộ Lĩnh tham gia dẹp loạn 12 sứ quân, hoặc
trong đạo quân của Lê Hoàn chống lại sự xâm lược của nhà Tống để bảo vệ
độc lập dân tộc. Thế kỷ XV, nhân dân ở các trang trại, làng xóm vùng Mỹ
Đức tham gia đạo quân, giúp đỡ lương thực, thực phẩm để nghĩa quân dưới sự
lãnh đạo của các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Đỗ Bí, Trịnh Khả chống
giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Thế kỷ XVIII, mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 khi
Nguyễn Huệ với các cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã hành quân ra Bắc đại phá 29
vạn quân Thanh. Khi một cánh quân tiến qua địa phận Mỹ Đức, trai tráng các
xóm làng từ Đục Khê, Yên Vĩ tới Đồng Văn, Đức Dương, Đồng Tâm, Phúc
Lâm hăng hái xung vào các đội dân binh, chặt gỗ, tre, bương mang ra Ba Thá
kết thành bè mảng phục vụ đại quân Tây Sơn vượt qua sông tiến về kinh
thành Thăng Long. Nhân dân huyện Mỹ Đức còn có tinh thần bất khuất chống
lại triều đình phong kiến áp bức bóc lột. Làng Đốc Hậu (Đốc Tín) tham gia
cuộc khởi nghĩa do Cao bá Quát lãnh đạo chống nhà Nguyễn.
Đến thế kỷ XX, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tiếp nối truyền
thống lịch sử, nhân dân huyện Mỹ Đức đoàn kết, kiên cường tham gia đấu
tranh cách mạng, nhất là cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và
những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954): khi
29
thực dân Pháp tấn công tỉnh Hòa Bình (1951), dưới sự lãnh đạo của Huyện
Ủy, quân dân huyện đã phát động du kích chiến tranh, phát động địa lôi chiến
ở ven Đáy, Tế Tiêu, Chợ Bến, Ba Thá, Miếu Môn...
Hòa bình lập lại, nhân dân huyện Mỹ Đức thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược cách mạng của Đảng: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tích cực
đóng góp sức người, sức của vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Mỹ Đức đã đóng góp vào công cuộc dựng
nước và giữ nước của dân tộc, vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu
cao quý “Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân”. Trong sự nghiệp đổi mới,
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Mỹ Đức tiếp không ngừng nỗ lực phát huy
truyền thống của quê hương và đã đạt được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực
kinh tế, xã hội, góp một phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển chung của
cả nước.
Như vậy, các yếu tố về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên cũng như những
yếu tố về dân cư, truyền thống lịch sử là những điều kiện thuận lợi, có vai trò
tạo nên sự chuyển biến kinh tế, xã hội của Mỹ Đức cũng như tạo nên những
đặc trưng riêng của địa phương. Nhưng bên cạnh đó, cũng tạo ra những khó
khăn nhất định cho sự phát triển kinh tế, xã hội của Mỹ Đức.
2.2. Tình hình kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức trƣớc năm 1991
Sau hơn 20 năm chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ, cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của dân tộc ta kết thúc thắng lợi. Miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, Tổ quốc Việt Nam thống nhất. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân
huyện Mỹ Đức bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội.
Ngày 20 - 9 - 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số
245 về việc bỏ cấp khu và hợp nhất một số tỉnh. Thực hiện Nghị quyết của Bộ
Chính trị, Quốc hội khóa V, kỳ họp thứ 2 (ngày 25 đến ngày 27 - 12 - 1976)
đã quyết định hợp nhất 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình thành tỉnh mới, lấy tên là
tỉnh Hà Sơn Bình. Đầu năm 1976, tỉnh Hà Sơn Bình ra đời. Huyện Mỹ Đức
thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
30
Từ năm 1976 đến năm 1991, tình hình kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức
có sự chuyển biến đáng kể, song vẫn gặp rất nhiều khó khăn.
Từ ngày 14 đến ngày 20 - 10 - 1986, Đảng bộ tỉnh Hà Sơn Bình đã tiến
hành Đại hội lần thứ X. Đại hội chỉ rõ: Ra sức xây dựng Đảng vững mạnh, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Nâng cao năng lực và hiệu
quả quản lý của Nhà nước, bố trí lại cơ cấu sản xuất và đầu tư tập trung vào sản
xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ra sức củng cố quan hệ
sản xuất mới, đổi mới quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế bao cấp, chuyển sang hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật và áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Coi trọng củng cố cơ sở gắn với tăng
cường cấp huyện nhằm khai thác tốt hơn mọi khả năng sẵn có về đất đai, lao
động, ngành nghề của một tỉnh vừa có đồng bằng, vừa có miền núi để ổn định
phát triển sản xuất, ổn định và phát triển một bước đời sống nhân dân. Làm tốt
các nhiệm vụ an ninh quốc phòng, tạo điều kiện tiến lên xây dựng kinh tế địa
phương có cơ cấu nông - công - lâm nghiệp hợp lý” [9, tr 185].
Nghi quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ X của tỉnh Hà Sơn Bình đã thể
hiện những nét căn bản trong công tác nhận thức về xu thế tất yếu của việc
đổi mới tại địa phương ngay khi nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI chưa ra đời. Trên cơ sở đó, năm 1987, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà
Sơn Bình đã họp hội nghị lần thứ 5 bàn về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế,
xã hội như sau: [9]
- Tập trung thực hiện 3 chương trình kinh tế, số một là lương thực và
thực phẩm.
- Chuyển đổi các đơn vị sản xuất kinh doanh sang hạch toán kinh tế,
bảo đảm có hiệu quả, xóa bỏ bù lỗ. Tiếp tục đổi mới phân phối lưu thông,
thúc đẩy sản xuất kinh tế, tăng cường quản lý thị trường, phấn đấu giảm bớt
bội chi ngân sách và tiền mặt.
- Củng cố hợp tác xã về các mặt sở hữu, quản lý và phân phối, phát
triển kinh doanh tổng hợp, cải tiến khoán sản phẩm, tăng tỷ lệ phân phối cho
người nhận khoán, xóa bỏ các khoản chi phí không hợp lệ và có tính bao cấp
trong các hợp tác xã. Khuyến khích tư nhân, gia đình hợp tác xã nông nghiệp,
31
thủ công nghiệp, công nhân viên chức... phát triển chăn nuôi, làm vườn, chế
biến nông sản, làm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Tích cực mở rộng sản xuất để tạo thêm việc làm tại chỗ cho người
lao động, thực hiện tốt hơn chính sách xã hội. Tích cực thực hiện sinh đẻ
có kế hoạch....
- Gắn việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội với củng cố an ninh,
quốc phòng.
Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Sơn Bình là sự vận dụng sáng tạo đường
lối đổi mới của Đảng vào hoàn cảnh của địa phương, có tác động lớn đến tình
hình kinh tế - xã hội của huyện Mỹ Đức.
2.2.1. Tình hình kinh tế
a) Cơ cấu ngành kinh tế
* Ngành nông - lâm - ngư nghiệp
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, huyện Mỹ Đức tập trung phát triển
kinh tế nông nghiệp và xem nó là đặc trưng kinh tế của địa phương.
Về tổ chức sản xuất nông nghiệp, cũng giống như các địa phương khác
trong cả nước, kinh tế huyện Mỹ Đức phát triển dưới sự quản lý của Nhà nước với
hai thành phần kinh tế: Quốc doanh và hợp tác xã. Kinh tế nông nghiệp của huyện
thực hiện theo chủ trương của Đảng, chủ yếu là sản xuất trong các hợp tác xã. Vì
vậy, năm 1981, thực hiện Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
“khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã
nông nghiệp” - đánh dấu một bước phát triển mới trong quản lý kinh tế, xác lập
trách nhiệm, quyền lợi giữa các lợi ích kinh tế: Nhà nước - tập thể và người lao
động. Huyện ủy Mỹ Đức đã ra Nghị quyết 22 về thực hiện khoán sản phẩm cây
lúa đến nhóm và người lao động ở 22 hợp tác xã của huyện. Huyện ủy xác định
vai trò quan trọng và có ý nghĩa then chốt là sự lãnh đạo của các Đảng bộ xã và
các chi bộ đội sản xuất, phải chuẩn bị kỹ các bước, các khâu như nắm tình hình
đất đai, thổ nhưỡng, phân loại ruộng đất, phân vùng sản xuất, định chế khoán,
định sản lượng, định chế độ thu nộp sản phẩm.... Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện Chỉ thị 100, vẫn còn bộc lộ nhiều hiện tượng: chia ruộng manh mún, điều
hành lúng túng; có hợp tác xã giao khoán trắng cho xã viên...
32
Cuối năm 1987, Huyện ủy triển khai thực hiện Quyết định 188 của
Tỉnh ủy Hà Sơn Bình về một số vấn đề về quản lý và phân phối trong hợp tác
xã nông nghiệp, trong đó có quy định về đất đai canh tác, cách giao khoán
trâu bò, các khoản chi phí của hợp tác xã. Tuy nhiên, Quyết định này cũng
chưa tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất trong các hợp tác xã, sự
chuyển biến về kinh tế, xã hội còn chậm. Vì vậy, để khắc phục tình trạng trên,
Tỉnh ủy đã đề ra 6 nhiệm vụ cơ bản, trong đó tập trung dứt khoát chuyển các
đơn vị sản xuất kinh doanh, bảo đảm làm ăn hiệu quả, xóa bỏ thua lỗ; củng cố
hợp tác xã về các mặt sở hữu, quản lý và phân phối, phát triển kinh doanh
tổng hợp, cải tiến khoán sản phẩm...
Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10 về đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế nông nghiệp (khoán 10): chuyển nền kinh tế nông nghiệp
mang nặng tính tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa. Huyện ủy Mỹ Đức đã
đề ra kế hoạch hướng dẫn Đảng ủy các xã về một số biện pháp thực hiện Nghị
quyết 10 như: giữ nguyên trạng ruộng đất ở các hợp tác xã, không xáo trộn;
có 2 quỹ đất: quỹ đất 1 chia theo khẩu, quỹ đất 2 chia làm 2 loại: khoán thầu
và đấu thầu; giữ nguyên trạng đất 5 % trước đây [8; tr 269]. Xã Lê Thanh là
đơn vị điểm thực hiện một cách toàn diện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và
hoàn thiện một bước về thực hiện Quyết định 188 của tỉnh ủy Hà Sơn Bình:
hoàn thiện cơ chế khoán đến hộ xã viên... Khoán 10 của Đảng như đòn bẩy
tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế nông nghiệp - nông thôn phát triển.
Các hộ gia đình xã viên huyện Mỹ Đức nhanh chóng bắt kịp cơ chế mới, chủ
động đầu tư công sức vào sản xuất, cải tạo đất đai, áp dụng tiến bộ khoa học
vào gieo trồng, tăng thêm lượng phân bón.
Thực hiện nghị quyết Trung ương V, kết luận 41 của Tỉnh ủy và Nghị
định 64 của Chính phủ, huyện ủy Mỹ Đức tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế,
đặc biệt là trong hợp tác xã nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để các hộ
viên sản xuất. Có 96% số hộ nông dân được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu
dài [8; tr 270]. Đây chính là động lực làm cho người lao động yên tâm, phấn
khởi đầu tư sản xuất và thâm canh tăng vụ đạt kết quả cao.
33
Về cơ cấu nội ngành nông nghiệp:
- Trồng trọt:
Huyện ủy lãnh đạo nhân dân tập trung sức đưa sản xuất lương thực, thực
phẩm lên hàng đầu, coi trọng sản xuất lương thực cả lúa và màu; tận dụng đất
đai để tăng vụ, tăng diện tích gieo trồng và thực hiện thâm canh tăng năng suất.
Tuy nhiên, về trồng trọt, cây cơ bản vẫn là lúa, còn các loại cây trồng khác rất ít
và sản lượng lúa đứng thứ 9 của tỉnh Hà Sơn Bình (27.990 tấn / 511.900 tấn):
Bảng 2.1. Diện tích trồng trọt các cây hàng năm - 1976
Các loại cây trồng Năm 1976
Tổng số 15.685 ha
Cây lương thực (lúa) 14.188 ha
Cây rau đậu 759 ha
[Nguồn: 27, tr 30 và 8 tr 264]
Cây công nghiệp 738 ha
Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XVII (1/1989) đã nhấn mạnh phát
triển kinh tế: tập trung giải quyết vấn đề lương thực đủ ăn, đóng góp cho Nhà
nước ngày một tăng, có phần dự trữ, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu; trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, đạt 55 - 60 ngàn tấn
trong một năm, đồng thời phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa [8; tr 273].
Năm 1989, để tập trung cao độ thực hiện 3 chương trình kinh tế của Đảng,
sản xuất nông nghiệp huyện được đẩy mạnh. Sản lượng cây trồng tăng nhanh:
sản xuất lúa năm 1989 đạt 67,45 tạ/ ha; tổng sản lượng lương thực cả năm đạt
55.013 tấn, tăng 18,4 % so với năm 1988 [8; tr 273 - 274].
Thực hiện 3 chương trình kinh tế (lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu) của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, huyện Mỹ
Đức đã tập trung sản xuất lương thực, đẩy mạnh thâm canh, bố trí cơ cấu mùa
vụ hợp lý, tiếp thu giống mới, tổ chức các khâu dịch vụ nước, phân bón,
phòng trừ sâu bệnh. Bên cạnh đó, cơ chế Khoán 10 đã kích thích người lao
động chăm lo sản xuất hơn trước. Sản xuất nông nghiệp năm 1988 có nhiều
khởi sắc. Tổng lượng lương thực hai năm (1989 - 1990) đều đạt từ 48.000 tấn
lên 55.672 tấn [67, tr 1].
34
Năm 1988, diện tích cây lương thực đạt 18.099 ha, tăng 12,4% so với
các năm 1987. Năng suất lúa cả năm đạt 53, 8 tạ/ha, so với kế hoạch mới đạt
88,9%, nhưng so với năm 1987 tăng 25,9%. Riêng vụ chiêm xuân 1988 đạt
năng suất 35 tạ/ha là vụ có năng suất cao nhất từ trước đến nay [8, tr 271].
Huyện Mỹ Đức bắt đầu tập trung khai thác tiềm năng đất đai, mặt nước để mở
rộng trồng cây nông sản xuất khẩu, khôi phục nghề trồng dâu nuôi tằm, phát triển
chăn nuôi gia súc và nuôi thủy sản. Chính vì vậy, năm 1989, huyện Mỹ Đức đã có 11
hợp tác xã tiến hành trồng mới 176 ha [8, tr 274], trong đó có 56 ha chè [67, tr 2].
Nông nghiệp vốn là thế mạnh của huyện, tuy nhiên so với các huyện
khác trong tỉnh thì huyện Mỹ Đức luôn ở vị trí thấp nhất và sự chuyển dịch
trong trồng trọt rất chậm. Qua bảng so sánh với huyện Ứng Hòa - một huyện
gần với huyện Mỹ Đức, có những nét tương đồng về điều kiện phát triển nông
nghiệp, huyện Mỹ Đức chuyển biến kinh tế chậm và luôn thấp hơn huyện
Ứng Hòa về diện tích và sản lượng, năng suất thấp, chủ yếu vẫn tập trung vào
cây lúa, chưa có đầu tư, phát triển cây trồng khác.
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất lƣơng thực huyện Ứng Hòa và huyện Mỹ Đức năm 1985 và 1990
Sản lượng lương thực quy thóc
Sản lượng hoa màu lương thực quy thóc Diện tích lúa cả năm
Sản lượng lúa cả năm
Diện tích ngô cả năm
Sản lượng ngô cả năm
Diện tích Khoai tây cả năm
Sản lượng khoai tây cả năm
Năm 1985 Ứng Hòa 47.122 tấn Mỹ Đức 31.957 tấn Ứng Hòa 2.388 tấn Mỹ Đức 3.894 tấn Ứng Hòa 20.593 ha Mỹ Đức 14.015 ha Ứng Hòa 44.734 tấn Mỹ Đức 28.063 tấn Ứng Hòa 524 ha Mỹ Đức 561 ha Ứng Hòa 1.298 tấn Mỹ Đức 1.024 tấn Ứng Hòa 141 ha Mỹ Đức 122 ha Ứng Hòa 1.102 tấn Mỹ Đức 1.037 tấn
1990 74.081 tấn 52.218 tấn 7.413 tấn 6.165 tấn 21.220 ha 14.303 ha 66.670 tấn 46.053 tấn 1.169 ha 647 ha 2.658 tấn 1.263 tấn 876 ha 632 ha 9.827 tấn 7.664 tấn Nguồn: [30, tr 24 - 45].
35
- Về chăn nuôi:
Với lợi thế về điều kiện tự nhiên cũng như truyền thống sản xuất, tình
hình chăn nuôi của huyện Mỹ Đức đã có sự đa dạng về chủng loại và có bước
phát triển, xếp vị trí khá cao so với tổng lượng toàn tỉnh Hà Sơn Bình:
Bảng 2.3. Tình hình chăn nuôi huyện Mỹ Đức năm 1976
Tỉnh Hà Sơn Huyện Mỹ Chủng loại Xếp hạng toàn tỉnh Bình (tấn) Đức (tấn)
Trâu 123.494 4.534 thứ 11/24
Bò 34.664 1.333 thứ 7/24
Lợn 531.509 25.051 thứ 12/24
Lợn nái 74.764 3.276 thứ 13/24
Lợn sữa 120.728 15.973 thứ 2/24
Gà 2.468.456 85.993 thứ 9/24
Ngan 64.175 5.094 thứ 4/24
Ngỗng 28.376 2.287 thứ 4/24
Chim Bồ câu 15.860 481 thứ 14/24
Cá 17.203 1.259 thứ 4/24
Nguồn: [27, tr 43, 44, 45, 47, 48]
Năm 1988, chăn nuôi của huyện tiếp tục có chuyển biến về số lượng
cũng như chủng loại. Tổng đàn lợn toàn huyện có 27.000 con; đàn trâu, bò
tăng nhanh từ 28% đến 33 % so với năm 1987 đạt 5.808 con. Một số xã có
phong trào chăn nuôi rất phát triển như: Phù Lưu Tế, Tuy Lai, Đồng Tâm, An
Tiến [8, tr 271]. Năm 1990, đàn lợn tăng 35%, đàn trâu, bò tăng 20 - 23% [8,
tr 272]. Mặt khác, huyện đã triển khai sử dụng mặt nước thả cá bằng khoán
thầu cho tập thể, tư nhân nên sản lượng cá hàng năm đều tăng: sản lượng cá
thu được 1.321 tấn, tăng 32% [67, tr 2].
Như vậy, có thể thấy, chăn nuôi ở Mỹ Đức tuy có tăng nhưng tốc độ
phát triển chậm hơn so với trồng trọt. Chăn nuôi mới giải quyết một phần yêu
cầu phân bón, chưa giải quyết thích đáng đến yêu cầu nâng cao đời sống nhân
dân và nghĩa vụ đối với nhà nước. Ngành chăn nuôi của Mỹ Đức chủ yếu chỉ
36
phát triển ở một số loại truyền thống như gia súc (trâu, bò) và một số loại gia
cầm (gà, vịt).
Về máy móc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp: cơ sở vật chất phục vụ
cho nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt của huyện Mỹ Đức rất yếu kém so với
toàn tỉnh Hà Sơn Bình. Qua bảng số liệu sau, cho thấy máy móc phục vụ nông
nghiệp chiếm 1 tỉ lệ rất nhỏ, thậm chí không có máy phát điện, động cơ điện
và máy nghiền thức ăn cho gia súc.
Bảng 2.4. Máy móc sử dụng trong sản xuất nông nghiệp
huyện Mỹ Đức năm 1976
Số máy móc Tỉnh Hà Sơn Bình Huyện Mỹ Đức
Máy phát điện 39 0
Động cơ điện 730 0
Động cơ Điezen 2.229 159
Máy xay xát 1.082 37
Máy nghiền thức ăn gia súc 172 0
Cày theo công nông 224 11
Nguồn: [27; tr 26]
Công tác thủy lợi phục vụ nông nghiệp
Qua nhiều năm tích cực làm thủy lợi nhưng Mỹ Đức vẫn chưa thoát khỏi
cảnh úng ngập. Năm thì úng đầu vụ gây trở ngại cho việc bảo đảm kế hoạch diện
tích và thời vụ. Năm thì bị úng giữa vụ làm mất trắng gần hết diện tích lúa mùa.
Ở Mỹ Đức, năm nào cũng có lượng mưa lớn hơn so với một số huyện trong tỉnh.
Ở đây không chỉ phải đối phó với lượng mưa lớn hơn so với một số huyện trong
tỉnh, mà còn phải đối phó với lượng nước tại chỗ, tức là phải chống đỡ với
nguồn nước từ rừng núi xô ra và nước từ đồng cao thuộc huyện Chương Mỹ dồn
xuống. Do đó, công tác phòng, chống úng bảo vệ lúa mùa ở đây khá nặng nề,
phải có những biện pháp tích cực mới giải quyết được.
Năm 1976, nhân dịp kỷ niệm 86 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Hội nghị Ban Thường vụ Huyện ủy họp ngày 11-5-1976 đã ra quyết
định phát động chiến dịch thủy lợi mang tên “Chiến dịch 19-5”. Huyện đã huy
37
động tới hơn 10.000 lao động, vượt qua sự thiếu thốn về lương thực, làm việc
với tinh thần “Nắng mưa là việc của trời / Không buông, tay kéo, không rời
tay mai” đã hoàn thành các công trình trọng điểm như hồ Vân Mộng, hồ Vĩnh
An, cơi đê sông Mỹ Hà.
Các công trình thủy lợi hoàn thành đã phát huy hiệu quả trong chống
úng, chống hạn, bảo vệ mùa màng, phát triển sản xuất. Năm 1976, tổng diện
tích gieo trồng đạt 15.846ha, bằng 92,5% so với kế hoạch, tăng 4,2% so với
năm 1975. Riêng diện tích lúa đạt 13.368ha, vượt 0,5% kế hoạch đề ra, tăng
5% so với năm 1975. Diện tích đất trồng dâu, chăn tằm phát triển mạnh, với
650ha. Sản lượng kém năm 1976 là 260 tấn, tăng 20 tấn so với năm 1974 [17].
Năm 1979, Mỹ Đức là một trong 3 huyện của tỉnh Hà Sơn Bình hoàn
thành vượt mức nghĩa vụ lương thực, thực phẩm với Nhà nước. Huyện tiếp
tục phát động phong trào ra quân làm thủy lợi. Hầu hết hệ thống kênh mương
được nạo vét; cả huyện đắp thêm 4 đập giữ nước; lập thêm 3-4 trạm bơm dã
chiến bên bờ sông Đáy, làm cống xi phông dẫn nước qua sông Thanh Hà…
Huyện Mỹ Đức được xây dựng khá nhiều các công trình thủy lợi, phần
lớn phục vụ chống úng, nhưng việc khoanh vùng chưa làm tốt. Do đó, các
công trình thủy lợi này chưa phát huy tác dụng cao. Các hồ, ao ở vùng
Thượng Lâm, Đồng Tâm không còn nước; nước hồ Quan Sơn, Vĩnh An kiệt
dẫn; sông Thanh Hà chỉ còn khả năng cung cấp nước ăn. Năm 1980, huyện
coi trọng chỉ đạo việc khép kín bờ vùng, chia huyện thành nhiều vùng nhỏ,
bảo đảm mỗi trạm bơm là một vùng lúa an toàn. Trong mỗi vùng lớn lại xây
dựng những cánh đồng ăn chắc để phóng lượng mưa quá lớn, không cứu được
cả vùng thì vẫn có điều kiện cứu được từng cánh đồng ăn chắc. Để thực hiện
được phương án này, ngay từ khi công việc chăm bón lúa xuân vãn, huyện
phát động chiến dịch làm thủy lợi, phấn đấu hoàn thành việc tôn cao, khép kín
bờ vùng và xây dựng cơ bản trước lúc bắt tay vào thu hoạch lúa xuân. Huyện
huy động toàn bộ lao động ở các đội thủy lợi chuyên nghiệp lên làm các công
trường tập trung của huyện. Những đoạn bờ đập thuộc các hồ chứa nước Vĩnh
An, Quan Sơn, bờ đê Mỹ Hà là nơi xung yếu được huyện đầu tư lao động để
38
tôn cao, bồi trúc, ngăn nước trong rừng khỏi xô ra làm úng đồng ruộng.
Huyện còn huy động lao động đào một con mương tiêu từ Đồng Tâm đi Phúc
Lâm, dài 4 kilômet, có tác dụng tiêu nước ở đồng cao huyện Chương Mỹ ra
thẳng sông Đáy. Hàng ngày, toàn huyện có hơn 1.000 lao động lên các công
trường làm thủy lợi.
Các xã dành phần lớn số lao động làm thủy lợi nhỏ tập trung vào việc
tôn cao, khép kín bờ vùng, nạo vét kênh tiêu. Ở xã Hương Sơn, hàng ngày có
hàng trăm lao động làm thủy lợi, phấn đấu khép kín bờ vùng trong tháng 4.
Toàn huyện có 80 máy bơm nước chạy điện phục vụ tiêu úng và hàng trăm
máy bơm chạy dầu. Để phát huy hiệu lực của các phương tiện chống úng này,
ngay từ cuối tháng 3 hàng năm, huyện đã kiểm tra, sửa chữa tòan bộ máy bơm
điện và sửa chữa các trạm bơm, nạo vét bùn ở bể hút, kênh tiêu, bảo đảm khi
tình huống xảy ra, các trạm bơm đều hoạt động ngay được. Năm 1980, trạm
bơm Phú Yên đặt xong 10 máy hoàn chỉnh, bảo đảm tiêu úng cho gần 1.000
ha lúa của xã Hương Sơn. Các hợp tác xã còn giao cho mỗi lao động chuẩn bị
một chiếc gàu [18].
Đến cuối kế hoạch 5 năm 1981-1985, Mỹ Đức đã hoàn thành về cơ bản
kế hoạch thủy lợi hóa, một biện pháp kỹ thuật quan trọng hàng đầu trong
nông nghiệp, bảo đảm cho việc tưới tiêu theo yêu cầu sinh trưởng của cây
trồng, phục vụ thâm canh tăng năng suất lúa, hoa màu. Với kết quả đạt được
trong công tác thủy lợi đã định hình cơ bản thủy lợi nội đồng và giao thông
nông thôn, xây dựng hệ thống tưới tiêu đồng bộ, các trạm bơm điện, bơm dầu,
cống lớn; đồng ruộng được quy hoạch, khai phá mở rộng, cải tạo đã tạo điều
kiện nâng đa số diện tích canh tác lên hai, ba vụ trong năm. Những thành tựu
đạt được trong thủy lợi đã tạo ra cơ sở vững chắc, có ý nghĩa nền tảng cho sự
phát triển kinh tế ở Mỹ Đức.
Kinh tế lâm nghiệp và ngư nghiệp
Huyện Mỹ Đức chưa có những quyết sách thúc đẩy phát triển, mặc dù
địa phương có nhiều thế mạnh về điều kiện tự nhiên để phát triển hai ngành
lâm nghiệp và ngư nghiệp. Sản xuất ngư nghiệp chưa được định hình rõ ràng,
39
thành một ngành độc lập. Chủ yếu là nuôi, thả cá mang tính chất kinh tế hộ
gia đình. Còn ngành lâm nghiệp, với địa thế là vùng núi, có nhiều sản vật đặc
trưng, nhưng huyện Mỹ Đức chưa khai thác tiềm năng. Nhân dân các xã vùng
ven đồi núi đơn thuần chỉ lên rừng hái củi, hái quả và săn bắt các sản vật
nhỏ... cho nên, ngành lâm nghiệp của huyện thời kỳ này không có đóng góp
về mặt giá trị kinh tế của tỉnh Hà Sơn Bình [27; tr 68].
* Thủ công nghiệp
Mỹ Đức là nơi sớm có nghề trồng dâu nuôi tằm. Thời thuộc Pháp, bọn
tư bản công nghiệp đã rất chú ý đến tiềm năng to lớn của nhân dân Mỹ Đức
về sản xuất tơ lụa. Sau năm 1975, cùng với sản xuất lương thực và dâu tằm,
sản xuất thủ công nghiệp trong giai đoạn này đã mở thêm một số nghề mới
tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương như: thêu, ren, đánh đá,
nung vôi... các hợp tác xã thủ công nghiệp đã thực hiện việc cải tiến quản lý,
cải tiến công cụ lao động, bước đầu làm ăn có lãi: nghề dệt Phùng Xá, thêu
Đại Nghĩa. Tổng giá trị sản xuất thủ công nghiệp năm 1976 là 4.731.048
đồng, đạt 103,8% kế hoạch, trong đó hàng xuất khẩu chiếm 17,3% [27, tr 67].
Nhằm phát triển kinh tế toàn diện ngày 12-12-1978, Huyện uỷ Mỹ Đức
ra Nghị quyết số 29 về việc đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp, xây dựng
Mỹ Đức thành huyện có kinh tế công - nông nghiệp. Nghị quyết của Huyện uỷ
chỉ rõ: Đối với các hợp tác xã có nghề truyền thống như thêu xuất khẩu ở xã
Đại Nghĩa và nghề dệt lụa ở xã Phùng Xá và Đốc Tín phải tăng cường đội ngũ
cán bộ kỹ thuật, đưa điện vào sản xuất, phát triển thêm nhiều mặt hàng mới.
Đối với các hợp tác xã nông nghiệp thì cân đối lại lao động, mở lớp dạy nghề,
đưa từ 30 - 40% lao động nông nghiệp sang làm nghề thủ công [8; tr 218].
Đến năm 1987, thực hiện ba chương trình kinh tế của Đảng, một số
hợp tác xã đã đổi mới cơ chế và có nhiều chính sách khuyến khích phát triển
một số hợp tác xã thủ công nghiệp như ở xã Phùng Xá mở thêm hai tổ dệt;
Hương Sơn mở thêm nghề chế biến dong riềng; xã Tuy Lai tổ chức sản xuất
hàng mây tre đan, nhiều hợp tác xã phát triển nghề thảm bẹ ngô... Các hợp
tác xã được đầu tư thêm về sản xuất thủ công. Tuy vậy, sản lượng chưa đạt
40
kế hoạch. Sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu vẫn là sản xuất thủ công, manh
mún, thiếu kế hoạch. Mô hình chủ yếu là hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp
kiêm sản xuất nông nghiệp và tổ sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong hợp tác
xã nông nghiệp... Quá trình tập thể hóa không thu hút hết lực lượng lao động
trong các ngành nghề, một số thợ thủ công không vào hợp tác xã, vẫn duy trì
sản xuất cá thể. Sản xuất cá thể bị cản trở, một số ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp gắn với sản xuất cá thể khó có điều kiện tồn tại. Các nghề thủ công
không tập trung, nằm rải rác trong các làng, xã, thôn, xóm không bị xóa bỏ
hoàn toàn nhưng chỉ được sản xuất với tính chất là một nghề phụ, sản xuất
vào thời gian nông nhàn. Hơn nữa, việc tổ chức sản xuất trong ngành tiểu thủ
công nghiệp ở Mỹ Đức còn chậm, nhiều xã còn tách rời, chưa kết hợp giữa
việc tổ chức hợp tác xã thủ công nghiệp, thương nghiệp với cải tạo nông
nghiệp. Trước tình hình đó, huyện Mỹ Đức chưa có chính sách thích hợp
kích thích sản xuất, thu hút nguồn hàng xuất khẩu. Đây cũng là tình trạng
khó khăn chung của cả nước thời kỳ này.
* Các ngành kinh tế khác: thương nghiệp, dịch vụ - du lịch, tài chính -
ngân hàng...
Năm 1980, cùng với lãnh đạo sản xuất nông nghiệp và thủ công
nghiệp, ở Mỹ Đức, Đảng bộ huyện đã tích cực lãnh đạo công tác thương
nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông liên xã trong huyện. Thực hiện theo
Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 278-CT/TTg của
Thủ tướng Chính phủ về cải tiến công tác phân phối lưu thông, ngày 20-10-
1980, Ban Thường vụ Huyện ủy Mỹ Đức đã ra Nghị quyết số 18-NQ/HU về
tăng cường công tác phân phối, lưu thông tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương,
thương nghiệp và quản lý thị trường.
Tận dụng hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ tương đối thuận
tiện và với một bộ phận cư dân sống bằng nghề buôn bán, trên địa bàn huyện
Mỹ Đức, đã hình thành các chợ ở từng vùng để giao lưu, buôn bán hàng hoá.
Huyện Mỹ Đức có 7 chợ. Hệ thống chợ ở Mỹ Đức tạo thành mạng lưới phân
bố khá hợp lý cả về không gian và thời gian. Chợ họp theo phiên, thường 5
41
ngày một phiên và được tính theo lịch âm (ví dụ: chợ Phủ họp ngày phiên chợ
vào ngày 4,9, 14,19, 24 và 29; chợ Thá trên họp vào ngày 6,16,26). Các phiên
chợ họp so le nhau nên không có ngày nào ở Mỹ Đức không có chợ phiên.
Chợ ở Mỹ Đức họp rất sớm và tan cũng rất sớm. Có chợ chỉ đến tầm 8,
9 giờ sáng đã vãn người, và nếu vào những ngày mùa bận, chợ còn tan sớm
hơn. Chợ cũng "phân cấp" tự nhiên, thành chợ làng, chợ xã, chợ huyện. Vào
những tháng nông nhàn, khi đã xong mùa vụ cũng là lúc những phiên chợ ở
Mỹ Đức đông người nhất. Chợ ở Mỹ Đức buôn bán những mặt hàng mang
tính đặc thù của địa phương và về cơ bản đáp ứng được yêu cầu trao đổi hàng
hoá thiết yếu của các tầng lớp nhân dân trong vùng. Người dân Mỹ Đức đem
ra chợ bán đủ các mặt hàng nhưng chủ yếu là những sản vật, những thứ có sẵn
trong nhà: từ mớ tôm, mớ tép, mớ rau đến con gà, con vịt… Ở các chợ thường
có một khu bán những sản phẩm của nghề phụ như: nón, mành, quạt đan,
đường ép...; một góc khác của chợ bán bún, đậu phụ, các loại kẹo dân gian:
kẹo dồi, kẹo lạc, kẹo bột, bánh rán, bánh đa. Ngoài ra, chợ còn có những
người làm dịch vụ như lò rèn để sửa chữa liềm, cuốc, dao, kéo, bán răng bừa,
lưỡi cày; có những người thợ cắt tóc, thợ may, thợ nhuộm. Một góc nhỏ khác
của chợ bán thịt lợn. Tuy nhiên, rất ít lượng khách có nhu cầu này vì đây là
thực phẩm “cao cấp” thời bấy giờ. Mỗi chợ đều có một khu bán lương thực và
ngũ cốc: thóc, gạo, cám cho lợn, đỗ đen, đỗ tương, vừng, lạc, khoai; các chợ
đều có một vài hàng xén để bán những vật dụng thông thường như đèn dầu,
bát đĩa, vải, kim khâu, kim băng, chỉ, diêm, đá lửa, đinh, guốc, quai guốc, dây
chun, cúc áo, kẹp tóc, gương, lược, xà phòng...; có hàng bán vải và quần áo,
hàng bán thuốc lào, thuốc lá, trầu cau, vôi...; một số hàng ăn uống bán các
món quà quê dân dã, được kê bằng những chiếc ghế dài, mấy chiếc chõng tre.
Sau Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) tháng 9-1979, những hạn chế của
cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp bước đầu được nhìn nhận là yếu tố cản
trở sức sản xuất và cần phải được xóa bỏ. Những chủ trương có tính chất đổi
mới đã tác động trực tiếp và nhanh chóng đến các quan hệ kinh tế. Tháng 10-
1979, Chính phủ ban hành Quyết định 373/CP và 374/CP về xóa bỏ các trạm
42
kiểm soát “ngăn sông cấm chợ”, “mở lối” cho các loại sản phẩm được trao
đổi trên thị trường tự do theo giá thỏa thuận sau khi đã nộp đủ nghĩa vụ cho
nhà nước. Nằm trong bối cảnh chung của cả nước, Mỹ Đức cũng chịu tác
động mạnh mẽ do khủng hoảng kinh tế xã hội, sản xuất đình đốn, hàng hóa
khan hiếm, lạm phát tăng cao nhưng mạng lưới thương nghiệp và các hoạt
động phân phối, lưu thông ở Mỹ Đức vẫn có bước phát triển nhất định. Các
hợp tác xã mua bán vẫn tiếp tục tồn tại nhưng gặp không ít khó khăn. Trong
điều kiện hàng hóa ngày càng khan hiếm, các hợp tác xã đã chủ động khai
thác nguồn hàng từ trong nhân dân như vải vóc, vật liệu xây dựng, lương
thực, thực phẩm, tạo điều kiện để nhân dân tiêu thụ hàng hóa và được cung
cấp lại các mặt hàng thiết yếu.
Tuy nhiên, đây vẫn là giai đoạn kinh tế khó khăn ở Mỹ Đức, các hoạt
động buôn bán, dịch vụ ở đây sa sút, nguồn hàng khan hiếm, cung không đáp
ứng đủ cầu, lạm phát gia tăng, thương nghiệp quốc doanh giải thể, các hợp tác
xã mua bán có dấu hiệu suy giảm. Năm 1985, cuộc tổng điều chỉnh giá -
lương - tiền đã khiến cho những chủ trương đúng đắn về đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế không tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc đưa nền kinh tế
nước ta sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Khủng hoảng kinh tế -
xã hội càng trầm trọng, lạm phát phi mã. Lợi dụng tình hình khó khăn, một bộ
phận tư thương tăng cường đầu tư, tích trữ. trong điều kiện đó, các hoạt động
buôn bán kinh doanh và dịch vụ của tư nhân có chiều hướng phát triển mạnh.
Dù còn phát triển tự phát, nhưng hệ thống dịch vụ, cửa hàng buôn bán của tư
nhân đã tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư, góp
phần đáp ứng những nhu cầu chính đáng của người tiêu dùng.
Nhìn chung, các ngành kinh tế thương nghiệp, dịch vụ, tài chính... ở
huyện Mỹ Đức thời kỳ này chưa phát triển, vẫn chỉ dừng ở mức mang tính
chất phục vụ cho sản xuất chính là nông nghiệp.
b) Cơ cấu thành phần kinh tế
Kinh tế của Mỹ Đức thời kỳ này là kinh tế hợp tác xã. Thực hiện theo
Chỉ thị số 208-CT/TW, ngày 16-9-1974 của Ban Bí thư Về tổ chức lại sản
43
xuất nông nghiệp và cải tiến một bước quản lý nông nghiệp từ cơ sở theo
hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, với tinh thần lấy cấp huyện làm
địa bàn trung tâm, quy hoạch lại các hợp tác xã bậc cao. Huyện Mỹ Đức từng
bước xây dựng hợp tác xã quy mô toàn xã, tiến hành thí điểm tổ chức lại sản
xuất ở một số hợp tác xã. Năm 1976, huyện đã hợp nhất 65 hợp tác xã thành
22 hợp tác xã trên quy mô toàn xã, trong đó có 12 hợp tác xã ven núi, chiếm
63% tổng diện tích toàn huyện [8; tr 201]. Hợp tác xã tiếp tục được củng cố
và phát triển theo Chỉ thị 208: xây dựng các mô hình hợp tác xã điểm ở những
vùng khác nhau, trên cơ sở phổ biến, nhân rộng các hợp tác xã học tập, áp
dụng vào địa phương của mình. Vùng ven Đáy, Mỹ Đức đã lấy mô hình hợp
tác xã Phù Lưu Tế - vùng ven núi thì xây dựng mô hình hợp tác xã Hợp
Tiến... đưa điều khiển học vào chỉ đạo sản xuất; tổ chức lao động theo đội
chuyên, bỏ hình thức đội sản xuất khép kín. Cơ sở vật chất các hợp tác xã
cũng không ngừng được đầu tư, như: xây dựng sân phơi, nhà kho, trại chăn
nuôi, mua thêm máy cày, máy bơm, máy tuốt lúa, máy xay sát... Tính bình
quân, mỗi hợp tác xã đã trang bị thêm được 11 máy móc các loại. Đặc biệt
một số hợp tác xã yếu kém đã có chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, tình hình phát triển kinh tế, xã hội của huyện vẫn còn rất
nhiều tồn tại, yếu kém về : “ba yếu quản lý” kinh tế, quản lý xã hội, quản lý
công tác đảng viên, các đoàn thể quần chúng và “hai thiếu” về lương thực,
thực phẩm và đội ngũ cán bộ giỏi [8; tr 210]. Thực hiện tinh thần của Nghị
quyết V của Trung ương Đảng, huyện Mỹ Đức vẫn giữ vững quy mô hợp tác
xã toàn xã đến năm 1986. Hợp tác xã nông nghiệp đã làm tốt chức năng điều
hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phục vụ xã viên sản xuất [67, tr 3].
Ngoài ra, kinh tế hộ gia đình trong giai đoạn này cũng được xác định rõ
ràng hơn và đang phát triển trên nhiều lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ
và sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
c) Cơ cấu vùng kinh tế
Trước năm 1991, về cơ bản huyện Mỹ Đức chưa phân vùng kinh tế.
Với địa thế của 3 vùng: vùng núi, vùng ven đáy và vùng bán sơn địa; nhưng
44
huyện chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên sẵn có, các xã của huyện Mỹ Đức
cơ bản tập trung sản xuất nông nghiệp và làm nghề thủ công truyền thống;
chưa có một vùng nào thể hiện sự chuyên môn hóa sản xuất. Điều này, nói lên
trình độ chuyên môn hóa và phát triển trong sản xuất của huyện Mỹ Đức vẫn
còn rất hạn chế, huyện chưa phát huy các thế mạnh sẵn có của từng địa
phương để khoanh vùng kinh tế, tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Tóm lại, kinh tế của huyện Mỹ Đức trước năm 1991 có những đặc điểm
sau đây:
Thứ nhất, Huyện Mỹ Đức là địa phương có thế mạnh để phát triển kinh
tế đa dạng, hình thành một cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp – dịch vụ. Tuy
nhiên, huyện chưa khai thác đúng mức và sử dụng đạt hiệu quả cao về các
tiềm lực để phát triển kinh tế (tài nguyên, nguồn lao động…). Tập trung phát
triển nông nghiệp, nhưng mục tiêu đặt ra là kết quả thu được rất hạn chế, về
cơ bản nhu cầu về thực phẩm chưa được đáp ứng. Tốc độ phát triển tiểu thủ
công nghiệp chậm, chưa kết hợp chặt chẽ giữa phát triển nông nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp. Tỷ trọng hàng phục vụ nông nghiệp ít, chất lượng thấp nên
tiêu thụ khó khăn và hầu như không xuất khẩu được với số lượng lớn; tốc độ
phát triển kinh tế còn chậm so với tiềm năng vốn có của huyện như: đất đai,
lao động và những điều kiện tự nhiên thuận lợi. Cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp còn có khoảng cách khá lớn, trong đó giá trị nông nghiệp toàn huyện
đạt 64%, giá trị của công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chỉ chiếm 36%.
Thứ hai, là một địa phương đa dạng về địa hình, tự nhiên đã ban cho
Mỹ Đức tiền đề có thể hình thành ngay các vùng sản xuất, phát triển kinh tế.
Nhưng giai đoạn này, Mỹ Đức chưa phân vùng. Vì vậy, công nghiệp của Mỹ
Đức không phát triển, ngay cả công nghiệp chế biến chưa hình thành mặc dù
huyện có nhiều vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu tại chỗ.
Thứ ba, kinh tế Mỹ Đức thời kỳ hạn chế về lực lượng sản xuất và phân
phối lưu thông: công cụ lao động còn quá thô sơ, kỹ thuật sản xuất dù có được
cải tiến một bước nhưng còn lạc hậu. Việc cơ giới hoá chưa được đẩy mạnh,
công tác thuỷ lợi còn yếu ở vùng cao và vũng trũng. Ở nhiều hợp tác xã, quan
45
hệ sản xuất mới chưa được củng cố vững chắc. Toàn huyện có tới 30% số hợp
tác xã yếu kém. Phần lớn các hợp tác xã còn làm ăn theo lối sản xuất nhỏ. Lao
động chưa được quản lý chặt chẽ, nông dân chưa tập trung vào sản xuất tập
thể và có ý thức tập thể… Các trạm trại quốc doanh của huyện tương đối hoàn
chỉnh nhưng chưa gắn chặt chẽ với các hợp tác xã dẫn tới việc cơ sở vật chất
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển chung trong một thời gian dài.
Trong công tác phân phối lưu thông còn thụ động, không nắm chắc các
nguồn hàng vào ra tại địa phương, thiếu dự báo, trông chờ vào các “chính
sách” của cấp trên. Chế độ hạch toán kinh tế chưa được thực hiện hoặc thực
hiện sai nguyên tắc, mục đích diễn ra khá phổ biến ở các hợp tác xã. Mặt khác
hợp tác xã tín dụng, mua bán chưa phát huy đầy đủ chức năng để có thể giúp
hợp tác xã nông nghiệp tái sản xuất mở rộng. Sản xuất chưa thực sự được gắn
với phân phối lưu thông, hai mặt hoạt động kinh tế chủ yếu này còn hạn chế và
thiếu gắn kết. Việc thực hiện hợp đồng kinh tế hai chiều giữa nông dân và Nhà
nước còn chưa hợp lý về thời gian, tỷ giá… Nhiều hợp tác xã còn là gánh nặng
và kìm hãm sự phát triển chung của địa phương. Quan trọng hơn, mặc dù Mỹ
Đức là địa phương có điều kiện tốt về vị trí và giao thông nhưng đã bỏ lỡ việc
đẩy mạnh phát triển kinh tế công thương trên diện rộng với đúng bản chất là
một nền kinh tế hàng hoá để tạo sức đột phá cho giai đoạn phát triển sau này.
Tóm lại, trải qua mấy thập kỷ xây dựng theo tư duy, mô hình cũ, kinh
tế Mỹ Đức dù đạt một số kết quả song vẫn còn nhiều yếu kém: tăng trưởng
thấp (năng suất, sản lượng hầu như không thay đổi trong một thời gian dài);
không có đột phá về cơ cấu kinh tế (kinh tế vẫn thuần nông); các thành phần
kinh tế không được phát huy đúng mức; chưa định hình được những vùng sản
xuất với những sản phẩm đặc trưng, có sức cạnh tranh, nguồn thu không đủ
cân đối, lương thực không đủ ăn; nhiều tiềm năng lợi thế không được phát
huy, vì vậy Mỹ Đức luôn đứng ở vị trí là một huyện ở mức trung bình, thậm
chí là huyện nghèo của tỉnh. Dù một vài nơi trên địa bàn của huyện đã có
“cách nghĩ’ và “cách làm” mới nhưng về cơ bản nó vẫn bị mô hình quản lý cũ
chi phối, ràng buộc, níu kéo.
46
Với những kết quả đạt được cũng như những tồn tại trên đây là cơ sở
quan trọng để huyện Mỹ Đức tiếp tục thúc đẩy sự chuyển biến kinh tế, xã hội
trong giai đoạn tiếp theo.
2.2.2. Tình hình xã hội
a)Về dân cư - lao động
Theo số liệu của phòng Thống kê huyện Mỹ Đức, dân số của huyện năm
1985 là 126.164 người, năm 1990 là 145.168 người, trong đó nam chiếm 48,92%
dân số, nữ chiếm 51,08% dân số, tỷ lệ phát triển dân số bình quân hàng năm là
2,15% (1985) và 2,34% (1990). Trong đó, dân cư tập trung đông hơn ở những xã
thuộc khu vực đồng bằng phía Đông ven sông Đáy, đặc biệt là ở vùng nông thôn:
2.945 người ở thành thị và 142.223 người ở nông thôn [30; tr 110 - 114].
Nguồn lao động: Mỹ Đức có nguồn lao động khá dồi dào. Với tỷ lệ
tăng tự nhiên cao, nên tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của Mỹ Đức duy trì
ở mức cao: 51,8% tổng số dân, trong đó lao động trong độ tuổi chiếm 91,5%
lao động xã hội và phân bố chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp 79%, chỉ còn
21% lao động ở các ngành nghề khác. Với tỷ lệ lớn dân số hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp, thời gian lao động thực chỉ chiếm 70 – 75% tổng quỹ
thời gian lao động, huyện Mỹ Đức cần phải có chiến lược phát triển các
ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ - du lịch hợp lý, nhằm vừa hạn chế các
hoạt động công nghiệp gây ô nhiễm, đảm bảo việc duy trì môi trường và cảnh
quan du lịch; vừa giải quyết vấn đề thiếu việc làm cho nhân dân trong vùng.
Mỹ Đức có tỷ lệ dân nông thôn lớn (96,05%). Sự chuyển biến về cơ
cấu lao động gần như không đáng kể, tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn chiếm
hơn 70% tổng số lao động của huyện. Đây là một khó khăn của huyện trong
định hướng chuyển đổi kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Vì vậy, cần có chiến
lược đầu tư cho giáo dục – đào tạo nghề nhằm hình thành lực lượng lao động
đáp ứng được yêu cầu phát triển của Mỹ Đức.
b) Về phân tầng xã hội
Trước thời kỳ đổi mới, Mỹ Đức là một huyện thuần nông nên nông
dân là tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội, nghề chính là làm ruộng. Trong
47
đó, thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ ở huyện hầu hết có nghề chính
vẫn là làm nông nghiệp kiêm tiểu thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ. Họ vẫn là
nông dân. Đời sống của họ vẫn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, ở huyện còn có
một số thanh niên có học thức, phần lớn là con em các tầng lớp trên hoặc con
em gia đình khá giả, có điều kiện thoát ly. Tuy số lượng ít, nhưng họ cũng
đóng vai trò quan trọng của xã hội.
Huyện Mỹ Đức nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng, dân cư trú trên
địa bàn chủ yếu là dân tộc Kinh với 99,9% dân số. Một số xã giáp tỉnh Hòa Bình
có một bộ phận là dân tộc Mường sinh sống. Nhìn chung, đời sống của đồng bào
Mường còn gặp nhiều khó khăn, kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nghề nông và khai
thác lâm sản.
Từ năm 1975 đến 1986, kết cấu xã hội và cơ cấu lao động ở huyện Mỹ Đức
có thay đổi. Tuy nhiên, hình thái kinh tế hợp tác xã chiếm vai trò chủ đạo, vì vậy
sự thay đổi này ở mức độ hạn chế. Đại bộ phận dân cư vẫn tham gia hợp tác xã
nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng, mua bán... lực lượng lao động được quản lý
theo kế hoạch. Bên cạnh đó, khi huyện chủ trương xây dựng một số nhà máy, xí
nghiệp có quy mô trên địa bàn như: đóng gạch, nung vôi, thêu, ren... một bộ phận
nông dân được đào tạo và họ đã thoát ly khỏi đồng ruộng, trở thành những công
nhân nhưng bộ phận này chiếm tỷ lệ nhỏ... Nhìn chung, các tầng lớp nhân dân
huyện Mỹ Đức chưa có sự chuyển biến rõ rệt về phân hóa giàu nghèo.
c) Về các lĩnh vực của đời sống xã hội
Trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục: sau năm 1954, huyện có hơn 90% dân số
không biết chữ. Phần lớn cán bộ, đảng viên có trình độ học vấn ở các lớp 1 - 2 và
lớp 3 [4, tr 12]. Ngành giáo dục thực hiện tốt phong trào thi đua 2 tốt. Năm học
1987 - 1988, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở đạt 97, 6 %; tốt nghiệp
phổ thông trung học đạt 90 %; đã có học sinh tham gia đội tuyển dự thi toàn
quốc. Cơ sở vật chất phục vụ dạy học từng bước phát triển, hoàn thành 2 ngôi
trường cao tầng là trường phổ thông trung học Mỹ Đức C và trường phổ
thông cơ sở Hương Sơn A [8; tr 272]. Để có kết quả đó, nhờ sự quan tâm của
các cấp ủy Đảng, chính quyền đã thực sự quan tâm đến sự nghiệp giáo dục.
48
Cơ sở vật chất phục vụ xã hội: cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo
dục chưa có và rất thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn. Các tệ nạn xã hội cũ
chưa được xóa bỏ. Đường làng, ngõ xóm nhỏ hẹp, cỏ cây rậm rạp, mùa mưa
lầy lội. Nhà cửa của nhân dân chủ yếu là nhà tranh vách đất....
Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1990), đất nước đạt
được những tiến bộ bước đầu về kinh tế, giảm bớt khó khăn về đời sống của
nhân dân. Nền kinh tế có chuyển biến cả về cơ cấu và cơ chế quản lý. Song
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và Mỹ Đức nói riêng vẫn
còn nhiều khó khăn, chưa ra khỏi khủng hoảng, mức độ lạm phát vẫn còn cao.
Lao động thất nghiệp hoặc không đủ việc làm ngày càng tăng. Đời sống công
nhân, viên chức, lực lượng vũ trang và đại bộ phận nhân dân lao động vẫn còn
nhiều khó khăn. Trật tự, an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp.
2.3. Đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và sự vận dụng của
huyện Mỹ Đức về phát triển kinh tế, xã hội
2.3.1. Đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Đảng, Nhà nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội tháng 12 -
1986. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm thực hiện mục tiêu xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã khẳng định cần có chính sách sử
dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, coi nền kinh tế có nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Về đổi mới kinh tế, Đại hội khẳng định xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung,
quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế thị trường; xây dựng nền kinh tế quốc
dân với cơ cấu nhiều ngành nghề; nhiều quy mô, trình độ công nghệ; phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng
kinh tế đối ngoại.
Năm 1991, Đại hội Đảng lần thứ VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chỉ rõ định hướng phát triển, vai trò
của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát với nền kinh tế cơ bản nông nghiệp, để tập trung giải quyết
những bất cập của nghị quyết 10 (1988) của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý
49
nông nghiệp: ruộng đất vẫn thuộc sở hữu tập thể nhưng người dân được giao
khoán ruộng đất ổn định, lâu dài tùy theo loại cây canh tác, tình trạng manh
mún về ruộng đất đã gây khó khăn cho quá trình tập trung sản xuất. Hội nghị
Trung ương 5 Khóa VII của Đảng (tháng 6/1993) đã chủ trương hộ nông dân
được giao quyền sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất. Tiếp đó, tháng 7/1993, Quốc hội Việt
Nam công bố Luật Đất đai, xác nhận bằng hình thức pháp luật quyền sử dụng
đất lâu dài và địa vị chủ thể kinh tế của nông dân, quy định rõ thời hạn sử dụng
đất có thể lên đến 50 năm, sau khi hết hạn có thể được gia hạn thêm. Đây là
mốc đánh dấu bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng, Nhà nước để
thúc đẩy nền kinh tế cơ bản của đất nước và kinh tế ở các địa phương.
Về xã hội, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng nâng các vấn đề xã hội
lên tầm chính sách xã hội của Quốc gia, đặt rõ tầm quan trọng của chính sách
xã hội đối với chính sách kinh tế và chính sách ở các lĩnh vực khác. Năm
1991, Đại hội Đảng lần thứ VII đã xác định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi
trường. Lấy phân phối theo lao động làm hình thức chính, khuyến khích làm
giàu đi đôi với giảm số người nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế, thực hiện nam nữ bình đẳng, tạo cơ hội cho mọi
người đều được cống hiến và được hưởng thành quả của sự phát triển. Quá
trình chuyển dịch cơ cấu được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư và sản
xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế dưới tác động của cơ chế thị
trường được Nhà nước hướng dẫn và thúc đẩy bằng các công cụ quản lý vĩ
mô và bằng chương trình đầu tư dựa vào nguồn vốn tập trung” [54; tr 450].
Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, nhất là chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000 của Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng bộ huyện
Mỹ Đức đã thông qua các Nghị quyết, chỉ thị, chính sách về các lĩnh vực kinh
tế, xã hội phù hợp với địa phương, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong đời
sống xã hội.
50
2.3.2. Kế hoạch, biện pháp thực hiện của Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân huyện Mỹ Đức
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII, tháng 9/1991,
tỉnh Hà Sơn Bình tách thành 2 tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Huyện Mỹ Đức là
một trong 12 huyện và 2 thị xã tái nhập về tỉnh Hà Tây. Dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Tỉnh ủy Hà Tây, mặc dù tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp, tình hình kinh tế - xã hội trong nước cũng như của tỉnh còn rất nhiều khó
khăn. Nhưng Đảng bộ cũng như nhân dân huyện Mỹ Đức thực hiện phong
trào phát triển kinh tế, xã hội.
Sau hơn 5 tháng tỉnh Hà Tây được tái lập và chính thức đi vào hoạt
động, thi hành Điều lệ Đảng và Chỉ thị 59 của Ban Bí thư Trung ương, Đảng
bộ tỉnh Hà Tây tổ chức Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Đại hội đã kiểm
điểm, đánh giá thực trạng tình hình trong tỉnh những năm 1986 – 1991; vận
dụng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Báo cáo chính trị
của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII để định ra phương hướng nhiệm vụ
trong những năm 1992 – 1995. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI là
động lực giúp Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức tiếp tục vươn lên thu
được nhiều kết quả quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngày 19 - 21/11/1991, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ
XVIII đã được tổ chức, xây dựng nhiệm vụ chủ yếu của năm 1991 – 1995. Về
phát triển xã hội, nghị quyết của Đại hội nhấn mạnh: “Từ nay đến hết năm
1995 là: Tập trung đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, ổn định và
nâng cao đời sống nhân dân, mọi lao động có thêm và đủ việc làm, đẩy lùi các
biểu hiện tiêu cực, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự xã hội” [65, tr 10]. Về phát triển kinh tế, Đại hội chủ trương:
“tập trung đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế nhiều thành phần, củng cố và
phát triển kinh tế quốc doanh, phát triển kinh tế tập thể làm nền tảng, kinh tế
tư nhân là quan trọng, khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Trọng tâm là
sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, khai thác tiềm năng ruộng đất,
51
sông ngòi, ao hồ, rừng núi, thắng cảnh, cơ sở vật chất sẵn có, sức lao động
trên cơ sở tổ chức lại sản xuất, phân công lao động hợp lý các ngành sản xuất,
dịch vụ để sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao” [70, tr 10].
2.4. Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức từ năm 1991 đến
năm 1996
Nhờ vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
trên cơ sở thực tiễn địa phương, từ năm 1991 - 1996, Đảng bộ huyện Mỹ Đức
đã cơ bản hoàn thành các chủ trương, giải pháp lớn, đẩy mạnh công cuộc đổi
mới trên các lĩnh vực kinh tế thu được những kết quả quan trọng.
2.4.1. Chuyển biến về kinh tế
2.4.1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
a) Ngành nông - lâm - ngư nghiệp
Đây là nhóm ngành chính, ngành quan trọng bậc nhất của huyện Mỹ
Đức, nhờ vào thế mạnh về điều kiện tự nhiên (đất, nước) và nguồn nhân
lực. Nền nông nghiệp Mỹ Đức đang chuyển từ độc canh cây lúa sang sản
xuất hàng hóa với việc khuyến khích nuôi trồng thủy sản và phát triển nghề
rừng. GDP nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp không ngừng tăng từ
128.600 triệu đồng từ năm 1991 lên 148.610 triệu đồng năm 1995 [34, tr
20]. Trong cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp thì nông nghiệp là ngành chủ
đạo, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản có giá trị không đáng kể:
Bảng 2.5. Cơ cấu nông - lâm - ngƣ nghiệp huyện Mỹ Đức
(Đơn vị: triệu đồng, giá so sánh năm 1990)
1991 1995
Chỉ tiêu Giá trị GDP Tỉ lệ (%) Giá trị GDP Tỉ lệ (%)
Tổng số 128.600 148.610 100 100
- Nông nghiệp 113. 374 130.749 87,0 88,0
- Lâm nghiệp 7.917 8.907 6,0 6,5
[34, tr 22 - 26]
- Ngư nghiệp 7.309 8.954 7,0 5,5
52
- Nông nghiệp
+ Về quản lý đất đai: Đây là tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng trong
nông nghiệp. Chính vì vậy, huyện Mỹ Đức rất quan tâm đến vấn đề này. Thực
hiện Nghị định 64/CP và Luật Đất đai 1993 của Chính phủ, Tỉnh ủy Hà Tây
đã ban hành Kết luận số 41 (ngày 13/7/1992), Nghị quyết của HĐND tỉnh tại
kỳ họp thứ 4 (tháng 7/1992) về giao ruộng đất ổn định, lâu dài và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đến hộ nông dân và sau khi rút kinh nghiệm ở
xã Lê Thanh, Ban Thường vụ Huyện ủy Mỹ Đức đã tiến hành chỉ đạo triển
khai giao ruộng ở tất cả các xã trong toàn huyện. Đến năm 1995, 23/23 HTX
nông nghiệp đã cơ bản hoàn thành việc giao đất đến hộ nông dân, đảm bảo
đúng luật, giữ ổn định và đoàn kết trong nông thôn, tạo một bước chuyển biến
mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ về
việc giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ gia đình, mặc dù có nhiều mặt tích
cực nhưng do quá trình triển khai còn nhiều thiếu sót (do thừa kế và giữ nguyên
ruộng đất theo Khoán 10 và Chỉ thị 100) đã dẫn đến hiện tượng ruộng đất ở các
xã còn manh mún, phân tán ở nhiều xứ đồng. Trước khi tiến hành “dồn điền,
đổi thửa” mỗi hộ có từ 6 đến 7 thửa đất (các xã có ruộng đất manh mún điển
hình là xã Đại Hưng 13,5 thửa/hộ, xã Vạn Kim 11 thửa/hộ). Diện tích mỗi thửa
rất nhỏ, dao động từ 72m2 đến 649m2/thửa. Tình trạng ruộng đất manh mún đã
gây nhiều khó khăn cho công tác quy hoạch sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông
sản hàng hóa; hạn chế khả năng cơ giới hóa để cải thiện năng suất lao động.
Tình trạng này ở Mỹ Đức nói riêng, tỉnh Hà Tây và toàn quốc nói chung là vấn
đề cản trở quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tập
trung, thâm canh. Vì vậy, việc chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa
lớn là rất cần thiết. Trong sản xuất nông nghiệp, thời kỳ này huyện Mỹ Đức đã
có sự chuyển biến rõ rệt về quản lý sử dụng đất nông nghiệp.
+ Về quản lý sản xuất trong nông nghiệp: Huyện ủy Mỹ Đức tiếp tục
ổn định quy mô hợp tác xã nông nghiệp. Nhưng so với thời kỳ trước năm
1991, tổ chức hợp tác xã đã có nhiều chuyển biến tích cực, đó là:
53
Thứ nhất, hợp tác xã kinh doanh tổng hợp, điều hành quản lý theo quy
hoạch, kế hoạch theo 8 khâu, tổ chức dịch vụ các khâu mà xã viên không làm
được như: thủy lợi, thủy nông, giống, phân bón, phòng trừ sâu bệnh và tiêu
thụ sản phẩm. Những hợp tác xã chưa đảm nhận được việc sẽ giúp đỡ tư nhân
làm, nhưng phải ký hợp đồng với nông dân, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của
nhà nước. Ban quản lý hợp tác xã cùng với chính quyền thực hiện chính sách
xã hội, xây dựng nông thôn mới. Còn các hợp tác xã kinh doanh thì ăn chia
đúng chính sách, công khai, công bằng xã hội và hỗ trợ xã viên khi gặp khó
khăn về phát triển sản xuất.
Thứ hai, các hợp tác xã nông nghiệp còn tổ chức đội khoa học kỹ thuật
hướng dẫn xã viên kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc cây trồng, vật nuôi đảm
nhiệm khâu phòng trừ sâu bệnh, sử dụng cán bộ kỹ thuật ở xã, ở huyện đã
được đào tạo bố trí đúng ngành phục vụ sản xuất. Tranh thủ cán bộ khoa học
kỹ thuật của trung ương, của tỉnh vào phát triển kinh tế tập thể, tư nhân, thực
hiện nguyên tắc cùng có lợi.
Bên cạnh sự quản lý kinh tế của nhà nước, huyện ủy Mỹ Đức từ năm
1991 đặc biệt quan tâm đến phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân
trong sản xuất nông nghiệp: quy hoạch lại vườn, rừng ở từng xã để trồng cây
gì có giá trị về hàng hóa, mỗi hộ có thêm việc làm. Tập thể hỗ trợ kinh tế gia
đình thiết thực như: hướng dẫn kỹ thuật, bảo vệ sản xuất, thú y, hợp đồng sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Có quy định khen thưởng thỏa đáng với tập thể, tư
nhân truyền nghề, hướng dẫn kỹ thuật, tạo việc làm mới, tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa với phương châm hai bên cùng có lợi, sản xuất phát triển. Đối với
các hộ nghèo, có biện pháp hướng dẫn cụ thể: tạo vốn, việc làm, tạm hoãn
đóng các loại quỹ, đóng góp xây dựng công trình phúc lợi trong thời gian nhất
định. Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư vào sản xuất kinh doanh và đã có
thu nhập cao từ 15 - 20 triệu đồng /năm, tập trung ở các xã: Tuy Lai, Hồng Sơn,
Hợp Thanh, Hợp Tiến, An Phú, Đại Hưng, Lê Thanh...[8, tr 286]
54
+ Trồng trọt:
Trong nông nghiệp, trồng trọt là ngành luôn giữ vị trí quan trọng hàng
đầu. Ngoài cây lúa, nhân dân Mỹ Đức còn trồng các loại cây lương thực khác,
cây thực phẩm, cây công nghiệp và cây ăn quả.
Cây lương thực: Cũng như nhiều huyện của tỉnh Hà Tây và nhiều
vùng của đồng bằng sông Hồng, cây lương thực luôn giữ vai trò quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp của huyện Mỹ Đức. Sản xuất lương
thực so với thời kỳ trước có nhiều bước tiễn đáng kể: Sản lượng lương
thực đạt 71.500 tấn (1996), đưa bình quân lương thực đầu người từ
381kg lên 446 kg/năm [68; tr 2].
Trong cơ cấu cây lương thực của huyện Mỹ Đức, lúa vẫn là cây trồng
chính, còn các cây màu lương thực mặc dù có vai trò quan trọng trong việc
phát triển lương thực của huyện song chiếm tỷ lệ nhỏ.
Cây lúa: chiếm 96,2% về diện tích và 96,6% về sản lượng (1996), trong
khi đó cây màu lương thực chỉ chiếm 3,8% về diện tích và 3,4% về sản lượng.
Lúa được trồng ở tất cả các xã của huyện, tập trung nhiều nhất là các xã Tuy
Lai, Hồng Sơn, Xuy Xá, Hương Sơn, Đại Hưng, Hợp Tiến, Hợp Thanh; năng
suất cao nhất ở các xã: Lê Thanh, Phúc Lâm, Bột Xuyên, An Mỹ, Hồng Sơn
và Đại Nghĩa [68, tr 3].
Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, dân cư có tập quán canh tác lâu đời,
lại được sự quan tâm đầu tư thích đáng về giống, thủy lợi, phân bón nên từ
giai đoạn này diện tích lúa có tăng nhưng chậm, nhưng sản lượng lúa lại tăng
cao, do năng suất tăng khá nhanh.
Bảng 2.6. Diện tích, năng suất, sản lƣợng lúa cả năm
của huyện Mỹ Đức từ năm 1991 đến năm 1995
Mục 1995 1991
Diện tích (nghìn ha) 14,7 14,3
Năng suất (tạ/ha) 40,8 26,04
Sản lượng (nghìn tấn) 60,1 37,6
Nguồn: [33, tr 57 - 59]
55
Cây màu lương thực: Huyện Mỹ Đức có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển cây màu lương thực ở vùng đất bài ven sông Đáy, sông Mỹ Hà: trồng ngô,
khoai vụ đông xuân, đất đồi núi trồng sắn và các loại cây lương thực khác.
Trong các loại cây màu lương thực thì ngô và khoai lang được chú trọng
hơn, còn sắn trồng ở vùng đồi nên diện tích khá ổn định.
Cây ngô: Diện tích cây ngô năm 1995 là 123,8 ha, giảm so với năm 1993
là 24 ha và càng ngày càng giảm về diện tích trồng, nhưng tăng nhanh về sản
lượng. Ngô được trồng nhiều ở các xã: Thượng Lâm, Bột Xuyên, Hồng Sơn,
Lê Thanh và Hợp Tiến.
Cây khoai: được tận dụng trồng ở những nơi đất khô hạn, cơ bản để phục
vụ nhu cầu chăn nuôi của mỗi gia đình nông dân, giải quyết những ngày giáp
hạt, cho nên trong giai đoạn này, diện tích cũng như sản lượng của cây khoai
lang tăng lên đáng kể: từ 373 ha lên 808 ha, từ 2614 tấn lên 7360 tấn của năm
1991 đến năm 1993. Ngoài ra, huyện Mỹ Đức giai đoạn này đã có xu hướng
tập trung phát triển cây khoai tây.
Cây sắn: diện tích trồng sắn có xu hướng tăng. Sắn được trồng nhiều ở các
xã ven núi, điển hình là xã Đồng Tâm, Tuy Lai, Hợp Thanh, Hợp Tiến và An Phú.
Các loại cây thực phẩm như rau, cà chua, bắp cải... thời kỳ này chưa
được tận dụng để trồng trọt.
Cây công nghiệp:
Cây công nghiệp chủ yếu ở huyện Mỹ Đức là các cây công nghiệp ngắn
ngày như mía, lạc, đậu tương và một số cây công nghiệp dài ngày như chè,
dâu tằm. Các loại cây này không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, được tổ chức theo
từng vùng sản xuất chuyên canh và gắn với nhu cầu của thị trường.
Bảng 2.7. Diện tích, sản lƣợng một số cây công nghiệp ở huyện
Mỹ Đức thời kỳ 1991 - 1995
Diện tích (ha) Sản lƣợng (tấn)
Năm Lạc Mía Lạc Mía
Đỗ tương 10 312 4 Dâu tằm 247 Đỗ tương 5 402 164 Dâu tằm 2421 1991
522 220 13 130 442 278 481 1197 1995
[ 33, tr 74]
56
Nhìn chung, diện tích và sản lượng các cây công nghiệp đều tăng.
Cây công nghiệp lâu năm: chủ yếu là cây dâu tằm. Đây là một trong
những loại cây thế mạnh của huyện Mỹ Đức, được trồng ở các vùng đất bãi
ven sông Đáy kéo dài từ xã Đồng Tâm đến xã Hương Sơn. Mỹ Đức là vùng
dâu tằm nổi tiếng của tỉnh Hà Tây cũng như của đồng bằng sông Hồng. Phát
triển nghề trồng dâu, nuôi tằm - nghề truyền thống của huyện. Những năm
trước đây, đã có thời kỳ diện tích dâu đạt 700 ha, sản lượng kén đạt 245 tấn/
năm. Vào cuối những năm 80, nghề trồng dâu, nuôi tằm đem lại hiệu quả
thấp, nên toàn huyện chỉ có 18 ha (năm 1988). Tuy nhiên, đến năm 1992, nhờ
áp dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nghề trồng dâu, nuôi tằm chuyển
biến mạnh mẽ. Năm 1992, diện tích dâu đạt 177,37 ha [8; tr284].
Thực hiện chương trình 327 của Chính phủ, Mỹ Đức tập trung trồng cây
lấy gỗ, cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao (mơ, nhãn, cam,
quýt, vải thiều)... ở vùng rừng đặc dụng Hương Sơn và 10 xã ven núi.
+ Chăn nuôi:
Ngành chăn nuôi chủ yếu là hộ gia đình, sản xuất tư nhân nên giai đoạn
này có xu hướng gia tăng về số lượng và chủng loại.
Về số lượng các loại con truyền thống như trâu, bò, lợn đều ổn định qua
các năm:
Bảng 2.8. Tình hình chăn nuôi trâu, bò, lợn của huyện Mỹ Đức
từ năm 1991 đến 1995
Thực hiện qua các năm (đơn vị: con) Chủng loại 1991 1992 1993 1994 1995
4.521 4.629 4.462 4.238 4.056 Trâu
6.205 6.416 6.392 6.310 6.800 Bò
28.246 30.540 34.549 40.414 40.420 Lợn
[33; tr 43 -44 - 45]
Năm 1992, ngoài đàn trâu, bò và lợn ổn định về số lượng, đã xuất hiện
thêm đàn bò lai sin 150 con (tăng 300%); đàn dê tăng mạnh, có 52 hộ nuôi dê
với 2.500 con, tăng 57, 8%. Đặc biệt, trên địa bàn huyện đã xuất hiện những
57
điển hình chăn nuôi theo hướng đa dạng có thu nhập cao từ 10 - 20 triệu
đồng/ năm, tập trung tại các xã: Tuy Lai, Hồng Sơn, Hợp Thanh, Hợp Tiến,
An Phú, Đại Hưng và Lê Thanh [8; tr 286]. Năm 1995, chăn nuôi thủy sản
đang được phát triển rộng rãi ở các xã. Cả huyện có 115 hộ nuôi các con đặc
sản có giá trị kinh tế cao (như ba ba, cá trê lai, rắn...)
Ngoài ra, huyện Mỹ Đức còn đa dạng hóa trong chăn nuôi. Bên cạnh
những con truyền thống và đạt được kết quả cao so với một số huyện khác
trong tỉnh về nuôi dê và nuôi ong.
Bảng 2.9. Tình hình chăn nuôi vùng gò đồi tỉnh Hà Tây năm 1995
Đàn ong
Số lượng Số tổ Ngựa (con) Dê (con) Thỏ (con) mật (kg)
Toàn tỉnh 475 2.913 561 1.402 4.898 Sản lượng kén tằm (tấn) 280
Vùng Gò đồi 161 2.363 345 1.244 4.169 190
Sơn Tây - 296 75 242 634 -
Ba Vì 12 482 150 494 1.865 23
Thạch Thất - - - - - -
Quốc Oai 55 - - - - 2
Chương Mỹ 76 42 100 128 640 15
Mỹ Đức 18 1.543 20 380 1.030 150
[132; tr 159]
* Lâm nghiệp:
Mặc dù là một huyện bán sơn địa, vừa có đồng bằng, vừa có rừng.
Nhưng giá trị kinh tế của rừng đem lại cho huyện giai đoạn này chưa cao. Vì
vậy, năm 1991, huyện Mỹ Đức đã thực hiện được 2 chương trình lớn: Chương
trình PAM trồng cây phân tán đạt 1.090.505 cây; chương trình PAM trồng
cây tập trung ở 2 xã An Phú và Tuy Lai được 257 ha, với 771 nghìn cây [8; tr
278]. Kinh tế lâm nghiệp chỉ đóng góp 7,0 % trong tổng giá trị toàn ngành
nông nghiệp của Huyện [34, tr 11]. Diện tích đất lâm nghiệp của toàn huyện
năm 1994 là 648 ha [34, tr 11], tập trung chủ yếu ở các xã: Hương Sơn, Hùng
58
Tiến, An Tiến, An Phú với 82,1% diện tích và các xã Đồng Tâm, Thượng
Lâm, Tuy Lai, Hợp Thanh, Hợp Tiến. Rừng của huyện Mỹ Đức có giá trị kinh
tế thấp, chủ yếu là rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, còn diện tích rừng trồng
còn ít, chưa cho trữ lượng.
- Ngư nghiệp:
Huyện Mỹ Đức có nhiều điều kiện để phát triển ngành thủy sản, nhờ
vào mạng lưới mặt nước hiện có, ngành thủy sản đã có những bước tiến đáng
kể: Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 1995 là 558,6 ha; sản lượng cá thu
được là 1321 tấn, tăng 32% so với năm 1991. Chăn nuôi thủy đặc sản đang
được phát triển rộng rãi ở các xã. Huyện Mỹ Đức đã có 115 hộ nuôi các con
đặc sản có giá trị kinh tế cao (như dê, ba ba, cá trê lai, rắn...)
b) Thủ công nghiệp
Nếu như sản xuất thủ công nghiệp giai đoạn 1986 đến 1991 giảm sút
không đạt được kế hoạch do không có thị trường, chưa nhanh nhạy chuyển
mặt hàng phục vụ nội địa và xuất khẩu. Từ năm 1992 có bước phát triển. Thủ
công nghiệp tư nhân ngày càng phát triển. Giá trị tổng sản lượng sản xuất
công nghiệp, thủ công nghiệp đạt 7,5 tỷ đồng. Một số nghề truyền thống như
thêu, ren, ươm tơ thủ công tại gia đình được khôi phục và phát triển mang lại
hiệu quả kinh tế cao. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm là 16% [68, tr 2].
Một số ngành nghề truyền thống như: Dệt lụa Vạn Phúc, cơ kim khí, rèn
Đa Sỹ, vật liệu xây dựng vẫn được duy trì sản xuất. Năm 1994, giá trị tổng sản
lượng đạt 32.735 triệu đồng (giá cố định 1989) bằng 127% kế hoạch, tăng 39% so
với năm 1993; năm 1995 đạt 37.007 triệu đồng, vượt 25% mục tiêu phấn đấu do
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ đề ra. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Huyện năm 1995
chiếm 45,23% [119; tr 65 - 67]. Tuy nhiên, việc chỉ đạo khôi phục làng nghề dệt,
cài nghề vào một số hợp tác xã nông nghiệp thuần nông còn rất chậm.
c) Công nghiệp
Mỹ Đức là một huyện thuần nông nên công nghiệp chậm phát triển,
chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong nên kinh tế: 15,3% năm 1995. Sản phẩm công
59
nghiệp chủ yếu là do kinh tế tư nhân, tập thể, hộ gia đình đảm nhận, chiếm
92,6%, phần còn lại là thuộc công nghiệp trung ương [34; tr 22] và cơ bản là
công nghiệp chế biến, còn công nghiệp khai thác rất ít, do nhà nước trực tiếp
5%
15%
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp khai thác
80%
Công nghiệp khác
quản lý:
Biểu đồ 2.1. Giá trị và cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp
huyện Mỹ Đức năm 1995
- Nhóm các ngành công nghiệp chế biến: thời kỳ này ở Mỹ Đức đã có
chuyển biến đáng kể về ngành nghề: công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
có nhà máy C5 (của quân đội) hoạt động liên tục với các sản phẩm chính là
gạch, ngói: 10,5 triệu viên/ năm; công nghiệp xây xát, chủ yếu là gạo với
25.850 tấn gạo/năm; công nghiệp dệt khăn mặt phát triển mạnh ở xã Phùng
Xá, cả xã có 2 tổ hợp sản xuất quy mô lớn với 750 hộ có 1.250 máy cửi (trung
bình 1,66 máy/hộ), sản lượng khăn liên tục tăng cao. Năm 1995 sản xuất được
93.650 chiếc khăn tổ ong, xuất khẩu 865.267 và 15.000 ở nội địa [34].
Khi nền nông nghiệp của huyện chưa đạt đến trình độ cơ giới hóa cao,
thì sản phẩm cơ khí tiêu dùng và chế biến công cụ cầm tay như cuốc, xẻng,
liềm... có khả năng tiêu thụ lớn, sản phẩm liên tục tăng cao. Huyện có một
xưởng nông cụ lớn đặt ở thị trấn Tế tiêu và nhiều cơ sở sản xuất nhỏ, rải rác
60
trong huyện chuyên sản xuất xe bò cải tiến, sản xuất nông cụ. Năm 1995,
huyện Mỹ Đức đã sản xuất được 16.000 chiếc [34]. Tuy nhiên, các cơ sở sản
xuất dụng cụ lao động có quy mô nhỏ, phân tán, kĩ thuật thô sơ.
- Nhóm ngành công nghiệp khai thác: chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu giá trị
sản xuất công nghiệp của Mỹ Đức, chủ yếu là ngành khai thác đá, cát sông và bùn.
+ Khai thác đá: làm nguyên liệu nung vôi, làm đường, đá xây dựng
cung cấp cho nhu cầu xây dựng - phát triển cơ sở hạ tầng trong huyện và các
vùng phụ cận như: Ứng Hòa, Thanh Oai, Hà Đông... Đá được khai thác nhiều
nhất ở xã Hợp Tiến.
+ Khai thác cát: Việc khai thác cát tiến hành mạnh trên sông Đáy, suốt
dọc từ xã Đồng tâm đến xã Hương Sơn, song tập trung nhiều nhất là khu vực
ven thị trấn Tế Tiêu với nhiều xuồng hút cát tư nhân, khai thác có hiệu quả,
cung ứng xây dựng cho huyện và vùng phụ cận.
+ Khai thác than bùn: phục vụ cho hợp tác xã sản xuất phân vi sinh
Thượng Lâm, song do hạn chế về công nghệ nên khả năng phát triển còn hạn
chế, quy mô nhỏ, sản lượng mới chỉ đạt khoảng 1000 tấn/năm.
- Nhóm ngành công nghiệp khác: như sản xuất, phân phối điện, nước,
ươm tơ cũng đã được chú ý phát triển. Tuy nhiên, các ngành này còn non trẻ
và chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong cơ cấu công nghiệp của huyện (5%).
Như vậy, so với giai đoạn trước năm 1991, huyện Mỹ Đức đã bắt đầu
phát triển ngành công nghiệp, hình thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp;
hình thành các nhóm ngành công nghiệp, chủ yếu phục vụ địa phương. Tuy
niên, sản xuất công nghiệp còn nhỏ bé so với tiềm năng của vùng. Tổng giá trị
công nghiệp chưa cao, chủ yếu vẫn là công nghiệp chế biến và chưa thu hút
được nhiều lao động.
d) Thương mại, du lịch
- Thương mại:
Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế khác, ngành thương mại
Mỹ Đức cũng phát triển, nhất là từ năm 1995. Mỹ Đức từng bước hình thành
61
một nền thương mại thông thoáng, từng bước hòa nhập vào thị trường của
tỉnh và cả nước.
+ Hoạt động thương mại của huyện hướng vào kinh doanh phục vụ khách
nội địa, do đó hoạt động nội thương là chính. Các mặt hàng tiêu dùng chủ yếu là
lương thực, thực phẩm, muối, dầu hỏa, vải, giấy vở học sinh, đồ dùng gia đình...
các mặt hàng tiêu dùng chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu hàng hóa buôn bán, bán lẻ
của huyện. Tổng mục bán lẻ của huyện năm 1995 là 8,2 tỉ đồng [34].
+ Các mặt hàng bán ra ngoài huyện chủ yếu là đá, gạch, vôi, cát, tơ tằm,
khăn mặt, lương thực, thực phẩm... với thị trường chính là Hà Đông, Hà Nội,
Hòa Bình. Còn các mặt hàng từ ngoài huyện cung cấp cho Mỹ Đức là xăng
dầu, hóa chất, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc...
+ Huyện Mỹ Đức đã hình thành một mạng lưới kinh doanh khá nhanh về
số lượng cơ sở kinh doanh, đa dạng và phong phú về hàng hóa, trong đó mạng
lưới chợ là quan trọng nhất với thị trấn Tế Tiêu và 3 thị tứ Hương Sơn, Kênh
Đào, Cầu Dậm, ngoài ra còn có nhiều chợ nhỏ. Bình quân 1 chợ/xã và nhiều
chợ tạm, chợ cóc ở các thôn. Ngoài ra, hoạt động mua bán nông sản còn diễn
ra trong từng thôn, xóm nhỏ hoặc tại nhà dân.
Số người tham gia kinh tế ngày càng nhiều, đã hình thành những trung
tâm trao đổi, mua bán vật tư, hàng hóa, tạo nên màng lưới hoạt động dịch vụ
sản xuất và đời sống ngày càng phong phú, đa dạng theo yêu cầu của cuộc
sống như: Dịch vụ ăn uống, may mặc, sửa chữa cơ khí, điện, chế biến lương
thực thực phẩm, vận tải… Năm 1994, doanh thu thương nghiệp dịch vụ đạt
71,5 tỷ đồng, tăng 33,7 % so với năm 1993, năm 1995 đạt 81,9 tỷ đồng,
chiếm tỷ trọng 39,4 % trong GDP của Huyện. Thuế thương nghiệp, dịch vụ
chiếm 56% tổng thu ngân sách Và theo thống kê, năm 1990 số hộ tiểu
thương và dịch vụ là 1.372, năm 1995 là 1.577 [119; tr 74].
Như vậy, hoạt động thương mại của huyện Mỹ Đức có nhiều phát triển.
Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là nội thương. Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương
được huyện quan tâm, và huyện cũng có nhiều tiềm năng, nhưng chưa có
62
hàng xuất khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu phần nhiều vẫn là hóa chất, phân
bón, máy móc, thiết bị, phụ tùng và hàng tiêu dùng.
- Du lịch:
Với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự phát triển du
lịch, địa hình độc đáo, nhiều lễ hội, nhiều di tích lịch sử văn hóa, trong đó có
chùa Hương - là điểm du lịch nổi tiếng. Vì vậy, năm 1993, huyện Mỹ Đức đã
đã tập trung đầu tư hơn 7 tỷ đồng [8; tr 287] nâng cấp đường giao thông, bến
bãi, tôn tạo và phục chế các công trình trong khu vực thắng cảnh bị xuống cấp
như: Nhà Tam Bảo, cổng Thiên Nam Môn... đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của khách tham quan. Các ngành dịch vụ đều phát triển, các thành phần kinh
tế tham gia, kinh doanh nhiều mặt hàng phục vụ cho phát triển sản xuất và đời
sống của nhân dân, giải quyết hàng nghìn lao động. Năm 1993, thắng cảnh
Hương Sơn đón 33 vạn khách tham quan tăng 6 vạn so với năm 1992 [8, tr
287]. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm về dịch vụ du lịch là 26,5% và đang
dần trở thành kinh tế mũi nhọn của Huyện [8, tr 288].
Bên cạnh đó, bắt đầu từ năm 1994, huyện bắt đầu khai thác khu du lịch
Quan Sơn trở thành khu du lịch sinh thái nghỉ ngơi cuối tuần và sinh thái hồ
khá hấp dẫn, đặc biệt với du khách từ Hà Nội và các vùng phụ cận.
Như vậy, có nhiều lợi thế để phát triển ngành du lịch nhưng giai đoạn
này, vì điều kiện kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, nên huyện chưa khai
thác hết các điểm du lịch, chưa có sự đầu tư thích đáng vào cơ sở hạ tầng để
xây dựng du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trọng điểm của huyện.
e) Giao thông vận tải, xây dựng cơ bản
- Giao thông vận tải: Mạng lưới giao thông của huyện Mỹ Đức chủ yếu
là đường ô tô và đường thủy. Trong những năm 1991 - 1995, huyện Mỹ Đức
đã xây dựng được nhiều công trình quan trọng:
+ Xây được 41 km đường trục huyện, trong đó có 15 km đường nhựa với tổng
kinh phí 2,6 tỷ đồng (Năm 1993, đường trục huyện được thông suốt)[8, tr 289].
+ Bắt đầu từ 1995, huyện xây dựng các đường liên thôn. Một số xã như
Hợp Thanh, Hợp Tiến, Vạn Kim làm đường nhựa liên thôn; xã Mỹ Thành làm
63
đường bê tông, các xã Tuy Lai, An Mỹ, Xuy Xá, Phùng Xá, Phù Lưu Tế, Đại
Hưng... làm đường cấp phối.
+ Ngoài ra, huyện còn thực hiện dự án nâng cấp lòng đường huyện lộ
kéo dài từ xã Đồng Tâm đến xã Hương Sơn, tạo điều kiện để các xã tăng
cường giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội, thúc đẩy sự hợp tác kinh tế với các
huyện lân cận cũng như các địa phương khác ngoài tỉnh; nối thị trấn Tế Tiêu
đến các xã trong huyện.
Giao thông đường thủy của huyện có tổng chiểu dài 78km, trong đó sông
Đáy là 48 km, sông Mỹ Hà là 30 km, giá trị vận chuyện khong cao, chủ yếu
vận chuyện các loại hàng: than, cát, tre, gỗ, đá...
Việc mở rộng, nâng cấp đường sá, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế, nhất là nguồn thu ngân sách: năm 1992, đã thu thuế của 93
xe/110 xe là 40 triệu đồng, góp vào ngân sách chung của huyện là 741 triệu
đồng [19]
Mỹ Đức còn có cảng sông Tế Tiêu, song giai đoạn này khai thác ít.
- Về xây dựng cơ bản: Tất cả các xã trong huyện đều được cấp điện.
- Các công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu nông nghiệp: huyện đã cùng
với cơ sở đầu tư vốn, đào đắp nâng cấp toàn bộ tuyến đê bao, kè các đoạn đê
ven sông Đáy bị sạt lở (ở thị trấn Tế Tiêu, Phùng Xá, Phúc Lâm...). Xây dựng
được 3 chiếc cầu ở các xã Xuy Xá, Phúc Lâm, An Tiến. Làm mới các trạm
bơm An Phú, La Làng xã Hợp Tiến, Áng Thượng xã Lê Thanh, Tảo Khê xã
An Mỹ, Trinh Tiết xã Đại Hưng. Nâng công suất các trạm bơm đầu mối quan
trọng ở các xã An Mỹ, Xuy Xá, Phù Lưu Tế, Bạch Tuyết...
g) Hoạt động tài chính, ngân hàng
Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, hoạt động tài chính ngân hàng
cũng có nhiều chuyển biến: Đẩy mạnh thu để đáp ứng nhu cầu chi thiết yếu,
phục vụ kịp thời cho các nhiệm vụ chung; coi trọng thu chi ngân sách huyện,
xã không để sót nguồn thu, thu đúng, thu đủ, tiết kiệm. Vì vậy, năm 1995,
tổng thu ngân sách huyện tăng 50% so với năm 1991 (trong đó dành 20% để
xây dựng cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và công trình phúc lợi): Năm 1991,
64
thu được 5 tỷ 348 triệu đồng, năm 1995: thu 9 tỷ 937 triệu đồng. Bình quân hàng
năm tăng 16, 7 % [68, tr 4].
Ngành ngân hàng đã có chuyển biến mới trong kinh doanh, tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế vay vốn phát triển sản xuất. Tổng số vốn vay từ
1991 đến 1995 là 55 tỷ 988 triệu đồng với 28.283 lượt vay [68, tr 4].
Tuy nhiên, công tác tài chính vẫn còn gặp nhiều khó khăn: thu thuế chưa
hết, chưa đủ, còn để sót nguồn thu, chi còn mất cân đối.
Tóm lại, từ năm 1991 đến năm 1995, kinh tế huyện Mỹ Đức có những
chuyển biến đáng kể: Về sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng tích cực, tiến bộ, từng bước khắc phục sản xuất độc canh, bước
đầu đã tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa. Nhịp độ tăng bình quân hàng
năm là 5,8%. Cơ cấu kinh tế đạt một bước chuyển dịch quan trọng theo hướng
giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ:
Năm 1991, tỷ trọng nông nghiệp chiếm 78,8%, tiểu thủ công nghiệp chiếm
12,4%, dịch vụ du lịch chiếm 8,8%, đến năm 1995, nông nghiệp chiếm 68,7%,
tiểu thủ công nghiệp chiếm 15,6%, dịch vụ du lịch chiếm 15,7% [67; 1]:
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu ngành kinh tế huyện Mỹ Đức
năm 1991 và năm 1995
Khu thắng cảnh Hương Sơn huyện và xã đã bước đầu cố gắng đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất, tôn tạo, bảo vệ, tổ chức cho khách tham quan, nhưng
chưa có nhiều đơn vị, cá nhân sản xuất, chế biến ra những sản phẩm địa
phương để phục vụ du khách trẩy hội. Việc khai thác, chế biến sản phẩm nông
nghiệp chưa được phát triển.
65
Như vậy, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức
đã cố gắng khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế, trong đó
nông nghiệp là trọng điểm với quá trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu giống cây
trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, giống, đổi mới kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học
công nghệ mới vào sản xuất. Do đó sản xuất nông nghiệp huyện cũng đã đạt
được nhiều kết quả, tích cực thúc đẩy quá trình xoá đói, giảm nghèo cho nhân
dân trong huyện. Với sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, kinh tế đã có sự phát triển
vượt bậc, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao.
Sản xuất nông nghiệp chủ yếu còn ở tình trạng tự cung tự cấp, chưa tập
trung đúng mức cho mặt trận hàng đầu. Đặc biệt là chưa đầu tư thoả đáng cho
việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, thiếu chính sách khuyến khích
phát triển kinh tế gia đình, chưa có chính sách sử dụng đúng đắn thành phần
kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân; việc sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp còn ít
và kém hiệu quả. Trình độ kỹ thuật và trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp,
chưa đảm bảo tưới tiêu chủ động và hợp lý cho cây trồng, chưa cung ứng đủ
công cụ, vật tư cần thiết cho nông nghiệp. Ở hợp tác xã sản xuất nông nghiệp,
bộ máy quản lý hợp tác xã tuy đã được củng cố nhưng hoạt động còn lúng
túng, chậm đổi mới, một số hợp tác xã còn buông lỏng quản lý, không điều
hành được kế hoạch sản xuất, chậm chuyển đổi về cơ cấu cây trồng vật nuôi và
hướng dẫn các tiến bộ kỹ thuật để đưa nhanh các loại cây, con có năng suất cao
vào sản xuất nên hạn chế tốc độ tăng trưởng lương thực, thực phẩm. Thu nhập
của người dân chủ yếu từ nông nghiệp nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn.
2.4.1.2. Cơ cấu thành phần kinh tế
Về cơ bản, thành phần kinh tế vẫn là do Nhà nước quản lý, kinh tế hợp tác
xã nông nghiệp vẫn giữ vững, ổn định sản xuất, nhưng bước đầu đã giao khoán
hộ viên, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp.
Bên cạnh đó, Huyện uỷ đặc biệt quan tâm đến phát triển kinh tế hộ gia
đình, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển. Vì vậy, kinh tế tư nhân bắt
đầu phát triển, có điều kiện cải thiện đời sống, mua sắm trang thiết bị trong gia
đình, đóng góp vào công trình phúc lợi của huyện. Nhiều hộ gia đình đã mạnh
66
dạn đầu tư vào sản xuất kinh doanh và đã có thu nhập cao từ 15 - 20 triệu
đồng/năm. Đối với các doanh nghiệp, Huyện uỷ có nhiều chủ trương, biện
pháp tích cực, như: sắp xếp tổ chức sản xuất kinh doanh, mở rộng liên doanh
liên kết, nâng cao chất lượng sản phẩm... Thực hiện Kết luận 42 của Tỉnh uỷ,
trong 16 đơn vị quốc doanh thuộc huyện quản lý, đã bàn giao về tỉnh 5 đơn
vị; giải thể 4 đơn vị, các đơn vị còn lại tiến hành tinh giảm biên chế, đổi mới
phương thức quản lý bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả [7; tr 286 – 287].
Đến 1995, huyện Mỹ Đức đã có 21 doanh nghiệp tư nhân, 11 công ty
trách nhiệm hữu hạn, 24 tổ sản xuất, 3.412 hộ cá thể. Giá trị sản lượng của khu vực này chiếm 80% giá trị tổng sản lượng hàng năm [119; tr 64].
2.4.1.3. Cơ cấu vùng kinh tế
Kinh tế huyện Đức thời kỳ này vẫn chưa hình thành các vùng kinh tế đặc
trưng. Chủ yếu vẫn tập trung ở vùng nông thôn, các địa phương nặng thuần
nông, chưa có nhiều nông sản hàng hóa. Tốc độ phát triển kinh tế còn chậm.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi ở các vùng vẫn còn chậm.
Trong khi có nhiều tiềm năng lao động, đất đai, ao hồ, đồi, núi... nhưng chưa
được tận dụng, khai thác triệt để. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1996,
huyện cũng chưa có những chủ trương lớn để quy hoạch tổng thể trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội trong toàn huyện.
Tóm lại, trong giai đoạn 1991 đến 1996, cơ cấu kinh tế của huyện Mỹ
Đức chuyển dịch dần theo cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù luôn xác định kinh tế nông nghiệp mang tính chất chủ đạo của sự phát
triển kinh tế tại Mỹ Đức, nhưng căn cứ vào hai yếu tố, thứ nhất về vị trí địa lý,
Mỹ Đức là huyện tiếp giáp các đô thị lớn, đồng thời là địa phương có nhiều
danh lam thắng cảnh, nên các cấp chính quyền luôn ý thức được tầm quan
trọng của kinh tế công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản và dịch vụ -
du lịch trở thành những ngành kinh tế mang tính đột phá và tạo ra sức sống
mới cho nền kinh tế của địa phương khi hội nhập sâu rộng với kinh tế cả nước
cũng như kinh tế quốc tế. Xuất phát điểm kinh tế của huyện còn ở mức thấp
67
trong khi tiềm năng phát triển lớn, đặc biệt huyện có rất nhiều lợi thế để phát
triển du lịch, dịch vụ, thương mại và sản xuất nông sản hàng hoá chất lượng
cao. Huyện cũng có tiềm năng lớn trong phát triển tiểu thủ công nghiệp, sản
xuất làng nghề phục vụ nhu cầu lễ hội, du lịch và các ngành công nghiệp yêu
cầu nhiều lao động. Tuy nhiên, do tốc độ tăng trưởng và tốc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế còn chậm nên nguy cơ tụt hậu là hiện hữu nếu huyện không có
những thay đổi có tính chất đột phá.
Tất cả những thành tựu và những hạn chế còn tồn tại trong việc lãnh đạo
phát triển kinh tế giai đoạn từ năm 1991 đến 1996 là cơ sở, là những kinh
nghiệm quý báu để Đảng bộ huyện Mỹ Đức lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh
tế trong những năm tiếp theo.
2.4.2. Chuyển biến xã hội
2.4.2.1. Dân số
Năm 1994, dân số huyện Mỹ Đức là 161.246 người, đứng thứ 8 trong
tổng số 14 huyện, thị của tỉnh Hà Tây. Tỷ lệ sinh hàng năm đều giảm (1991 tỷ
lệ sinh là 2,3%, năm 1995: 1,74%), bình quân mỗi năm giảm một phần nghìn;
mật độ dân số 712 người/km2 (xếp thứ 3 trong toàn tỉnh). Dân số nữ chiếm tỉ
lệ cao hơn nam giới, với 85.331 người; dân cư sống chủ yếu ở vùng nông
thôn: 161.246 người, còn thành thị chỉ có 3.094 người [33].
Mặc dù, tỷ lệ sinh và tăng tự nhiên giảm, nhưng nhìn chung dân số Mỹ Đức
thuộc loại dân số trẻ. Đây là tiềm năng to lớn về nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho
việc phát triển kinh tế, xã hội huyện, nhưng cũng là thách thức, đòi hỏi huyện Mỹ
Đức phải có biện pháp khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
2.4.2.2. Lao động và việc làm
Với tốc độ tăng nhanh dân số, cơ cấu dân số của huyện Mỹ Đức là dân số
trẻ, nên số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao, tăng đều qua các năm:
68
7 1 6 4 7
5 8 7 5 7
6 5 6 9 6
6 5 1 8 6
4 9 9 1
3 9 9 1
1 9 9 1
2 9 9 1
Biểu đồ 2.3. Dân số trong độ tuổi lao động huyện Mỹ Đức 1991 – 1994 [119]
Với đặc trưng kinh tế cơ bản là nông nghiệp, nên lao động huyện chủ
yếu làm nông nghiệp, nhưng thời kỳ này đã có chuyển biến về lao động trong
lĩnh vực phi nông nghiệp, giảm dần lao động nông nghiệp: năm 1993: lao
động nông nghiệp là 151.394 người, 7.365 người trong lĩnh vực phi nông
nghiệp; đến năm 1995 thì trong nông nghiệp giảm còn 149.155 người, còn phi
nông nghiệp tăng lên 12.131 người [119].
Kinh tế huyện đang trên đà tăng trưởng, việc cơ giới hóa đồng ruộng đã
giải phóng một phần sức lao động, bình quân đất nông nghiệp trên đầu người
thấp đã làm cho tỉ lệ người thất nghiệp và bán thất nghiệp tăng, nhất là vào
thời kỳ nông nhàn, nên có một bộ phận dân cư ra thành phố tìm việc làm. Tuy
nhiên, hiện tượng gia tăng cơ giới của huyện không đáng kể nên không ảnh
hưởng đến gia tăng dân số nói chung.
Để giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho nhân dân, huyện Mỹ Đức đã
tổ chức di dân đi xây dựng kinh tế mới: Từ năm 1991- 1995, huyện đã đưa dân
xây dựng kinh tế mới trong và ngoài tỉnh là 254 hộ với 1.040 khẩu [12; tr 7]
2.4.2.3. Công tác xóa đói giảm nghèo
Trong giai đoạn này, huyện ủy và các ban ngành, các đoàn thể nhân dân
huyện Mỹ Đức đẩy mạnh phong trào ”Xóa đói giảm nghèo”, khuyến khích
làm giàu chính đáng, đồng thời quan tâm giúp đỡ người nghèo bằng những
69
biện pháp thiết thực như cho vay vốn, vật tư không lấy lãi, hướng dẫn cách
làm ăn nhằm phát triển kinh tế. Các cơ quan xí nghiệp lập quỹ hỗ trợ cho cán
bộ công nhân viên. Nhiều đơn vị đã có quỹ hàng chục triệu đồng như: Xí
nghiệp Cơ giới xây lắp, Công ty Xăng dầu Hà Sơn Bình. Vì vậy, đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện.
Trong các xí nghiệp quốc doanh, từng bước đổi mới quản lý, cải tiến kỹ
thuật, đầu tư công nghệ đa dạng hóa sản phẩm, kinh doanh phát triển phù hợp
với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của kinh tế thị trường, giải quyết việc làm,
ổn định đời sống nhân dân. Người lao động có mức thu nhập ổn định hàng
tháng từ 300.000 đến 500.000 đồng và tăng mức đóng góp cho ngân sách.
Nhiều doanh nghiệp không còn hộ nghèo như Công ty Quy hoạch Khảo sát
Thiết kế mỏ, Xí nghiệp Khảo sát Điện I, Công ty Xăng dầu Hà Sơn Bình…
Vì vậy, số hộ giàu chiếm 5,5%, số hộ khá chiếm 45,5%, số hộ trung bình
với 39%, số hộ nghèo giảm từ 20% năm 1991 xuống 10% năm 1995. Thu
nhập bình quân đầu người năm 1995 là 1,5 triệu đồng, tăng 3,6% so với năm
1991 [67, tr 7].
2.4.2.4. Những vấn đề văn hóa xã hội
* Giáo dục - đào tạo
Năm 1991, thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ
XVIII: tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học, coi trọng chất lượng giáo dục
chính trị đạo đức cho học sinh; tiếp tục thực hiện chương trình xóa nạn mù
chữ, phổ cập cấp 1, củng cố và phát triển giáo dục mầm non, các cháu đến
tuổi đều được đến lớp học.
Xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy và học; với chính sách tập
thể và nhân dân cùng làm, huyện đã đầu tư gần 2 tỷ đồng để tu bổ, nâng cấp các
phong học, trang bị đồ dùng dạy học cho các trường phổ thông cơ sở. Đến năm
1993, huyện đã có 35 % số xã, thị trấn có trường học cao tầng và trụ sở làm việc
khang trang. Huyện đầu tư xây dựng, nâng cấp 3 trường phổ thông trung học A,
B, C và xây mới 21 trường trung học cơ sở hai tầng [8; tr 288]. Huyện còn mở
các lớp chọn, trường chuyên, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Cơ sở vật
70
chất, trang thiết bị trường học được tăng cường, từng bước thực hiện xã hội hóa
công tác giáo dục, đội ngũ giáo viên tiếp tục được tiêu chuẩn hóa.
Số học sinh được huy động đến trường không ngừng tăng lên: Năm 1992
có 28.014 học sinh (chiếm 20% dân số) đến năm 1995 là: 37.686 học sinh [8;
tr 279]. Năm 1992, huyện Mỹ Đức đã được công nhận phổ cập tiểu học và
xóa mù chữ trong độ tuổi. Số lượng học sinh thi lên lớp đạt 95%/năm, thi tốt
nghiệp phổ thông đạt 97 đến 98%/năm [68, tr 5].
Đội ngũ giáo viên tiếp tục được tiêu chuẩn hóa theo từng cấp học; số
lượng giáo viên thay đổi không đáng kể qua các năm học: năm 1990 - 1991:
1056 người, 1991 - 1992: 1098 người, 1993 - 1994: 1091 người, 1994 - 1995:
1064 người [33, tr 43].
Hàng năm, huyện mở hội nghị tổng kết phong trào thi đua đạt danh hiệu
”cháu ngoan Bác Hồ” để giáo dục thế hệ trẻ.
* Văn hóa thông tin, hoạt động văn nghệ, thể thao
Những năm đầu thời kỳ đổi mới, công tác văn hóa thông tin, văn nghệ,
thể thao đã cố gắng khôi phục tuyên truyền đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng, Nhà nước, văn hóa dân tộc, tổ chức các ngày lễ hội truyền thống...
song tình trạng mê tín dị đoan, sinh hoạt của người dân còn hạn chế.
Đến năm 1991 - 1995, hoạt động văn hóa văn nghệ thể thao có bước
chuyển biến. Phong trào phát triển khá trong các tầng lớp nhân dân, hoạt động
vui tươi lành mạnh. Huyện đã xây dựng và đưa vào sử dụng đài phát sóng
FM. 19 xã, thị trấn có hệ thống truyền thanh hoàn chỉnh, 4 xã có đài truyền
thanh thôn. Đài truyền thanh của huyện và hệ thống truyền thanh của các xã,
thị trấn đã hoạt động đều đặn, thường xuyên, kịp thời phục vụ các nhiệm vụ
trung tâm của huyện cũng như của cơ sở. Hoạt động thông tin, phát hành báo
chí có nhiều chuyển biến tốt, số lượng báo Đảng, bản tin nội bộ tăng 70% so
với năm 1991. Toàn huyện có 17/23 xã, thị trấn đã lắp điện thoại đảm bảo
thông tin kịp thời [33, tr 7]. Phong trào văn hóa văn nghệ ngày càng được
phát triển, xây dựng nhà thiếu nhi tại thị trấn Tế Tiêu, trang bị dàn vi tính trị
giá trên 40 triệu đồng [68, tr 6].
71
* Y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân
Để chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng tốt, huyện Mỹ Đức đã tổ
chức sắp xếp lại mạng lưới y tế tới các thôn xóm, trạm xá, bệnh viện; nâng
cao trách nhiệm, trình độ nghiệp vụ chuyên môn khám và điều trị; chăm sóc
sức khỏe ban đầu, chăm sóc bảo vệ bà mẹ trẻ em, phòng và điều trị các bệnh
xã hội, có tổ chức chuyên thực hiện các biện pháp kỹ thuật kế hoạch hóa gia
đình từ xã tới huyện. Tổ chức các cửa hàng dược bán thuốc chữa bệnh và bồi
bổ sức khỏe cho nhân dân. Từ năm 1991, việc chăm sóc sức khỏe của nhân
dân có mạng lưới y tế cơ sở, trạm xá xã không ngừng được củng cố; có 14/23
xã, thị trấn nâng cấp phòng sản, mua sắm dụng cụ y tế trị giá trên 600 triệu
đồng và tiếp nhận gần 900 triệu đồng trang thiết bị, dụng cụ y tế của tổ chức
quốc tế [8; tr 279].
Đến năm 1995, mạng lưới y tế toàn huyện đến cơ sở thường xuyên
được củng cố (100% trạm xá xã được trang bị dụng cụ y tế, bảo đảm khám
chữa bệnh cho nhân dân được thuận tiện) [68, tr 5]. Tăng cường công tác vệ
sinh, phòng trừ dịch bệnh không để dịch lớn xảy ra. Việc tiêm chủng cho trẻ
em trong độ tuổi đạt 98%. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm dần (1994: 48%,
năm 1995: còn 32%). Số lượng người tham gia bảo hiểm y tế ngày càng đông.
Chương trình quốc gia về dân số và kế hoạch hóa gia đình được tăng
cường chỉ đạo. Công tác kế hoạch hoá gia đình hoạt động hiệu quả, hạ thấp tỷ
lệ phát triển dân số tự nhiên từ 1,92% xuống 1,5% [8; tr 271].
2.4.2.5. Trợ giúp xã hội cho các đối tượng chính sách
Huyện Mỹ Đức rất coi trọng việc tạo điều kiện giúp đỡ các đối tượng
chính sách: được nhận ruộng gần, ruộng tốt, giảm một phần đóng góp cho các
gia đình chính sách; tổ chức thăm hỏi, khám bệnh; xây dựng nhà tình nghĩa;
tặng sổ tiết kiệm ”đền ơn đáp nghĩa”... Huyện đã trích kinh phí hàng trăm
triệu đồng trợ cấp những gia đình khó khăn lúc giáp hạt, tết đến... Từ năm
1991 đến năm 1995, huyện đã tặng 1.640 sổ tiết kiệm tình nghĩa, tu sửa và
làm mới 44 ngôi nhà tình nghĩa, 19 xã được công nhận không còn gia đình
chính sách đói nghèo. Trong 3 đợt có 75 bà mẹ được Nhà nước phong tặng
72
danh hiệu ”Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (trong đó có 18 bà mẹ được các cơ
quan đoàn thể nhận phụng dưỡng suốt đời) [67, tr 6].
Hàng năm, bằng nguồn ngân sách, huyện tiếp tục dành hàng trăm triệu
đồng thăm hỏi, tặng quà gia đình, đối tượng chính sách. Xã Đại Hưng đã tặng
sổ tình nghĩa cho 100% hộ gia đình thuộc đối tượng chính sách vào năm 1993
[8, tr 288]. Vào ngày kỷ niệm và tết cổ truyền, huyện và xã đều tổ chức thăm
hỏi tặng quà cho trên 5000 hộ thuộc diện chính sách.
Bằng sự chỉ đạo đúng đắn, đầu tư đúng hướng, đời sống tinh thần và
vật chất của nhân dân được cải thiện rõ rệt, bộ mặt nông thôn ngày một thay
đổi. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XVIII đang
trở thành hiện thực.
Tiểu kết chƣơng 2
Huyện Mỹ Đức đã có những lợi thế thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã
hội: điều kiện tự nhiên, dân cư và truyền thống lịch sử. Đó là những nhân tố
hết sức quan trọng, tạo tiền đề để kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức chuyển biến
và mang đặc trưng của địa phương.
Trước khi tái nhập vào tỉnh Hà Tây, tình hình kinh tế, xã hội của Mỹ
Đức không có chuyển biến nào đáng kể. Huyện Mỹ Đức vẫn là một huyện
nghèo so với 23 huyện thị khác của tỉnh Hà Sơn Bình. Kinh tế chủ yếu ”luẩn
quẩn” trong tình trạng kinh tế thuần nông, đời sống nhân dân còn khó khăn và
lạc hậu
Tình hình kinh tế của huyện Mỹ Đức trước năm 1991, cơ bản vẫn là
kinh tế nông nghiệp, sản xuất chủ yếu là trồng lúa và chăn nuôi con giống
truyền thống (trâu, bò, lợn gà...). Các ngành kinh tế khác phát triển chậm,
thậm chí chưa trở thành ngành kinh tế độc lập, chỉ mang tính chất hỗ trợ cho
nghề nông. Kinh tế nông nghiệp chủ yếu là kinh tế hợp tác xã, chưa có sự
phân vùng kinh tế sản xuất mang tính chất chuyên môn hóa. Kinh tế du lịch
chưa được khai thác đúng mức để đóng góp giá trị kinh tế.
Đặc trưng kinh tế đã tạo nên đặc trưng xã hội huyện Mỹ Đức thời kỳ
73
này chưa có sự chuyển biến sâu sắc. Dân số chủ yếu vẫn làm nghề nông, chưa
có sự phân tầng xã hội sâu sắc, đời sống của nhân dân về vật chất và tinh thần
chưa cao.
Những kết quả đạt được và hạn chế tồn tại, giúp cho tỉnh Hà Tây khi
tiếp nhận quản lý huyện Mỹ Đức có chính sách phát triển phù hợp. Vì vậy, từ
năm 1991, khi huyện Mỹ Đức tái nhập tỉnh Hà Tây, kinh tế, xã hội có sự
chuyển biến đáng kể: Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, còn phát triển nghề công
nghiệp, dịch vụ, du lịch.. và bản thân nội bộ ngành nông nghiệp có sự thay đổi
về cơ cấu, về tổ chức sản xuất. Sự chuyển biến kinh tế đó vận hành theo sự
vận hành của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đời sống nhân
dân ổn định, kinh tế tư nhân bước đầu được phát triển, có điều kiện cải thiện
đời sống, mua sắm trang thiết bị cho gia đình, đóng góp vào xây dựng công
trình phúc lợi, đưa điện vào nông thôn.
Tuy nhiên, với những kết quả đạt được cho thấy sự chuyển biến kinh tế,
xã hội của huyện chưa mạnh mẽ, vẫn là huyện có nhiều tiềm năng, nhưng
tiềm năng mới đều dừng lại ở khả năng, chưa mang lại hiệu quả tương xứng:
- Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật đã có nhiều tiến bộ tích cực
nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu. Hơn nữa, Mỹ Đức còn hạn chế trong việc
vận động thu hút vốn đầu tư, tài trợ của tỉnh, trung ương và nước ngoài để
củng cố và mở rộng cơ sở hạ tầng.
- Lao động xã hội ngày càng tăng, song lao động có trình độ được đào
tạo quá thiếu, nhất là lao động biết ngoại ngữ. Điều này, ảnh hưởng không
nhỏ đến ngành du lịch- thế mạnh kinh tế của huyện. Trước yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội, việc đào tạo cán bộ có trình độ trở thành vấn đề cấp bách mà
huyện Mỹ Đức cần phải vượt qua để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Năm 1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng quyết
định chuyển đất nước sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Bước vào thời kỳ mới, những thành tựu đạt được trong 10 năm
đầu đổi mới đó là nền cơ sở để thế và lực của Mỹ Đức không ngừng được
nâng lên, bắt nhịp cùng quá trình phát triển của đất nước.
74
Chương 3
CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN MỸ ĐỨC
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2008
3.1. Bối cảnh lịch sử mới và yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh chuyển biến
kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức
3.1.1. Bối cảnh lịch sử
Năm 1996, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi, tác động
chuyển biến kinh tế, xã hội của Việt Nam nói chung và các địa phương nói
riêng, trong đó có huyện Mỹ Đức.
Trên thế giới, quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và mang tính tất
yếu khách quan. Quá trình toàn cầu hóa đã lôi cuốn mọi quốc gia, dân tộc.
Các quốc gia vừa hợp tác vừa cạnh tranh và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế. Đồng thời, tăng cường các mối quan hệ đa phương, song phương
cùng nhau giải quyết các vấn đề về kinh tế, chính trị, bùng nổ dân số, tội
phạm quốc tế, các dịch bệnh lớn...; Khoa học công nghệ ngày càng trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp; kinh tế tri thức ngày càng có vai trò quan trọng
với mọi quốc gia, dân tộc, thúc đẩy sự chuyển biến cơ cấu kinh tế và xã hội.
Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với tiền đề cần thiết cho sự phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã được tạo ra: Quan hệ của nước ta được
mở rộng, khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế
giới tăng thêm. Đó là những thuận lợi cơ bản. Tuy nhiên, những thách thức từ
các nguy cơ về tụt hậu, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tệ quan liêu, tham
nhũng và diễn biến hòa bình vẫn diễn biến phức tạp. Hoàn cảnh lịch sử mới,
đòi hỏi đất nước cũng như địa phương thúc đẩy sự chuyển biến kinh tế, xã
hội, tăng sức cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
75
Huyện Mỹ Đức sau 5 năm thuộc sự quản lí của tỉnh Hà Tây, kinh tế, xã
hội có những chuyển biến đáng kể. Sự chuyển biến cơ cấu kinh tế đã thúc đẩy
sự biến đổi về mặt xã hội. Ở một chừng mực nhất định, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân địa phương đã được nâng cao một bước.
Hoàn cảnh lịch sử mới của thế giới, Việt Nam cũng như những thành tựu
mà nhân dân huyện Mỹ Đức đạt được trong 10 năm đổi mới và 5 năm trở
thành một huyện của tỉnh Hà tây là cơ sở quan trọng để địa phương tiếp tục
một thời kỳ mới: đẩy mạnh sự chuyển biến kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.1.2. Đường lối, chính sách tiếp tục đối mới phát triển kinh tế, xã hội của
Đảng, Nhà nước và sự vận dụng vào thực tiễn địa phương huyện Mỹ Đức
Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, “phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp” [54, tr 466 – 467], năm 1996, Đại hội lần thứ VIII của
Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế giai đoạn 1996-2000 là: “Tăng
trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn
đề bức xúc về xã hội…, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội
bộ nền kinh tế” [54, tr 545]. Đại hội Đảng lần thứ VIII đặc biệt coi trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, chủ trương xây dựng một cơ
cấu kinh tế toàn diện: cơ cấu ngành, nội ngành, cơ cấu vùng kinh tế:
“- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập
trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng
hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong
xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường
trong, ngoài nước.
- Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa...
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày
càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề
mới, bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
76
hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi
nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông
thôn mới văn minh, hiện đại ”[54, tr 472 - 473].
Đối với các vấn đề xã hội, Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) đã chủ
trương hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch định theo những quan
điểm sau đây: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; thực hiện nhiều
hình thức phân phối; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá
đói giảm nghèo; các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã
hội hoá” [54; tr 556].
Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) thông qua chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội cho 10 năm đầu của thế kỷ XXI, với quan điểm phát triển một nền kinh
tế gắn với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi
nguồn lực, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh
quốc tế. Đại hội cũng xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001-2010 là: “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển;
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại” [54, tr.696]. Và chủ trương: “các chính sách xã hội phải
hướng vào phát triển và làm lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng
trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất
lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích
nhân dân làm giàu hợp pháp” [54; tr 580].
Như vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định
chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong 10 năm (2001 – 2010)
tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Chiến lược nêu rõ sự cần thiết khả năng rút ngắn quá
trình CNH, HĐH. Tư tưởng được nhấn mạnh là phát triển nhanh, có hiệu quả
77
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ môi trường, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh đường lối tiếp tục đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, coi đây là một trọng điểm quan
trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Phương hướng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời gian tới
sẽ là “chuyển đổi nhanh cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn;
xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh phù hợp với tiềm năng và
lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. Ứng
dụng nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ
sinh học, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị
trường tiêu thụ; hình thành sự liên kết công – nông nghiệp – dịch vụ ngay trên
địa bàn nông thôn” [54, tr 276].
Trong quá trình thực hiện, đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp
không ngừng được bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Ngày 18/3/2002, tại
Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa IX đã ra Nghị quyết số
15– NQ/TW về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001–
2010. Nghị quyết đã đưa ra những quan điểm toàn diện về CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn ở nước ta trong tình hình hiện nay; đồng thời đưa ra
những chủ trương đẩy mạnh hơn nữa con đường phát triển kinh tế nông
nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu chung của nền nông nghiệp đất nước là:
“Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền
vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu, xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh
có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội phát triển ngày càng hiện đại” [54; tr 96]. Với mục tiêu tổng quát và
lâu dài của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn của Đảng sẽ là điều kiện
quan trọng để kinh tế nông nghiệp tiếp tục đạt thêm nhiều kết quả, thành tựu
78
mới, bộ mặt xã hội nông thôn văn minh hơn và đời sống nông dân ngày càng
cải thiện.
Đại hội Đảng lần thứ X (2006), tiếp tục đẩy mạnh: “phải kết hợp các
mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh
vực, địa phương” [54, tr 595].
Tháng 7/2008, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng
khóa X tiếp tục khẳng định cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng
XHCN, nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn tiếp tục giữ vị trí, vai trò chiến
lược, “là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Do
đó, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của quá trình CNH, HĐH đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển,
xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và
phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa
nông nghiệp là then chốt” [54, tr 2].
Như vậy, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ này qua các
kỳ Đại hội VIII đến đại hội X đều tập trung vào phát triển kinh tế, xã hội:
Về kinh tế: xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, thực hiện mục tiêu đến
năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Về xã hội: tăng trưởng kinh tế phải gắn với các mục tiêu xã hội, thực
hiện xóa đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Tiếp thu tinh thần của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Hà tây đã tổ
chức đại hội lần thứ XII ngày 27/4/1996. Đại hội đã đề ra những chủ trương, giải
pháp đúng đắn nhằm phát huy tốt tiềm hơn tiềm năng, lợi thế sẵn có, đưa kinh tế,
xã hội của tỉnh phát triển cao hơn, có cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đúng hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn.
79
Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây, Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ
Đức lần XIX (1996) đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã
hội trong 5 năm (1996 - 2000):
“Phát triển sản xuất toàn diện theo cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp - dịch vụ du lịch; khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển, nhất là kinh tế hộ gia đình, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa. Giải quyết
thêm việc làm cho người lao động, hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số. Đảm bảo
tốt hơn việc học tập, chữa bệnh cho nhân dân. Coi trọng thực hiện chính sách
xã hội. Ngăn chặn đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực. Tăng cường củng cố
quốc phòng, ổn định chính trị, giữ vững an ninh trật tự xã hội” [8; tr 293].
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2000, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đặt ra:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP hàng năm 10 - 11 %. Bình quân đầu
người đến năm 2000 đạt từ 325 đến 400 USD.
- Đẩy mạnh phát triển nông, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng
- dịch vụ du lịch, đến năm 2000 có cơ cấu: nông lâm nghiệp (50%) - tiểu thủ
công nghiệp xây dựng (20%) - dịch vụ du lịch (30%).
- Sản lượng lương thực 90.000 tấn, trong đó: thóc 75.000 tấn, màu quy
thóc 15.000 tấn. Bình quân lương thực đầu người 500 kg.
- Cải thiện đời sống vật chất, văn hóa cho nhân dân. Năm 2000, không
còn hộ chính sách đói nghèo, giảm số hộ nghèo trong huyện còn 5 %.
- Tỷ lệ phát triển dân số 1,5 %; nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh
cho nhân dân; đẩy mạnh chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các ngành học,
cấp học.
- Phát triển kinh tế, xã hội gắn với xây dựng quốc phòng, an ninh vững
mạnh, ổn định chính trị, giữ gìn trật tự xã hội [ 63; tr 19].
Để triển khai những chủ trương, chính sách CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần
thứ XIII đã xác định nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2000 – 2005 của Đảng bộ và
nhân dân toàn tỉnh là: “Nắm vững đường lối chủ trương chính sách của Đảng,
luật pháp của Nhà nước, quan điểm và chỉ đạo của Trung ương, phát huy sức
80
mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân (...) chuyển dịch mạnh cơ
cấu kinh tế, thực hiện một bước CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn để
thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững” [174, tr 37].
Xác định nông nghiệp ở tỉnh trong những năm tới vẫn giữ vị trí quan
trọng để đảm bảo ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Do đó, để phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện, Đại hội đề ra chủ trương: “Tiếp tục đầu tư
phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH, trọng tâm là áp
dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, kỹ thuật canh tác, công nghệ sinh học,
thâm canh, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ để tăng nhanh năng suất, chất lượng
và hiệu quả sản xuất” [174, tr 37].
Năm 2000, Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XX, nhiệm kỳ 2001
– 2005 được khai mạc tại Trường Đảng Phù Lưu Tế: nhận định rõ tiềm năng,
thế mạnh cũng như khó khăn, yếu kém còn tồn tại của huyện; trên cơ sở đó
đưa ra những quyết định về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
trong thời kỳ 2001 – 2005.
Nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi những mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIII đề ra, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Thông báo số 40 – TB/TU,
ngày 14/05/2001, về triển khai thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp
đến năm 2005 theo hướng sản xuất hàng hóa, ổn định và bền vững. Đồng thời,
Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 50 – CT/TU, ngày 14/9/2003, về chỉ đạo các địa
phương xây dựng cánh đồng đạt giá trị 50 triệu đồng/ha/năm trở lên.
Ngày 05/05/2006, tại Hội nghị BCH Đảng bộ tỉnh lần thứ 3 (khóa XIV),
Tỉnh ủy Hà Tây ban hành Nghị quyết số 03 – NQ/TU về phát triển nông nghiệp
nông thôn đến năm 2010, với quan điểm phát triển là: “Đẩy mạnh phát triển
sản xuất nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế ven đô, sản xuất hàng hóa,
đạt giá trị kinh tế cao và bền vững, xây dựng vành đai nông nghiệp ven đô
xanh, sạch, chất lượng cao. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết các
vấn đề của nông dân gắn với phát triển kinh tế công nghiệp, thương mại, du
lịch, phát triển đô thị và gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động,
giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, từng bước xây dựng nông thôn mới
81
văn minh, gìn giữ và phát huy bản sắc tốt đẹp của văn hóa làng, xã” [181, tr 2].
Như vậy, giai đoạn 1996 đến năm 2008, sự phát triển kinh tế, xã hội của
huyện Mỹ Đức dưới sự chỉ đạo của Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ XII
(1996), lần thứ XIII (2000), lần thứ XIV (2005) và Đại hội Đảng bộ huyện
Mỹ Đức lần XIX (1996), lần thứ XX (2005), lần thứ XXI (2006) với những
nội dung trọng tâm sau:
Về kinh tế: Tập trung khai thác tiềm năng sẵn có, xây dựng một cơ cấu
kinh tế nông lâm nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ du lịch, theo hướng
kinh tế hàng hóa, trong đó tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp với hướng
đầu tư khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển, nhất là kinh tế tư nhân (kinh tế hộ gia đình, hình thành các vùng
kinh tế chuyên môn hóa sản xuất.
-Về xã hội: Tiếp tục thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo, tập trung
giải quyết một số vấn đề văn hóa xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa, y tế...
3.2. Chuyển biến kinh tế
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ Đức
lần thứ XIX, Đảng bộ và nhân dân Mỹ Đức đã phát huy những lợi thế, tranh
thủ thuận lợi, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phát triển kinh tế, từng bước cải
thiện đời sống nhân dân. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết, nền kinh tế của
huyện đạt được những bước phát triển. Năm 2000, tổng sản phẩm GDP của
huyện đạt 515,6 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân 11,05% (mục tiêu đề ra là
trên 10%), trong đó nông nghiệp tăng 11,6%, tiểu thủ công nghiệp – xây dựng
tăng 4,5%, dịch vụ, du lịch tăng 13,8%. GDP bình quân đầu người đạt
2.767.000 đồng, tăng bình quân hàng năm là 8,4% [76, tr 81].
Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tuy nhiên còn rất
chậm và chưa đạt được mục tiêu do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX đề ra: tỷ
trọng nông - lâm nghiệp từ 70,6% năm 1996 đến năm 2000 chỉ còn 65,3%; tiểu
thủ công nghiệp – xây dựng từ 10,9% năm 1996 tăng lên 16,3% năm 2000; du
lịch dịch vụ từ 18,5% năm 1996, năm 2000 là 18,4% (mục tiêu của Đại hội là
82
nông nghiệp 55%, công nghiệp 20%, dịch vụ 25%). So với toàn tỉnh Hà Tây, sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Mỹ Đức còn chậm. Đây cũng là nguyên nhân
chủ yếu làm cho GDP bình quân đầu người trên năm của Mỹ Đức còn thấp.
Từ năm 2000 trở đi, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực hơn, vượt các
chỉ tiêu đại hội để ra: tỷ trọng nông nghiệp từ 57,85% năm 2005 xuống còn
50,4% năm 2007, 6 tháng đầu năm 2008 là 49,8% (mục tiêu Đại hội 40%);
tiểu thủ công nghiệp – xây dựng cơ bản từ 18,83% năm 2005 lên 20,2% năm
2007, 6 tháng đầu năm 2008 là 18,2% (mục tiêu Đại hội 25%); dịch vụ - du
lịch từ 23,32% năm 2005 lên 29,4% năm 2007, 6 tháng đầu năm 2008 là 32%
(mục tiêu Đại hội 35%).
Biểu đồ 3.1. Chuyển biến cơ cấu ngành kinh tế huyện Mỹ Đức
từ 1996 đến 2008
[63, 71, 81, 90]
Quan điểm phát triển của huyện Mỹ Đức từ năm 2005 đã xác định: phải
phát huy tinh thần tự chủ, chống nguy cơ tụt hậu, từ những cơ sở kinh tế hiện
có chuyển hướng nhanh theo những lợi thế và khai thác tiềm năng sẵn có, đổi
mới công nghệ, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn. Chuyển dịch kinh tế phải theo hướng phát triển nông - lâm nghiệp ổn
định; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh với tốc độ nhanh và
đưa du lịch - dịch vụ trở thành kinh tế mũi nhọn.
83
3.2.1. Sự chuyển biến về cơ cấu ngành kinh tế
a) Nông - lâm - ngư nghiệp
* Nông nghiệp
- Về quản lý đất đai: Đất là tư liệu quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp. Huyện Mỹ Đức đã tiến hành trong thời kỳ trước khi Luật đất đai ra
đời (1993): dồn điền đổi thửa, giao đất, ruộng cho các hộ nông dân. Giai đoạn
này, huyện Mỹ Đức tiếp tục đẩy mạnh qua hai đợt:
+ Đợt 1: Thực hiện Chỉ thị số 14 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Quyết
định số 160 – QĐ/UB của UBND tỉnh Hà Tây (1997): về việc đẩy mạnh sản
xuất trên cơ sở đổi ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn gắn với quy hoạch
sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân.
UBND huyện Mỹ Đức chỉ đạo việc chuyển đổi ruộng và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp và đã có Quyết định số 17 - QĐ/UB
(ngày 13/3/1997) về việc thành lập Ban chỉ đạo của huyện và kế hoạch thực
hiện ngày 10/3/1999 và Chỉ thị số 08-CT/UB (ngày 23/8/1998) tăng cường
đẩy mạnh chuyển đổi ruộng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nông nghiệp. Hai xã Đồng Tâm và Đốc Tín mở đầu cho quá trình dồn điền,
đổi thửa. Đến ngày 30/9/1999 có 22/22 xã, thị trấn đã hoàn thành với tổng số
hộ đã chuyển đổi là 35.918 hộ, diện tích đã chuyển đổi là 7.281,51 ha, bình
quân là 5,8 ô/1 hộ, diện tích bình quân của một hộ là 348m2/1 ô (riêng đất
lúa diện tích bình quân là 500m2/1 ô). So với trước thời gian chuyển đổi số
ô bình quân là 11 ô/1 hộ, diện tích bình quân một ô là 240m2/1 ô. Về kết quả
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, tính đến 30/9/1999,
huyện cấp được 34.200 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp
chiếm 95,22% so với tổng số hộ trong toàn huyện với diện tích cấp giấy là
7.275,59 ha [73].
Việc dồn điền đổi thửa và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp cho hộ nông dân đã tạo bước chuyển biến sâu sắc về nếp nghĩ, tư duy của
người dân. Nông dân phấn khởi và tích cực chủ động đầu tư, áp dụng các tiến bộ
84
khoa học kĩ thuật trong sản xuất trồng trọt và chăn nuôi. Giá trị sản xuất trên đơn
vị diện tích canh tác tăng. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi ruộng đất vẫn chưa đáp ứng yêu cầu sản
xuất trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, ruộng đất còn manh mún, chưa liền
thửa và chưa gắn với quy hoạch sử dụng đất đai, đồng thời chưa tạo điều
kiện thuận lợi cho chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp
và thực hiện xây dựng cánh đồng đạt giá trị từ 50 triệu đồng/ha/năm trở lên.
Vì vậy, việc tiếp tục chỉ đạo chuyển đổi ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa
lớn, gắn với quy hoạch sử dụng đất đai là yếu tố khách quan và cấp thiết đối
với huyện Mỹ Đức.
+ Đợt 2: Ngày 01/10/2003, Ban Thường vụ Huyện ủy Mỹ Đức ra Nghị
quyết số 10 - NQ/HU về chuyển đổi ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn gắn
với quy hoạch sử dụng đất đai và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho hộ nông dân, với mục tiêu: “Tiến hành dồn điền, đổi thửa, chuyển từ ô
thửa nhỏ thành ô thửa lớn phải gắn với quy hoạch đất đai và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân, phấn đấu mỗi hộ nông dân chỉ còn
từ một đến hai mảnh ruộng sản xuất nông nghiệp. Thực hiện xong trong năm
2004 với phương hướng nhiệm vụ là:
Chuyển đổi ruộng đất từ nhiều ô thành một đến hai ô của hộ nông dân
phải gắn với quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, hệ thống thủy
lợi, giao thông và quy hoạch sử dụng đất đai được duyệt đến năm 2010.
Xác định lại diện tích đất đai đảm bảo tính chuẩn xác so với bản đồ địa
chính làm cơ sở, thực hiện cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp cho hộ nông dân. Từng bước đưa công tác quản lý sử dụng đất đai vào
nề nếp và đạt hiệu quả kinh tế” [82, tr 2].
Quán triệt tinh thần Nghị quyết 10 của Huyện ủy, ngày 17/10/2003, UBND
huyện đã có Kế hoạch số 438/2003/KH - UB chỉ đạo thực hiện công tác này ở tất
cả các xã trên địa bàn huyện. Đến ngày 30/8/2004, đã có 20/22 xã, thị trấn triển
khai thực hiện làm thí điểm. Kết quả thực hiện thí điểm như sau:
85
+ Có 2.350 hộ tham gia với tổng diện tích 487,87 ha (trong đó có 938 hộ
chỉ còn một thửa ruộng với diện tích 173,59 ha; 1.359 hộ hai thửa với diện
tích 314,28 ha).
+ Diện tích bình quân thửa nhỏ nhất là 1.087m2, thửa lớn nhất là
27.000m2.
+ Đa số hộ nông dân thấy được lợi ích của việc dồn điền đổi thửa và
hăng hái tham gia với thái độ tích cực.
Trên cơ sở quy hoạch đất đai được duyệt đến năm 2010, các xã, thị trấn
chủ động xây dựng phương án chuyển đổi ruộng đất. Các cơ quan chuyên
môn như: phòng Địa chính, phòng NN & PTNT, phòng Khuyến nông
huyện…tham mưu giúp các xã, thị trấn xây dựng phương án chuyển đổi
ruộng đất. Đài truyền thanh huyện và các xã, thị trấn có kế hoạch phổ biến,
tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt việc chuyển
đổi đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn, gắn liền với công tác chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp và xây dựng cánh đồng đạt giá trị
50 triệu đồng/ha/năm trở lên.
Nhờ có sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân trong toàn huyện, công
cuộc dồn điền đổi thửa ở Mỹ Đức đã đạt được những kết quả to lớn, trở thành
một trong những điển hình của tỉnh Hà Tây.
86
Bảng 3.1. Kết quả dồn ô đổi thửa của huyện Mỹ Đức
(Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2008)
Đơn vị: ha
TỔNG SỐ HỘ ĐÃ DỒN RUỘNG
Theo đề án tổng số phải dồn ruộng
Ghi chú
STT
Tên xã
Nhận 1 ô
Nhận 2-3 ô
Tổng DT đã dồn
%
Hộ
Hộ
Diện tích (ha)
57 571 236 160 100.00 202
Diện tích 12.63 19.5 425.21 36.09 92.53 91.77 64.4 38.14 392.4 195.54 196.2 290.26 220.2 238.8 203.5 140.75 375.6 370.46 307.1 417.36 41.89 20.7
1 Đồng Tâm 2 Thượng Lâm 3 Tuy Lai Phúc Lâm 4 5 Bột Xuyên 6 Mỹ Thành 7 An Mỹ 8 Hồng Sơn 9 Lê Thanh 10 Xuy Xá 11 Phùng Xá 12 Phù Lưu Tế 13 TT Đại Nghĩa 14 Đại Hưng 15 Vạn Kim 16 Đốc Tín 17 Hương Sơn 18 Hùng Tiến 19 An Tiến 20 Hợp Tiến 21 Hợp Thanh 22 An Phú
Thôn Thọ
Cộng
Hộ Diện tích Hộ 81 63.15 226 19.01 307 75 40.2 180 255 21.46 1423 215.12 312 1735 70.56 189 16.62 149 19.98 338 586 14 51 35.89 637 285 15.32 54 38.7 339 238 80.97 339 41.9 577 151 28.24 213 62 14.96 1953 18.3 2015 100.00 62 877 138.99 1532 100.00 655 981 3.21 1038 66.28 995 70.64 1566 108.6 977 43.94 1213 99.43 852 852 50.21 1002 29.92 1162 68.07 743 38.61 945 2798 1.66 2844 80.14 46 1419 31.56 1491 100.47 72 1066 23.7 84 1150 92.00 2334 12.59 60 2394 95.99 192 6.33 26 14.23 218 83 74.3 360 32.01 443 19300 4191.03 967.37 3964 23264 64.22
271.98 261.12 556.3 225.35 297.04 225 332.8 403.16 410.62 334.53 334.53 360.9 264.16 434 368.74 181.19 480.51 402.02 343 429.97 375.54 274 7596.46
75.78 59.7 640.33 52.71 106.53 107.09 145.37 66.38 410.7 334.53 199.41 360.9 264.14 238.8 233.42 197.36 377.26 402.02 330.8 429.95 48.22 95.00 5158.4
1615 1188 2459 1692 1775 876 1377 1424 2015 1532 1566 1442 1220 1697 1707 945 3549 1484 1250 2494 1532 1384 36223
Tổng diện tích đất SXNN 386.38 339.27 934.86 295.25 323.93 259.76 372.98 517.12 529.18 360.08 300.78 444.34 307.02 492.61 399.61 215.98 3143.27 486.65 437.05 602.46 702.33 1704.06 13554.97 [94]
87
Căn cứ vào bảng số liệu cho thấy, theo đề án dồn ô đổi thửa của 22 xã,
thị trấn thì tổng số hộ phải dồn là 36.223 hộ với diện tích phải dồn là 7.596,46
ha. Tính đến ngày 30/6/2008 kết quả đã có 23.264 hộ đã tham gia, bằng
64,21% số hộ sản xuất trên địa bàn huyện. Tổng diện tích đã dồn là 5.158,4ha,
đạt 67,88% so với diện tích phải dồn ô đổi thửa. Trong đó:
+ Hộ nhận 1 ô: 3.964 hộ, với diện tích 967,37 ha.
+ Hộ nhận 2 đến 3 ô: 19.300 hộ, diện tích 4.191,03 ha.
+ Tổng số đã dồn là 52.214 ô thửa, giảm so với trước khi chuyển đổi là
47.000 ô thửa.
+ Tổng số hộ chưa thực hiện công tác dồn ô, đổi thửa là 12.911 hộ,
chiếm 35,78% số hộ sản xuất nông nghiệp, với tổng diện tích chưa dồn là
2.356,71 ha chiếm 31,36% diện tích đất nông nghiệp phải dồn ô đổi thửa. Có
một số hộ chưa thực hiện, tuy nhiên tỷ lệ này rất ít.
Như vậy, qua hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết số 10 của Ban Thường vụ
Huyện ủy Mỹ Đức, công tác dồn điền, đổi thửa bước đầu đã đạt được những
kết quả, góp phần quan trọng hỗ trợ công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi. Trên cơ sở của dồn điền, đổi thửa, Mỹ Đức đã có nhiều biện pháp “mở”
để khuyến khích quá trình tích tụ ruộng đất, hướng tới mục tiêu chuyển nông
nghiệp từ một nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, hiệu quả thấp, trở thành một
nền kinh tế sản xuất hàng hóa, quy mô lớn và đạt được mục tiêu xây dựng
cánh đồng đạt giá trị 50 triệu đồng/ha/năm trở lên (tính đến tháng 6/2008,
huyện đã có 22 cánh đồng với diện tích 1.262,5ha cho thu nhập từ 50 triệu
đồng/ha/năm trở lên). Nhiều trang trại được hình thành và hoạt động có hiệu
quả (tính đến tháng 6/2007, trên địa bàn huyện đã có 72 trang trại). Nhờ vậy,
kinh tế của huyện đã phát triển, đời sống nhân dân tăng lên [94].
Công tác dồn điền đổi thửa, còn có một số xã thực hiện chưa tốt, công
tác chỉ đạo còn chậm, tiến độ dồn ruộng đạt hiệu quả thấp như xã: Hợp
Thanh, Đồng Tâm, Hồng Sơn, Phúc Lâm, Bột Xuyên, An Phú. Trong đó các
xã: An Phú, Đại Hưng, Mỹ Thành vẫn đang tiếp tục tiến hành công tác dồn
88
ruộng. Nguyên nhân của những tồn tại trên là do một số cán bộ, đảng viên xã
chưa thực sự quan tâm chỉ đạo công tác dồn điền, đổi thửa, chưa gương mẫu
đi đầu trong công tác dồn ô, đổi thửa. Trong khi đó, một bộ phận nhân dân
còn có nhận thức chưa đầy đủ về công tác này (muốn có ruộng tốt, ruộng
gần…). Do vậy công tác dồn điền, đổi thửa còn gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy,
những kết quả đã đạt được trong công tác dồn điền, đổi thửa là những thuận
lợi bước đầu, là nền tảng, tạo đà cho Mỹ Đức tiếp tục hoàn thành công tác dồn
điền, đổi thửa. Và tạo cơ sở vững chắc để huyện thực hiện những mục tiêu
quan trọng về văn hóa, xã hội.
- Về tốc độ tăng trưởng:
Sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1996 – 2000 vẫn giữ được nhịp độ tăng
trưởng cao. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 11,6% (năm
1995 đạt 188,1 tỷ đồng, năm 2000 đạt 315,1 tỷ đồng). Tổng sản lượng lương
thực quy thóc đạt 90.000 tấn, tăng bình quân hàng năm là 13,1%. Bình quân
lương thực đầu người đạt 510 kg (năm 2000) vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra (500
kg) đến năm 2003 đạt 536 kg, góp phần quan trọng khắc phục tình trạng đói
giáp hạt.
- Về cơ cấu nội ngành nông nghiệp:
+ Chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi:
Tính đến 30/12/2007, tổng diện tích huyện đã chuyển đổi được là 1.625
ha, đạt 83% kế hoạch (kế hoạch là 2.000 ha, chiếm 20% diện tích lúa – màu),
với số hộ tham gia chuyển đổi là: 799 hộ. Trong đó:
+ Diện tích thủy sản – chăn nuôi kết hợp: 1.531 ha (chiếm 94,2%) với
702 hộ.
+ Diện tích chăn nuôi kết hợp trồng cây ăn quả: 75 ha (4,6%) với 87 hộ.
+ Diện tích chăn nuôi tập trung ngoài khu dân cư: 19 ha (1,1%) với 10 hộ.
Các mô hình chuyển đổi của huyện Mỹ Đức chủ yếu là mô hình thủy sản
– chăn nuôi kết hợp, bình quân mỗi ha cho thu nhập 46 triệu đồng/năm.
Những ruộng trước khi chuyển đổi hầu hết là ruộng trũng, ruộng cấy 1 vụ bấp
89
bênh, cho thu nhập bình quân 20 – 25 triệu đồng/ha/năm. Tính trên tổng diện
tích 1.623 ha cho thu nhập 49.673 triệu đồng/năm, tăng so với trước khi
chuyển đổi là 24.833 triệu đồng. Giải quyết việc làm quanh năm cho nhiều lao
động, bảo đảm vệ sinh môi trường.
Qua khảo sát 22 xã, thị trấn trên địa bàn huyện, hiện có một số mô hình
chuyển đổi điển hình mang lại hiệu quả kinh tế cao sau:
Thứ nhất, diện tích chuyển đổi từ sản xuất lúa (vùng đất trũng) sang thủy
sản – lúa – chăn nuôi. Mô hình trừ chi phí cho thu nhập cao gấp 3 – 4 lần so
với trồng lúa, thu nhập 50 – 60 triệu đồng/ha/năm. (Mô hình của ông Nguyễn
Thế Thục ở Thị trấn Đại Nghĩa, ông Nguyễn Văn Bắc, ông Nguyễn Văn
Hồng ở thôn Hà Xá – Đại Hưng…).
Thứ hai, diện tích chuyển đổi từ mặt nước chưa được sử dụng, ao hồ
(diện tích 10 ha) sang thủy sản kết hợp trồng sen cho lợi nhuận 200 triệu
đồng/năm (hộ ông Nguyễn Tiến Hà – xã Đốc Tín).
Thứ ba, diện tích chuyển đổi từ đất màu sang trang trại chăn nuôi tránh ô
nhiễm môi trường trong khu dân cư, thu lãi 70 – 100 triệu đồng/năm (mô hình
chăn nuôi lợn hộ ông Nguyễn Văn Chiến – xã Lê Thanh, hộ ông Lương Minh
Trung – xã Hợp Thanh, hộ ông Nguyễn Văn Chỉnh – xã Hợp Thanh…).
Thứ tư, diện tích chuyển đổi mô hình từ trồng lúa kém hiệu quả sang
trang trại chăn nuôi gà đẻ cho lãi từ 200 – 300 triệu đồng/năm (như gia đình
ông Vũ Văn Quang, ông Dư Văn Thơ ở xã Phúc Lâm).
Thứ năm, diện tích chuyển đổi từ đất màu sang trồng hoa cây cảnh cho
lãi 50 triệu đồng/ha/năm (hộ ông Nguyễn Đức Hải, ông Nguyễn Văn Sáng
– thôn Trung – xã Phù Lưu Tế, ông Phạm Đình Hán – thôn Trung – xã
Phùng Xá).
90
Bảng 3.2. Tổng hợp diện tích chuyển đổi cơ cấu cây trồng – vật nuôi
huyện Mỹ Đức (đến 30/2/2007)
Mô hình
CN – CĂQ
TT
Tên xã
Tổng số hộ
Tổng số DT (ha)
DT ch.đổi đã có QĐ của huyện (ha)
Hộ
Hộ
Hộ
TS – CNKH DT (ha) 94,46 233 82,46
8
DT (ha) 5,0
Chăn nuôi TT DT (ha) 7,0
4
1 Đồng Tâm
82,46
245
2 Thượng Lâm
82,82
50 47,02
10 35,8
60,04
60
235,27 30 219,09
8
12,58 2
3,6
130,71
3 Tuy Lai
40
10,47
9
6,315 18
4,141
4 Phúc Lâm
5,32
27
15,73
22 10,74
9
4,99
5 Bột Xuyên
2,83
31
42,32
14 42,32
6 Mỹ Thành
30,67
14
60,14
39 47,69 34 12,45
7 An Mỹ
33,06
73
8 Hồng Sơn
62,31
43 62,31
41,01
43
9 Lê Thanh
26,81
30 26,61
1
0,2
26,61
31
10 Xuy Xá
2
14,60
7,3
2
7,3
4
11 Phùng Xá
3
1,74
1,74
1,74
3
12 Phù Lưu Tế
4
26,00
26
20,69
4
13 TT Đại Nghĩa
41,82
29 41,82
38,53
29
14 Đại Hưng
16,62
14 16,62
16,62
14
15 Vạn Kim
6
35,85
35,85
35,85
6
16 Đốc Tín
3
26,87
26,87
26,87
3
17 Hùng Tiến
61,50
33 61,50
58,81
33
18 Hương Sơn
511,57 25 511,57
511,57
25
19 Hợp Tiến
23,84
38 23,84
23,84
38
20 Hợp Thanh
79,11
16
78,6
1 0,51
79,11
17
21 An Tiến
94,84
23 94,84
69,79
23
22 An Phú
60,00
36 60,00
52,75
36
Tổng:
1.349
799
1.625 702 1.531 87
75
10
19
%
83,02
94,2
4,6
1,1
[215]
Có thể nói đây là bước chuyển biến mạnh nhất của ngành nông nghiệp
trong tổ chức, quản lý sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh tế.
91
+ Về cơ cấu ngành nông nghiệp: cơ bản vẫn là hai ngành trồng trọt và chăn
nuôi, thời kỳ này có phát triển thêm ngành dịch vụ nông nghiệp, nhưng dịch vụ
nông nghiệp chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong nông nghiệp:
Bảng 3.3. Giá trị và cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp
thời kỳ 1995 - 2005
Ngành Năm 1995 Năm 2000 Năm 2005
Tổng số 100 % 100 % 100%
Trồng trọt 76,53 % 73,9% 68%
Chăn nuôi 22,47 % 25,1% 29%
Dịch vụ nông nghiệp 1% 1% 3%
[68,76, 86]
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Mỹ Đức có sự chuyển dịch theo
hướng tích cực nhưng còn rất chậm, tốc độ chuyển dịch chưa cao.
+ Ngành trồng trọt:
Ngành trồng trọt vẫn là ngành kinh tế truyền thống chính của huyện
Mỹ Đức.
Cây lương thực còn chiếm tỷ lệ cao về diện tích 89,23% và 82,83% về
giá trị (năm 1999), các cây trồng khác như cây công nghiệp, cây thực phẩm,
cây ăn quả chiếm tỷ lệ nhỏ cả về diện tích (10,77%) và về giá trị (17,17%).
Tổng sản lượng lương thực thì riêng thóc là 75.406 tấn chiếm 90,79%, tổng
sản lượng màu quy chỉ có 7.650 tấn chiếm 9,21% [74].
Lúa là cây lương thực chính của huyện. Trong giai đoạn 1996 – 2000,
huyện Mỹ Đức đã chỉ đạo thực hiện cấp I hóa giống lúa trong toàn huyện, tích
cực chuyển dịch cơ cấu giống lúa, đưa giống lúa thuần, lúa lai Trung Quốc có
năng suất cao vào sản xuất đạt trên 80% diện tích, chuyển mạnh cơ cấu mùa
vụ: vụ xuân cấy 80% diện tích lúa xuân muộn, vụ mùa cấy 75% diện tích mùa
sớm. Nhờ đó đã góp phần đẩy nhanh năng suất lúa của huyện năm sau cao
hơn năm trước, từ 6,95 tấn/ha năm 1996 lên 10,68 tấn/ha năm 2000.
Năm 2008 chiếm 98,2% tổng diện tích gieo trồng cây lương thực và 98,5%
tổng sản lượng lương thực quy thóc. Trong giai đoạn 2000 – 2004, diện tích gieo
92
trồng lúa giảm 308,8 ha, đến giai đoạn 2005 – 2007 tiếp tục giảm 283,14 ha.
Diện tích lúa giảm chủ yếu là được chuyển đổi sang trồng các loại cây khác có
giá trị kinh tế cao hơn. Mặc dù diện tích gieo trồng lúa giảm song năng suất lúa
lại có chiều hướng tăng nhanh và ổn định, từ 58 tạ/ha năm 2005 lên 61,73 tạ/ha
năm 2007, tốc độ tăng bình quân 3,13%/năm. Một số xã có năng suất lúa cao
như: Phúc Lâm (65 tạ/ha), Lê Thanh (62,89 tạ/ha)...
Trong 5 năm (2000 – 2005), cơ cấu giống lúa và cơ cấu mùa vụ đều có
những chuyển biến tích cực. Các giống lúa năng suất cao, chất lượng gạo khá
như: Khang Dân, Q5... chiếm hơn 90% diện tích gieo trồng các vụ lúa trong
năm. Các giống còn lại như: giống lai Trung Quốc, C70, C71, nếp các loại...
cũng được sử dụng nhưng chiếm một lượng nhỏ trong cơ cấu giống. Chất
lượng giống ngày càng được nâng cao và chủ động đủ về số lượng. Năm 2000
– 2002, toàn huyện thực hiện cấp I hóa giống lúa. Từ năm 2003 đến nay đã
chuyển sang nguyên chủng hóa giống lúa (90 – 95% diện tích). Sự tiến bộ
trong cơ cấu giống lúa không những tạo điều kiện nâng cao năng suất và chất
lượng lúa gạo, mà còn góp phần quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu mùa
vụ. Nếu như trước đây, sản xuất lúa có 2 vụ chính là vụ đông xuân và vụ mùa
thì hiện nay đã được thay thế bằng vụ xuân chính vụ và mùa sớm. Diện tích
mùa sớm tăng lên đã tạo điều kiện phát triển cây vụ đông và loại rau. Một số
giống lúa đặc sản, giá trị cao cũng bước đầu phát triển thành vùng sản xuất
lúa tập trung ở An Mỹ, Mỹ Thành, Phù Lưu Tế, Đại Hưng...
Sản xuất lương thực ở Mỹ Đức trong giai đoạn 2000 - 2008 có sự tăng
trưởng khá nhanh mặc dù diện tích đất canh tác lương thực (đất lúa, luân canh
lúa – màu và đất trồng màu) tăng từ 8.855,75 ha năm 2000 lên 9.208,46 ha năm
2005 và giảm xuống còn 9.100,27 ha năm 2007, chiếm 67,86% diện tích đất
nông nghiệp. Do hệ số sử dụng đất tương đối cao (2,4 lần), tổng diện tích gieo
trồng cây lương thực năm 2008 là 15.373,04 ha tăng 362,64 ha so với năm
2005. Sản lượng lương thực quy thóc năm 2008 đạt 90.000 tấn, tăng 4.017 tấn
so với năm 2005. Vì vậy, sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người
cũng tăng lên từ 510 kg/người năm 2000 lên 543 kg/người năm 2008.
93
Bảng 3.4: Sản xuất lƣơng thực huyện Mỹ Đức thời kỳ 1995 – 2005
Mục 1995 2000 2005
Diện tích (nghìn ha) 16,9 16,5 15,4
Sản lượng (nghìn tấn) 65,8 84,2 88,8
Bình quân người/năm (kg) 395 500 53,4
[119, 120, 121]
Cây màu và cây công nghiệp:
Huyện tập trung chỉ đạo phát triển cây hoa màu và cây công nghiệp với
diện tích trồng ngày càng tăng: Cây ngô là cây màu quan trọng nhất sau lúa, với
giống mới tiến bộ, song mới trồng được 1.649 ha (năm 1999), chiếm 9,48% diện
tích cây lương thực và 6,28% sản lượng, năng suất ngô cả năm mới đạt 31,47
tạ/ha. Diện tích ngô trong giai đoạn 2000 - 2007 giảm thất thường, nhưng xu
hướng chung là giảm: từ 1.421,4 ha năm 2000 xuống 350,5 ha năm 2005 và
280,9 ha năm 2007. Diện tích ngô có xu hướng giảm mạnh chủ yếu là do
người dân chuyển sang trồng các cây trồng khác có giá trị hàng hóa cao hơn
như đậu tương, các loại rau... Tuy nhiên, do đầu tư thâm canh, ứng dụng công
nghệ và sử dụng các giống ngô mới như ĐK888, LVN4, LVN10, HQ, nên
năng suất ngô lại tăng nhanh, từ 39 tạ/ha năm 2005 lên 48,94 tạ/ha năm 2007.
Các cây có củ chủ yếu trồng ở Mỹ Đức là sắn, khoai sọ, khoai lang. Các
cây này có diện tích khoảng 278,5 ha, chủ yếu là sắn, được trồng nhiều ở khu
vực chân đồi các xã như Đồng Tâm, Thượng Lâm, Tuy Lai…Tuy nhiên, từ
năm 2001 đến 2008, diện tích nhóm cây này có xu hướng giảm nhiều do giá
trị kinh tế không cao, lại đòi hỏi nhiều dinh dưỡng.
Nhóm cây thực phẩm gồm chủ yếu là các loại rau, đậu đỗ và khoai tây,
có tổng diện tích năm 2007 khoảng 915 ha, đạt sản lượng 15.906 tấn. Các loại
cây này được trồng nhiều ở ven các thị trấn, thị tứ, các khu dân cư tập trung
như Lê Thanh, Phúc Lâm, Bột Xuyên, Vạn Kim… Tuy nhiên, cho đến năm
2000, Mỹ Đức vẫn chưa hình thành được vùng chuyên canh rau sạch, rau an
toàn có quy mô hàng hóa lớn.
94
Diện tích cây công nghiệp cũng tăng từ 416,7 ha (năm 1996) lên 804,6 ha
(năm 2000) với các cây công nghiệp ngắn ngày chủ yếu là đậu tương, lạc, chè,
mía, vừng…
Đậu tương là cây công nghiệp ngắn ngày phổ biến nhất ở Mỹ Đức. Từ năm
2003 - 2008, một số giống đậu tương có năng suất chất lượng đã được đưa vào
gieo trồng như ĐT84, ĐT12, AK06… Ở nhiều xã, đậu tương đã dần dần thay thế
các cây vụ đông kém hiệu quả như khoai lang, khoai tây, ngô… Do là cây trồng
đem lại giá trị kinh tế cao nên diện tích đậu tương không ngừng mở rộng: năm
2007 là 5.467,8 ha, tăng 4.958 ha so với năm 2000. Sản lượng đậu tương cũng
tăng từ 682,4 tấn (năm 2000) lên 7.675,44 tấn (năm 2007).
Diện tích lạc năm 2007 là 253,73 ha, tăng 74,23 ha so với năm 2000, đạt
tốc độ tăng diện tích bình quân 2,03%/năm. Sản lượng lạc nhân năm 2007 đạt
403,43 tấn, tăng 134 tấn so với năm 2000.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn khoảng 180 ha dâu tằm, 10 ha mía, 2 ha
vừng, 100 ha sen và 25 ha cây thức ăn gia súc…phân bố rải rác trên địa bàn
các xã, góp phần làm phong phú thêm sản phẩm nông nghiệp của huyện.
Trồng dâu, nuôi tằm vốn là nghề truyền thống của người dân huyện Mỹ
Đức. Trong 5 năm (1996 – 2000), phong trào trồng dâu nuôi tằm phát triển
khá, từ 82 ha (năm 1996) lên 153 ha (năm 2000), tăng bình quân hàng năm là
6,4%. Sản lượng kén đạt từ 67 tấn (năm 1996) lên 160 tấn (năm 2000), bình
quân tăng là 9,9%. Từ thực tế cho thấy, hiệu quả sản xuất một sào trồng dâu
cho thu nhập gấp 2 đến 2,5 lần so với trồng lúa. Nguyên nhân là do giá kén thị
trường ổn định và tăng, đảm bảo thu nhập cho người trồng dâu nuôi tằm, nên
đã thúc đẩy nghề này phát triển mạnh.
Ngoài ra, ở huyện Mỹ Đức đã xuất hiện một số mô hình chuyển đổi như:
chuyển một phần đất trồng màu sang trồng cây ăn quả ở xã Lê Thanh, xã An
Mỹ; tận dụng các vùng đất lầy thụt để trồng sen ở Hùng Tiến và mô hình mở
rộng diện tích đất trồng cây vụ đông ở xã Bột Xuyên…đã tạo thêm việc làm
và tăng thu nhập cho người lao động.
95
Diện tích đất trồng cây lâu năm của huyện Mỹ Đức hiện có khoảng
546,87 ha (2008), tăng 156,67 ha so với năm 2005, chủ yếu là diện tích các
loại cây ăn quả như nhãn, vải, táo, mơ. Các giống cây ăn quả mới như: đu đủ
Đài Loan, khế ngọt, bưởi Diễn, cam Canh, xoài hoa tím, nhãn Hương Chi,
thanh long ruột đỏ…đã và đang được đưa vào tập trung và cải tạo vườn tạp
với diện tích ngày càng tăng. Hiện nay, mô hình trang trại kết hợp cây ăn quả
- chăn nuôi nhằm tạo ra các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, chất lượng cao
cũng đã được hình thành ở một số xã như Phúc Lâm, Lê Thanh, Tuy Lai…và
bước đầu cũng mang lại giá trị kinh tế cao.
Mặc dù ở Mỹ Đức có một số sản phẩm nông nghiệp mang tính đặc sản như
rau sắng, mơ Hương Sơn, bánh củ mài… Nhưng các sản phẩm này chưa thực sự
tạo ra ý nghĩa hàng hóa lớn, đặc biệt với các hoạt động du lịch.
+ Ngành chăn nuôi:
Chăn nuôi gia súc, gia cầm và các con đặc sản, thả cá vẫn là một thế
mạnh của Mỹ Đức. Huyện thực hiện chương trình Sind hoá đàn bò, nạc hoá
đàn lợn, đa dạng hoá các giống gia cầm có hiệu quả kinh tế cao, duy trì và
phát triển diện tích nuôi thả và các giống thuỷ đặc sản như: baba, rắn, ếch…
Do đó đã thúc đẩy chăn nuôi phát triển không ngừng. Năm 1995, tỷ trọng
chăn nuôi trong nông nghiệp chiếm 23,47%, năm 2000 đạt 25,1%, năm 2004
là 30,87%, đến năm 2007 đạt 33,8%.
Ngành chăn nuôi của huyện có sự chuyển biến tích cực qua các năm tuy
một số vật nuôi lại giảm dần:
Bảng 3.5: Kết quả sản xuất chăn nuôi của huyện (2006 - 2008)
So sánh (%)
Chỉ tiêu
ĐVT
2006
2007
2008
07/06
08/07
BQ
1. Trâu
Con
1.054
1.138
927
107,97
81,46
94,71
2. Bò
Con
12.326
10.836
11.447
87,91
105,64
96,78
3. Lợn
Con
74.327
81.970
93.917
110,28
114,57
112,43
4. Gia cầm
Con
698
733
553
105,02
75,44
90,23
[121, 122]
96
Đàn trâu và đàn bò có xu hướng giảm do trong nông nghiệp đã được
cơ giới hoá khâu làm đất và vận chuyển. Năm 2000, đàn trâu còn 2.150
con, tốc độ giảm bình quân hàng năm là 9,5%; đàn bò còn 7.800 con, tốc
độ giảm bình quân hàng năm là 1,3%. Chăn nuôi bò phục vụ sản xuất
thịt hàng hóa là chủ yếu nên đàn bò lai đã được chú ý phát triển ngày
một tăng hơn: từ 400 con (năm 1995) đã tăng lên 2.650 con (năm 1999)
và năm 2008 là 11.447 con. Do vấn đề cày kéo đã được cơ giới hóa nên
bò nuôi chủ yếu là giết thịt và sinh sản. Đàn bò của huyện phát triển tốt
và ổn định, thị trường đầu ra thuận lợi. Người dân đã nhận thức được
việc trồng cỏ để nuôi trâu bò ở hầu hết các xã song diện tích còn nhỏ và
đa phần là tận dụng. Trâu bò thịt cũng đã được sử dụng những giống cho
năng suất cao (tỷ lệ bò lai Sind trong tổng số đàn bò là 95%), nhưng vẫn
chủ yếu chăn nuôi theo phương thức hộ gia đình ở rải rác các xã, chưa
hình thành được các vùng chăn nuôi công nghiệp quy mô lớn, chưa tận
dụng được các phế phụ phẩm trong nông nghiệp làm thức ăn bổ sung nên
hiệu quả chăn nuôi chưa cao. Đa số các hộ cũng chỉ nuôi quy mô 1–2
con, số hộ nuôi từ 5 con trở lên mới có 64 hộ (năm 2008). Hiện tại, 2 xã
Đồng Tâm và Thượng Lâm có một số hộ đang nuôi bò sữa (40 con). Tuy
nhiên, qua khảo sát thấy bò phát triển kém, tốc độ sinh sản chậm.
Nguyên nhân của tình trạng này là do người dân chưa được trang bị kiến
thức kỹ càng, kinh nghiệm chưa có, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên
việc nuôi bò sữa chưa được đầu tư đúng mức.
Ngành chăn nuôi lợn có xu hướng tăng nhanh:
97
con
100,000 90,000 80,000 70,000 60,000 50,000 40,000 30,000 20,000 10,000 0
Năm 1996
Năm 2000
Năm 2008
Biểu đồ 3.2: Sự phát triển của ngành chăn nuôi lợn
từ năm 1996 đến năm 2008
[120, 121, 122]
Chăn nuôi lợn, năm 1996 có 49.789 con đến năm 2000 có 65.000 con, tăng
bình quân hàng năm là 8,5%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 7.200 tấn, tăng
13,6%. Điều này chứng tỏ chăn nuôi lợn thịt đã thâm canh tốt và trở thành ngành
sản xuất hàng hóa cho thu nhập cao đối với người nông dân. Năm 2008 là
93.917 con. Tổng số lợn xuất chuồng là 157,6 nghìn con, đạt 9.167,1 tấn thịt lợn
hơi. Mặc dù trên địa bàn huyện chưa có các vùng chăn nuôi tập trung theo quy
mô công nghiệp, nhưng đã có nhiều trang trại chăn nuôi lợn với quy mô trên 100
con/ trang trại (17 trại). Cũng ở các trang trại này, các hộ đã đưa lợn nái hướng
nạc (3/4 máu ngoại) vào nuôi với quy mô 20 – 30 nái/ trang trại, đạt thu nhập
hàng năm từ 58 – 80 triệu đồng/trang trại/năm.
Đàn gia cầm có 740 ngàn con, tốc độ tăng bình quân hàng năm 11,6%. Tuy
nhiên, chăn nuôi gia cầm chủ yếu là chăn nuôi theo hộ gia đình với sản lượng ít,
chưa có hộ gia đình nào chăn nuôi theo trang trại, vì cơ chế thị trường điều tiết và
không có nơi tiêu thụ ổn định. Đây là một hạn chế rất lớn đến tốc độ phát triển
chăn nuôi gia cầm nói riêng và ngành chăn nuôi nói chung của huyện Mỹ Đức.
Ngoài ra, huyện Mỹ Đức còn có một số loại chăn nuôi khác như: dê (số
lượng 3.848 con, tập chung chủ yếu ở Hương Sơn, An Phú, An Tiến, Tuy
Lai…); ong (có 2.415 đàn ong, tập trung ở Phù Lưu Tế, Lê Thanh, Đốc Tín,
98
Hương Sơn); chăn nuôi thỏ, ba ba… Nhưng nhìn chung, vẫn chưa hình thành
được vùng chăn nuôi tập chung theo quy mô công nghiệp trên địa bàn.
+ Mô hình sản xuất nông nghiệp:
Giai đoạn này, huyện Mỹ Đức tiếp tục đổi mới mô hình quản lý kinh tế
nông nghiệp. Sau 4 năm thực hiện Luật HTX, Nghị định 43/CP ngày
29/4/1997 của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn của các bộ, các ngành
Trung ương, Chỉ thị số 20 – CT/TU, ngày 1/4/1997 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Hà Tây, kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp huyện Mỹ Đức đã có sự
chuyển biến tích cực.
Kinh tế hộ:
Từ sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4/1998), nhất là sau khi
thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ về giao ruộng đất ổn định lâu dài
cho hộ nông dân, hộ gia đình được xác định là đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là
một đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng, đã từng bước tự chủ trong
sản xuất, ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia hoạt động phi nông
nghiệp với mức độ khác nhau. Huyện Mỹ Đức có 34.699 hộ nông dân, chiếm
94% số hộ sống ở nông thôn, có 100% số hộ nông dân ở HTX cũng tham gia
HTX mới, có 4.192 hộ nông dân tham gia thành viên quỹ tín dụng nhân dân,
chiếm 12% tổng số hộ nông dân. Vì vậy, giữa hộ gia đình và HTX có mối
quan hệ gắn bó với nhau.
Nhằm tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển, thực hiện Chỉ thị số 14 –
CT/TU (ngày 12/2/1997) của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc đẩy mạnh sản
xuất trên cơ sở đổi ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn gắn với quy hoạch sử
dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân. Ngày
10/3/1997, UBND huyện Mỹ Đức đã ra Kế hoạch số 55 – KH/UB, Kế hoạch
chuyển đổi ruộng đất, tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất
chính thức cho hộ nông dân. Trong 2 năm 1997 – 1998, UBND huyện đã chỉ
đạo 23/23 HTX chuyển đổi ruộng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
ruộng đất lâu dài cho 34.217 hộ nông dân, tiến hành cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thổ cư cho 11.639 hộ bằng 33,25%, tạo điều kiện thuận lợi
99
cho nông dân yên tâm, chủ động đầu tư, thâm canh tăng vụ hiệu quả, thúc đẩy
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn…Bên cạnh đó, việc giao đất
đồi, rừng ở các xã Đồng Tâm, Tuy Lai, Hương Sơn, Hợp Tiến, An Phú, Hồng
Sơn được tiến hành kịp thời, giúp các hộ nông dân phát triển sản xuất, khẳng
định nông dân Mỹ Đức có thể làm giàu trên vùng đồi gò của mình.
Xu thế phát triển kinh tế hộ là từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa
nhưng còn ở quy mô nhỏ với đa dạng sản phẩm. Năm 2007, có khoảng 30%
số hộ có điều kiện vươn lên làm giàu, đời sống thay đổi tích cực, có 56% số
hộ đủ ăn, 14% số hộ còn nhiều khó khăn cần có sự giúp đỡ của xã hội.
Hộ gia đình tuy đã tự chủ trong sản xuất, nhưng không thể tự chủ một
cách độc lập hoàn toàn mà vẫn cần tới vai trò của HTX nông nghiệp ở các
lĩnh vực, các khâu hộ không làm được hoặc làm hiệu quả thấp như: thủy
nông, bảo vệ thực vật, bảo vệ đồng ruộng, làm đất, giống mới, tiến bộ kỹ
thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm…
Kinh tế HTX:
Thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, các HTX ở Mỹ Đức đều lúng túng
trong việc chuyển đổi nội dung, phương thức hoạt động. Từ chỗ có quyền chi
phối toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, các HTX nông nghiệp đã phải
chuyển sang làm dịch vụ cho kinh tế hộ theo cơ chế thị trường. Thực hiện
Luật HTX đã được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 20/3/1996, các HTX
huyện Mỹ Đức đã có những chuyển biến tích cực, đang dần thích nghi với cơ
chế quản lý mới, làm tốt hơn vai trò hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình.
Nghị quyết số 02 – NQ/HU, ngày 24/10/1996, của Huyện ủy Mỹ Đức về
tổ chức thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đến
năm 2000 theo hướng CNH, HĐH đã đưa ra quan điểm chỉ đạo đối với các
HTX là: “Căn cứ Luật HTX, tiếp tục đổi mới các loại hình HTX trên các lĩnh
vực: thủ công nghiệp, thương mại, tín dụng, giao thông vận tải…trước hết cần
đổi mới quản lý HTX nông nghiệp nhằm phát huy vai trò kinh tế HTX, thực
hiện đúng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ.
Nhiệm vụ của HTX là làm tốt công tác quy hoạch, hướng dẫn sản xuất, đưa
100
tiến bộ kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi đến các hộ xã viên, phát triển kinh
doanh, đảm nhiệm các khâu dịch vụ mà từng hộ xã viên không làm được,
hoặc làm không có hiệu quả. Cùng với chính quyền chăm lo sự nghiệp phúc
lợi xã hội” [67,tr 4].
Thực hiện chủ trương của Đảng về chuyển đổi HTX theo luật; căn cứ
vào Nghị quyết số 01 – NQ/TU (ngày 01/10/1996) và Chỉ thị số 20 – CT/TU
(ngày 01/4/1997) của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tây; căn cứ vào Đề án
chuyển đổi HTX nông nghiệp, số 28 – ĐA/BKT (ngày 26/3/1997) của Ban
Kinh tế Tỉnh ủy Hà Tây và Hướng dẫn làm điểm đổi mới HTX nông nghiệp,
số 440 – NN/HD/QKSC (ngày 15/12/1996) của Sở NN & PTNT tỉnh Hà Tây.
UBND huyện Mỹ Đức đã xây dựng Đề án chuyển đổi HTX nông nghiệp của
huyện Mỹ Đức theo Luật HTX (số 107 – ĐA/UB, ngày 20/4/1997) và lập Ban
chỉ đạo, tiến hành làm điểm ở 2 HTX: Phùng Xá, Mỹ Thành. Trên cơ sở kết
quả làm điểm chuyển đổi ở 2 HTX trên, ngày 12/9/1997, UBND huyện đã ra
Kế hoạch số 223 – KH/UB về chuyển đổi HTX theo Luật HTX, đề ra một số
nội dung chủ yếu chuyển đổi HTX nông nghiệp.
Sau 4 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật mới, toàn huyện có 23
HTX nông nghiệp vẫn giữ quy mô toàn xã đã chuyển đổi theo Luật HTX và
được cấp đăng ký kinh doanh. Tổng số có 81.747 xã viên ở HTX cũ tham
gia HTX chuyển đổi theo Luật đạt 100% (bình quân 1 HTX có 3.553 xã
viên). Trong đó, cả 23 HTX đều tham gia hoạt động trên cả 3 khâu dịch vụ
(dịch vụ thủy nông, dịch vụ bảo vệ thực vật, dịch vụ giống). Đối với dịch vụ
làm đất chủ yếu do hộ xã viên tự đảm nhiệm. Có 19 HTX dịch vụ có lãi
802,2 triệu đồng (bình quân 1 HTX lãi 42,2 triệu đồng), còn 4 HTX chưa
quản lý, hạch toán kinh doanh dịch vụ là Hợp Thanh, An Tiến, Hùng Tiến,
An Phú. Trong đó, 5 HTX chia lãi cho xã viên, bình quân từ 5.000 – 7.000
đồng/sào/năm là Mỹ Thành, An Mỹ, Lê Thanh, Phù Lưu Tế, Tế Tiêu. Sau
khi thực hiện chuyển đổi và đi vào hoạt động, kết quả phân loại HTX cho
thấy: có 12 HTX đạt loại khá (chiếm 52%), 6 HTX loại trung bình (chiếm
26%), còn lại là 5 HTX loại yếu (chiếm 22%).
101
Có thể nói, quá trình chuyển đổi HTX theo tinh thần Luật HTX đã thu
được những kết quả bước đầu. Hầu hết các HTX chuyển đổi đã kế thừa, tiếp
nhận, quản lý, sử dụng các công trình thủy lợi, điện, nước, đường giao thông,
vốn, quỹ và kinh nghiệm tổ chức các dịch vụ được tích lũy từ những năm qua
để phục vụ sản xuất và đời sống của xã viên cũng như nhân dân trên địa bàn.
Ở đa số các HTX mới thành lập, xã viên tin tưởng vào HTX nên một số đã tự
nguyện tham gia góp vốn để xây dựng HTX.
Về tổ chức chỉ đạo, điều hành sản xuất: HTX nông nghiệp sau khi
chuyển đổi đã đổi mới và chuyển biến trong chỉ đạo, điều hành sản xuất, bỏ
hình thức điều hành trực tiếp đến hộ. Ban quản trị HTX đã xây dựng quy
hoạch, kế hoạch chỉ đạo, hướng dẫn cho xã viên thực hiện về chuyển đổi: cơ
cấu giống cây trồng, hướng dẫn thời vụ, cung ứng tổ chức sản xuất giống cây
trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, tổ chức khuyến nông, phòng
chống khắc phục thiên tai. Trách nhiệm của Ban quản trị được nâng lên, có sự
phân công, kiểm tra, giám sát của Ban kiểm soát HTX.
Cán bộ HTX được tinh giảm, chất lượng cán bộ từng bước được nâng
cao. Đồng thời cơ sở vật chất kỹ thuật của HTX được tăng cường, các tiến bộ
kỹ thuật mới được đưa vào sản xuất ngày càng nhiều, đã tạo việc làm cho
người lao động, đem lại hiệu quả kinh tế cho hộ xã viên, góp phần xóa đói
giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Đời sống của nhân dân được ổn định
và từng bước cải thiện, xã viên tin tưởng vào HTX, nên đã góp phần củng cố
quan hệ sản xuất mới ở nông thôn.
Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế HTX vẫn có những vấn đề còn tồn tại như:
Ban quản trị, ban kiểm soát của HTX hoạt động còn yếu. Số vốn quỹ
không tăng so với lúc chuyển đổi, công tác cán bộ thấp. HTX không quản lý
điều hành sản xuất được đến thôn, đội sản xuất, mà thôn tự điều hành, thu chi
kinh tế, HTX không thanh toán được đến hộ xã viên dẫn đến một số cán bộ
thôn, đội sản xuất vi phạm về quản lý kinh tế.
Trình độ cán bộ HTX nhìn chung còn hạn chế trong việc tổ chức quản
lý, hạch toán kinh doanh dịch vụ, đầu tư sản xuất…Tổng số cán bộ quản lý
102
HTX trong huyện có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng là 11,5%, trung
cấp là 16,6%, sơ cấp là 34%, còn lại chưa qua đào tạo. Do đó chưa đáp ứng
được yêu cầu của HTX kiểu mới.
Kinh tế trang trại:
Để phát triển sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện làm giàu cho nhân dân,
Đảng và Nhà nước đã khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng – vật nuôi,
phát triển kinh tế trang trại theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Phát triển kinh tế trang trại có nhiều loại hình đó là: trang trại trồng cây hàng
năm, trang trại trồng cây lâu năm, trang trại chăn nuôi, trang trại nuôi trồng
thủy sản và trang trại phát triển kinh tế tổng hợp. Mỗi loại hình trang trại lại
có những tiêu chí riêng đã được Bộ NN & PTNT, Tổng cục Thống kê quy
định trong Thông tư liên tịch số 62/TTLT/BNN-TCTK (ngày 20/5/2003).
Thực hiện sự chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở NN & PTNT tỉnh Hà Tây,
huyện Mỹ Đức đã triển khai xây dựng kế hoạch và chỉ đạo phát triển kinh tế
trang trại. Đây là hướng đi đúng để khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai,
vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân,
góp phần phát triển nông nghiệp bền vững. Năm 2001, Mỹ Đức có 10 trang
trại, sang năm 2002 huyện còn 6 trang trại. Phong trào xây dựng trang trại của
Mỹ Đức nhìn chung chậm phát triển do đại đa số các xã có bình quân đất
nông nghiệp thấp và tình trạng manh mún về ruộng đất trước đây. Vốn và thị
trường tiêu thụ cũng là những nhân tố hạn chế đáng kể đến việc hoàn thành và
phát triển trang trại trong huyện.
Từ năm 2003, do tác động của kết quả thực hiện hai Nghị quyết quan
trọng của Huyện ủy: Nghị quyết số 09-NQ/HU (ngày 27/6/2003) về chuyển đổi
cơ cấu cây trồng vật nuôi, tiếp tục thực hiện chương trình phát triển nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa hiệu quả và bền vững; và Nghị quyết số
10-NQ/HU (ngày 01/10/2003) về chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô
thửa lớn gắn với quy hoạch sử dụng đất đai và cấp lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho hộ nông dân. Tình hình phát triển trang trại của huyện có nhiều
chuyển biến đáng kể. Mỹ Đức trở thành một trong những huyện đầu tiên trong
tỉnh Hà Tây đi đầu tổ chức và sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại.
103
Bảng 3.6. Tổng hợp trang trại trên địa bàn huyện Mỹ Đức
(tính đến 30/7/2007)
TT Tên xã Ghi chú Số lượng trại Thủy sản - CNKH Trồng cây ăn quả Sản xuất k.doanh tổng hợp
Loại hình trang trại Chăn nuôi tập trung 1 Trồng cây hàng năm 1 1 Đồng Tâm
2 18 6 2 Thượng Lâm
1 15 14 3 Tuy Lai
4 5 1 4 Phúc Lâm
0 5 Bột Xuyên
0 6 Mỹ Thành
1 2 1 7 An Mỹ
0 8 Hồng Sơn
1 2 7 4 9 Lê Thanh
0 10 Xuy Xá
0 11 Phùng Xá
2 2 12 Phù Lưu Tế
7 7 13 TT Đại Nghĩa
1 3 2 14 Đại Hưng
4 4 15 Vạn Kim
2 1 1 16 Đốc Tín
1 2 1 17 Hương Sơn
2 2 18 Hùng Tiến
2 3 1 19 An Tiến
1 1 4 2 20 Hợp Thanh
2 2 21 Hợp Tiến
3 1 2 22 An Phú
3 9 81 43 3 14 Cộng
[126]
104
Căn cứ vào các tiêu chí của một trang trại, tính đến tháng 7/2007, qua
điều tra rà soát toàn huyện đã có 81 trang trại. Số trang trại năm 2007 so với
năm 2001 đã tăng thêm 62 trang trại, trong đó:
- Trang trại thủy sản – chăn nuôi kết hợp: có 43 trang trại. Diện tích đất
của các trang trại này là 1.625 ha. Số lao động của trang trại là 382 người,
trong đó có 90 lao động của chủ trang trại. Tổng số vốn đầu tư của các trang
trại loại mô hình này là 10.750 triệu đồng, trong đó có 4.290 triệu đồng là vốn
đi vay. Thu nhập bình quân của một trang trại là 90 triệu đồng/trang trại/năm,
giá trị hàng hóa bình quân cho một trang trại là 123,3 triệu đồng.
- Trang trại chăn nuôi tập trung: có 14 trang trại với tổng diện tích đất là
138,19 ha. Số lao động của trang trại là 96 người, trong đó có 40 lao động là
của chủ trang trại. Tổng số vốn đầu tư của các chủ trang trại loại mô hình này
là 18.200 triệu đồng, trong đó có 8.370 triệu đồng là vốn đi vay. Thu nhập
bình quân của một trang trại là 1.200 triệu đồng/trang trại/năm, giá trị hàng
hóa bình quân cho một trang trại là 591,8 triệu đồng.
- Trang trại trồng cây ăn quả: 3 trang trại với tổng diện tích là 7,5ha. Số
lao động là 23 người trong đó có 9 lao động là của chủ trang trại. Tổng số vốn
đầu tư của chủ trang trại là 470 triệu đồng, trong đó vốn vay là 40 triệu đồng.
Bình quân thu nhập của mỗi trang trại là 50 triệu đồng/trang trại/năm, giá trị
hàng hóa đạt 64,3 triệu đồng.
- Trang trại trồng cây hàng năm: 9 trang trại với tổng diện tích là 67 ha.
Tổng số trang trại của loại trang trại này là 149 người, trong đó lao động của
chủ trang trại là 39 người. Tổng số vốn đầu tư là 1.250 triệu đồng, trong đó có
610 triệu đồng là vốn đi vay. Thu nhập bình quân của một trang trại đạt 80
triệu đồng/trang trại/năm, giá trị hàng hóa bình quân là 60,6 triệu đồng.
- Trang trại kinh doanh tổng hợp: 3 trang trại với 16 lao động và tổng số
vốn đầu tư là 1.650 triệu đồng (vốn vay là 720 triệu đồng). Thu nhập bình
quân của một trang trại đạt 85 triệu đồng/trang trại/năm.
Qua khảo sát các loại hình trang trại trên địa bàn huyện cho thấy: mô
hình trang trại chăn nuôi và trang trại thủy sản – chăn nuôi kết hợp có thu
105
nhập và giá trị hàng hóa cao hơn các mô hình trang trại khác. Có thể kể đến
một số mô hình điển hình trong hai loại trang trại này như sau:
+ Mô hình trang trại lúa – lợn – cá – dê, quy mô 15 ha của chủ trang trại
Nguyễn Xuân Chỉnh (xã Hợp Thanh) cấy một vụ lúa, thả cá một vụ, nuôi lợn
thịt và nuôi dê. Đây là trang trại có quy mô nuôi lợn thịt lớn khoảng 500
con/năm với tổng sản lượng 45 tấn thịt lợn hơi/năm. Ngoài ra hàng năm thu
40 tấn lúa, 30 tấn cá, 40 con dê. Chi phí sản xuất hàng năm 1,308 triệu
đồng/ha. Thu nhập ròng từ trồng trọt, chăn nuôi khoảng 390 triệu đồng/năm.
Thu nhập chủ yếu từ cá (50%) và lợn (41%). Nếu trừ chi phí trả lãi Ngân
hàng, tiền thuê đất, khấu hao tài sản cố định, lãi thực tế của trang trại vào
khoảng 236 triệu đồng/năm. Về môi trường, chủ trang trại đã làm hầm Bioga
xử lý phân bón trước khi đưa vào nuôi cá, vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa
không làm ô nhiễm môi trường.
+ Mô hình trang trại chuối – cá – vịt, quy mô 3 ha của chủ trang trại
Nguyễn Văn Trường (xã Đốc Tín). Thu nhập ròng hàng năm 265 triệu đồng,
trong đó thu nhập từ chuối chiếm 73,6%. Nếu trừ chi phí trả lãi ngân hàng,
khấu hao tài sản cố định thì lãi thực tế của trang trại là 178,5 triệu đồng/năm.
+ Mô hình trang trại sen – cá – vịt, quy mô 1,008ha của chủ trang trại
Bùi Minh Thữ (xã Hùng Tiến). Sản lượng thu được hàng năm của trang trại
là: 1,4 tấn sen, 93.400 quả trứng (320 con vịt đẻ), 2 tấn cá. Thu nhập ròng
bình quân hàng năm 54,8 triệu đồng, cho lãi 46,5 triệu đồng/ năm.
+ Mô hình lúa – cá – lợn – bò của chủ trang trại Phùng Văn Thế (xã Tuy
Lai) với sản lượng bình quân hàng năm: 7 tấn lúa nếp, 12 tấn cá, 2,8 tấn lợn
thịt, 80 con lợn giống, 2 con bê. Thu nhập ròng của trang trại vào khoảng 115
đến 130 triệu đồng/năm, trong đó từ cá 58,7%, lợn 17,8%, lúa 7,3%. Nếu trừ
chi phí trả lãi ngân hàng, chi phí thuê đất, khấu hao tài sản cố định, lãi thực tế
của trang trại vào khoảng 60 - 70 triệu đồng/năm.
+ Mô hình trang trại chăn nuôi gà đẻ của gia đình ông Nguyễn Văn Thơ,
(xã Đồng Tâm) với diện tích 1,0 ha. Vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng 300
106
triệu đồng, vốn đầu tư giống và thức ăn trong một năm 2,4 tỷ đồng, hàng năm
thu 3.000.000 quả trứng. Nếu trừ chi phí vốn ngân hàng, tiền thuê đất, khấu
hao tài sản cố định còn lãi từ 500 đến 700 triệu đồng/ năm.
Nhìn chung, qua kết quả thực hiện phát triển trang trại cho thấy, số trang trại
sản xuất nông nghiệp trong huyện còn ít về số lượng và nhỏ về quy mô.
Về diện tích: diện tích của các trang trại còn nhỏ. Trong số bình quân
7,3ha diện tích một trang trại có 2,4 ha là đất thầu quỹ đất I, còn lại 4,9 ha là
quỹ đất II, từ đó các trang trại chưa yên tâm đầu tư mạnh. Bình quân một
trang trại trồng cây hàng năm và trồng cây lâu năm mới đảm bảo trên 2,5ha/
trang trại.
Vốn đầu tư vào sản xuất của các trang trại cũng còn khiêm tốn, bình
quân một trang trại mới đầu tư 284,3 triệu đồng, trong đó vốn vay là 98,2
triệu đồng. Qua tổng hợp ở các trang trại cho thấy vốn ở các trang trại trồng
cây ăn quả và trang trại trồng cây lâu năm có vốn đầu tư ít hơn cả (từ 130 -
150 triệu đồng). Các trang trại thủy sản – chăn nuôi kết hợp và trang trại chăn
nuôi tập trung có vốn đầu tư nhiều hơn. Đây cũng là đặc thù của từng mô hình
trang trại. Các chủ trang trại chưa đảm bảo được vốn để sản xuất, vốn đi vay
chiếm tới 35% tổng số vốn đầu tư, trong đó vốn vay ngân hàng là 26%.
Từ tiêu chí diện tích, vốn đầu tư còn ít, nên thu nhập của các trang trại
cũng mới chỉ đạt mức trung bình, bình quân đạt 54 triệu đồng, bình quân giá
trị hàng hóa của một trang trại cũng mới đạt 219 triệu đồng. Tổng giá trị thu
nhập đạt 52 triệu đồng/1ha diện tích đất canh tác. Thu nhập bình quân trong
năm một lao động của chủ trang trại mới đảm bảo được 12,5 triệu, như vậy là
còn thấp so với mục tiêu phát triển kinh tế trang trại của huyện.
Về trình độ chuyên môn của chủ trang trại: trong tổng số 72 chủ trang trại
mới có 12 chủ trang trại có trình độ trung cấp và 7 chủ trang trại có trình độ cao
đẳng và đại học. Như vậy, các chủ trang trại trên địa bàn huyện còn sử dụng
nhiều vào kinh nghiệm sản xuất tự có, nên việc tiếp thu được những khoa học
mới, tiến độ trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản còn nhiều hạn chế.
107
Về công tác môi trường của các trang trại: Các hộ sản xuất theo mô hình
thủy sản – chăn nuôi kết hợp đã có 8 hầm Bioga tập trung ở thị trấn Đại
Nghĩa. Một số trang trại chăn nuôi tập trung cũng đã được di dời ra xa khu
dân cư để đảm bảo vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, việc chăn nuôi của nhiều
trang trại cho vẫn chưa có quy trình xử lý chất thải hợp lý. Nhiều trang trại sử
dụng chất thải của gia súc, gia cầm xả xuống các ao nuôi cá và trực tiếp bón
cho cây trồng trong khu chuyển đổi, đã làm ô nhiễm nguồn nước và không
khí, ảnh hưởng tới môi trường sống của khu dân cư. Vấn đề này đòi hỏi các
cấp chính quyền cần phải đặc biệt chú ý trong quá trình chỉ đạo phát triển
kinh tế trang trại trong những năm tới.
Phát triển trang trại là xu hướng tất yếu, phù hợp với quy luật để phát triển
nông nghiệp theo hướng tăng khối lượng nông sản hàng hóa, tăng thu nhập trên
đơn vị diện tích, tăng khả năng thu hút lao động giải quyết việc làm. Ở Mỹ
Đức, mặc dù các trang trại thường phát triển một cách tự phát do công tác quản
lý thường xuyên của chính quyền còn yếu, chưa có sự liên kết chặt chẽ và hỗ
trợ thỏa đáng về định hướng phát triển, vốn, kĩ thuật sản xuất, phòng ngừa rủi
ro…giữa Nhà nước, nhà khoa học với các chủ trang trại, vì vậy giá trị thu nhập
trên 1 đơn vị diện tích của trang trại còn thấp. Nhưng, việc phát triển kinh tế
trang trại đã khẳng định ưu thế hơn hẳn kinh tế hộ nông dân về khai thác tiềm
năng đất đai, lao động, huy động nguồn vốn… đã tạo ra nhiều sản phẩm nông,
lâm nghiệp và thủy sản, đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng trong huyện và
các huyện, tỉnh xung quanh; thu hút một lực lượng lao động dư thừa đáng kể ở
nông thôn, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động. Phát
triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu
cây trồng, vật nuôi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo tiền để cho
công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, đưa các ngành nghề dịch vụ vào
nông thôn, làm thay đổi bước đầu bộ mặt nông thôn.
* Lâm nghiệp:
Phát triển các ngành lâm nghiệp được coi là hướng chính của Mỹ Đức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Huyện đã có
108
những chính sách nhằm khuyến khích tăng cường sự tham gia của nhân dân
vào trồng rừng, tự do hóa thương mại lâm sản. Nhưng lâm nghiệp không phải
là thế mạnh kinh tế của Mỹ Đức. Từ năm 1996 – 2000, huyện đã chỉ đạo các
địa phương có đất trồng rừng làm tốt công tác quản lý, bảo vệ, chăm sóc và
phòng chống cháy rừng với tổng diện tích rừng ổn định là 2.080 ha, chiếm
10,2% diện tích đất lâm nghiệp, song trữ lượng chưa có do mới trồng. Rừng
chủ yếu là rừng tự nhiên, rừng đặc dụng ít, lại do yêu cầu bảo vệ môi trường,
phục vụ thắng cảnh nên sản phẩm khai thác lại quá ít, vì vậy kinh tế lâm
nghiệp chỉ chiếm 0,49% trong tổng sản phẩm xã hội của huyện.
Năm 2003, huyện Mỹ Đức đã giao toàn bộ diện tích rừng cho dân quản
lý. Huyện đã trồng được 44 ha rừng tập trung, 180 nghìn cây phân tán, chăm
sóc được 1385,5 ha. Giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 15.577 triệu đồng [121].
Diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện Mỹ Đức năm 2007 là
3.568,76 ha, chiếm 15,31% diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu ở các xã:
Hợp Tiến (24,26ha); Hương Sơn (2.372,97 ha); An Phú (956,44 ha) và Tuy
Lai (215,09 ha). Trong đó, diện tích rừng đặc dụng là 3.073,57 ha, tập trung
toàn bộ diện tích ở 2 xã Hương Sơn (2.372,97 ha) và An Phú (700,06 ha), giữ
vai trò phục vụ khu vực thắng cảnh và bảo vệ môi trường. Phần diện tích rừng
còn lại đều là rừng sản xuất (452,59 ha), phân bố ở một số xã như Hợp Tiến,
Tuy Lai… nhưng trữ lượng gỗ không cao.
Do rừng tự nhiên đa phần là rừng đặc dụng, phục vụ thắng cảnh và bảo
vệ môi trường, không được khai thác, vì vậy giá trị sản xuất chỉ đạt 4.520
triệu đồng, chiếm 0,97% tổng giá trị sản xuất ngành nông – lâm nghiệp.
* Ngư nghiệp:
Về nuôi trồng thủy sản, diện tích mặt nước của Mỹ Đức khá lớn 1.039
ha, chiếm 10,35% đất tự nhiên, trong đó đã có 530,6 ha thả cá, còn lại mặt
nước sông suối nếu được tận dụng tốt sẽ mang lại hiệu quả cao trong nuôi
trồng thủy sản. Trình độ thâm canh nuôi thả cá của người dân ngày một tốt
hơn nên sản lượng cá thịt hàng năm tăng: năm 1996 là 1.045 tấn đến năm
109
2000 lên 1.600 tấn, tăng bình quân hàng năm là 11,3%. Phong trào nuôi trồng
thủy đặc sản như: baba, ếch, cá trê phi…đã được khởi xướng nhưng đến nay
chưa phát triển mạnh do khâu tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, giá trị sản xuất của
ngành thủy sản mới đạt 8.050 triệu (chiếm 1,76% tổng sản phẩm xã hội), chưa
đáp ứng được nhu cầu tại chỗ, đồng thời chưa tương xứng với tiềm năng sẵn
có của địa phương.
Diện tích nuôi thả thủy sản trên địa bàn huyện Mỹ Đức năm 2005 là 677,65
ha, tăng 149,62 ha so với năm 2000, chiếm 2,93% tổng diện tích đất tự nhiên. Về
sản lượng: năm 2004 đạt 2.434 tấn thủy sản các loại. Cơ cấu sản lượng cũng có
nhiều biến động theo chiều hướng tăng, năm 2000 chỉ chiếm 3,89% giá trị sản
xuất ngành nông nghiệp, thì đến năm 2004 chỉ tiêu này đạt 7,31%. Trong nội bộ
ngành, cá là loại con nuôi chiếm tỷ trọng chủ yếu. Tôm càng xanh mới được đưa
vào nuôi ở thị trấn Đại Nghĩa tuy nhiên diện tích chưa nhiều.
Từ năm 2003, do kết quả của quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi trên địa bàn huyện, hiện đã có khoảng 520 ha diện tích vùng đất lúa úng
trũng (đất 1 vụ lúa có năng suất thấp) được chuyển sang sản xuất theo phương
thức 1 vụ lúa – 1 vụ cá, đem lại hiệu quả kinh tế cao gấp 2 - 3 lần so với trồng
lúa đơn thuần. Vì vậy, diện tích này những năm sau đó đã tăng lên nhanh
chóng: năm 2004 là 505 ha, năm 2005 là 518,64 ha, đến năm 2008 tăng lên
2.246 ha (trong đó 200 ha nuôi thâm canh,1.430 ha nuôi bán thâm canh ở
ruộng trũng và 616 ha nuôi quảng canh ở hồ Quan ơn).
Do diện tích nuôi trồng thủy sản ngày càng được mở rộng, trình độ thâm
canh ngày càng được nâng cao nên sản lượng thủy sản cũng tăng lên mạnh
mẽ. Nếu năm 2004, ngành thủy sản mới đạt sản lượng 2.434 tấn thì đến năm
2008 con số sản lượng đã lên 3.087 tấn, trong đó 83,8% là từ nuôi cá. Số hộ
nuôi thủy sản năm 2008 là 825 hộ, đạt năng suất trung bình 1,73 tấn/ha/năm
(vùng nuôi thâm canh đạt 4,2 tấn, vùng nuôi quảng canh ở hồ Quan Sơn đạt
0,25 tấn). Giá trị thủy sản ước đạt 48 tỷ đồng, chiếm 13% cơ cấu ngành nông
– lâm – ngư nghiệp năm 2007.
110
Chăn nuôi được chú ý đầu tư đã đem lại thu nhập kinh tế cho các hộ gia
đình. Nhiều hộ gia đình phát triển chăn nuôi thành ngành chính và trở thành
những điển hình tiên tiến trong phát triển thi đua sản xuất giỏi. Năm 2000, huyện
có 115 hộ nông dân sản xuất điển hình đạt danh hiệu sản xuất giỏi liên tục nhiều
năm, tiêu biểu nhất là hộ chị Nguyễn Thị Út (xã An Mỹ), hộ anh Nguyễn Văn
Hoạt (xã Hồng Sơn), hộ ông Nguyễn Duy Cương (xã Hương Sơn)…
- Hoạt động khoa học - kỹ thuật và công nghệ trong nông nghiệp:
Xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là trọng tâm. Từ năm
1996 trở đi, Mỹ Đức đã đẩy mạnh hoạt động khoa học công nghệ phục vụ sản
xuất nông nghiệp, như tổ chức 277 lớp tập huấn kiến thức sản xuất nông
nghiệp cho 27.600 lượt người, tổ chức 2 lớp đào tạo giảng viên IPM trên lúa
cho cơ sở, xây dựng và phát triển tập san ”Nông nghiệp và nông thôn Mỹ
Đức” nhằm chuyển tải những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
những thông tin kinh tế, khoa học - kỹ thuật, gương người tốt, việc tốt để
khuyến khích nhân dân trong huyện phát triển nông nghiệp, nông thôn. Ngoài
ra, huyện đã ứng dụng khoa học kỹ thuật, đưa giống mới và kỹ thuật canh tác
tiên tiến vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi (lúa,
ngô, đậu tương, dâu tằm, gia súc, gia cầm…Thực hiện thắng lợi các chương
trình, mục tiêu như chương trình chăn nuôi, kiên cố cứng hóa kênh mương,
chương trình lương thực, xóa đói giảm nghèo và chương trình nâng cao chất
lượng hoạt động của các HTX nông nghiệp. Bộ mặt nông thôn không ngừng
được đổi mới, công tác bảo vệ môi trường được quan tâm.
Tóm lại, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì sản xuất nông nghiệp của
Mỹ Đức phát triển chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh của địa phương:
+ Nông nghiệp vẫn còn mang tính độc canh cây lúa, nên khi úng lụt đã
ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và thu nhập của
nông dân. Tiềm năng mở rộng vụ đông chưa được khai thác triệt để. Chưa có
vùng nào phát triển đa dạng cây trồng, vật nuôi để phục vụ nhu cầu tiêu dùng,
phục vụ khách du lịch và cung cấp cho các thị trường ở thành phố, thị xã.
111
Chưa phát triển sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế để tăng thu nhập trên
1 đơn vị diện tích.
+ Về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch còn chậm.
Trong nông nghiệp, cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi chưa có sự đột biến,
tỷ trọng giá trị trồng trọt trong giá trị sản xuất nông nghiệp còn rất cao, tỷ
trọng chăn nuôi và dịch vụ rất thấp. Quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm nông sản
chủ yếu ở dạng sơ chế, bán nguyên liệu thô là chính.
+ Việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp
chưa mạnh. Một số nơi, việc đưa cây, con có năng suất cao vào sản xuất còn
dè dặt dẫn tới năng suất lúa và một số cây trồng còn thấp so với kế hoạch đề
ra. Công tác quản lý và điều hành làm dịch vụ sản xuất nông nghiệp còn hạn
chế, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn… Tuy nhiên, với những thành tựu đã
đạt được trong sản xuất nông nghiệp, những bài học kinh nghiệm được rút ra
trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện đã tạo nền tảng để Mỹ
Đức phát huy thế mạnh của huyện, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh tế nông
nghiệp theo đường lối CNH, HĐH mà Đảng đã đề ra.
b) Thủ công nghiệp - công nghiệp
Nhóm ngành công nghiệp xây dựng cơ bản của Mỹ Đức trong giai đoạn
2005 – 2007 có tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 22,2%/năm, cao hơn
tốc độ tăng trưởng chung (16,42%/năm). Trong đó, công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp đạt tốc độ 6,8%/năm, nhóm ngành xây dựng đạt 30,32%/năm.
Nguyên nhân là do sự đầu tư xây dựng một số công trình hạ tầng và dich vụ
cho phát triển kinh tế trên địa bàn huyện trong. Tỷ trọng của nhóm ngành
công nghiệp – xây dựng cơ bản cũng tăng lên từ 18,83% năm 2005 lên 20,2%
năm 2007, 6 tháng đầu năm 2008 là 18,2% (mục tiêu Đại hội là 25%). Giá trị
sản xuất năm 2005 đạt 195,4 tỷ đồng đến năm 2007 tăng lên 307 tỷ đồng, ước
thực hiện năm 2008 đạt 358,7 tỷ đồng. [121, tr 10].
Số lượng các cơ sở công nghiệp ở Mỹ Đức tăng lên: Năm 2003, có 3773
cơ sở; năm 2007 có 4.809 cơ sở sản xuất công nghiệp trong đó, 100% là các
112
cơ sở ngoài quốc doanh tạo ra 97 tỷ đồng năm 2007 (giá 1994). Các cơ sở này
chủ yếu khai thác đá, cát sông, sản xuất gạch, ngói, vôi, dệt... Ngoài ra, còn có
các cơ sở công nghiệp do Trung ương và Quốc phòng quản lí: Xí nghiệp ươm
tơ, Xí nghiệp gạch ngói C5 (quân đội) đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu
kinh tế huyện nhà, thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế khác phát triển.
Trên địa bàn huyện có 7 làng nghề, tổng quy mô 40 ha, với các nghề
điển hình là dệt, may, nhuộm (Phùng Xá), thêu (Thượng Lâm, Phúc Lâm); vật
liệu xây dựng (An Phú); chế biến nông sản như rượu trắng, gạo, đậu phụ, giò
chả (Thượng Lâm, Đại Nghĩa, Phù Lưu Tế); mộc, mây tre đan (Phúc Lâm)…
Bên cạnh những nghề truyền thống, như: thêu ren ở Đồng Tâm; nghề dệt
ở Phùng Xá; trồng dâu, nuôi tằm ở Đốc Tín, Đại Hưng, Phù Lưu Tế; nghề đan
ở An Tiến... được đầu tư, phục hồi và phát triển. Một số nghề mới được đưa
vào các địa phương và bước đầu mang lại hiệu quả tốt, như: đồ gỗ cao cấp ở
An Mỹ, Hương Sơn, Phù Lưu Tế, Đại Nghĩa; Nghề thêu kimônô ở Đồng
Tâm... Tốc độ bình quân hàng năm của ngành thủ công nghiệp là 4,4%. Năm
2000, giá trị thu từ hàng thủ công nghiệp đạt 55 tỷ đồng [121, tr 10].
Nhìn chung, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Mỹ Đức cũng là ngành có
nhiều thế mạnh. Tuy nhiên, sản xuất còn phân tán, quy mô nhỏ. Vấn đề môi
trường do sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hiện vẫn là vấn đề bức xúc
nhưng cần có ngay những biện pháp quản lý nghiêm túc nhằm đảm bảo môi
trường cho mục tiêu phát triển du lịch. Đồng thời, công nghiệp chế biến nông
sản nhằm nâng cao giá trị kinh tế của sản xuất nông nghiệp vẫn còn chưa được
phát triển, chưa hình thành được các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp như sản
phẩm lưu niệm phục vụ khách du lịch, mặc dù đây là thị trường ổn định và lâu
dài. Như vậy, mối dây liên hệ giữa nông nghiệp – công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp – du lịch còn chưa được hình thành một cách đúng mức.
c) Thương mại, dịch vụ, du lịch
Hoạt động thương mại: phát triển hàng hóa đa dạng và phong phú, đáp
ứng phần lớn các nhu cầu và sức mua của nhân dân. Ngoài việc cung ứng
113
những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân,
ngành thương mại Mỹ Đức cũng đã tập trung vào các dịch vụ sản xuất nông
nghiệp như cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu… Huyện đã có 1 trung
tâm thương mại ở thị trấn Đại Nghĩa, 2 chợ phạm vi vùng ở xã Hương Sơn và
An Mỹ. Tất cả 22 xã của huyện đã có chợ, trong đó có 9 chợ ổn định, lâu dài
và 11 chợ tạm. Thực hiện một chợ giữ vai trò là đầu mối giao lưu buôn bán
hàng hóa và dịch vụ, phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Năm 2000 là 1.675 thì đến năm 2005 đã tăng lên đến 2.390 hộ kinh
doanh thương nghiệp chuyên nghiệp. Trong số đó hơn 1000 hộ được cấp
giấy phép kinh doanh. Năm 2001, số hộ đăng ký kinh doanh là 2.703 hộ.
Doanh thu bình quân của mỗi năm đạt khoảng 70-75 tỷ đồng/năm [121;
tr.12]. Nếu như từ năm 1996 đến năm 2000, những nghề chiếm số lượng
lớn là: bảo dưỡng, sửa chữa, bán mô tô, xe máy và phụ tùng xe máy; bán
buôn nguyên phế liệu; bán lẻ thực phẩm đồ uống, quần áo, giày dép, đồ
dùng gia đình... Từ năm 2001 đến năm 2008, những nghề có số hộ kinh
doanh nhiều đã có sự thay đổi đáng kể, ngoài những hình thức kinh doanh
kể trên còn xuất hiện nhiều hộ kinh doanh thương mại và dịch vụ mới như:
sửa chữa máy thu hình, dịch vụ photocopy, kinh doanh khách sạn nhà hàng,
ăn uống công cộng... Số hộ kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ và du lịch ở
Mỹ Đức phân bố không đều, chủ yếu nằm ở khu vực các thị trấn, thị tứ như
Tế Tiêu, Đại Nghĩa, Hợp Thanh, An Mỹ, Tuy Lai, Hương Sơn, Phùng Xá...
phục vụ đời sống sinh hoạt thuận tiện cho nhân dân.
Trong 2 năm 2006 - 2007, ngành thương nghiệp, dịch vụ đang vươn lên
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn với các thành phần kinh tế tham gia. Nhìn
chung trong 7 năm (2001-2007), doanh thu thương nghiệp - dịch vụ năm sau
cao hơn năm trước. Năm 2001 đạt 157 tỷ đồng thì năm 2007 là 271 tỷ đồng,
đạt 107,7% kế hoạch. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ - du
lịch, năm 2007 đạt 687 tỷ đồng, tăng 25,45% so với 2001 và tăng 11,32% so
với kế hoạch [121; tr 16].
114
Đây là thời kỳ huyện Mỹ Đức đẩy mạnh phát triển ngành du lịch. Được
sự chỉ đạo của tỉnh, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã tập trung phối hợp
với các ban ngành của tỉnh cũng như của địa phương, tiếp tục đầu tư, nâng
cấp cơ sở hạ tầng và tăng cường công tác quản lý, đặc biệt là tổ chức lễ hội
chùa Hương để thu hút du khách.
Một loạt các công trình được tiến hành như: nâng cấp, rải nhựa đường
trục huyện từ Tế Tiêu đến Hương Sơn; tu bổ, cải tạo đường bộ khu vực chùa
Hương; nạo vét suối Yến, mở rộng bến đò, tổ chức quản lý lễ hội an toàn,
thuận tiện. Nhờ vậy, ngành dịch vụ đều phát triển, tỷ trọng kinh tế dịch vụ du
lịch năm 1996 chiếm 20 % GDP, đến năm 1997 tăng 22% GDP. Khu vực hồ
Quan Sơn ngày càng được đầu tư nâng cấp, trở thành khu du lịch cuối tuần
hấp dẫn. Với sự phát triển và đóng góp của ngành du lịch - dịch vụ, mục tiêu
đến năm 2000 đạt 25 % GDP do Đại hội XIX đề ra [8, tr 296].
Ngành dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2005 –
2008, 32,48%/năm. Vì vậy, tỷ trọng của ngành trong cơ cấu kinh tế cũng tăng
lên từ 23,32% năm 2005 lên 29,4% năm 2007, 6 tháng đầu năm 2008 là
32,6%. Giá trị sản xuất của ngành cũng tăng từ 160,5 tỷ đồng (năm 2005) lên
406 tỷ đồng (năm 2007) [121; tr 20].
Hoạt động du lịch vốn là thế mạnh của huyện Mỹ Đức. Huyện có 3 khu
vực hoạt động du lịch, với loại hình chủ đạo là du lịch tâm linh và du lịch
nghỉ dưỡng. Khu du lịch thắng cảnh Hương Sơn với tổng diện tích 5.100 ha,
thuộc bộ phận xã Hương Sơn là khu du lịch quan trọng nhất của huyện, thu
hút khách du lịch không chỉ ở địa phương mà còn thu hút khách trên cả nước
và khách quốc tế. Năm 2007, tổng số lượt khách du lịch đến Mỹ Đức là 1,25
triệu lượt khách, trong đó có 22 nghìn khách nước ngoài (năm 2005 mới có
450 nghìn khách du lịch với 9 nghìn khách quốc tế). Ngoài ra, khu An dưỡng
đường Tuy Lai (xã Tuy Lai, diện tích 1.120 ha) và khu du lịch Quan Sơn (xã
Hùng Tiến và Hương Sơn, diện tích 1.730 ha cũng bắt đầu được khai thác cho
hoạt động du lịch. Doanh thu ngành du lịch tăng nhanh từ 33 tỷ đồng năm
115
2002 lên 55 tỷ đồng năm 2005 [121, tr 16]. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa các
khu du lịch trong huyện với nhau và giữa các khu du lịch trong huyện với các
khu du lịch ngoại vùng còn chưa được rõ nét, nên chưa tạo được một hệ thống
các tour du lịch hấp dẫn, thu hút khách du lịch ở lại dài ngày hơn. Các sản
phẩm đặc sản (mơ Hương Sơn, rau sắng, bánh củ mài…) và các ngành nghề
thủ công truyền thống (thêu, rệt…) chưa tạo ra được những sản phẩm lưu
niệm đặc sắc phục vụ du khách, vì vậy hiệu quả kinh tế còn chưa tương xứng
với tiềm năng vốn có của huyện.
d) Giao thông vận tải, xây dựng cơ bản
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung và đối với sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng, huyện Mỹ Đức tích cực đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng được đầu tư đúng hướng, có trọng điểm, lĩnh vực sản xuất
gắn với an ninh quốc phòng, thực hiện tốt phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng làm. Trong 5 năm (1996 – 2000), tổng số vốn đầu tư xây dựng là 151.854
triệu đồng, trong đó vốn của Trung ương và của tỉnh là 33.811 triệu đồng, ngân
sách huyện là 15.224 triệu đồng, nhân dân góp 102.821 triệu đồng, tập trung vào
xây dựng các công trình phục vụ phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Qua đầu
tư, nhiều năng lực sản xuất mới được tăng thêm, phục vụ có hiệu quả cho kinh tế
- xã hội của huyện phát triển, nhất là giai đoạn 2000 đến 2007:
* Giao thông vận tải:
Hệ thống giao thông trên địa bàn huyện đã được mở rộng. Huyện đã tập
trung làm mới và nâng cấp một số tuyến đường quan trọng liên huyện, liên
xã, như tuyến đường Tế Tiêu đi Chợ Bến; đường trục huyện từ thị trấn Tế
Tiêu đo Hương Sơn. Các đường trục từ huyện đi Phúc Lâm, đường An Mỹ -
Tuy Lai, Tê Tiêu - Chợ Vài, Đại Nghĩa - An Tiến... đều được tu sửa, nâng
cấp. Đường liên thôn của các xã Đại Hưng, Hương Sơn, Hợp Thanh, Mỹ
Thành, Vạn Kim, Hùng Tiến, Tuy Lai đã trải nhựa, đổ bê tông hoặc nâng cấp
phối, tạo cho bộ mặt nông thôn ngày một phong quang, sạch đẹp.
116
Trong giao thông, đã đầu tư làm mới và nâng cấp một số tuyến đường
giao thông quan trọng của huyện và đường liên xã như tuyến đường 76 từ thị
trấn Tế Tiêu đi chợ Bến, đường trục huyện từ thị trấn Tế Tiêu đi Hương
Sơn…Mạng lưới đường bộ phát triển đồng đều tới các xã, các thôn trong toàn
huyện với tổng chiều dài 112 km (trong đó tỉnh quản lý 16 km, huyện quản lý
96 km), chưa kể hàng trăm km giao thông nội đồng. Cải tạo và nâng cấp 10
bến xe khách trong toàn huyện. Hệ thống giao thông đã đảm bảo cho ô tô vận
tải tới từng xã, từng thôn trong huyện.
Hệ thống đường giao thông của Mỹ Đức khá hoàn chỉnh bao gồm 1
tuyến quốc lộ (1,4 km), 4 tuyến tỉnh lộ (49 km), 11 tuyến huyện lộ (108 km)
và hệ thống đường giao thông nông thôn gồm 625,83 km đường liên xã, thôn,
ngõ xóm nối liền các khu, điểm dân cư nông thôn trên địa bàn huyện. Ngoài
ra, trên địa bàn huyện có 3 bến xe di động, 7 bến xe tĩnh và 9 điểm đón trả
khách đang hoạt động. Nhìn chung, mạng lưới giao thông của Mỹ Đức bước
đầu đã đáp ứng được nhu cầu giao lưu và phát triển kinh tế của huyện.
Ngoài hệ thống giao thông đường bộ, Mỹ Đức còn gần 40 km giao thông
thủy trên sông Đáy, cảng Tế Tiêu có thể tiếp nhận các phương tiện vận tải trung
bình. Công suất 20.000 tấn/năm. Tuy nhiên, do luồng lạch ít được nạo vét, khối
lượng vận chuyển chưa nhiều, phương tiện vận tải đường sông cũng chưa được
đầu tư đúng mức nên khối lượng vận tải đường thủy còn hạn chế [121].
Do đặc điểm của mạng lưới giao thông Mỹ Đức, nên vận tải hành khách
và hàng hóa bằng đường bộ là chủ yếu. Số lượng xe cộ giai đoạn này tăng
nhanh: có 60 xe ô tô, 9 xe lam, 433 xe công nông và 6 thuyền máy phục vụ
nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của nhân dân. Số lượng xe tăng, khả
năng vận chuyển tốt, nên doanh thu vận tải tăng so với giai đoạn trước: đạt
10.120 triệu đồng (gấp 1,5 lần so với năm 1995) [121].
117
Bảng 3.7. Vận tải hàng hóa và hành khách
Mục Đơn vị 1995 2005
1. Vận tải hàng hóa:
- Khối lượng vận chuyển 1.000 tấn 101 230
- Khối lượng luận chuyển 1.000 tấn/năm 863 4.200
2. Vận tải hành khách
- Khối lượng vận chuyển 1.000 người 132 301
- Khối lượng luân chuyển 1.000 người/km 1926 2.327
[119, 121]
* Về xây dựng cơ bản:
- Thủy lợi: huyện đã xây dựng 8 trạm bơm mới: Hùng Tiến, Yến Vĩ
(Hương Sơn), Cầu Bãi Giữa (Hợp Thanh), Cống Đầm (Hợp Tiến), trạm bơm
An Mỹ 2, Phú Văn (Bột Xuyên), trạm bơm Phùng Xá và Lê Thanh. Ngoài
việc tôn cao đê hồ Quan Sơn, đê Hà Mỹ, đê Quán Quốc, kè đê sông Đáy đoạn
thôn Phù Yên xã Phúc Lâm và Phùng Xá để chống nước ngoại lai. Huyện đã
đầu tư xây mới 756 cầu cống các loại, thực hiện 8 km kiên cố hóa kênh
mương trên địa bàn toàn huyện.
Cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp, nông thôn được đầu tư ngày càng
lớn. Năm 2000, huyện có 31 trạm bơm điện với 191 máy bơm và tổng công
suất là 144.000 m3/h, trong đó có 148 máy bơm tưới với công suất 20.000
m3/h và có 43 máy bơm tiêu với công suất là 124.000 m3/h. Đến năm 2008,
huyện có 39 trạm bơm tiêu với 177 máy bơm các loại. Hệ thống kênh tiêu
chính là kênh tiêu trạm bơm Phù Lưu Tế; kênh tiêu 3 xã Hợp Tiến, Phù Lưu
Tế, Hồng Sơn; kênh tiêu N7. Bên cạnh đó, huyện có 122,7 km đê các loại là:
đê Độc Lập, đê sông Đáy, đê hồ Quan Sơn, đê Mỹ Hà [121].
Với hệ thống thủy lợi này sẽ đảm bảo cho nông nghiệp Mỹ Đức phát
triển một cách thuận lợi. Tuy nhiên, hiện trên địa bàn huyện còn 30 ha diện
tích cấy lúa chưa có công trình tưới, 1.000 ha vụ đông chưa có nguồn tưới ổn
định, 1.700 ha chưa có công trình tiêu đảm bảo. Vấn đề này đòi hỏi các ban
ngành chức năng của huyện phải có hướng giải quyết kịp thời.
118
- Các công trình khác của huyện như trụ sở Huyện ủy - Hội đồng nhân
dân - Ủy ban nhân dân huyện... được xây dựng và nâng cấp. Các công trình
đó đã phát huy hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội
của huyện.
- Hệ thống điện: Do có hướng ưu tiên phát triển điện của tỉnh Hà Tây,
nên hiện nay trên địa bàn huyện Mỹ Đức đã có 100% số xã và thị trấn có điện
lưới Quốc gia, với 100% số thôn và 99,2% số hộ gia đình đã được dùng điện.
Tính đến năm 2008, huyện có 196 trạm biến áp với 205 máy biến áp, đạt tổng
dung lượng 51.435 KVA, đảm bảo phục vụ nhu cầu điện 24/24h với chất
lượng an toàn và ổn định. Sản lượng điện năm 2007 đạt 64,5 triệu KWH. Tuy
nhiên, do tỷ lệ điện thất thoát lớn (10,39%), tình trạng quá tải điện đang diễn
ra do nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt ngày càng tăng. Vì vậy, bắt đầu
từ năm 2006, huyện đã triển khai chương trình cải tạo và nâng cấp công tơ và
dây hạ thế, hiện đã hoàn thành ở 13 xã. Năm 2008, huyện có kế hoạch nhập
lưới điện chống quá tải nhằm nâng cao chất lượng phục vụ của ngành điện.
Huyện Mỹ Đức tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng của địa phương, nhất
là về: điện - đường - trường trạm. Các công trình này hầu hết là sự kết hợp
giữa việc đầu tư từ ngân sách tỉnh, ngân sách huyện, cùng sự đóng góp của
nhân dân. Trên địa bàn huyện, hầu như xã nào cũng có từ 2 đến 4 trạm biến
thế điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Do có mạng lưới
điện nên nhiều gia đình ở các thôn xã mở mang các xưởng sản xuất, dịch vụ
như xay xát, gò hàn, cơ khí nhỏ, xưởng mộc, đặc biệt là hệ thống dịch vụ du
lịch ở khu vực chùa Hương. Nâng cấp các công trình về điện, cải tiến quản lý
điện để cung cấp điện nước cho nông dân, thuận tiện và phát triển.
e) Hoạt động tài chính - ngân hàng
Để phát triển kinh tế, xã hội, Huyện Mỹ Đức đã huy động từ nhiều
nguồn vốn khác nhau: Nhà nước cấp, nhân dân đóng góp và vốn đầu tư từ các
chương trình của các tổ chức Chính phủ hoặc phi Chính phủ tài trợ và vốn
tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
119
Bảng 3.8. Tổng số vốn đầu tƣ trên địa bàn huyện thời kỳ 1995 - 2005
(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Tổng vốn đầu tư
Trong đó: 1995 33.000 2000 31.200 2005 51.305
- Ngân sách tỉnh, Trung ương 3030 3120 5100
- Ngân sách huyện 2790 1225 3305
- Các nguồn khác 100 265 2228
- Huy động vốn đầu tư 2300 8090 15072
- Vốn dân xây dựng 24780 18500 25600
Tỷ lệ so tổng giá trị sản xuất 8,02% 7,4% 9,3%
[68, 76, 86]
Qua bảng trên cho thấy hàng năm tổng số vốn đầu tư chưa năm nào đạt
10% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn, do dân đóng góp là chủ yếu và tập trung
vào xây dựng cơ quan hành chính, việc đầu tư phát triển vào kinh tế của huyện.
Ngân hàng nhà nước hoạt động tích cực, đổi mới trong kinh doanh, tạo
điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế vay vốn phát triển sản xuất và
ổn định đời sống, xóa đói giảm nghèo.
Tuy nhiên, vẫn là một huyện nghèo của tỉnh Hà Tây, trên địa bàn huyện
có nhiều xã khó khăn, hàng năm phải trợ cấp, như xã: Hợp Thanh, An Phú,
An Tiến, Hùng Tiến, Đốc Tín, Vạn Kim, Đồng Tâm, Thượng Lâm, Phúc
Lâm, Bột Xuyên, thị trấn Tế Tiêu (Đại Nghĩa).
3.2.2. Sự chuyển biến về cơ cấu thành phần kinh tế
Nếu trước năm 1996, thành phần kinh tế chủ yếu của huyện Mỹ Đức
chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể thì sau năm 1996, thành
kinh tế ngoài quốc doanh đã xuất hiện và phát triển khá mạnh.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, bên cạnh thành phần tế tập thể (HTX),
thời kỳ này xuất hiện kinh tế tư nhân, nhất là hộ gia đình mạnh mẽ, kinh tế
theo mô hình trang trại do cá nhân quản lý. Điều này, gắn với sự phát triển
120
của chuyển đổi quản lý đất đai, dồn điền đổi thửa ở địa phương, tạo ra sự
chuyển đổi cơ cấu sản xuất và tổ chức quản lý.
Trong ngành thủ công nghiệp, việc khôi phục, khơi dậy và khuyến
khích kinh tế làng nghề đã trở thành cú hích lớn cho kinh tế tư nhân phát
triển mạnh ở Mỹ Đức. Nhiều cơ sở sản xuất gia đình đã tự chủ được nguồn
nguyên liệu, quy trình sản xuất và tiêu thụ. Sự năng động của các thành
phần kinh tế tư hữu đã phần nào là nguyên nhân quan trọng làm giảm
nhanh vai trò của kinh tế quốc doanh ở Mỹ Đức. Địa bàn phát triển mạnh
nhất là khu vực trung tâm bao gồm các xã Hồng Sơn, Lê Thanh, Xuy Xá,
Phùng Xá, Hợp Tiến, Phù Lưu Tế, Hợp Thanh, Đại Hưng và thị trấn Đại
Nghĩa. Chiếm tỉ trọng cao nhất trong GDP là kinh tế cá thể, tiểu chủ. Tất cả
các hộ nông dân và một phần lớn kinh doanh thương mại, sản xuất tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ - du lịch.
Những năm 2001 - 2007, trên địa bàn huyện có 76 cơ sở mới được thành
lập gồm 46 công ty trách nhiệm hữu hạn, 30 doanh nghiệp tư nhân, 3 tổ hợp tác.
Hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp chuyển đổi hoạt động theo Luật hợp tác
xã. Tuy nhiên cũng có một số doanh nghiệp kém phát triển, thua lỗ. Huyện có 11
hợp tác xã thủ công nghiệp xin tự nguyện giải thể. Nhìn chung trong thực hiện
Chương trình hành động của Huyện ủy, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp trên địa bàn ổn định, tiếp tục phát triển. Một số đơn vị kinh tế Nhà nước
như: Công ty Dược phẩm, Liên hợp thực phẩm, Công ty Len, Xây lắp điện,
Khảo sát thiết kế điện I… có nhiều cố gắng vươn lên trong sản xuất kinh doanh,
tăng mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Năm 2001, giá trị tổng sản lượng
của ngành đạt 129 triệu đồng, trong đó giá trị hàng xuất khẩu là 20,4 tỷ đồng,
tăng 10,3% so với năm 2000 [121; tr.8] Năm 2007, giá trị tổng sản lượng ước đạt
153,834 triệu đồng đạt 119,54% kế hoạch, tăng 17,8% so với 2001, trong đó giá
trị hàng xuất khẩu đạt 15.312 triệu đồng [122; tr.14].
Như vậy, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã và đang được khuyến khích
phát triển ở Mỹ Đức. Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế ngoài quốc
doanh được khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, kinh tế quốc doanh vẫn là
121
nòng cốt, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nói chung và trong ngành du
lịch nói riêng. So với giai đoạn trước, có sự dich chuyển về cơ cấu GDP giữa
các thành phần kinh tế:
Bảng 3.9. Cơ cấu GDP của Mỹ Đức theo thành phần kinh tế (%)
Độ dịch chuyển Thành phần kinh tế 1995 2003 1995 – 2003 (%)
- Kinh tế quốc doanh 34,0 28,0 -0,6
- Kinh tế ngoài quốc doanh 66,0 72,0 + 6,0
+ Kinh tế tập thể 2,5 3,8 + 1,3
+ Kinh tế tư bản tư nhân 16,6 21,0 + 4,4
+ Kinh tế cá thể - tiểu chủ 42,0 45,2 + 3,2
+ Kinh tế hỗn hợp 4,9 2,0 - 2.9
[119, 121]
So sánh giữa hai giai đoạn, cho thấy thành phần kinh tế quốc doanh
chiếm tỉ lệ nhỏ và có xu hướng giảm (6,0%). Kinh tế ngoài quốc doanh, nhất
là kinh tế tập thể tỏ ra có hiệu quả. Kinh tế tư nhân có những đóng góp đáng kể
trong cơ cấu GDP của huyện (tăng 4,4%). Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu
hoạt động trong các ngành dệt, thêu, kinh doanh xăng dầu. Còn có các trang trại
sản xuất nông nghiệp (15 trại) và 18 công ty trong lĩnh vực công nghiệp. Đây là
một điểm mới, có hiệu quả trong việc khai thác các nguồn lực của địa phương,
nâng cao mức sống của nhân dân và thay đổi bộ mặt kinh tế ở Mỹ Đức.
3.2.3. Sự chuyển biến về cơ cấu vùng kinh tế
Trên cơ sở các ngành kinh tế, căn cứ vào thế mạnh của từng vùng, từ năm
1996 đến 2008, cơ cấu kinh tế của huyện Mỹ Đức phát triển theo hướng công
nghiệp hóa, về mặt lãnh thổ sản xuất đã hình thành các cụm, các tiểu vùng kinh
tế với những điểm đô thị làm trung tâm kinh tế, văn hóa của địa phương. Đây là
một điểm rất mới so với thời kỳ trước năm 1996 của huyện Mỹ Đức.
Căn cứ vào vị trí địa lý, sự phân hóa về điều kiện tự nhiên và sự khác
biệt về điều kiện kinh tế, xã hội, lãnh thổ Mỹ Đức được phân hóa thành các
tiểu vùng sau:
122
- Tiểu vùng 1: Gồm 6 xã miền núi phía Bắc là Đồng Tâm, Thượng Lâm,
Tuy Lai, Hồng Sơn, Hợp Tiến và Hợp Thanh. Đây là vùng có lợi thế về trồng
cây lương thực, chăn nuôi gia cầm, đại gia súc; khai thác đá và sản xuất vi sinh.
Ngành nông nghiệp của vùng có chuyển biến tích cực theo hướng giảm tỉ
trọng ngành trồng trọt, tăng tỉ trọng chăn nuôi và phát triển rừng. Hướng chính
của vùng chuyển dịch vào sản xuất hàng hóa với nhóm cây trồng hàng năm chủ
lực là lúa, ngô, lạc, đậu tương, cây ăn quả. Sản phẩm chính của ngành chăn nuôi
là bò lai sind, dê, lợn và gia cầm. Vùng có số lượng bò lớn nhất huyện với 4.313
con (chiếm 51,6% tổng đàn bò toàn huyện).
Thế mạnh công nghiệp lớn nhất của vùng 1 là công nghiệp khai thác, điển
hình là khai thác đá và khai thác than bùn sản xuất vi sinh: khai thác đá chiếm
80% toàn huyện, khai thác vi sinh chiếm 100% toàn huyện. Các ngành công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp khác cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể như: công
nghiệp chế biến lương thực – thực phẩm (30 – 35%), sản xuất đồ may mặc
(35%), mây tre đan (28%) so với toàn huyện.
Hoạt động thương mại, dịch vụ ở tiểu vùng phát triển nhanh cả về quy mô
và tốc độ. Nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh doanh, có 2 chợ (Chợ Vài,
chợ Tuy Lai) là 2 trong 4 thị tứ được quy hoạch phát triển thành trung tâm
thương mại của huyện.
Hoạt động du lịch được đẩy mạnh. Năm 1994, khu du lịch hồ Quan Sơn
được đưa vào khai thác, đến năm 2003, doanh thu đã đạt 239 triệu đồng. Ngoài
ra, vùng còn có nhiều tiềm năng du lịch như: Núi Cối (Tuy Lai), chùa Cao,
Nương Ngái (Hồng Sơn), hồ Tuy Lai, Vĩnh An... là những điểm đầu tư để thu
hút du khách đến nghỉ ngơi cuối tuần.
-Tiểu vùng 2: Gồm 12 xã, thị trấn ven Đáy là Phúc Lâm, Mỹ Thành, Bột
Xuyên, An Mỹ, Lê Thanh, Xuy Xá, Phùng Xá, Phù Lưu Tế, Thị trấn Đại
Nghĩa, Đại Hưng, Vạn Kim và Đốc Tín: Đây là vùng có vị trí quan trọng nhất
trong nền kinh tế của toàn huyện. Sông Đáy và đường trục huyện chạy qua
13/13 xã, thị trấn của vùng. Đây thực sự là lợi thế của vùng so với các tiểu
123
vùng khác, từ đây có thể giao lưu, trao đổi hàng hóa, thông thương với tất cả
các vùng trong huyện cũng như trong tỉnh và ngoài tỉnh. Vùng này có thế
mạnh phát triển thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp; ngoài ra còn trồng
cây lương thực, dâu tằm, chăn nuôi gia cầm, gia súc.
Do nằm bên bờ sông Đáy nên tiểu vùng có điều kiện đất đai, nguồn nước
thuận lợi đối với sản xuất nông nghiệp. Vì thế, vùng đã hướng tổ chức sản
xuất nền nông nghiệp theo hướng hàng hóa, chuyên môn hóa cao, điển hình là
cây lúa, hoa màu và dâu tằm. Vùng chiếm 48% giá trị sản xuất toàn Mỹ Đức.
Ngành nuôi trồng thủy sản và đánh bắt cá phát triển, chiếm 85% lượng
đánh bắt toàn huyện, chủ yếu thực hiện trên sông Đáy. Huyện đã tập trung
tăng nuôi trồng, đặc biệt là nuôi cá lồng trên sông Đáy.
Có lợi thế về tài nguyên, lao động và cơ sở hạ tầng nên công nghiệp –
thủ công nghiệp của tiểu vùng 2 khá phát triển, chiếm 60% tổng giá trị sản
xuất công nghiệp toàn huyện. Trong đó, công nghiệp dệt, sản xuất miến, khai
thác cát va ươm tơ của huyện tập trung toàn bộ tại tiểu vùng này (100%0.
Kinh tế phát triển, đông dân cư sinh sống, nên hoạt động thương mại, dịch
vụ của tiểu vùng diễn ra sôi nổi. Hệ thống mạng lưới chợ dày đặc, thị trấn Tế
Tiêu có vị trí thuận lợi và tiềm lực để trở thành trung tâm thương mại – dịch vụ.
Đó là hạt nhân cho sự phát triển kinh tế của các địa phương trong vùng.
- Tiểu vùng 3: Gồm 4 xã miền núi phía Nam là Hương Sơn, Hùng Tiến,
An Tiến, An Phú. Đây là vùng phát triển kinh tế toàn diện với thế mạnh về du
lịch, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ. Đặc biệt là du lịch, doanh thu du
lịch của vùng chiếm 97% so với tổng doanh thu du lịch toàn huyện. Đây là lợi
thế của vùng so với các vùng khác và là vùng có vị trí kinh tế quan trọng
trong nền kinh tế huyện Mỹ Đức cũng như tỉnh Hà Tây.
Giai đoạn từ 1996 đến 2008, sản xuất nông nghiệp của vùng có bước
chuyển dịch, song vẫn còn chậm, tỉ trọng ngành trồng trọt luôn chiếm ưu thế
hơn so với ngành chăn nuôi. Diện tích gieo trồng của vùng chiếm 20,2 % so
với toàn huyện, trong đó lúa chiếm 22,5 % diện tích, nhưng năng suất thấp
124
hơn năng suất chung của huyện (54,8 tạ/ha so với 57,81 tạ/ha toàn huyện Mỹ
Đức). Ngoài cây lúa, vùng còn trồng khoai, ngô, cây thực phẩm, cây công
nghiệp, song tỉ lệ thấp, dưới 10% so với toàn Mỹ Đức. Về mặt chăn nuôi,
vùng 3 tập trung vào chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm, dê để vừa phục vụ sản
xuất, vừa cung cấp thực phẩm, đặc sản cho hoạt động dịch vụ, du lịch,
Công nghiệp – xây dựng không phải thế mạnh của vùng, chỉ chiếm 6%
giá trị sản xuất ngành công nghiệp. Sản xuất công nghiệp chủ yếu là các cơ sở
chế biến quy mô nhỏ, giá trị sản xuất không đáng kể, trong khi hoạt động du
lịch ở chùa Hương cần các mặt hàng lưu niệm, hàng thủ công mĩ nghệ...
Việc hình thành các vùng kinh tế tạo điều kiện để mỗi vùng chuyên
môn hóa sản xuất, khai thác và phát huy được thế mạnh của từng nơi. Đồng
thời, giúp cho các cấp quản lý có những chiến lược phát triển kinh tế lâu dài.
Hình thành vùng kinh tế là tất yếu, phù hợp với địa hình tự nhiên của Mỹ
Đức. Tuy nhiên, giai đoạn trước năm 1996, huyện chưa có chiến lược quy
hoạch rõ ràng.
3.3. Chuyển biến xã hội
3.3.1. Dân số
Huyện Mỹ Đức là huyện có dân số ít và mật độ dân số thấp so với các
huyện và thị xã ở tỉnh Hà Tây. Tốc độ tăng dân số đều qua các năm. Năm
2008, dân số toàn huyện là 180.737 người, chiếm 7% dân số của toàn tỉnh và
đứng thứ 7 trong 14 huyện thị của Hà Tây.
Nội dung
1996
2000
2005
2008
Dân số (người)
163.324
169.326
173.682
180.737
[68, 76, 133]
Bảng 3.10. Dân số huyện Mỹ Đức thời kỳ 1996 - 2008
Trong thời kì 1996 -2008, tốc độ tăng dân số của Mỹ Đức luôn ở mức
1%, thấp hơn so với dân số của tỉnh và một số huyện lân cận. Nhờ thực
hiện tốt công tác vận động sinh đẻ có kế hoạch nên mức gia tăng tự nhiên
giảm nhanh, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải
125
thiện. Tuy nhiên, mức giảm dân số chưa ổn định và không đồng đều giữa
các xã trong toàn huyện. Thị trấn Đại Nghĩa có tỉ lệ gia tăng tự nhiên thấp,
còn các xã ven núi như Hợp Thanh, Hùng Tiến, An Phú lại có tỉ lệ gia tăng
tự nhiên cao.
Do kinh tế huyện đang trên đà tăng trưởng, việc cơ giới hóa đồng ruộng
đã giải phóng một phần sức lao động, cộng với bình quân đất nông nghiệp
trên đầu người thấp đã làm cho tỉ lệ người thất nghiệp và bán thất nghiệp tăng,
nhất là vào thời kỳ nông nhàn, nên có một bộ phận dân cư ra thành phố tìm
việc làm. Tuy nhiên, hiện tượng gia tăng cơ giới của huyện không đáng kể
nên không ảnh hưởng đến gia tăng dân số nói chung.
Mặc dù, tỷ lệ sinh và tăng tự nhiên giảm, nhưng nhìn chung dân số Mỹ
Đức thuộc loại dân số trẻ. (Dân số trong độ tuổi lao động, năm 1996: chiếm
45%, năm 2006: chiếm 54,5%). Đây là tiềm năng to lớn về nguồn nhân lực,
tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế, xã hội huyện, nhưng cũng là thách
thức, đòi hỏi huyện Mỹ Đức phải có biện pháp khai thác và sử dụng có hiệu
quả nguồn nhân lực.
3.3.2. Lao động và việc làm
Huyện Mỹ Đức có nguồn lao động dồi dào, trung bình trên 50% dân số. Tốc
độ gia tăng nguồn lao động tăng trung bình 0.9%/năm. Đây là yếu tố thuận lợi để
phát triển kinh tế, xã hội của huyện. Tuy nhiên, do đặc thù kinh tế của huyện thuần
nông gặp nhiều khó khăn về định hướng, vốn, kỹ thuật... Đặc biệt trong thời kỳ
này, một số cơ sở kinh tế Nhà nước bị giải thể (Nhà máy Ươm tơ) hoặc thu hẹp
(Trại tằm Phù Lưu Tế, Trại Tằm Trinh Tiết, Tảo Khê, Trại ong, Công ty Thủy
sản... làm cho một bộ phận lao động của Mỹ Đức thất nghiệp, mất việc làm. Bên
cạnh đó, một bộ phận thanh niên khi học xong trung học phổ thông không thi đỗ
vào các trường Đại học, Cao đẳng... và một số bộ đội ra quân không có việc làm
đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp và bán thất nghiệp ở Mỹ Đức tăng cao. Đây là điều
bất hợp lý và lãng phí lao động trong khi tiềm năng của địa phương chưa được
khai thác do thiếu lao động, nhất là lao động có trình độ, tay nghề.
126
Chất lượng nguồn lao động của huyện chưa cao. Số lao động có trình độ
chuyên môn để phục vụ ngành du lịch kém. Đây là một thách thức của huyện.
Do xác định được vai trò quan trọng hàng đầu của nguồn lao động, huyện Mỹ
Đức đã chú ý đến nguồn lao động có tri thức, học sinh sau khi tốt nghiệp
trung học phổ thông đi học các lớp đào tạo nghề, Cao đẳng, Đại học, Trung
học chuyên nghiệp ngày càng tăng.
Trong giai đoạn này, cùng với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế nói chung
thì cơ cấu lao động theo ngành cũng đã dịch chuyển giảm tỉ trọng trong nông
– lâm – ngư, tăng tỉ trọng công nghiệp – xây dựng và dịch vụ:
Bảng 3.11. Lao động và cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
thời kì 1995 – 2003
Độ dịch chuyển 1995 2003 1995 – 2003(%) Ngành
Người % Người %
Tổng số 100 100
Nông – lâm – ngư 80.630 90,2 70.249 79,4 -10,8
Công nghiệp – xây dựng 72.728 4,0 8.140 9,2 +5,2
Dịch vụ 3.225 5,8 10.086 11,4 5,6
[119, 121]
Kinh tế Mỹ Đức với nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, nên lao đông
động tập trung trong lĩnh vực này rất cao, còn các ngành khác thì rất thấp. Đó
là cơ cấu lao động còn quá chênh lệch và bất hợp lý. Năm 2003: [121]
127
Lao động dịch vụ - du lịch: 11%
Lao động công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: 9%
Lao động nông - lâm - ngư: 80%
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
huyện Mỹ Đức năm 2003
3.3.3. Công tác xóa đói, giảm nghèo
Năm 1994, huyện phát động phong trào “Xóa đói, giảm nghèo, tăng hộ
giàu”, đề ra các giải pháp để đưa phong trào đạt kết quả cao. Phong trào xóa
đói, giảm nghèo tiếp tục được phát động rộng rãi thông qua các tổ chức, các
chương trình, dự án tạo việc làm. Các ngành đoàn thể và nhân dân trong
huyện đã tích cực tiến công vào chương trình xoá đói giảm nghèo... Ban chấp
hành các đoàn thể tích cực vận dụng các hình thức hỗ trợ vốn, xây dựng tổ tín
chấp vay vốn ngân hàng, làm dự án để phát triển kinh tế, tổ chức tập huấn
chuyển giao kiến thức về khoa học kỹ thuật, giúp cho hội viên nông dân sử
dụng các giống cây trồng mới, vật nuôi có giá trị kinh tế cao như gà công
nghiệp, lợn hướng nạc... Do vậy, phong trào làm kinh tế để giúp nhau xoá đói
giảm nghèo đạt nhiều kết quả. Năm 1995, số hộ đói nghèo chiếm 10%, năm
2000 giảm xuống còn 6,8%, số hộ khá và giàu tăng lên. Tình trạng tái nghèo
ít xảy ra trên địa bàn huyện.
Năm 2005, huyện vẫn còn số lượng lớn hộ gia đình thuộc diện nghèo,
nhất là các hộ do phụ nữ làm chủ (3.000 hộ). Chính quyền đã giúp đỡ phụ nữ
một số giải pháp phát triển kinh tế: lập mô hình Tổ phụ nữ tự nguyện tiết
128
kiệm và đẩy mạnh hội phụ nữ tương trợ đã giúp cho hàng nghìn hộ thoát
nghèo, chủ động xây dựng phát triển kinh tế khá, giàu.
3.3.4. Những vấn đề văn hóa xã hội
* Giáo dục, đào tạo
Giáo dục và đào tạo của huyện Mỹ Đức rất được coi trọng và là huyện
phát triển về giáo dục của tỉnh Hà Tây. Thành tích của ngành giáo dục – đào
tạo huyện Mỹ Đức thể hiện trong công tác phổ cập giáo dục. Tính đến năm
2008, huyện có 24 trường Mầm non, 29 trường Tiểu học và 22 trường Trung
học cơ sở. Theo đó, ở bậc học Mầm non, số trẻ 5 tuổi đi học đạt 35%, trẻ đi
mẫu giáo đạt 78%; ở bậc Tiểu học, năm 2006 – 2007 có tổng số 13.477 học
sinh, đạt 100% số trẻ 6 tuổi vào lớp 1; cấp Trung học cơ sở có tổng số 13.596
học sinh, đáp ứng 100% học sinh tiểu học tốt nghiệp vào lớp 6.
Hàng năm, với sự chuẩn bị tích cực, công tác bồi dưỡng giáo viên giỏi,
học sinh giỏi được triển khai sâu rộng ở 100% số trường. Năm 2007, huyện
có 468 học sinh đỗ vào đại học, 345 em đỗ vào cao đẳng, so với năm 2006, số
học sinh đỗ vào đại học tăng 48 em, đỗ vào cao đẳng tăng 46 em.
Công tác giáo dục, đào tạo có bước phát triển toàn diện cả về số lượng
và chất lượng. Tỷ lệ học sinh thi đỗ tốt nghiệp các cấp đạt 98%. Học sinh giỏi
cấp huyện, tỉnh, quốc gia đều tăng. Năm 2000, huyện Mỹ Đức được tỉnh công
nhận phổ cập trung học cơ sở. Toàn huyện có 21/23 số xã có trường cao tầng,
phong trào xã hội hóa, dân chủ hóa trong trường học ngày càng được phát
triển. Trường học, phòng học ngày càng khang trang, sạch đẹp hơn. Năm
2008, huyện có 9 trường đạt chuẩn Quốc gia, trong đó có 7 trường Tiểu học
và 2 trường Trung học cơ sở. Ngoài ra các trường còn được đầu tư hàng trăm
triệu đồng để mua sắm các trang thiết bị dạy và học nhằm từng bước thay đổi
diện mạo của nhà trường.
Ngành Giáo dục - Đào tạo huyện Mỹ Đức luôn nhận được sự quan tâm
của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các ban ngành đoàn thể từ tỉnh đến
huyện. Đó là động lực lớn lao để ngành tiếp tục vững bước trong phong trào
129
thi đua “2 tốt”, đẩy mạnh chất lượng giáo dục toàn diện. Năm học 2006 –
2007, các trường đã có hàng trăm đề tài gửi huyện, trong đó có nhiều sáng
kiến kinh nghiệm và đề tài khoa học được tỉnh xét duyệt đoạt giải, xếp loại
cao và áp dụng tốt trong công tác giảng dạy. Bên cạnh đó, phong trào đăng ký
giờ dạy tốt, thi giáo viên giỏi cấp huyện, cấp tỉnh diễn ra thường xuyên, góp
phần quan trọng nâng cao chất lượng dạy và học trong các nhà trường.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất ở nhà trường trên địa bàn huyện còn khó khăn,
đặc biệt là các trường ở cấp mầm non và tiểu học. Hệ thống phòng học chức
năng, phòng học bộ môn, phòng làm việc cho cán bộ… còn thiếu thốn, hoặc
nếu có cũng chỉ mang tính hình thức. Mặc dù vậy, với sự quan tâm của Đảng
bộ, chính quyền, sự ủng hộ của nhân dân, trên cơ sở phát huy truyền thống
hiếu học của quê hương và những thành tựu đã đạt được, ngành Giáo dục và
Đào tạo huyện Mỹ Đức sẽ khắc phục hạn chế, vượt qua khó khăn, tiếp tục đáp
ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế.
* Thông tin truyền thông, văn nghệ, thể dục thể thao
Ngành Bưu điện thực hiện tốt công tác phát hành báo chí, bảo đảm thông
tin liên lạc, phục vụ kịp thời cho sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền, các ban
ngành trong huyện, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu
thông tin của người dân. 16/22 xã, thị trấn đã xây dựng điểm bưu điện văn
hóa, 100% số xã, thị trấn có điện thoại. Nhờ đó mà đời sống của người dân
được cải thiện hơn rất nhiều.
Thông tin liên lạc: Trên địa bàn toàn huyện hiện có tổng số 25 điểm bưu
điện, trong đó có 4 bưu cục cấp III và 21 điểm văn hóa xã. Mạng lưới truyền
thanh có 1 đài phát thanh huyện và 10 đài phát thanh xã, đảm bảo tỷ lệ phủ
sóng đạt 95%. Nhìn chung mạng lưới thông tin bưu điện đã phát triển khá,
song chỉ mới tập trung ở những xã, thôn có điều kiện kinh tế phát triển, còn
một số xã, thôn kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp thì còn rất mỏng.
130
Thư viện huyện đã xây dựng và luân chuyển sách cho 60 tủ sách, thư
viện cơ sở ở 21 xã trên địa bàn huyện đáp ứng nhu cầu đọc cho nhân dân. Với
tổng số hơn 7 ngàn đầu sách, các thư viện phục vụ khoảng 25 ngàn lượt người
đọc hàng năm. Phong trào văn hóa văn nghệ thực sự trở thành hoạt động tinh
thần rộng khắp trong đời sống nhân dân. Nhà văn hóa thông tin huyện đã xây
dựng và duy trì hoạt động được 1 đội văn nghệ, 1 đội tuyên truyền ca khúc
chính trị. 100% số xã có đội văn nghệ, với 90 đội văn nghệ và 23 đội thông
tin tuyên truyền huyện, xã; thành lập và duy trì được 6 câu lạc bộ hát chèo và
dân ca, 12 câu lạc bộ thơ.
100% số xã có quy hoạch đất cho chương trình phát triển thể dục thể
thao. Phong trào thể dục thể thao được đẩy mạnh, 56 câu lạc bộ thể dục thể
thao quần chúng được duy trì, thu hút 52.256 người tham gia luyện tập
thường xuyên, chiếm 30% tổng số dân.
* Y tế và chăm sóc sức khỏe
Trong lĩnh vực y tế, Đảng bộ và chính quyền các cấp đã thường xuyên
quan tâm chỉ đạo công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đẩy mạnh hoạt động
y tế dự phòng.
Trong giai đoạn 2000 – 2008, các lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cộng
đồng, dân số - kế hoạch hóa gia đình…đều đạt được những kết quả tích cực,
đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Mạng lưới y tế từ huyện đến cơ sở không ngừng được củng cố, 12/23 trạm xá
xã có bác sĩ. Năm 2000, có 50% trạm xá có bác sĩ. Tỷ lệ trẻ em đi tiêm chủng
hàng năm đạt 99%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 31% năm 1995 xuống
27% năm 2000. Tỷ lệ dân số tự nhiên giảm từ 1,5% năm 1995, xuống 1,1%
năm 2000, góp phần ổn định dân số. Công tác tuyên truyền và khám ngừa dịch
bệnh được thực hiện tốt nên không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn.
Tính đến năm 2008, Mỹ Đức có 1 bệnh viện, 2 phòng khám đa khoa khu
vực và 22 trạm y tế xã, thị trấn với tổng số giường bệnh là 340 giường, đạt tỷ lệ
131
19 giường/1 vạn dân. Duy trì khám chữa bệnh thường xuyên cho hơn 42 ngàn
lượt người, 9.856 bệnh nhân điều trị nội trú. Tổng số bác sỹ và cán bộ có trình
độ từ cao đẳng, đại học trở lên là 50 người. Đã có 21/22 trạm y tế xã có bác sỹ
và 17 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. 90% số trạm y tế đã được kiên cố hóa. Tỷ
lệ tiêm chủng trẻ em dưới 1 tuổi đạt 98%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng chiếm 18%, giảm 9% so với năm 2005. Đó là dấu hiệu tích cực trong
công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là trẻ em ở Mỹ Đức.
* Phong trào xây dựng gia đình văn hóa
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí trong việc cưới, việc tang, lễ hội được nhân dân hưởng ứng
tích cực. Năm 2000, có 38 làng xây dựng được quy ước, 6 làng được công
nhân là làng văn hóa, 10.186 gia đình được công nhận là gia đình văn hóa.
Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao phát triển rộng rãi trong các xã
và khối cơ quan, trường học…thu hút nhiều đối tượng tham gia.
Phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, cơ quan văn hóa
được phát động thường xuyên và thu được những kết quả tốt. Năm 2008,
huyện có 53,57% làng đạt danh hiệu làng văn hóa (60/112 làng), 45,12% đơn
vị đạt danh hiệu cơ quan văn hóa (74/164 đơn vị), và 82% gia đình đạt danh
hiệu gia đình văn hóa. Tiêu chuẩn làng văn hóa, gia đình văn hóa, cơ quan
văn hóa được thẩm định, sửa chữa thực hiện nghiêm túc. Phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư được triển khai sâu rộng, nếp
sống văn minh và cưới hỏi, tang gia, mừng thọ, tôn tạo và tu bổ di tích lịch sử,
đình chùa làng…được quan tâm thực hiện đầy đủ, góp phần xây dựng tinh
thần đoàn kết trong khối cộng đồng dân cư nông thôn.
3.3.5. Trợ giúp xã hội cho các đối tượng chính sách
Song song với quá trình tập trung phát triển kinh tế, Đảng bộ huyện luôn
quan tâm chỉ đạo thực hiện các chính sách xã hội như: đẩy mạnh phong trào “Đền
ơn đáp nghĩa”, xây dựng quỹ tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm cho các đối tượng chính
132
sách, tu sửa và xây mới 126 nhà dột nát, sửa chữa chỉnh trang 10 nghĩa trang liệt
sỹ, làm mới đài tưởng niệm liệt sỹ của huyện tại thị trấn Đại Nghĩa…Do làm tốt
công tác chính sách đền ơn, các gia đình chính sách ở huyện đều có mức sống
bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú.
Các chế độ và chính sách đối với thương binh, liệt sĩ, gia đình cách
mạng, người có công với nước tiếp tục được các cấp ủy, chính quyền của 22
xã và thị trấn tiếp tục thực hiện nghiêm túc. Từ năm 1995 đến năm 2000,
nhân dân huyện Mỹ Đức tặng thêm 624 sổ tiết kiệm, nâng số sổ tiết kiệm đã
tặng là 2.224 sổ, với tổng số tiền 226.048.000 đồng [6; tr 300].
Công tác thực hiện chính sách xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích
cực. Thực hiện tốt công tác chính sách đối với người có công, người hưởng
chính sách xã hội. Tổ chức thăm hỏi, tặng quà các đối tượng chính sách nhân
dịp tết Nguyên đán, ngày thương binh liệt sỹ 27/7 nhằm thể hiện đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Tiểu kết chƣơng 3
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo các Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh
ủy Hà Tây về phát triển kinh tế, xã hội, Đảng bộ và chính quyền Mỹ Đức tiếp
tục chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội theo hướng đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Chính vì vậy, giai đoạn 1996 đến năm 2008, kinh tế, xã hội
huyện Mỹ Đức có sự chuyển biến sâu sắc.
Về kinh tế, hình thành một cơ cấu nông nghiệp – thủ công nghiệp –công
nghiệp và du lịch. Bên cạnh, ngành kinh tế nông nghiệp truyền thống huyện
đã tập trung đầu tư, khai thác du lịch và xem đó là mũi nhọn kinh tế của
huyện. Cơ cấu kinh tế trong nội ngành có sự thay đổi rõ rệt, nhất là nông
nghiệp. Thay đổi thể hiện cơ cấu cây trồng – vật nuôi và thay đổi quản lý tổ
chức sản xuất (kinh tế hộ, hợp tác xã và kinh tế trang trại).
133
Giai đoạn này so với giai đoạn trước năm 1996, kinh tế ngoài quốc
doanh được phát triển (đặc biệt là kinh tế tư nhân) và đã hình thành các vùng
kinh tế, đầu tư chuyên môn hóa sản xuất, phát huy thế mạnh của từng địa
phương, nâng cao giá trị kinh tế.
Về mặt xã hội, do kinh tế có sự thay đổi rõ rệt đã thúc đẩy sự chuyển biến xã
hội: về dân số, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, và giai đoạn này Đảng và
chính quyền Mỹ Đức đầu tư phát triển các vấn đề văn hóa xã hội (giáo dục, y tế,
văn nghệ thể thao...) nên đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao.
Những kết quả đạt được trên là nhờ sự chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ
huyện Mỹ Đức đã kịp thời nắm bắt những yêu cầu của thực tiễn, đề ra chủ
trương phù hợp với yêu cầu của tình hình phát triển nông nghiệp, khơi dậy
tiềm năng đất đai, lao động, vốn, và sự sáng tạo, góp sức của nhân dân địa
phương, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển tạo đà cho Mỹ Đức trên con đường
đẩy mạnh kinh tế, xã hội trong thời gian sắp tới.
134
Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI
HUYỆN MỸ ĐỨC TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2008
Trải qua gần hai thập niên thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và
phát triển kinh tế, xã hội, huyện Mỹ Đức đã đạt được những kết quả rất đáng
tự hào trong quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội. Từ một huyện vùng sâu,
vùng xa, xuất phát điểm rất thấp. Cùng với sự phát triển chung của đất nước,
Mỹ Đức cũng đang dần đi lên. Kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo
hướng CNH, HĐH. Cùng với sự chuyển biến về kinh tế, đã tác động đến sự
chuyển biến về mặt xã hội của địa phương: dân số, lao động, việc làm, các
vấn đề xã hội.... theo hướng tích cực. Đời sống người dân trong huyện không
ngừng được nâng cao, tỷ lệ đói nghèo giảm một cách nhanh chóng, tỷ lệ hộ
khá giàu ngày càng tăng; các gia đình chính sách, thương binh liệt sĩ được các
cấp chính quyền quan tâm có cuộc sống ổn định... Chuyển biến về kinh tế
cũng là một trong những nguyên nhân để thúc đẩy trở lại sự phát triển xã hội
ở Mỹ Đức.
Sau khi nghiên cứu về chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức từ năm
1991 đến 2008, chúng tôi nhận thấy rằng:
4.1. Chuyển biến kinh tế, xã hội Mỹ Đức trải qua hai giai đoạn phát triển
Gần hai thập kỷ xây dựng và phát triển dưới sự quản lý của tỉnh Hà Tây,
kinh tế và xã hội của Mỹ Đức có những thay đổi đáng kể. Sự thay đổi đó tạo
nên lát cắt lịch sử, chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn 1991 – 1996 và 1996 –
2008. Về kinh tế ở giai đoạn đầu với đặc trưng là cơ cấu kinh tế nông nghiệp
trồng lúa là chủ yếu, sản xuất theo mô hình hợp tác xã; chưa hình thành vùng
kinh tế chuyên môn hóa... tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn còn chậm, chưa tạo
nên sự đột phá mạnh mẽ về kinh tế. Giai đoạn 1996 - 2008, với mục tiêu
chung của cả nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, kinh tế
135
Mỹ Đức có sự chuyển biến nhanh chóng. Sự thay đổi đó thể hiện ở các ba
khía cạnh kinh tế: cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng kinh tế.
Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, còn phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ, du
lịch... tạo nên sự đa dạng ngành và nội bộ ngành. Nền kinh tế chuyển sang
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự tham gia tích cực của kinh tế tư
nhân (kinh tế hộ gia đình). Đây cũng là thời kỳ mà các ngành kinh tế khác
được định hình rõ ràng hơn, nó không còn là kinh tế hỗ trợ cho nông nghiệp.
Đó là kinh tế thương nghiệp, dịch vụ, ngân hàng, giao thông vận tải... Mặt
khác, huyện đã quy hoạch các vùng kinh tế (3 vùng sản xuất) để nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên, có thể thấy kinh tế của Mỹ Đức có chuyển biến, nhất là sau
năm 1996, nhưng những kết quả đạt được đó không theo xu thế đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ vẫn còn rất thấp
so với ngành nông nghiệp. Chuyển biến kinh tế vẫn chỉ tập trung trong nội
ngành nông nghiệp, còn ngành công nghiệp không có sự thay đổi lớn:
Bảng 4.1. Sự chuyển biến cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp –
dịch vụ năm 1995 - 2005
Năm 1995 Năm 2005
Nông nghiệp 68.8% 49%
Công nghiệp 15,7% 17,3%
Dịch vụ 15,7% 33,7%
[59; tr 304]
Sự thay đổi về kinh tế kéo theo sự thay đổi về mặt xã hội giữa hai giai
đoạn. Lao động nông nghiệp có xu hướng sang làm dịch vụ, nhất là dịch vụ
nông nghiệp và du lịch. Các hoạt động thương mại tự do, các hợp tác xã dịch
vụ nông nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân làm dịch vụ,... với xu hướng ngày
càng tăng. Chính từ sự hình thành, phát triển các xí nghiệp quốc doanh, đặc
biệt là sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã thu hút
136
một phần lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ. Bên
cạnh đó, do nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng đô thị, góp phần
chuyển dịch lao động nông nghiệp sang xây dựng. Ngoài ra, có một bộ phận
nhỏ lao động công nghiệp - xây dựng từ các vùng khác đến làm việc tại địa
bàn huyện. Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch vẫn còn chậm chạp, quy mô nhỏ và
cơ cấu lao động vẫn mất cân đối. Nhưng ít nhiều, nó đã tạo ra sự khác biệt
giữa hai giai đoạn.
Sự chuyển biến về kinh tế giữa hai giai đoạn theo chiều hướng tích cực.
Vì vậy, các vấn đề xã hội được tập trung giải quyết và đời sống của nhân dân
được nâng cao trong giai đoạn hai (giáo dục, y tế, hoạt động văn nghệ thể
thao...) đa dạng, phong phú và ngày càng có chất lượng.
4.2. Sự chuyển biến kinh tế ở Mỹ Đức phù hợp yêu cầu phát triển và
tiềm năng của địa phƣơng
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho đặc trưng kinh tế nông nghiệp. Vì vậy,
kinh tế của huyện Mỹ Đức tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp. Qua hai giai
đoạn phát triển, kinh tế Mỹ Đức đã chuyển dịch theo hướng tích cực: hướng sản
xuất hàng hóa, hiệu quả và bền vững. Hàng loạt các giải pháp lớn đều được chỉ
đạo thực hiện một cách đồng bộ như: phát huy vai trò kinh tế hộ và khai thác tốt
tiềm năng đất đai, lao động của huyện; đổi mới hình thức quản lý trong nông
nghiệp; xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn; đồng thời đẩy mạnh áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tích cực
chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi; khuyến khích phát triển
trang trại, xây dựng các mô hình tiên tiến, mang lại hiệu quả kinh tế cao …
Những quan điểm chỉ đạo trên đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của việc đổi mới
nền nông nghiệp truyền thống vốn mang tính chất nhỏ lẻ, phân tán, cơ cấu lạc
hậu, mối liên kết giữa sản xuất – chế biến – tiêu thụ và xuất khẩu hàng hóa hạn
chế, phần lớn lao động có trình độ thấp và lệ thuộc vào mùa vụ, nhằm xây dựng
nền nông nghiệp sản xuất tập trung, ứng dụng hiệu quả tiến bộ khoa học công
137
nghệ, phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân …
- Các ngành kinh tế đều có sự chuyển biến: từ nông nghiệp, thủ công
nghiệp, công nghiệp, thương mại, du lịch, giao thông vận tải, tài chính ngân
hàng... Nếu như giai đoạn 1991 - 1996, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, chủ
yếu là nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn mang tính hộ gia đình với quy
mô nhỏ, sản xuất công nghiệp chủ yếu là công nghiệp chế biến (80%), ngành
du lịch có nhiều thế mạnh những chưa xây dựng trở thành kinh tế mũi nhọn,
mới chỉ tập trung vào khai thác vài điểm du lịch (Chùa Hương, Quan Sơn).
Nhưng sang giai đoạn 1996 - 2008, kinh tế huyện Mỹ Đức theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng
dịch vụ, du lịch. Trong cơ cấu ngành nông nghiệp đa dạng về ngành nghề: có
thêm dịch vụ nông nghiệp, tăng cây trồng màu, cây công nghiệp, giảm diện
tích cây lương thực nhưng năng suất vẫn cao. Hình thành các vùng chuyên
canh đáp ứng nhu cầu của thị trường, cung cấp cho các vùng phụ cận. Ngành
du lịch được đẩy mạnh, số lượng khách đến tham quan ngày càng đông
(khách nội địa và khách quốc tế)
- Cơ cấu vùng kinh tế; Với địa hình bán sơn địa, tạo ra những tiềm năng
để phát triển kinh tế chuyên môn hóa sâu. Nhưng từ năm 1996 đến 2008 từng
bước hình thành cơ cấu kinh tế theo vùng sản xuất, có 3 vùng kinh tế rõ rệt,
sản xuất theo thế mạnh của từng tiểu vùng: tiểu vùng I: có các ngành nông -
công - dịch vụ song còn thấp so với tiềm năng; tiểu vùng II: có các ngành
nông - công - nghiệp phát triển toàn diện, đây được coi là trọng điểm kinh tế
của huyện. Tiểu vùng III có thế mạnh về du lịch - nông - lâm nghiệp, là vùng
kinh tế có triển vọng với ngành kinh tế du lịch - dịch vụ là chủ đạo.
- Về quản lý kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp có nhiều chuyển biến
tích cực: trong việc dồn điền đổi thửa ruộng đất, việc chuyển giao ứng dụng
khoa học công nghệ được tập trung vào khâu giống. Đã thực hiện đổi mới cơ
138
cấu giống trong sản xuất, mở rộng diện tích sản xuất có các giống tiềm năng,
năng suất cao, thu hẹp và dần loại bỏ các giống có năng suất thấp. Nhất là đối
với các giống lúa lai được mở rộng về diện tích. Thực hiện tốt chương trình
cấp I hóa giống lúa hàng năm, hệ thống giống nhân dân đã sản xuất tại chỗ để
cung cấp giống cho các hộ trong HTX.
Bên cạnh đó, huyện đã tiếp nhận và chuyển giao nhiều tiến bộ khoa học
kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào khâu gieo trồng như: mạ vụ xuân che
phủ nilon, trồng lạc phủ nilon, trồng đậu tương trên đất làm tối thiểu hoặc trên
gốc rạ và gieo vãi… Trong lĩnh vực làm đất gieo cấy, đã có 90% diện tích
được cơ giới hóa bằng các máy kéo nhỏ. Tỷ lệ tuốt lúa bằng máy cũng đạt
100%. Việc áp dụng máy móc trong khâu thu hoạch đã góp phần rút ngắn thời
gian thu hoạch từ 7 – 10 ngày/vụ. Chỉ tính riêng trong 3 năm từ 2005 – 2008,
huyện đã mở được 30 lớp đào tạo cho 850 lao động ở 22 xã, thị trấn áp dụng
công nghệ phòng trừ tổng hợp bảo vệ thực vật (IPM), góp phần làm tăng năng
suất cây lúa, giảm chi phí thuốc trừ sâu bệnh… Trạm khuyến nông cũng đã
mở được 423 lớp cho trên 41.000 lượt người tham gia về áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong chăn nuôi, đã ứng dụng khoa học công nghệ vào chăn nuôi lợn
hướng nạc theo quy mô hộ gia đình có hiệu quả như các hộ gia đình ở xã Tuy
Lai, Phù Lưu Tế, Mỹ Thành, … Thực hiện chuyển giao công nghệ thụ tinh
nhân tạo để đẩy mạnh chương trình Sind hóa đàn bò. Đồng thời, đã khảo sát,
chọn lọc, đưa vào chăn nuôi các loại gia cầm có năng suất, chất lượng cao
như: ngan Pháp, gà Kabir, gà Tam Hoàng, gà Lương Phượng, vịt siêu thịt,
siêu trứng đạt hiệu quả kinh tế cao. Về thủy sản, đã khảo nghiệm, chọn lọc
nuôi thả các giống cá có năng suất, chất lượng như cá rô phi đơn tính, cá trê
lai, cá chim trắng, trôi, mè lai… đưa vào nuôi phù hợp với từng địa phương.
Khoa học công nghệ cũng đã được ứng dụng trong công tác xây dựng, tu
bổ, nạo vét kênh mương, đảm bảo tưới tiêu chủ động cho cây trồng, nhất là
139
việc thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương. Nhiều công trình thủy
lợi được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới theo hướng hiện đại, hệ thống đê
kè ngày càng được củng cố vững chắc.
Nhìn chung, khoa học công nghệ đã có những đóng góp tích cực vào sự
nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn Mỹ Đức, góp phần không nhỏ
vào thực hiện thành công các chương trình, mục tiêu như chương trình chăn
nuôi, kiên cố cứng hóa kênh mương, chương trình lương thực…, chương trình
xóa đói giảm nghèo và chương trình nâng cao chất lượng hoạt động của các
HTX nông nghiệp. Bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới.
Như vậy, gần 20 năm (1991 - 2008), kinh tế Mỹ Đức đã đạt được những
thành quả quan trọng. Từ chỗ là một huyện thường xuyên thiếu lương thực,
Mỹ Đức đã từng bước vươn lên giải quyết vấn đề lương thực, căn bản xoá nạn
đói giáp hạt cho nhân dân. Sản xuất lương thực ổn định, sản xuất cây ăn quả,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh đã góp phần tích cực để thực hiện
mục tiêu chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, hiệu
quả và bền vững. Điều này sẽ tạo ra những động lực to lớn cho quá trình chuyển
biến cơ cấu kinh tế trong những năm tiếp theo của huyện Mỹ Đức.
Nguyên nhân của những chuyển biến trên: Do đường lối, chính sách đổi
mới của Đảng, Nhà nước: đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển và
nguyện vọng của sự phát triển kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức. Đảng bộ, chính
quyền các cấp, các ngành huyện Mỹ Đức đã tích cực chủ động và có nhiều biện
pháp khi vận dụng đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về chỉ
đạo, vận động tổ chức các đoàn thể quần chúng và toàn thể nhân dân địa phương
tích cực tham gia vào việc đổi mới kinh tế, xã hội ở địa phương.
4.3. Kinh tế huyện Mỹ Đức có chuyển biến nhƣng chƣa bền vững
Kinh tế Mỹ Đức có sự tăng trưởng tương đối cao và tăng liên tục, tuy
nhiên so với mức tăng trưởng của tỉnh Hà Tây thì vẫn còn thấp. Trong các
khối ngành kinh tế thi khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao nhất 17,1%,
còn khu cực nông – lâm – ngư có mức tăng thấp với 6%:
140
Bảng 4.2. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế Mỹ Đức thời kỳ 1995 - 2005
1995 - 2000 2001 – 2005
Chỉ tiêu Mỹ Đức Hà Tây Mỹ Đức Hà Tây
Tăng trưởng GDP 11,0 12,2 12,3 15,0
Trong đó:
- Nông nghiệp 7,5 6,5 6,0 5,5
- Công nghiệp – Xây dựng 12,0 17,5 13,5 18,0
- Dịch vụ 13,5 19,1 17,1 21,0
[119, 121]
So với tỉnh Hà Tây, sự chuyển biến cơ cấu kinh tế của Mỹ Đức còn
thấp. Đó cũng là nguyên nhân chính làm cho GDP bình quân đầu người của
địa phương còn thấp:
Bảng 4.3. Cơ cấu GDP của Mỹ Đức so với toàn tỉnh
và cả nƣớc năm 2000 và 2003
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Mỹ Đức
Hà Tây
Cả nƣớc
2000 2003
2000
2003
2000
2003
Tổng số
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nông – lâm – ngư
59,2
54,0
40,0
38,1
24,5
23,0
Công nghiệp – xây dựng
11,5
14,8
30,0
31,0
36,7
38,5
Dịch vụ - du lịch
29,3
31,2
30,0
30,9
38,8
38,5
[121]
Mặc dù cơ cấu GDP của huyện Mỹ Đức đã có chuyển biến tích cực
nhưng so với cơ cấu GDP của tỉnh và của cả nước còn bất hợp lí. Kinh tế Mỹ
Đức có chuyển biến, nhưng cơ bản vẫn là kinh tế nông nghiệp, dựa nhiều vào
thiên nhiên. Phát triển kinh tế nhưng năng suất vẫn còn thấp. Huyện Mỹ Đức
còn lúng túng trong việc định hướng sản xuất kinh doanh hàng hóa đầy đủ,
sản phẩm làm ra nhiều, nhưng không có thị trường tiêu thụ, giá thành còn cao.
141
Huyện chưa định hướng được ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển còn mang
tính dàn đều. Chưa phát huy được thế mạnh, tiềm năng của địa phương: với
ngành kinh tế cơ bản là nông nghiệp, nhưng ở huyện Mỹ Đức vẫn sản xuất
mang tính nhỏ lẻ, phân tán, manh mún, chưa tương xứng và chưa khai thác
hiệu quả tối đa được những tiềm năng, lợi thế sẵn có của huyện.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn tuy đã có sự chuyển dịch theo
hướng tích cực, tiến bộ, bước đầu tạo những nền tảng cho phát triển nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá nhưng sự chuyển dịch còn chậm, cơ cấu
sản xuất còn nặng về nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt (năm 2007, trồng trọt
đạt 66,2%, chăn nuôi đạt 33,8% giá trị nông nghiệp), chưa tạo được nhiều
nông sản hàng hoá có giá trị kinh tế cao, chăn nuôi nằm nhiều trong khu dân
cư, gây ô nhiễm môi trường. Công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
trong các năm qua còn chậm, chưa khai thác hết thế mạnh, tiềm năng vùng
chuyển đổi, giá trị thu nhập trên 1ha còn thấp (29,5 triệu đồng/ha). Việc thực
hiện dồn ô đổi thửa theo nghị quyết của Huyện uỷ còn chậm, nhiều hộ nông
dân không có ruộng để phát triển sản xuất theo quy mô lớn. Nhiều hộ thiếu
vốn để phát triển sản xuất nên đầu tư nửa vời hoặc phải trả lãi suất quá cao,
thậm chí không thể vay được vốn để đầu tư cho sản xuất.
Đảng bộ huyện đã xây dựng được nhiều mô hình sản xuất đạt hiệu quả
kinh tế cao (mô hình xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha/năm, mô hình hộ
thu nhập 50 triệu đồng/năm), song việc tổ chức phát triển nhân rộng các mô
hình còn chậm và chưa phát triển rộng khắp. Phong trào xây dựng trang trại
diễn ra sôi nổi nhưng nhìn chung còn chậm, quy mô trang trại nhỏ, sản phẩm
ít, không đồng nhất, không tập trung. Vốn và thị trường tiêu thụ cũng là nhân
tố hạn chế đáng kể đến việc hình thành và phát triển trang trại.
Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhất là các biện
pháp canh tác tiên tiến, công nghệ sinh học, bảo quản và chế biến sản phẩm
sau thu hoạch còn hạn chế làm cho việc mở rộng quy mô sản phẩm còn gặp
142
nhiều khó khăn. Công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp mới chỉ
dừng lại ở việc cung cấp sản phẩm cho phạm vi hẹp, chưa được phát triển
thành một ngành sản xuất hàng hóa thực sự nên giá trị kinh tế của sản xuất
nông nghiệp cũng chưa cao.
Tổ chức quản lý kinh tế còn nhiều bất cập. Hoạt động sản xuất kinh doanh
dịch vụ của hợp tác xã hiệu quả còn thấp, quản lý điều hành còn thiếu đồng bộ,
mang tính tự hình thức nên hoạt động kinh doanh dịch vụ chưa cao.
Bộ máy quản lý HTX sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp tuy được
củng cố nhưng hoạt động còn lúng túng, chậm đổi mới, một số HTX còn
buông lỏng quản lý, không điều hành được kế hoạch sản xuất, chậm chuyển
đổi về cơ cấu cây trồng vật nuôi và hướng dẫn các tiến bộ kỹ thuật để đưa
nhanh các loại cây, con có năng suất cao vào sản xuất nên hạn chế tốc độ tăng
trưởng lương thực, thực phẩm, ngành nghề. Bên cạnh đó, một số HTX còn
chưa năng động, tích cực trong các khâu dịch vụ, còn buông lỏng cho thôn,
đội, xã viên tự lo. Kinh phí hoạt động còn hạn chế, chưa có sự quan tâm phối
kết hợp, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể.
Những hạn chế đó xuất phát từ các nguyên nhân sau: Trình độ quản lý
của đội ngũ cán bộ về kinh tế mặc dù được bồi dưỡng nhưng chưa đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tác động
tiêu cực từ kinh tế thị trường và sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế, tài chính
thế giới và trong nước. Tác động của điều kiện tự nhiên: thiên tai xảy ra, ảnh
hưởng đến sản xuất, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp và du lịch của huyện.
Du lịch vốn dĩ là thế mạnh của huyện, nhưng qua hai giai đoạn phát triển
vẫn cho thấy, ngành này đóng góp vào sự phát triển kinh tế chưa đáng kể,
khai thác vẫn ở dạng nhỏ lẻ, chắp vá và vẫn ở dạng tiềm năng. Năm 2003, tỉ
trọng dịch vụ chỉ đạt 31,2 %. Như vậy là rất thấp so với tiềm năng du lịch của
địa phương. Đây là hạn chế của Mỹ Đức trong sự phát triển kinh tế. Chỉ cần
143
huyện Mỹ Đức biết khai thác món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng thì nhất
định tạo đường băng cho kinh tế huyện cất cánh.
4.4. Sự chuyển biến về kinh tế đã tác động đến sự chuyển biến về xã
hội của Mỹ Đức
Phát triển kinh tế vốn là điều kiện vật chất cho sự phát triển xã hội. Qua
hai giai đoạn, kinh tế của Mỹ Đức chuyển biến theo hướng ngày càng tích cực
và giai đoạn sau tốc độ phát triển nhanh hơn. Vì vậy, đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân được cải thiện.
Huyện đã giải quyết việc làm cho người lao động trong việc đa dạng hóa
ngành nghề, phát triển các thành phần kinh tế, nhiều mô hình kinh tế, nhất là
kinh tế hộ gia đình, khuyến khích làm giàu chính đáng.
Đời sống vật chất được nâng cao hơn trước: Nhà ở, điều kiện sinh hoạt
nâng cao, chất lượng cuộc sống được nâng lên; nhiều gia đình sắm được ti vi,
tủ lạnh, xe máy... với chất lượng ngày càng hiện đại. Phong trào xóa đói giảm
nghèo được đẩy mạnh.
Hạ tầng cơ sở được chú trọng đầu tư, giúp huyện có được một nền
tảng tốt cho phát triển kinh tế. Hệ thống giao thông nông thôn cơ bản
được bê tông hóa đến tận ngõ xóm. Hệ thống điện, viễn thông, thủy lợi
đều đã bước đầu đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế và giao lưu của nhân
dân trong toàn huyện.
Các lĩnh vực xã hội được đầu tư và có nhiều tiến bộ: giáo dục đào tạo
ngày càng được nâng lên về số lượng và chất lượng. Giáo viên ngày càng
được chuẩn hóa, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp và các trường nghề, Cao đẳng,
Đại học tăng lên. Y tế, chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng chất
lượng: số y, bác sĩ tăng, cơ sở trạm xá, bệnh viện được nâng cấp. Phong trào
văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao: ngày càng phong phú, nhiều hội diễn,
nhiều lễ hội diễn ra; đặc biệt lễ hội chùa hương kéo dài đến 3 tháng.
144
Đời sống tinh thần của nhân dân huyện Mỹ Đức ngày càng phong phú.
Nhờ vậy, các vấn đề về an ninh, trật tự an toàn xã hội được giải quyết nhanh và
ổn định. Môi trường chính trị - xã hội được giữ vững tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tập trung phát triển kinh tế. Do đó, các nguồn lực cũng được sử dụng
một cách có hiệu quả hơn. Những thành tựu trong phát triển kinh tế, xã hội đã
tạo ra một tiền đề vững chắc cho sức bật tiếp theo của huyện.
Nguyên nhân của những chuyển biến trên: Do sự nhận thức của cán bộ
lãnh đạo và nhân dân địa phương; Sự chỉ đạo của tỉnh Hà Tây: rất chú trọng
đến phát triển các mặt của xã hội; Chính sự phát triển kinh tế của huyện đã
tạo nên nền tảng vật chất để đầu tư cho văn hóa xã hội phát triển. Sự phát
triển về mặt xã hội sẽ tác động trở lại kinh tế, là yếu tố quan trọng để phát
triển một nền kinh tế Mỹ Đức. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất định, sự
chuyển biến xã hội ở Mỹ Đức chỉ dừng lại ở một số vấn đề cơm ăn, áo mặc, y
tế... còn các dịch vụ chất lượng cao, sự công bằng xã hội, đời sống văn minh
thì còn phải nhiều vấn đề. Vì bản thân, kinh tế huyện Mỹ Đức có chuyển biến
tích cực, nhưng dù bất kỳ hoàn cảnh nào thì vẫn là địa phương vùng sâu, vùng
xa, còn nhiều khó khăn, tiềm lực kinh tế vẫn ở dạng tiềm năng.
4.5. Kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức còn nhiều khó khăn và thách thức
Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên đa dạng tương đối thuận lợi để phát
triển kinh tế, xã hội, huyện Mỹ Đức đã hình thành một kết cấu hạ tầng khá
hoàn chỉnh để thực hiện các khâu đột phá quan trọng kinh tế, xã hội của
huyện. Với các ngành nghề truyền thống phong phú, góp phần tăng trưởng
kinh tế huyện, làm thay đổi diện mạo nông thôn, đời sống nhân dân được cải
thiện... Bên cạnh đó, Mỹ Đức còn nhiều khó khăn và thách thức so với các địa
phương khác, nhất là khi sáp nhập vào Hà Nội:
- Xuất phát điểm của nền kinh tế trong mặt bằng chung của thành phố Hà
Nội và so với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn ở mức
thấp. Tiềm lực kinh tế còn hạn chế, phát triển chưa bền vững, chưa tương
145
xứng với tiềm năng; trong cơ cấu kinh tế còn có bộ phận chuyển dịch chậm,
tỷ trọng nông nghiệp còn cao; nền kinh tế của huyện còn chưa tạo được bước
đột phá mạnh mẽ.
- Hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông kết nối
với các quốc lộ gặp khó khăn, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của huyện.
- Tỷ suất hàng hóa nông sản thấp, chất lượng hàng nông sản chưa cao,
chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ nông
sản không ổn định, giá thấp, thu thập bấp bênh.
Sự chuyển biến kinh tế chưa thúc đẩy mạnh đời sống xã hội: dân cư vẫn
sống phụ thuộc vào nghề nông, lao động phổ thông là chủ đạo, giáo dục, y tế chưa
đầu tư hiệu quả... vì vậy, đời sống của nhân dân còn thấp so với các địa phương
khác của tỉnh, nên việc cải thiện và nâng cao đời sống gặp nhiều khó khăn.
- Công tác quy hoạch nói chung còn thiếu và chưa đồng bộ. Chênh lệch
mức sống giữa thành thị và nông thôn tăng lên. Vấn đề ô nhiễm môi trường
không chỉ từ các làng nghề, mà ngay cả việc chăn nuôi, chế biến giết mổ
trong khu dân cư cũng gây ô nhiễm nặng. Tại nạn giao thông, tệ nạn xã hội về
ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan còn diễn biến phức tạp, chưa có biện pháp giải
quyết triệt để, ảnh hưởng xấu đến sự ổn định xã hội nông thôn.
- Nguyên nhân của những tồn tại trên:
+ Trước hết là do nông nghiệp và nông thôn Mỹ Đức có xuất phát điểm
thấp, sản xuất nhỏ; cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng đã
được đầu tư nhưng chưa phù hợp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội, nhất là hệ thống giao thông, thuỷ lợi, điện, cơ sở chế biến và mạng
lưới tiêu thụ sản phẩm. Trong khi đó, nhận thức của một bộ phận cán bộ và
người nông dân còn hạn chế. Tư tưởng cục bộ, hẹp hòi, phân hoá giàu nghèo
còn nặng nề ở nông thôn. Trình độ sản xuất, trình độ nghề nghiệp của nông
dân lại chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường.
146
+ Việc quán triệt, tuyên truyền và vận động thực hiện các chủ trương,
chính sách chưa được triển khai sâu rộng, chưa tạo được sức mạnh trong toàn
Đảng bộ và trong nhân dân, chưa làm tốt công tác vận động và thuyết phục
quần chúng. Việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thiếu chặt chẽ,
thiếu giải pháp đồng bộ; việc tổ chức chỉ đạo, điều hành thực hiện nghị quyết
đôi lúc thiếu kiên quyết; công tác kiểm tra, đôn đốc chưa kịp thời, việc tổng
kết đánh giá rút kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo thực hiện chưa được
tiến hành thường xuyên.
+ Công tác chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện trên một số lĩnh vực
còn lúng túng, hạn chế như: công tác quy hoạch, nhân cấy nghề, chuyển dịch
cơ cấu trong nông nghiệp còn chậm chưa tạo được bước đột phá trong phát
triển kinh tế, đặc biệt là khâu giống lúa có năng suất, chất lượng cao. Chưa
xây dựng được nhiều mô hình sản xuất lớn, vùng chuyên canh sản xuất có
tính sản xuất hàng hóa. Công tác nắm tình hình tham mưu, đề xuất chưa kịp
thời, hiệu quả. Sự phối hợp trong công tác của các phòng, ban, đoàn thể đạt
hiệu quả chưa cao.
+ Năng lực lãnh đạo của cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu cầu của
thời kỳ mới, một số cán bộ đảng viên thiếu gương mẫu chấp hành nghị quyết
mà chưa được uốn nắn và xử lý kịp thời. Một số cơ sở Đảng còn hoạt động
hạn chế, trình độ nghiệp vụ năng lực chỉ đạo của một số cấp uỷ, chính quyền,
đoàn thể còn bất cập. Một số cấp ủy viên của huyện được phân công phụ trách
cơ sở còn thiếu sự quan tâm sâu sát, chưa nắm bắt, phát hiện kịp thời những
vấn đề nảy sinh ở cơ sở, chưa có biện pháp xử lý kịp thời nên ảnh hưởng đến
tình hình sản xuất và đời sống dân sinh.
Yêu cầu đặt ra để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, xã hội phù
hợp với xu thế phát triển của đất nước, huyện Mỹ Đức cần xác định những
bước đi sau đây:
- Ngành nông nghiệp phải tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành
sang sản xuất hàng hóa, nâng giá trị thu nhập trên 1 ha canh tác. Điều đó có
147
nghĩa là phải cải tạo những vùng sản xuất chuyên canh, vùng sản xuất hàng
hóa. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm không thể xem nhẹ là phải tích cực
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả
sang những mô hình trồng trọt hoặc chăn nuôi phù hợp.
- Ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phải tập trung phát triển
các nghề bằng cách mở rộng nghề cũ và phát triển các nghề mới; ưu tiên và
tập trung vào các ngành nghề sản xuất vật liệu xây dựng, dệt, mây tre đan, chế
biến nông – lâm sản – thực phẩm và sản xuất sản phẩm tiểu thủ công nghiệp
xuất khẩu nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
sang công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Tập trung xây dựng du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Huyện
Mỹ Đức phải đón bắt thời cơ, thu hút những nhà đầu tư từ trung ương đến
tỉnh. Đồng thời, phải tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ tốt nhu
cầu phát triển du lịch – dịch vụ, trong đó cần tập trung nâng cấp mạng lưới
giao thông, từng bước hình thành các cụm dân cư, các đô thị theo quy hoạch,
tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích và thu hút vốn đầu tư mạnh của các
thành phần kinh tế để phát triển sản xuất và dịch vụ, tạo thêm nhiều việc làm
cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống người dân.
Tóm lại, những thành tựu nêu trên chính là thước đo sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng bộ huyện Mỹ Đức và là kết quả của tinh thần chủ động, sáng
tạo, đoàn kết, cần cù lao động của nhân dân Mỹ Đức. Mặt khác, những thành
tựu đó nói lên sự trưởng thành của Đảng bộ huyện. Từ Đại hội Đảng bộ
huyện lần thứ XVIII đến Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI, tư tưởng chỉ
đạo và các chủ trương chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Đảng bộ huyện
Mỹ Đức đã được nêu ra hoàn toàn đúng đắn và tiếp tục đề ra những chủ
trương, chính sách sát hợp hơn nữa để thúc đẩy công cuộc CNH, HĐH đi vào
tầm rộng hơn, sâu hơn trong thời kỳ tiếp theo.
148
KẾT LUẬN
Hơn 30 năm qua, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo. Là một nước nông nghiệp, trong bối cảnh quốc tế có
nhiều biến động phức tạp, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, xu
thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thì việc tiến hành thúc đẩy
nền kinh tế, xã hội theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH trở thành một tất yếu
khách quan.
Từ mục tiêu và kết quả nghiên cứu của luận án, chúng tôi xin rút ra một
số kết luận cơ bản sau:
1. Tính từ năm 1991 đến trước khi tỉnh Hà Tây nói chung và huyện Mỹ
Đức nói riêng sáp nhập vào thành phố Hà Nội (tháng 8 – 2008), Đảng bộ
huyện Mỹ Đức đã có hơn 17 năm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, xã hội.
Trong quá trình hơn 17 năm đó, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã trải qua 4 kỳ Đại
hội (Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII, XIX, XX, XXI), không những đã
vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Trung ương, của Tỉnh Hà Tây, mà
còn tích cực đề ra mục tiêu, giải pháp, xây dựng các đề án, chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội và tập trung hết khả năng để chỉ đạo thực hiện
tốt. Những chủ trương mà Đảng bộ huyện Mỹ Đức đưa ra phù hợp với quy
luật khách quan, phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương và đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân. Nhờ đó, Mỹ Đức đã nhanh chóng tạo được bước
đột phá về kinh tế, xã hội và thu được nhiều thành tựu.
2. Mỹ Đức vốn là một huyện vùng sâu, vùng xa tỉnh Hà Sơn Bình, xuất
phát điểm rất thấp. Khi sáp nhập về tỉnh Hà Tây, Mỹ Đức vẫn là huyện vùng
sâu, vùng xa. So với các huyện khác, kinh tế, xã hội của Mỹ Đức là rất thấp.
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, Mỹ Đức cũng đang dần đi lên. Từ
chỗ là một huyện thường xuyên thiếu lương thực, nạn đói giáp hạt là một vấn
nạn đối với cán bộ và nhân dân, Mỹ Đức đã vươn lên giải quyết cơ bản vấn
đề lương thực cho nhân dân, từng bước xoá nạn đói giáp hạt hàng năm, đảm
149
bảo an toàn lương thực cho nhu cầu địa phương và bước đầu có sự tích luỹ.
Cùng với đó, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng CNH,
HĐH. Liên kết ngành nghề, liên doanh hợp tác, mở rộng thị trường, tăng
nhanh tích luỹ, phát triển đầu tư với phương châm đa dạng hoá sản phẩm kinh
tế, đa dạng hoá thành phần và sở hữu, Nhà nước và nhân dân cùng làm. Hình
thành các vùng kinh tế theo hương chuyên môn hóa sản xuất. Phát triển thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhất là kinh tế tư nhân.
3. Chuyển biến về xã hội cũng là một trong những nguyên nhân để thúc
đẩy trở lại sự phát triển kinh tế ở Mỹ Đức. Những năm 1991 - 2008, cùng với
sự chuyển biến về kinh tế, đã tác động đến sự chuyển biến về mặt xã hội của
địa phương: dân số, lao động, việc làm, các vấn đề xã hội.... theo hướng tích
cực. Đời sống người dân trong huyện không ngừng được nâng cao, tỷ lệ đói
nghèo giảm một cách nhanh chóng, tỷ lệ hộ khá giàu ngày càng tăng; các gia
đình chính sách, thương binh liệt sĩ được các cấp chính quyền quan tâm có
cuộc sống ổn định. Cơ sở vật chất cũng được tăng cường tu bổ và xây dựng
mới; các công trình văn hoá, y tế, giáo dục cũng được kiến thiết lại khang
trang, sạch đẹp phục vụ phát triển dân trí và nâng cao đời sống tinh thần cho
người dân. Sự phát triển kinh tế là nhân tố quan trọng hàng đầu và điều kiện
vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội và có những chính sách xã hội phù
hợp là công cụ để phát triển kinh tế bền vững.
4. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì quá trình chuyển biến kinh tế
ở Mỹ Đức chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của huyện, vẫn còn một số
hạn chế như: chuyển dịch cơ cấu ngành, nội ngành kinh tế, vẫn còn chậm. Kinh
tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, đổi mới cách thức sản xuất diễn ra chậm, nền
sản xuất vẫn còn mang tính chất nhỏ lẻ, phân tán; năng suất lao động còn thấp,
giá thành sản phẩm chưa cao, chất lượng không đồng đều gây khó khăn cho
việc thu mua chế biến, do đó sức cạnh tranh trên thị trường yếu. Các thành
phần kinh tế: kinh tế tập thể còn chậm phát huy hiệu quả, các HTX dịch vụ
nông nghiệp còn mang tính hình thức, lúng túng trong việc lựa chọn phương án
150
kinh doanh và cơ chế hạch toán phù hợp với yêu cầu của kinh tế hàng hóa. Là
một huyện có thế mạnh về du lịch, nhưng chưa phát huy được giá trị kinh tế.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất
và xây dựng Mỹ Đức theo hướng hiện đại. Từ đó, chất lượng cuộc sống của
người nông dân chưa được cải thiện nhiều, chênh lệch giàu – nghèo đang có xu
hướng gia tăng, xã hội phát sinh nhiều vấn đề bức xúc mới…
5. Mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, song, từ những kết
quả đã đạt được trong quá trình phát triển nông nghiệp, có thể khẳng định
đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện Mỹ Đức là hoàn toàn đúng
đắn, phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương. Thành tựu về chuyển
biến kinh tế, xã hội của huyện Mỹ Đức trong những năm 1991- 2008 đã tạo ra
thế và lực mới, là tiền đề, điều kiện rất quan trọng cho sự thắng lợi của sự
phát triển của huyện Mỹ Đức trong những năm tiếp theo, đồng thời đã để lại
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong lãnh đạo kinh tế, xã hội cho thành
phố Hà Nội khi tiếp nhận quản lý Mỹ Đức.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phan Thị Lệ Dung (2017), Sự chuyển biến kinh tế nông nghiệp huyện Mỹ
Đức (Hà Tây) thời kì đổi mới từ năm 1986 đến năm 2008, Tạp chí Giáo
dục và xã hội, số đặc biệt tháng 10/2017.
2. Phan Thị Lệ Dung (2017), Sự chuyển biến xã hội của huyện Mỹ Đức (Hà
Tây)từ năm 1996 đến năm 2008,Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt
tháng 12/2017.
3. Phan Thị Lệ Dung (2019): Một số kết quả chủ yếu về sự chuyển biến cơ
cấu kinh tế ở huyện Mỹ Đức (1996 – 2008), Tạp chí Lịch sử Đảng, số (349)
12 – 2019.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thu An (2018), Kinh tế Mỹ Đức khởi sắc sau 10 năm sáp nhập
vào thủ đô Hà Nội, cổng thông tin điện tử Mỹ Đức,
http//myduc.hanoigov.vn.
2. Vũ Đình Bách (chủ biên) (2001), Đổi mới tăng cường các thành phần kinh
tế nhà nước: lý luận, chính sách và giải pháp” do Nxb. CTQG, Hà Nội.
3. Vũ Đình Bách (2013), Kinh tế học vĩ mô”, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phúc Lâm (1988), Lịch sử cách mạng của
Đảng bộ và nhân dân xã Phúc Lâm (1945 - 1975), Ban Sưu tầm Lịch sử.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ xã An Mỹ (2000), Lịch sử đấu tranh cách
mạng của Đảng bộ và nhân dân Xã An Mỹ, An Mỹ.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Đại Hưng (2003), Lịch sử cách mạng Đảng
bộ và nhân dân xã Đại Hưng, Hà Tây.
7. Ban Chấp hành Lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức (2006), Lịch sử Đảng
bộ huyện Mỹ Đức (1930 - 1954), tập 1, Sở Văn hóa thông tin Hà Tây.
8. Ban Chấp hành Lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức (2006), Lịch sử Đảng
bộ huyện Mỹ Đức (1954 - 2000), tập 2, Sở Văn hóa thông tin Hà Tây.
9. Ban Chấp hành Đảng Bộ tỉnh Hà Tây (2008): Lịch sử Đảng bộ Hà Tây,
tập 4 (1975 - 2008).
10. Ban Chấp hành Đảng Bộ xã Lê Thanh (2012), Lịch sử cách mạng của
Đảng Bộ và nhân dân xã Lê Thanh, Nxb Lao Động, Hà Nội.
11. Ban Chấp hành Đảng Bộ xã Bột Xuyên (2015), Lịch sử cách mạng của
Đảng Bộ và nhân dân xã Bột Xuyên (1930 - 2015), Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
12. Ban Chấp hành Đảng Bộ xã Hợp Thanh (2015), Lịch sử cách mạng của
Đảng Bộ và nhân dân xã Hợp Thanh (1930 - 2015), Nxb Lý luận Chính
trị, Hà Nội.
153
13. Ban Chấp hành Đảng bộ xã An Phú (2016), Lịch sử cách mạng của
Đảng Bộ và nhân dân xã An Phú (1930 - 1945), Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
14. Ban Nông nghiệp Trung ương (1991), Kinh tế xã hội nông thôn ngày
nay, 2 tập, Nxb Tư tưởng Văn hoá, Hà Nội.
15. Ban Kinh tế Trung ương (2016), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua
30 năm đổi mới về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
16. Ban Quản lý thắng cảnh chùa Hương (2003), Báo cáo kết quả tổ chức
lễ hội chùa Hương.
17. Báo Hà Sơn Bình, ngày 2-4-1976
18. Báo Hà Sơn Bình, ngày 1-2-1981
19. Báo Hà Tây, ngày 9-9 – 1993
20. Báo Hà Tây, ngày 15-10 – 1995.
21. Nguyễn Văn Bích (1994), Đổi mới kinh tế nông nghiệp: Thành tựu, vấn
đề và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Bích (1996), Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Bích (1997), Phát triển và đổi mới quản lý hợp tác xã theo
luật hợp tác xã, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang (2001), Kinh tế hợp tác - hợp tác
xã ở Việt Nam thực trạng và định hướng phát triển, Nxb Nông Nghiệp,
Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Bích (2007), Nông nghiệp nông thôn Việt Nam sau hai mươi
năm đổi mới quá khứ và hiện tại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Chi Cục Thống kê Hà Tây (1973), 4 năm xây dựng kinh tế văn hóa của
tỉnh Hà Tây” (1969 - 1972).
154
27. Chi Cục thống kê Hà Sơn Bình (1976), Niên giám thống kê tỉnh Hà Sơn
Bình năm 1976.
28. Chi Cục thống kê Hà Tây, Niên giám thống kê năm 1987 - 1988, lưu
hành nội bộ.
29. Chi Cục thống kê tỉnh Hà Sơn Bình, Niên giám thống kê năm 1980 -
1988 tỉnh Hà Sơn Bình, lưu hành nội bộ.
30. Chi Cục thống kê Hà Tây (1992): Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1985
- 1990 - 1991.
31. Chi Cục thống kê Hà Tây (1992), Dân số tỉnh Hà Tây 1-4-1989, lưu
hành nội bộ.
32. Chi Cục thống kê Hà Tây, Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1990 -
1993, lưu hành nội bộ.
33. Chi Cục thống kê Hà Tây, Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1990 -
1995, lưu hành nội bộ.
34. Chi Cục thống kê Hà Tây, Một số nét về phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Hà Tây thời kỳ 1991 - 1995, lưu hành nội bộ.
35. Chi Cục thống kê huyện Mỹ Đức (2015), Niên giám thống kê năm
2014, lưu hành nội bộ.
36. Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của
thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội.
37. Nguyễn Xuân Chinh (2004), Kết quả bước đầu và định hướng phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Hà Tây đến năm 2010, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, số 1.
38. Võ Chí Công (1989), Những vấn đề cơ bản trong đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế ở nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39. Võ Chí Công (1993), Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và phát triển
nền nông nghiệp hàng hóa ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, tháng 6/1993.
40. Nguyễn Sinh Cúc (1991), Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông
dân Việt Nam 1976-1990, Nxb Thống kê, Hà Nội.
155
41. Nguyễn Sinh Cúc, Nguyễn Văn Tiêm (1996), Nửa thế kỷ phát triển nông
nghiệp nông thôn Việt Nam 1945-1995, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
42. Nguyễn Sinh Cúc, Hoàng Vĩnh Lê, Lê Mạnh Hùng (1998), Thực trạng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
43. Phạm Như Cương (1988), Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. Phạm Như Cương (1991), Một số vấn đề kinh tế của hợp tác hoá nông
nghiệp ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Mai Ngọc Cường (2013), Một số vấn đề cơ bản về chính sách xã hội ở
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
46. Phạm Thị Lương Diệu (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát
triển kinh tế tư nhân từ năm 1986 đến năm 2005”, LATS Lịch sử, Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội.
47. Đỗ Quang Dũng (2006), Phát triển làng nghề trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Tây, LATS
Kinh tế: 62.34.01.01, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
48. Phạm Ngọc Dũng (2011), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
49. Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền (1996): Một số vấn đề về nông nghiệp và
nông thôn hiện nay, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Mỹ Đức (1985), Lịch sử đấu tranh
cách mạng của Đảng Bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức 1936 - 1945, Ban
sưu tầm tài liệu lịch sử Đảng Huyện Mỹ Đức.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Mỹ Đức (1991), Lịch sử đấu tranh
cách mạng của Đảng Bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức 1945 - 1954, Ban
sưu tầm tài liệu lịch sử Đảng Huyện Mỹ Đức.
156
52. Đảng Bộ xã Mỹ Thành (1995), Lịch sử cách mạng của Đảng Bộ và
nhân dân xã Mỹ Thành, tập 1 (1942 - 1954), Mỹ Thành.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Một số văn kiện của Đảng về phát
triển nông nghiệp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX) Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
56. Hà Văn Đảng, Trần Ngọc Bút (1996), Mô hình đổi mới trong nông
nghiệp, nông thôn, Nxb Nông Nghiệp.
57. Nguyễn Tính Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
58. Võ Nguyên Giáp (1994), Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
trong nông nghiệp nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
59. Hà Tây thế và lực mới trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004.
60. Nguyễn Ngọc Hà (2012): Đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986-2011), Nxb
Chính trị -Sự thật, Hà Nội.
61. Đinh Quang Hải (chủ nhiệm đề tài) (2016), Nông thôn Đồng bằng Bắc
Bộ (1965 - 1975), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
Viện Sử, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
62. Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Trần Ngọc Hiên (1987), Sự hình thành cơ cấu kinh tế trong chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
64. Lê Thu Hoa (2007), Kinh tế vùng ở Việt Nam - từ lý luận đến thực tiễn,
NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
65. Lê Nhị Hòa (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp phát triển
kinh tế với đảm bảo quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 1996
đến năm 2006”, LATS Lịch sử Đảng, Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh.
157
66. Lê Mạnh Hùng (2005), Định hướng và những giải pháp kinh tế chủ yếu
nhằm phát triển các ngành tiểu, thủ công nghiệp trong nông thôn tỉnh
Hà Tây, LATS Kinh tế: 5.02.05, Đại học Kinh tế Quốc dân.
67. Huyện ủy Mỹ Đức (1991), Báo cáo của Ban Huyện ủy khóa XVII trình
trước Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVIII, tài liệu lưu hành
nội bộ.
68. Huyện ủy Mỹ Đức (1996), Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ huyện
(nhiệm kỳ 1991 - 1995), nhiệm kỳ 5 năm 1996 - 2000 trình Đại hội đại
biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIX, tài liệu lưu hành nội bộ.
69. Huyện uỷ Mỹ Đức (1996), Nghị quyết về tổ chức thực hiện mục tiêu
phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đến năm 2000 theo hướng
CNH, HĐH, số 02-NQ/HU, ngày 24/10/1996, Mỹ Đức, tài liệu lưu
hành nội bộ.
70. Huyện uỷ Mỹ Đức (1997), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
1997, phương hướng nhiệm vụ năm 1998, số 25 – BC/HU, tháng
11/1997, tài liệu lưu hành nội bộ.
71. Huyện uỷ Mỹ Đức (1998), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện các Nghị
quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XIX nhiệm kỳ 1996 – 2000, số 06 – BC/HU,
ngày 23/3/1998, lưu hành nội bộ.
72. Huyện uỷ Mỹ Đức (1999), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
1998, phương hướng nhiệm vụ năm 1999, số 28 – BC/HU, tháng
1/1999, lưu hành nội bộ.
73. Huyện uỷ Mỹ Đức (1999), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
1999, phương hướng nhiệm vụ năm 2000, số 22 – BC/HU, tháng
12/1999, lưu hành nội bộ.
74. Huyện ủy Mỹ Đức (2000), Báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết đại
hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX, phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ
2000 - 2005, lưu hành nội bộ.
158
75. Huyện uỷ Mỹ Đức (2000), Báo cáo về chương trình và giải pháp thực
hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 1005, số 40 –
BC/ HU, ngày 10/8/2000, lưu hành nội bộ.
76. Huyện uỷ Mỹ Đức (2000), Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Huyện uỷ, Ban Thường vụ Huyện uỷ khoá XIX nhiệm kỳ 1996 – 2000,
số 72 – BC/ HU, ngày 13/11/2000, lưu hành nội bộ.
77. Huyện uỷ Mỹ Đức (2001), Báo cáo những mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu
năm 2001 nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện
lần thứ XX, số 77 – BC/HU, ngày 2/1/2001, lưu hành nội bộ.
78. Huyện uỷ Mỹ Đức (2001), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
2001, phương hướng nhiệm vụ năm 2002, số 15 – BC/HU, tháng
11/2001, lưu hành nội bộ.
79. Huyện uỷ Mỹ Đức (2002), Chương trình đẩy nhanh CNH – HĐH nông
nghiệp và nông thôn huyện Mỹ Đức thời kỳ 2001 – 2010 theo tinh thần Nghị
quyết TW5 (khoá IX), số 04 – CT/HU, ngày 10/7/2002, lưu hành nội bộ.
80. Huyện uỷ Mỹ Đức (2002), Chương trình thực hiện kết luận Hội nghị
TW6 (khóa IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa
VIII), phương hướng phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2005
và đến năm 2010, số 12-CTr/HU, ngày 30/10/2002, lưu hành nội bộ.
81. Huyện uỷ Mỹ Đức (2003), Nghị quyết về chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, tiếp tục thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hoá, hiệu quả và bền vững, số 09 – NQ/HU, ngày
27/03/2003, lưu hành nội bộ.
82. Huyện uỷ Mỹ Đức (2003), Nghị quyết của Ban Thường vụ Huyện uỷ
về chuyển đổi ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn gắn với quy hoạch
sử dụng đất đai và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
người nông dân, số 10 – NQ/HU, ngày 01/10/2003, lưu hành nội bộ.
83. Huyện uỷ Mỹ Đức (2002), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
2002, phương hướng nhiệm vụ năm 2003, số 36 – BC/HU, tháng
11/2002, lưu hành nội bộ.
159
84. Huyện uỷ Mỹ Đức (2003), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
2003, phương hướng nhiệm vụ năm 2004, số 54 – BC/HU, tháng
11/2003, lưu hành nội bộ.
85. Huyện uỷ Mỹ Đức (2004), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
2004, phương hướng nhiệm vụ năm 2005, số 83 – BC/HU, tháng
11/2004, lưu hành nội bộ.
86. Huyện ủy Mỹ Đức (2005), Báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết đại
hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX, phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ
2005 - 2010, lưu hành nội bộ.
87. Huyện uỷ Mỹ Đức (2005), Nghị quyết về xây dựng đường giao thông
nông thôn trên địa bàn toàn huyện, số 11 – NQ/HU, ngày 7/01/2005,
lưu hành nội bộ.
88. Huyện uỷ Mỹ Đức (2005), Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Huyện uỷ, Ban Thường vụ Huyện uỷ khoá XX nhiệm kỳ 2000 – 2005, số
06 – BC/HU, ngày 5/ 9/2005, lưu hành nội bộ.
89. Huyện uỷ Mỹ Đức (2005), Thông báo của Ban Thường vụ Huyện uỷ về
đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, số 13 – TB/HU, ngày
10/11/2005, lưu hành nội bộ.
90. Huyện uỷ Mỹ Đức (2005), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
2005, phương hướng nhiệm vụ năm 2006, số 60 – BC/HU, tháng
12/2005, lưu hành nội bộ.
91. Huyện uỷ Mỹ Đức (2006), Chương trình hành động của Huyện ủy thực
hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, số 7 –
CTr/HU, ngày 19/8/2006, lưu hành nội bộ.
92. Huyện uỷ Mỹ Đức (2006), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
2006, phương hướng nhiệm vụ năm 2007, số 36 – BC/HU, tháng
12/2006, lưu hành nội bộ.
93. Huyện uỷ Mỹ Đức (2007), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
2007, phương hướng nhiệm vụ năm 2008, số 57 – BC/HU, tháng
12/2007, lưu hành nội bộ.
160
94. Huyện uỷ Mỹ Đức (2008), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm
2008, phương hướng nhiệm vụ năm 2009, số 63 – BC/HU, tháng
12/2008, lưu hành nội bộ.
95. Huyện uỷ Mỹ Đức (2008), Báo cáo kết quả giữa nhiệm kỳ thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI và những giải pháp tiếp
tục thực hiện đến năm 2010, số 87 – BC/HU, ngày 30/7/2008, lưu hành
nội bộ.
96. Huyện ủy Mỹ Đức (2010), Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XXII
Đảng bộ huyện Mỹ Đức nhiệm kỳ 2010 - 2015, lưu hành nội bộ.
97. Huyện uỷ Mỹ Đức (2010), Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Huyện uỷ, Ban Thường vụ Huyện uỷ khoá XXI nhiệm kỳ 2005 – 2010,
số 13 – BC/HU, ngày 5/7/2010, lưu hành nội bộ.
98. Huyện ủy - Hội đồng nhân dân - ủy ban nhân dân Huyện Ứng Hòa
(2015), Địa chí Ứng Hòa, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
99. Thu Hương (2006), Hà Tây tập trung cải thiện môi trường đầu tư, Báo
Kinh tế Việt Nam, số 7.
100. Phạm Đức Kiên (2011), Đảng lãnh đạo kết hợp phát triển kinh tế với
thực hiện sách xã hội từ năm 1991 đến năm 2006”, LATS, Học viện
Quốc gia Hồ Chí Minh.
101. Đỗ Thiên Kính (1998), Một số khía cạnh về mối tương quan giữa
chuyển đổi cơ cấu lao động- nghề nghiệp xã hội và phân tầng mức sinh
sống ở vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đổi mới,
Luận văn thạc sĩ xã hội học, Viện Xã hội học, Hà Nội.
102. Trần Hoàng Kim (1995), Tiềm năng kinh tế đồng bằng Sông Hồng,
Nxb Thống Kê, Hà Nội.
103. Nguyễn Văn Khanh (2003): Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới”, Nxb CTQG,
Hà Nội.
161
104. Nguyễn Văn Khánh (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp ở đồng bằng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
105. Nguyễn Văn Khánh (2013), Ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn Việt
Nam thời kỳ cận - hiện đại, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
106. Nguyễn Thọ Khang - Bùi Thị Kim Hậu (2016): Giải quyết những vấn
đề kinh tế và xã hội cấp bách ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc
gia - Sự Thật, Hà Nội.
107. Hà Mạnh Kha (chủ nhiệm đề tài) (2016), Nông thôn đồng bằng Bắc Bộ
(1996 - 2006), Đề tài cấp Bộ, Viện Sử học, Viện Hàn Lâm Khoa học xã
hội Việt Nam, Hà Nội.
108. Phan Thanh Khôi - Lương Xuân Hiến (Đồng chủ biên) (2006), Một số
vấn đề kinh tế - xã hội trong tiến trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Lý Luận chính trị, Hà Nội.
109. Nguyễn Đình Lê (chủ biên) (2017), Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu
kinh tế - xã hội Việt Nam (1986- 2000), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
110. Đỗ Thị Thanh Loan (2016), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
111. Ngô Thắng Lợi (2011): Hoạch định phát triển kinh tế - xã hội - Lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
112. Nguyễn Thiện Luân (2001): Một số vấn đề về công nghiệp hoá - hiện
đại hoá trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ 2001
- 2020, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
113. Lê Quốc Lý (2013), Chính sách xóa đói, giảm nghèo - Thực trạng và
giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
114. Lê Quốc Lý (2014), Chính sách an sinh xã hội - Thực trạng và giải
pháp, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
162
115. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (1993), Đổi mới và phát triển các thành phần
kinh tế, Nxb CTQG, Hà Nội.
116. Đỗ Hoài Nam, (1996), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển
mũi nhọn”, NXB KHXH, Hà Nội.
117. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997), Đổi mới chính sách xã hội - luận
cứ và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
118. Phạm Xuân Nam (2013), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng, Tạp chí Lý luận
chính trị số 1.
119. Niên giám thống kê huyện Mỹ Đức 1990 – 1995 (1995), Văn phòng lưu
trữ huyện Mỹ Đức.
120. Niên giám thống kê huyện Mỹ Đức 1995 – 2000 (2000), Văn phòng lưu
trữ huyện Mỹ Đức.
121. Niên giám thống kê huyện Mỹ Đức 2000– 2005 (2005),Văn phòng lưu
trữ huyện Mỹ Đức.
122. Niên giám thống kê huyện Mỹ Đức 2005 – 2010 (2010),Văn phòng lưu
trữ huyện Mỹ Đức.
123. Nguyễn Quang Ngọc (1998), Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển
của lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
124. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
125. Nhiều tác giả (2012), Từ điển kinh tế Nga - Việt - Anh, Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
126. Nguyễn Thị Kim Nhung (2005): Thực trạng và giải pháp nâng cao khả
năng đáp ứng nhu cầu vốn các đối tượng chính sách xã hội trên địa
bàn tỉnh Hà Tây, Tạp chí Ngân hàng số 12, tr 45 - 47.
127. Nguyễn Văn Mạnh (chủ biên) (2010), Vai trò của nhà nước đối với
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới ở
Việt Nam”, Đề tài KX02.22/06-10, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
163
128. Vũ Oanh (1998), Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
129. Nguyễn Xuân Oánh (2001), Đổi mới - Vài nét lớn của một chính sách
kinh tế Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
130. Lê Quang Phi (chủ biên) (2007), Đổi mới tư duy lý luận của Đảng về
CNH, HĐH ở nước ta Nxb CTQG, Hà Nội.
131. Lê Quang Phi (2012), Đảng lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm 2002”, LATS, Học viện Chính
trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.
132. Trần An Phong (chủ biên) (1994), Số liệu cơ bản tình hình kinh tế xã
hội vùng kinh tế sinh thái gò đồi tỉnh Hà Tây (1990 - 1993), Hà Tây.
133. Phòng NN - PTNT huyện Mỹ Đức (1997), Báo cáo về kế hoạch kiên cố
hoá hệ thống kênh tưới nội đồng huyện Mỹ Đức giai đoạn 1997 – 2005,
số 3 – BC/NN/TL, ngày 15/1/1997, Mỹ Đức.
134. Phòng NN - PTNT huyện Mỹ Đức (2003), Báo cáo tiến độ thực hiện đề
tài “Xây dựng mô hình vùng lúa chất lượng cao”, số 65 – BC/NN, ngày
15/11/2003, Mỹ Đức.
135. Phòng NN - PTNT huyện Mỹ Đức (2005), Báo cáo kết quả chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế trang trại 2000 – 2005 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2010, số 01 – BC/NN, ngày 31/8/2005,
Mỹ Đức.
136. Phòng NN - PTNT huyện Mỹ Đức (2005), Báo cáo về kết quả thực
hiện các chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2000 –
2005 và phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới, số 43 – BC/NN,
tháng 9/2005, Mỹ Đức.
137. Phòng NN - PTNT huyện Mỹ Đức (2005), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ năm 2005 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2006, số
21- BC/NN, tháng 10/2005, Mỹ Đức.
164
138. Phòng NN - PTNT huyện Mỹ Đức (2006), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2007, số
26- BC/NN, tháng 10/2006, Mỹ Đức.
139. Phòng NN - PTNT huyện Mỹ Đức (2007), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ năm 2007 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2008, số
74- BC/NN, tháng 11/2007, Mỹ Đức.
140. Phòng NN - PTNT huyện Mỹ Đức (2008), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ năm 2008 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2009, số
17- BC/NN, tháng 11/2008, Mỹ Đức.
141. Phòng NN - PTNT huyện Mỹ Đức (2009), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ phát triển nông nghiệp 2005 – 2010 và phương hướng nhiệm
vụ 2010 – 2015, số 52 – BC/NN, tháng 11/ 2009, Mỹ Đức.
142. Phòng Thống kê huyện Mỹ Đức (2001), Một số chỉ tiêu chủ yếu về kinh
tế - xã hội huyện Mỹ Đức (1995 – 2000), tháng 1/2001, Mỹ Đức.
143. Phòng Thống kê huyện Mỹ Đức (2005), Báo cáo chỉ tiêu kinh tế cơ bản
trong 5 năm giai đoạn 2001 – 2005, phương hướng đến năm 2010,
tháng 8/2005, Mỹ Đức.
144. Phòng Thống kê huyện Mỹ Đức (2001), Niên giám thống kê 1996 –
2000, tháng 8/2001, Mỹ Đức.
145. Phòng Thống kê huyện Mỹ Đức (2006), Niên giám thống kê 2001 –
2005, tháng 1/2006, Mỹ Đức.
146. Phòng Thống kê huyện Mỹ Đức (2010), Niên giám thống kê 2005 –
2009, tháng 7/2010, Mỹ Đức.
147. Phan Thanh Phố (1996), Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh
tế ở Việt Nam”, Nxb Giáo Dục , Hà Nội.
148. Nguyễn Trọng Phúc (2000), Một số kinh nghiệm của Đảng cộng sản
Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội.
149. Vũ Văn Phúc (2014), Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
165
150. Vũ Văn Phúc (2017), Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta - Lý luận và thực tiễn”Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
151. Đỗ Nguyên Phương và Trần Xuân Kiên (2010), Cơ cấu xã hội Việt
Nam và những vấn đề bức xúc trong quá trình đổi mới, Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
152. Nguyễn Trung Quế (1995), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn vùng
đồng bằng sông Hồng, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.
153. Nguyễn Duy Quý (2009), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
154. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Lê Ngọc Tòng (2005), Nhìn lại quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng (1986-2005)” Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
155. Lê Văn Sang (2014), Các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
156. Hoàng Thiếu Sơn (1999), Địa chí Hà Tây, Nxb Sở Văn hóa Thông Tin
Hà Tây.
157. Tạ Ngọc Tấn (2010), Một số vấn đề về cơ cấu xã hội Việt Nam hiện
nay, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
158. Nguyễn Thị Thanh (2001), Một số quan điểm về chính sách xã hội của
Đảng trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng số 3 - 2001.
159. Đặng Văn Thắng, Phạm Ngọc Dũng (2003), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
công - nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và triển vọng”,
NxB CTQG, Hà Nội.
160. Hoàng Đức Thân và TS. Đinh Quang Ty (2011), Tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
161. Tạ Đình Thi (2007), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát
triển bền vững của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Việt Nam, Luận án
tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
166
162. Nguyễn Văn Thường (chủ biên) (2007), Một số vấn đề kinh tế - xã hội
sau 20 năm đổi mới ở Việt Nam: Dự án hỗ trợ tổng kết 20 năm đổi mới
ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
163. Vũ Hồng Tiến (2005), Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ
tiến lên CNXH ở Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
164. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
165. Tỉnh uỷ Hà Tây (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ XII, tháng 4/1996, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
166. Tỉnh uỷ Hà Tây (1996), Nghị quyết về tổ chức thực hiện mục tiêu phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH đến năm 2000,
số 01 – NQ/TU, ngày 1/10/1996, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
167. Tỉnh uỷ Hà Tây (1997), Chỉ thị 20 – CT/TU của Ban Thường vụ Huyện
ủy về việc chuyển đổi HTX nông nghiệp theo Luật HTX, ngày 1/4/1997,
Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
168. Tỉnh uỷ Hà Tây (1997), Nghị quyết về phát triển khoa học và công
nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000, số 04 – NQ/
TU, ngày 14/4/1997, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
169. Tỉnh uỷ Hà Tây (1997), Chỉ thị về việc đẩy mạnh sản xuất trên cơ sở
đổi ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn gắn với quy hoạch sử dụng
đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người nông dân, số
14 – CT/TU, ngày 12/7/1997, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
170. Tỉnh uỷ Hà Tây (1999), Chương trình 13-CTr/TU về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VIII về mục tiêu đạt một triệu
tấn lương thực vào năm 2000, ngày 26/2/1999, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy
Hà Tây.
171. Tỉnh uỷ Hà Tây (1999), Chương trình 14-CTr/TU về an toàn đê điều và
giải quyết cơ bản úng hạn để ổn định và phát triển nông thôn, nông
nghiệp, ngày 10/4/1999, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
167
172. Tỉnh uỷ Hà Tây (1999), Chương trình 15-CTr/TU về tiếp tục thực hiện
mục tiêu phát triển chăn nuôi đến năm 2000, ngày 10/4/1999, Kho Lưu
trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
173. Tỉnh uỷ Hà Tây (1999), Chương trình 24-CTr/TU về thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa IX) về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn Hà Tây thời kỳ 2001 – 2010, ngày 20/4/2002, Kho Lưu trữ
Tỉnh ủy Hà Tây.
174. Tỉnh uỷ Hà Tây (2000), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ XIII, tháng 12/2000, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
175. Tỉnh uỷ Hà Tây (2001), Thông báo của Tỉnh uỷ về triển khai thực hiện
chương trình phát triển nông nghiệp đến năm 2005 theo hướng sản
xuất hàng hoá, hiệu quả và bền vừng, số 40 – TB/TU, ngày 14/5/2001,
Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
176. Tỉnh uỷ Hà Tây (2001), Kế hoạch thực hiện Chỉ thị 63 – CT/ TW của
Bộ Chính trị (khoá VIII) về đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học
và công nghệ phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, số 02 –
KH/TU, ngày 24/5/2001, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
177. Tỉnh uỷ Hà Tây (2001), Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng
cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với hoạt động của Hội
nông dân trong thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, số 10 –
CT/TU, ngày 17/7/2001, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
178. Tỉnh uỷ Hà Tây (2003), Nghị quyết của Tỉnh uỷ thực hiện Nghị quyết
Trung ương 7 (khoá IX) về tăng cường quản lý và sử dụng đất đai trên
địa bàn tỉnh, số 06 – NQ/TU, ngày 17/4/2003.
179. Tỉnh uỷ Hà Tây (2003), Chỉ thị 50-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
về lãnh đạo xây dựng cánh đồng đạt giá trị từ 50 triệu đồng/ha/năm trở
lên, ngày 14/9/2003, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
180. Tỉnh uỷ Hà Tây (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ XIV, tháng 12/2005, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
168
181. Tỉnh uỷ Hà Tây (2006), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh
lần thứ 3 (Khóa XIV)về phát triển nông nghiệp, nông thôn đến năm 2010,
số 03 – NQ/TU, ngày 5/5/2006, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
182. Tỉnh uỷ Hà Tây (2006), Chỉ thị 8-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
về đẩy nhanh tiến độ dồn điền, đổi thửa gắn với chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, ngày 14/6/2006, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Hà Tây.
183. Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Văn Phú (đồng chủ biên) (2006), Phát
triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
184. Nguyễn Ngọc Toàn, Bùi Văn Huyền (2013), Tái cấu trúc nền kinh tế
Việt Nam: Nhìn từ cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
185. Đặng Văn Tu, Nguyễn Tá Nhí (2011), Địa chí Hà Tây, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
186. Trần Nguyễn Tuyên (2010), Gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ,
công bằng xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
187. Nguyễn Phú Trọng (2006), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
188. Nguyễn Thị Tố Uyên (2013), Các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng lãnh
đạo đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
189. UBND huyện Mỹ Đức (1996), Chương trình hành động đến năm 2000
để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XIX,
số 256 – CV/ UB, ngày 26/11/1996.
190. UBND huyện Mỹ Đức (1997), Kế hoạch chuyển đổi ruộng đất, tiến
hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất chính thức cho
người nông dân, số 55 – KH/ UB, ngày 10/3/1997.
191. UBND huyện Mỹ Đức (1997), Đề án chuyển đổi HTX nông nghiệp của
huyện Mỹ Đức theo Luật HTX, số 107 – ĐA/UB, ngày 20/4/ 1997.
192. UBND huyện Mỹ Đức (1997), Báo cáo sơ kết chỉ đạo điểm chuyển đổi
HTX nông nghiệp theo Luật HTX, số 26 – BC/UB, ngày 12/9/1997.
169
193. UBND tỉnh Hà Tây (1997), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội vùng
Hương Sơn giai đoạn 1997 - 2010, Mỹ Đức.
194. UBND huyện Mỹ Đức, Bản Quản lý thắng cảnh chùa Hương (1998),
Một số văn bản pháp quy về công tác quản lý khu di tích và thắng cảnh
Chùa Hương, Mỹ Đức.
195. UBND tỉnh Hà Tây, Sở Du lịch Hà Tây (1998), Quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch thắng cảnh chùa Hương, Mỹ Đức.
196. UBND huyện Mỹ Đức (1999), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội huyện Mỹ Đức giai đoạn 2000 – 2005 – 2010, tháng 10/1999.
197. UBND tỉnh Hà Tây (1999), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội huyện Mỹ Đức thời kỳ 1999 - 2000, Mỹ Đức.
198. UBND huyện Mỹ Đức (2000), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua 10
năm đổi mới (1991 – 2000) và phương hướng nhiệm vụ thi đua khen
thưởng (2001 – 2005), số 45 – BC/UB, ngày 16/8/2000.
199. UBND huyện Mỹ Đức (2001), Chương trình thực hiện Chỉ thị số 63 –
CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học
và công nghệ phục vụ CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn Mỹ Đức,
số 309 – CT/UB, ngày 29/8/2001.
200. UBND huyện Mỹ Đức (2001), Báo cáo quy hoạch chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi huyện Mỹ Đức giai đoạn 2001 – 2005, tầm nhìn
2010 theo hướng hiệu quả và bền vững, tháng 11/2001.
201. UBND huyện Mỹ Đức (2002), Báo cáo quy hoạch sử dụng đất huyện
Mỹ Đức đến năm 2010, Mỹ Đức.
202. UBND huyện Mỹ Đức (2002), Báo cáo tổng kết 5 năm 1998 - 2002
thực hiện luật ngân sách nhà nước, Mỹ Đức.
203. UBND huyện Mỹ Đức (2003), Hướng dẫn trình tự lập hồ sơ chuyển
đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi, hỗ trợ kinh phí chuyển đổi cơ cấu cây
trồng - vật nuôi và dồn ô đổi thửa trên địa bàn huyện Mỹ Đức, số 509 –
HD/UB, ngày 20/10/2003.
170
204. UBND huyện Mỹ Đức (2003), Báo cáo sơ kết thực hiện chương trình
Nguyên chủng hoá giống lúa vụ xuân năm 2003, số 31 – BC/UB, ngày
25/6/2003.
205. UBND huyện Mỹ Đức (2003), Báo cáo kết quả thực hiện các chương
trình phát triển nông nghiệp và phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới,
số 43BC/UB, ngày 20/8/2003.
206. UBND huyện Mỹ Đức (2003), Kế hoạch về công tác chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi và công tác chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp từ ô
thửa nhỏ thành ô thửa lớn gắn với quy hoạch sử dụng đất và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho người nông dân, số 438 – KH/UB,
ngày 9/10/2003.
207. UBND huyện Mỹ Đức (2003), Báo cáo tổng kết kinh tế - xã hội 5 năm
1999 - 2004 và phương hướng nhiệm vụ phát triển năm 2000, Mỹ Đức.
208. UBND huyện Mỹ Đức (2003), Báo cáo tổng kết kinh tế - xã hội năm
1995, 2000, 2003.
209. UBND huyện Mỹ Đức (2003), Báo cáo tình hình thực hiện dự toán
ngân sách 2002, Nhiệm vụ dự toán ngân sách năm 2003, Mỹ Đức.
210. UBND huyện Mỹ Đức (2003), Điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội huyện Mỹ Đức thời kỳ 1999 - 2010, Mỹ Đức.
211. UBND huyện Mỹ Đức (2004), Báo cáo kết quả thực hiện chuyển đổi cơ
cấu kinh tế huyện Mỹ Đức, số 55 – BC/UB, ngày 15/9/2004.
212. UBND huyện Mỹ Đức (2005), Báo cáo đánh giá thực hiện sản xuất vụ
đông 2005 – 2006, làm thủy lợi nội đồng, công tác dồn ruộng, triển
khai kế hoạch sản xuất vụ xuân năm 2006, số 74-BC/UB, ngày
30/11/2005.
213. UBND huyện Mỹ Đức (2005), Báo cáo tình hình kết quả cải tạo, nâng
cấp xây dựng hệ thống giao thông nông thôn huyện Mỹ Đức từ năm
2001 – 2005, số 60 – BC/UB, ngày 6/10/2005.
171
214. UBND huyện Mỹ Đức (2008), Báo cáo kết quả 4 năm thực hiện Nghị
quyết số 09-NQ/HU ngày 26/7/2003 của Huyện ủy về chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi,và Nghị quyết số 10-NQ/HU ngày 01/10/2003
của Ban Thường vụ Huyện ủy về dồn ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn, số
03-BC/UB, ngày 7/1/2008.
215. UBND huyện Mỹ Đức (2008), Báo cáo thực trạng sản xuất nông
nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn, tình hình nông dân và hiện trạng các
công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, số 06 – BC/UB, ngày
28/8/2008.
216. Phạm Văn Vang (1990), Phương thức kết hợp sản xuất nông nghiệp với
lâm nghiệp ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
217. Đào Văn Vui, Nguyễn Cảnh Minh, Nguyễn Đình Lê (1994), Lịch sử Hà
Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
218. Website:http://www.google.com.vn
PL1
PHỤ LỤC
PL2
PL3
PL4
PL5
Bảng: Tổng hợp một số chỉ tiêu các tiểu vùng kinh tế của Mỹ Đức
Tiểu vùng 1 81,1 35,3
Tiểu vùng 2 65,64 28,5
Tiểu vùng 3 83,3 36,2
53.242 31,3
80.037 46,9
36,2 37.158
656,4
1219,3
446,0
Chỉ tiêu Diện tích (2003) (km2) % so với toàn huyện Dân số năm 2003 (người) so với toàn huyện Mật độ dân số năm 2003 (người/km2) Đặc điểm tự nhiên
- Địa hình đồng bằng do phù sa song Đáy bồi đắp, đất đai màu mỡ gồm: đất trong đê và đất ngoài đê - Có nhiều xát xây dựng
Đặc điểm kinh tế
- Địa hình núi đá vôi dạng thấp, nhiều thung lung, cánh đồng trước núi, nhiều hang động Caxtơ, chủ yếu là đất pherali đỏ vàng trên búi đá vôi, đất bồi tích lắng đọng. - Có nhiều đá vối, đá xanh, đá đen Gralit, than bùn, đất sét - 24,5% GDP toàn huyện - Cơ cấu kinh tế: nông- ngư – lâm: 40,1%, Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: 8,9% và dịch vụ - du lịch: 51,0% - Nông nghiệp: lúa, khoai, cây ăn quả, trâu bò, dê, rừng đặc dụng. - Công nghiệp: khai thác đá các loại. Dịch vụ - du lịch phát triển nhất huyện
- Địa hình chủ yếu là đồi núi đá vôi, gò đồi, cánh đồng trước núi, với thành phần đất pheralit đỏ vàng trên đá vôi, đất bạc màu, đất mùn ven núi - Có nhiều đá vôi, than bùn, đất sét - 26,9% GDP toàn huyện - Cơ cấu kinh tế: Nông – lâm – ngư: 58,7%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: 11,6%, dịch vụ - du lịch: 29,7% - Nông nghiệp: lúa, ngô, sắn, lạc, cây ăn quả, trâu, bò, dê, gia cầm - Công nghiệp: Khai thác đá các loại, sản xuất vi sinh. - Các chợ trung tâm cụm xã: chợ Vài, chợ Tuy Lai
- 48,6% GDP toàn huyện - Cơ cấu kinh tế: nông – lâm – ngư nghiệp: 60,1%, Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: 9,2%, dịch vụ - du lịch: 21,8% - Nông nghiệp: lúa, ngô, đậu tương, dâu tằm, trâu, bò, lợn, gia cầm. - Tiểu thủ công nghiệp: dệt, thêu, mây tre đan, chế biến thực phẩm, khai thác cát. - Trung tâm thương mại dịch vụ lớn nhất huyện
PL6
Trƣờng Trung học phổ thông Mỹ Đức B [đồng tác giả]
Buổi lễ giao quân, tiễn đƣa thanh niên lên đƣờng làm nghĩa vụ quân sự [8]
PL7
Trạm biến thế điện trên địa bàn thị trấn Đại Nghĩa [8]
PL8
Mƣơng dẫn nƣớc ở xã Phù Lƣu Tế
Khu trung tâm y tế huyện Mỹ Đức [Đồng tác giả]
PL9
Đình Áng Thƣợng, di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia
Trạm Bơm Phù Lƣu Tế [8]
PL10
Công trình thủy lợi xã An Phú [Tác giả]
Cánh đồng cao sản ở Xã An Mỹ
PL11
Chợ Vài thời kỳ đổi mới [8]
PL12
Sản xuất nông nghiệp ở xã An Phú [12]
PL13
Mô hình trồng sen tại xã An Phú [ Tác giả]
Mô hình nuôi lợn tại xã An Phú [8]
PL14
Mô hình chăn nuôi gà tại xã An Phú [8]
Khu Hành chính huyện Mỹ Đức [ http://myduc.hanoi.gov.vn]
PL15
Ban Thƣờng vụ huyện Mỹ Đức nhiệm kỳ 2006 – 2010 [8]
PL16
Báo Hà Sơn Bình, ngày 2-3-1991
PL17
Báo Hà Sơn Bình 3-4-1990
PL18
Báo Hà Sơn Bình, ngày 10-4-1991
PL19
Báo Hà Sơn Bình, ngày 1-2-1991
PL20
Báo Hà Sơn Bình, ngày 9-9-1991
PL21
Báo Hà Sơn Bình, ngày 11-3 – 1991
PL22
Báo Hà Sơn Bình, ngày 19 – 1 – 1991
PL23
Báo Hà Sơn Bình, ngày 22 –1 – 1990
PL24
Báo Hà Sơn Bình, ngày 22-6 – 1991
PL25
Báo Hà Tây, ngày 25 – 11 -1991
PL26
Báo Hà tây, ngày 2-5 -1992
PL27
Báo Hà Tây, ngày 18 – 6 – 1992
PL28
Báo Hà Tây, ngày 25 – 7 – 1993
PL29
Báo Hà Tây, ngày 15 – 9 – 1993
PL30
Báo Hà Tây, ngày 3 -10 – 2000
PL31
Báo Hà Tây, ngày 16 – 5 – 2000
PL32
Báo Hà Tây, ngày 20 – 1 – 2001
PL33
Báo Hà Tây, ngày 2-3 -2001
PL34
Báo Hà Tây, ngày 14 – 10 – 2002
PL35
Báo Hà Tây, ngày 16 – 5 – 2004
PL36
Báo Hà Tây, ngày 19 – 5 2004
PL37
Báo Hà Tây, ngày 20 – 7 – 2005
PL38
Báo Hà Tây, ngày 21 – 4 – 2005
PL39
Báo Hà Tây, ngày 16 – 4 – 2007
PL40
Báo Hà Tây, ngày 23 – 7- 2007