intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề 2: Quản lý rủi ro trong việc thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình

Chia sẻ: An Vuong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

134
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chuyên đề trình bày các khái niệm liên quan đến rủi ro trong xây dựng, các trường hợp rủi ro và các biện pháp xử lý.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề 2: Quản lý rủi ro trong việc thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình

  1. Chuyªn ®Ò 2 :     Quản lý rủi ro trong việc thực hiện dự án đầu tư xây  dựng     công trình 1. Nhận dạng và phân tích các loại rủi ro 1.1. Khái niệm về rủi ro: Trong cuộc sống, tất cả  chúng ta đều phải đương đầu với những   rủi ro, đó là điều không thể tránh khỏi. Rủi ro là những bất trắc xảy ra ngoài mong  muốn của đối tượng sử  dụng và gây ra những  thiệt hại về  thời gian, vật chất, tiền của, sức   khỏe, tính mạng con người. Có rất nhiều loại rủi ro khác nhau và do rất nhiều các nguyên nhân   khác nhau gây ra. Có những rủi ro do môi trường tự nhiên như rủi ro do lũ  lụt, động đât, khô hạn, gây thiệt hại lớn về  của cải, vật chất và tính  mạng con người; có những rủi ro do môi trường kinh tế – xã hội, chính trị  gây ra như  lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh làm  ảnh hưởng lớn đến hoạt động của con người; có những rủi ro do bản  thân hoạt động của con người gây ra như  rủi ro do tai nạn hoặc rủi ro   thua lỗ  do trình độ  quản lý, trình độ  kinh doanh yếu kém; có những kỹ  thuật lạc hậu dẫn đến hậu quả là năng suất lao động thấp, giá thành sản  phẩm cao hoặc có những rủi ro do tiến bộ khoa học kỹ thuật gây rồi như  rủi ro hao mòn vô hình quá lớn, không kịp thu hồi vốn đầu tư (VĐT) trong  trang thiết bị  máy móc thiết bị  và tài sản cố  định (TSCĐ), các rủi ro này   thường xuất hiện trong lĩnh vực sản xuất đặc biệt là lĩnh vực sản xuất   xây dựng (XD). Hầu hết các rủi ro xảy ra đều nằm ngoài ý muốn chủ  quan của con người. Nói đến rủi rủi ro, bất định không thể không nhắc tới Frank Knight   (1895­1973) – nhà khoa học, nhà kinh tế học người Mỹ. Ông có đóng góp  quan trọng vào phương pháp luận của kinh tế học cũng như đối với việc   định nghĩa và giải thích chi phí xã hội. Đóng góp lớn nhất của ông đối với 
  2. kinh tế  là tác phẩm rủi ro, sự  không chắc chắn và lợi nhuận (1921). Có  thể coi ông là trong những nhà khoa học hiện đại đầu tiên nghiên cứu sâu  về  rủi ro và bất định. Mục tiêu cơ  bản của ông là giải thích sự  điều tiết   lợi nhuận trong kinh doanh dưới dạng một hàm số  của rủi ro bất định.  Vào thời kỳ của ông, đây không phải là một vấn đề mới mà ngược lại nó  đã được một nhà khoa học trước đó nói tới khi nghiên cứu về  mối quan   hệ  trong sở  hữu đất đai. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế  hiện đại   phát triển, sự nghiên cứu của Frank Knight đã có tác dụng gắn kết những  vấn đề về mặt lý thuyết giữa kinh tế vĩ mô và kinh tế vĩ mô. Ban đầu, khi  đưa ra những khái niệm và sự  phân biệt giữa rủi ro và bất định, F.Knight  đã nhận được sự  phản đối gay gắt của các nhà khoa học thời đó (do bối   cảnh của nền kinh tế lúc đó) nhưng dần dần các nghiên cứu của ông đã có   sức thuyết phục lớn và được thừa nhận do đã giải thích được mối liên hệ  về mặt lý thuyết giữ thị trường và các xí nghiệp kinh doanh . Có rất nhiều khái niệm khác nhau của các nhà khoa về rủi ro nhưng  chủ yếu được phân thành hai nhóm. Theo một số  nhà khoa học, rủi ro là tình trạng xảy ra một số  biến  cố bất lợi nhưng có thể đo lường được bằng xác suất. Cụ thể: Theo Frank Knight, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được . Theo Irving Pfeffer, rủi ro là những sự  ngẫu nhiên có thể  đo lường   được  bằng xác suất . Theo Marilu Hurt McCarty, rủi ro là tình trạng trong đó các biến cố  xảy ra trong tương lai có thể xác định được . Theo các học giả  Trung Quốc, rủi ro là tình hình sự  việc phát sinh  theo một xác suất nhất định hoặc sự  việc lớn thay hay nhỏ  được bố  trí  theo một xác suất. Nhân tố chủ yếu của rủi ro trong sản xuất là không xác  định của tương lai. Người đầu tư đối mặt với rủi ro là tính có thể lãi hoặc  lỗ. Ngoài ra, đầu cơ đơn thuần cũng sẽ  dẫn đến rủi ro. Lợi nhuận rủi ro   là một loại lợi nhuận vượt mức. Một số  nhà kinh tế  học người Mỹ  cho rằng rủi ro là hoàn cảnh   trong đó một sự kiện xảy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường  hợp quy mô của sự kiện đo có một phân phối xác suất. Một dự án đầu tư  có thể  rủi ro  ở  chỗ có một phần mười khả  năng (xác suất 0,1) là bị  thua   lỗ, có năm phần mười khả năng đạt một mức lợi nhuận nào đó và có bốn   phần mười khả  năng đạt một mức lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, không   nên nhầm lẫn rủi ro và xác suất vì rủi ro là sự  kết hợp giữa xác suất và  quy mô của sự kiện. Nếu một dự án đầu tư có khả năng 1/10 là thua lỗ và  có thể  dẫn đến một sự  thua lỗ  nặng nề  thì đây là một rủi ro. Tuy nhiên 
  3. cũng có 1/10 khả năng sinh lợi nhưng mức độ  thua lỗ  lại nhỏ  hơn thì đó   không là rủi ro mà chỉ là một xác suất sinh lời . Bên cạnh những khái niệm kể  trên, một số  nhà khoa học khác lại  định nghĩa rủi ro với sự chú trọng đến kết quả được mà không chú ý đến   xác suất xảy ra. Cụ thể: Theo Allan Willet, rủi ro là sự  bất trắc cụ  thể  liên quan đến việc  xuất hiện một biến cố không mong đợi . Theo A.HrThur Williams, rủi ro là sự biến động tiền ẩn ở kết quả. Theo Georges Hirsch, khái niệm rủi ro gắn liền với khả năng xảy ra  của một số biến cố không lường trước hay đúng hơn là một biến cố mà ta  hoàn toàn không chắc chắn (xác suất xảy ra 
  4. chiều   hướng   bất   lợi)   và   những   tác   động ngẫu nhiên đó có thể  đo lường   được bằng xác suất. 1.2. Phân loại rủi ro  Để  có thể  nhận biết và quản lý các rủi ro một cách có hiệu quả,  người ta thường phân biệt các rủi ro tuỳ  theo mục đích sử  dụng trong  phân tích các hoạt động kinh tế. 1. Theo tính chất khách quan của rủi ro, người ta thường chia ra: rủi ro  thuần tuý và rủi ro suy tính (rủi ro suy đoán) (Pure Risks and Speculative  Risks).  + Rủi ro thuần tuý là loại rủi ro tồn tại khi có nguy cơ  tổn thất   nhưng không có cơ hội kiếm lời, đó là loại rủi ro xảy ra liên quan tới việc  tài sản bị  phá huỷ. Khi có rủi ro thuần tuý xảy ra thì hoặc là có mất mát   tổn thất nhiều, hoặc là có mất mát tổn thất ít và khi rủi ro thuần túy   không xảy ra thì không có mất mát tổn thất. Hầu hết các rủi ro chúng ra   gặp phải trong cuộc sống và thường để  lại những thiệt hại lớn về  của   cải vật chất và có khi cả  tính mạng con người đều là rủi ro thuần tuý.  Thuộc loại rủi ro này có rủi ro do hoả hoạn, lũ lụt, hạn hán, động đất…. + Rủi ro suy tính (rủi ro suy đoán) là rủi ro tồn lại khi có một nguy  cơ tổn thất song song với một cơ hội kiếm lời. Đó là loại rủi ro liên quan  đến quyết định lựa chọn của con người. Thuộc loại này là các rủi ro khi  đầu tư vào sản xuất kinh doanh (SXKD) trên thị trường. Người ta có thề  dễ dàng chấp nhận rủi ro suy tính nhưng hầu như  không có ai sẵn sàng chấp nhận rủi ro thuần tuý. Nhận xét: Việc phân chia rủi ro thành rủi ro thuần tuý và rủi ro suy   tính có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn kỹ thuật để đối phó, phòng  tránh rủi ro. Đối với rủi ro suy tính, người ta có thể đối phó bằng kỹ thuật   Hedging (rào cản) còn rủi ro thuần tuý được đối phó bằng kỹ  thuật bảo  hiểm. Tuy nhiên, hầu hết trong các rủi ro đều chứa cả  hai yêu tố: thuần  tuý và suy tính và trong nhiều trường hợp ranh giới giũa hai loại rủi ro này  còn mơ hồ. 2/ Theo hậu quả để lại cho các hoạt động của con người, người ta   chia thành rủi ro số đông (rủi ro toàn cục, rủi ro cơ bản) và rủi ro bộ phận   (rủi ro riêng biệt).
  5. + Rủi ro số  đông là các rủi ro gây ra các tổn thất khách quan theo   nguồn gốc rủi ro và theo kết quả gây ra. Những tổn thất này không phải  do cá nhân gây ra và hậu quả  của nó  ảnh hưởng đến số  đông con người   trong xã hội. Thuộc loại này bao gồm các rủi ro do chiến tranh, lạm phát,  thất nghiệp, động đất, lũ lụt.... + Rủi ro bộ  phận là các rủi ro xuất phát từ  các biến cố  chủ  quan   của từng cá nhân xét theo cả  về  nguyên nhân và hậu quả. Tác động của  loại rủi ro này  ảnh hưởng tới một số  ít người nhất định mà không  ảnh   hưởng lớn đến tòan xã hội. Thuộc loại này bao gồm các rủi ro do tai nạn   (tai nạn giao thông, tai nạn lao động, hoả  hoạn,…) do thiếu thận trọng  trong khi làm việc cũng như trong cuộc sống (rủi ro do mất trộm....). Nhận xét: Việc phân biệt hai loại rủi ro này có ý nghĩa quan trọng   trong việc tổ chức xã hội, nó liên quan đến việc có thể hay không thể chia  sẻ bớt những rủi ro trong cộng đồng xã hội. Nếu một rủi ro bộ phận xảy   ra, các tổ  chức hay cá nhân khác có thể  giúp đỡ  bằng những khoản đóng  góp vào các qũy trợ giúp nhằm chia sẻ bớt những rủi ro nhưng khi rủi ro   số đông xảy ra thì việc chia sẻ rủi ro bằng cách trên là không có tác dụng. Tuy nhiên, việc phân loại rủi ro theo cách này cũng chưa được rõ  ràng lắm vì rủi ro có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác tuỳ theo sự  thay đổi của khoa học kỹ  thuật và khung cảnh xã hội. Ví dụ  lũ lụt gây  thiệt hại nghiêm trọng  ở  một quốc gia nào đó là rủi ro số  đông đối với  quốc gia đó nhưng lại là rủi ro bộ phận đối với phạm vi toàn thế giới. 3/ Theo nguồn gốc phát sinh các rủi ro, có các loại rủi ro sau: + Rủi ro do các hiện tượng tự nhiên: đây là nguồn rủi ro cơ bản dẫn  đến các rủi ro thuần tuý và để  lại những hậu quả  rất nghiêm trọng đối   với con người. Nước lũ, nắng nóng, hoạt động của núi lửa,... Việc nhận   biết các nguồn rủi ro này tương đối đơn giản nhưng việc đánh giá khả  năng xảy ra cũng như  mức độ  xảy ra của các rủi ro xuất phát từ  nguồn   này lại hết sức phức tạp bởi vì chúng phụ  thuộc tương đối ít vào con   người, mặt khác khả năng biểu biết và kiểm soát các hiện tượng tự nhiên   của con người còn hạn chế. + Rủi ro do môi trường vật chất: các rủi ro xuất phát từ nguồn này  là tương đồi nhiều, chẳng hạn như hoả hoạn do bất cẩn, cháy nổ.... + Rủi ro do các môi trường phi vật chất khác: Nguồn rủi ro rất quan  trọng   và   làm   phát   sinh   rất   nhiều  rủi   ro   trong   cuộc  sống   chính   là  môi   trường phi vật chất hay nói cụ  thể  đó là các môi trường kinh tê, xã hội,  chính trị, pháp luật hoặc môi trường hoạt động của các tổ chức,... Đường  lối chính sách của mỗi người lãnh đạo của quốc gia có tốc  ảnh hưởng 
  6. nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế (ban hành   các chính sách kinh tế, áp dụng các quy định và thuế, cắt giảm hoặc xóa  bỏ một số ngành nghề…). Quá trình hoạt động của các tổ chức có thể làm  phát sinh nhiều rủi ro và bất định. Việc thay đổi tỷ  giá hối đoái, tỷ  lệ  lãi  suất tín dụng, quan hệ  cung ­ cầu trên thị  trường, giá cả  thị  trường diễn  biến bất  ổn,... đều có thể  đem lại rủi ro cho các tổ  chức SXKD. Có rất  nhiều rủi ro xuất phát từ môi trường phi vật chất này và các rủi ro cứ nối  tiếp nhau diễn ra, rủi ro này được bắt nguồn từ  rủi ro khác, rủi ro bắt  nguồn từ  môi trường chính trị  dẫn đến các rủi ro về  mặt kinh tế  hay xã  hội (chẳng hạn rủi ro do môi trường chính trị  không ổn định dẫn đến rủi  ro về mặt tinh tế (sản xuất đình đốn, hàng hoá đắt đỏ) và sau đó dẫn đến  rủi ro về mặt xã hội (thất nghiệp). Để nhận biết các nguồn rủi ro này cần   có sự nghiên cứu, phân tích tỷ  mỷ, chi tiết và thận trọng. Mặt khác, việc  đánh giá khả năng và mức độ xảy ra của các rủi ro xuất phát từ nguồn rủi   ro phi vật chất cũng hết sức khó khăn với độ chính xác khác nhau, nó phụ  thuộc rất nhiều vào trình độ của người đánh giá. Nhận xét: Các tổn thất phát sinh từ các nguồn rủi ro là rất nhiều và  rất đa dạng. Một số tổn thất có thể phát sinh từ cả hai nguồn rủi ro khác  nhau, chẳng hạn rủi ro cháy một ngôi nhà có thể  do bất cẩn khi đun bếp   (môi   trường   vật  chất)   nhưng   cũng  có  thể  do  bạo  động,  đốt  phá  (môi  trường chính trị). Việc phân loại rủi ro theo các nguồn phát sinh giúp cho các nhà quán   lý rủi ro tránh bỏ  sót các thông rin khi phân tích đồng thời giúp cho việc  lựa chọn các biện pháp phòng chống rủi ro sau này. 4/ Theo khả năng khống chế của con người: có thể chia ra rủi ro  có thể  khống chế  và rủi ro không thể  khống chế. Một số  loại rủi ro khi   xảy ra, con người không thể  chống đỡ  nổi. Thuộc loại này có các rủi ro   do thiên tai, địch hoạ,...Tuy nhiên, đa số các rủi ro con người có thể chống  đỡ hoặc có những biện pháp nhằm hạn chế được thiệt hại nếu có những   nghiên cứu, dự đoán được khả năng và mức độ xây ra 5/ Theo phạm vi xuất hiện rủi ro có thể chia ra rủi ro chung và rủi ro   cụ thể + Rủi ro chung là các rủi ro gắn chặt với môi trường chính trị, kinh  tế và pháp luật. Các rủi ro chính trị gồm có rủi ro về hệ thống chính trị, rủi ro chính  sách thuế; rủi ro do cơ  chế  quản lý cấp vĩ mô; rủi ro về  chế  độ  độc  quyền; rủi ro do chính trị  sách hạn chế  nhập khẩu; rủi ro do không đạt  được hoặc không gia hạn hợp đồng;…
  7. Các rủi ro thương mại quốc gia gồm có rủi ro do lạm phát; rủi ro do   tỷ  lệ  lãi suất thay đổi; rủi ro do sản phẩm hàng hoá mất giá; rủi ro do  chính sách ngoại hối và đặc biệt  ở  Việt Nam còn có thể  có rủi ro do  không chuyển đổi được ngoại tệ;… Các rủi ro gắn với môi trường pháp luật quốc gia gồm có rủi ro do   thay đổi chính sách pháp luật và qui định; rủi ro về  việc thi hành pháp   luật; rủi ro do trì hoãn trong việc bồi thường;…. + Rủi ro cụ thể là các rủi ro gắn liền với các lĩnh vực sản xuất kinh  doanh (SXKD) cụ  thể  hoặc lĩnh vực hoạt động khác. Đối với lĩnh vực   SXKD xây dựng (XD) có thể có các rủi ro theo các giai đoạn của quá trình  đầu tư XD, các rủi ro đối với việc thực hiện và hoàn thành kế hoạch, các   rủi ro trong quá trình vận hành. Theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và XD, một tổ chức SXKD  XD có thể gặp rủi ro vì đấu thầu; rủi ro về  cấp phát vốn đầu tư  (VĐT);  rủi ro do sự phối hợp giữa tổ chức thiết kế, giám sát, cung cấp trang thiết  bị  với đơn vị  thi công, không theo đúng kế  hoạch tiến độ  đã định; rủi ro   trong thi công XD; rủi ro trong quá trình thanh quyết toán; ... Đối với việc thực hiện và hoàn thành kế hoạch, tổ chức XD có thể  gặp rủi ro do sự chậm trễ trong thi công và cung ứng các yếu tố sản xuất;  rủi ro do phải phá đi làm lại; rủi ro do các nguyên nhân bất khả kháng … Trong quá trình vận hành khai thác có thể  có các rủi ro về  trang bị  cơ  sở  hạ  tầng; rủi ro về  kỹ thuật và công nghệ  thi công; rủi ro về  quản  lý; rủi ro do tăng chi phí lưu thông; rủi ro do trình độ  cán bộ  công nhân  vận hành khai thác; rủi ru do các nguyên nhân bất khả kháng; rủi ro trách   nhiệm;… Chúng ta có thể  gặp rủi ro  ở  bất kỳ  hoạt động nào liên quan đến  con người, do đó hàng ngày chúng ta phải đưa ra những quyết định để làm  thế  nào có thế  giải quyết được những rủi ro đó. Có thể  có một số  biện   pháp: ­ Tránh hoàn toàn mọi rủi ro. ­ Hạn chế rủi ro bằng cách tiến hành nhưng biện pháp phòng ngừa. ­ Chuyển giao hoặc san sẻ rủi ro sang các cá nhân hay tổ chức khác. Với mọi biện pháp nhằm hạn chế rủi ro đều được thực hiện bằng  nhiều cách khác nhau. Chúng ta biết rằng hầu hết các rủi ro xảy ra đều  mang tính ngẫu nhiên và bất ngờ đối với con người và sự vật, vì vậy việc   chủ động tránh hoàn toàn mọi rủi ro là hầu như không thể thực hiện được   đối với các cá nhân hay một tổ chức. Chẳng hạn, để tránh hoàn toàn rủi ro   do tai nạn giao thông, một người nào đó có lúc không bao giờ đi ra đường  
  8. cả nhưng điều đó lại hạn chế mọi hoạt động của người đó và có lẽ họ sẽ  không thể thực hiện được việc tránh khỏi rủi ro bằng cách này. Vì thế, để  hạn chế rủi ro người ta tìm cách quản lý các rủi ro đó, chủ yếu tập trung   vào hai biện pháp: tiến hành các biện pháp phòng ngừa có thể hoặc san sẻ  rủi ro sang các cá nhân hay tổ chức khác. Vậy   cá   nhân  có   khả   năng   chấp  nhận   rủi  ro   khác  nhau.   Một   số  người có khả năng chấp nhận rủi ro cao và họ không tiến hành một biện  pháp phòng ngừa nào cả vì họ tin rằng có ít rủi ro xảy ra với họ và họ có   thể chấp nhận được. Một số người khác lại ít có khả năng chấp nhận rủi  ro hơn và do họ cố gắng tiến hành mọi biện pháp phòng ngừa có thể như  mua các loại bảo hiểm hoặc thực hiện mọi cách phòng ngừa rủi ro trong   cuộc sống. Tuy nhiên, dù khả năng chấp nhận rủi ro của mỗi người khác  nhau nhưng nói chung mọi người đều sợ  rủi ro. Vì thế, việc chúng ta cố  gắng nhận biết được mọi rủi ro có thể  xảy ra và đánh giá được mức độ  trầm trọng của rủi ro là việc làm hết sức quan trọng, hết sức cần thiết và   không phải là một việc làm đơn giản. Có thể tóm tắt các cách phân loại rủi ro như hình 1.1 dưới đây.
  9. RỦI RO THUẦN TÚY LÀ LOẠI RỦI RO  TỒN  TẠI KHI CÓ NGUY CƠ TỔN THẤT NHƯNG  THEO  KHÔNG CÓ CƠ HỘI KIẾM LỜI TÌNH  CHẤT  RỦI RO SUY TÌNH LÀ LOẠI RỦI RO  TỒN TẠI  KHÁCH  KHI CÓ NGUY CƠ TỔN THẤT SONG SONG VỚI  QUAN MỘT CƠ HỘI KIẾM LỜI RỦI RO SỐ ĐÔNG LÀ LOẠI RỦI RO KHÔNG  PHẢI DO CÁ NHÂN GÂY RA VÀ HẬU QUẢ CỦA  NÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỐ ĐÔNG CON NGƯỜI  THEO  TRONG XàHỘI HẬU  QUẢ ĐỂ  RỦI RO BỘ PHẬN XUẤT PHÁT TỪ CÁC BIẾN  LẠI CỐ CHỦ QUAN CỦA TỪNG CÁ NHÂN VÀ TÁC  ĐỘNG ĐẾN MỘT SỐ ÍT NGƯỜI TRONG XàHỘI RỦI RO DO HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN  PHÂN  THEO  LOẠI  NGUỒN  RỦI RO DO MÔI TRƯỜNG VẬT CHẤT  RỦI  GỐC  RO PHÁT  RỦI RO DO MÔI TRƯỜNG PHI VẬT CHẤT  SINH RỦI RO CÓ THỂ KHỐNG CHẾ  THEO  KHẢ  NĂNG  RỦI RO KHÔNG THỂ KHỐNG CHẾ  KHỐNG  CHẾ RỦI RO CHUNG LÀ CÁC RỦI RO GẮN CHẶT  VỚI MÔI TRƯỜNG KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, PHÁP  THEO  LUẬT  PHẠM VI  XUẤT  RỦI RO CỤ THỂ LÀ CÁC RỦI RO GẮN LIỀN  HIỆN VỚI CÁC LĨNH VỰC KINH DOANH CỤ THỂ 
  10. Hình1.1. Phân loại rủi ro 1.3. Độ tin cậy Để  đánh giá mức độ  an toàn hay khả  năng làm việc hiệu quả  của   một đối tượng nghiên cứu, người ta sử dụng khái niệm độ tin cậy. Độ tin cậy có thể khái quát là mức độ đáp ứng và duy trì các yêu cầu của   chức năng của một công tác, của bộ phận hoặc của hệ thống. Nghiên cứu về rủi ro nhằm hạn chế các tác hại của rủi ro và nâng cao độ  tin cậy của đối tượng của quản lý. Đảm bảo độ  tin cậy của hệ  thống sản xuất, thiết bị, máy móc hay  một hệ  thống quản lý là một vấn đề  quan trọng. Giải quyết vấn đề  này  sẽ  cho phép giảm tổn thất do ngừng sản xuất, giảm chi phí thay thế, chi   phí tài chính phục vụ cho việc duy trì hoạt động, chi phí sửa chữa, giảm   ngừng việc trong thời gian sử dụng khai thác. Thiết bị công nghệ có độ tin  cậy thấp sẽ  đe doạ  sự  an toàn lao động và đôi khi cả  mạng sống con   người, đưa đến những hậu quả không lường hết được về mặt kinh tế. Chú ý đến độ tin cậy là thể hiện  trình độ quản lý ở mức phát triển cao. Để tăng độ tin cậy cần: ­ Có sự hợp tác chặt chẽ giữa người sử dụng, khai thác và người thiết  kế, sản xuất các thiết bị hay hệ thống quản lý. ­ Phân tích các nguyên nhân chủ yếu, các dạng hư hỏng, các rủi ro   tổn thất có thể xảy ra và hậu quả của chúng. ­ Phổ biến phương pháp thiết kế tin cậy đối với hệ  thống quản lý  máy và hệ thống sản xuất. Cải thiện độ tin cậy sẽ đi liền với việc tăng chi phí thiết kế, chi phí  sản xuất đồng thời giảm chi phí sử dụng, khai thác. Mối quan hệ giữa độ  tin cậy và các chi phí sán xuất, chi phí sử  dụng được thể hiện trong hình  sau (hình l.2):  Chi phí 1 – Chi phí sản xuất thiết bị 2 – Chi phí sử dụng 3 3 – Cả hai loại chi phí 1 P(t)op: độ tin cậy tối ưu 2 P(t)op Độ tin cậy
  11. Hình 1.2. Mối quan hệ giữa độ tin cậy và các chi phí sản xuất, sử dụng Khi nghiên cứu về  đồ  tin cậy của một hệ  thống, người ta thường   hay chú ý tới cơ cấu độ tin cậy của hệ thống. Xét một tổ  hợp máy thực hiện một nhiệm vụ  sản xuất nhất định,  nếu độ  tin cậy có thể xét chung cho cả tổ hợp thì coi hệ  thống là một tổ  hợp máy còn phần tử  tử  từng máy riêng biệt; Trong trường hợp tổ  hợp   máy có thể  phân biệt thành các cụm khác nhau mà độ  tin cậy của từng   cụm có  ảnh hưởng đến độ  tin cậy của cả tổ hợp máy, khi đó khái niệm   hệ thống để chỉ bản thân máy đó còn khái niệm phần tử để chỉ từng cụm   máy riêng biệt.  Nếu độ  tin cậy của các phần tử  đồng thời xác định độ  tin cậy của   hệ thống thì sẽ xác định cơ cấu độ tin cậy. Ví dụ một máy mà độ tin cậy   của nó được xác định bằng độ tin cậy của động cơ, hệ thống truyền lực,   hệ thống thuỷ lực,... Trạng thái các phần tử  của một hệ  thống n phần tử  tại một thời   điểm nào đó sẽ  được biểu thị  như  một vectơ  n chiều nhị phân. Tập hợp  vectơ  nhị  phân được   ký hiệu là Bn. Ví dụ  một hệ  thống tuỳ  thuộc vào  trạng thái của các phần tử  và chỉ  có trạng thái phù hợp hoặc trang thái  không phù hợp. Mối liên hệ được biểu thị bằng hàm số:  : Bn   {0,1} và  được gọi là cơ cấu độ tin cậy hệ thống. Cơ  cấu độ  tin cậy có thể  biểu thị  dưới dạng giải tích, dưới dạng  bảng hoặc dưới dạng sơ đồ  khối. Hiểu biết cơ  cấu độ  tin cậy hệ  thống  là cần thiết để xác định độ tin cậy của một hệ thống. Trong phân tích độ  tin cậy của các máy cơ bản vẽ có hệ thống sản xuất giản đơn thường sử  dụng cách biểu thị dưới dạng sơ đồ khối; ngược lại trong trường hợp hệ  thống sản xuất phức tạp rất thích hợp dùng mô tả  bảng hoặc dưới dạng   giải tích. Một hệ  thống sản xuất phức tạp hầu như có thể  thực hiện nhiệm  vụ  khi có ít nhất k phần tử  nào đó trong n phần tử  là tốt. Các hệ  thống  phức tạp theo quan điểm độ  tin cậy là các cơ  cấu dạng “k thuộc những"  được ký hiệu (k/n). Cơ  cấu dạng k/n, khi k 
  12. xác suất để hệ thống thuộc một trong những trạng thái trong đó có ít nhất  k phần tử là an toàn Nếu các phần tử của hệ thống sản xuất là hoàn toàn độc lập thì Pk/n  có dạng: i k i 1 pk 1 P1 ,...Pn , i n i k Trong đó: P1,… Pn: độ tin cậy các phần tử của hệ thống (P1,…Pn,i): tổng các tích có các phần tử  là tổ  hợp của P1,… P n  chập i. Ví dụ cho i = 1,2,3,4 và n = 4 (P1,…Pn,1) = P1 + P2 + P3 + P4 (P1,…Pn,2) = P1P2 + P1P2P4 + P1P3P4 + P2P3P4 (P1,…Pn4) = P1P2 P3P4  Với cơ cấu tuần tự dạng n/n, độ tin cậy của hệ thống sẽ là: n Pn P1 n i 1 Với cơ cấu song song dạng 1/n, độ tin cậy của hệ thống sẽ là: n P1 1 1 P1 n i 1 Độ  tin cậy là một đặc tính tổng hợp phụ  thuộc vào một số  yếu tố  như  độ  chính xác, mức độ  bền vững, mức độ  đảm bảo khả  năng thực  hiện,...Một cách tổng quát có thể  hiểu độ  tin cậy của một hệ  thống là  một đặc tính đặc trưng cho khả  năng thực hiện một cách hiệu quả  các   chức năng phức tạp của hệ  thống đó trong một thời gian và tương  ứng   với một điều kiện nhất định. Một trong những nhiệm vụ của quản lý dự án là phải quản lý tiến độ, hay  nói khác đi là quản lý các yếu tố thời gian thực hiện dự án. Trong các nghiên cứu về  thời gian thực hiện dự  án theo phương   pháp sơ đồ mạng (SĐM), người ta sử dụng khái niệm "độ tin cậy về thời   gian XD" Đặc điểm đặc trưng của thời gian sản xuất theo quan điểm độ  tin  cậy về thời gian XD là tính biến động của nó. Nhiều nghiên cứu đã chứng  tỏ  rằng cùng một  công việc trong các đơn vị  sản xuất, cùng một nhóm  công nhân thực hiện nhưng mỗi lần khảo sát sẽ  có thời gian thực hiện  khác nhau kể  cả  lao động thủ  công và máy móc. Bỏ  qua hiện tượng này  sẽ  dẫn đến sự  rối loạn trong sản xuất. Sự  biến động về  thời gian thực  
  13. hiện ảnh hưởng nhiều đến năng suất và sự  biến động thời gian càng lớn   sẽ dẫn tới sự biến động về năng suất càng cao. Số   đo (mức   độ)  độ  tin cậy P của một dự   án theo sơ   đồ  mạng  (SĐM) là xác suất thời gian thực hiện dự  án không dài hơn so với kế  hoạch: P = P (T ≤ t) vớt T: thời gian thực hiện và t: thời gian kế hoạch Độ  tin cậy Pl  của từng công việc là xác suất để  hoàn thành công  việc thứ i trong thời hạn mà không làm phá vỡ kế hoạch thực hiện dự án  theo SĐM Sự  phá vỡ  kế  hoạch theo SĐM xuất hiện khi thời gian T i kết thúc  một công việc bất kỳ nào đó chậm hơn so với thời gian t, đối với nó Pl = R (Ti ≤ ti)  i = l, 2,... n  (l.4) Khi phân tích mạng coi tổng thời gian thực hiện từng công việc là  những biến ngẫu nhiên có cùng phân bố  mật độ  xác suất. Khi đó ta dùng  định lý giới hạn trung tâm trên cơ sở chấp nhận tổng các biến ngẫu nhiên  có phân bố chuẩn. Biến chuẩn hoá Uk  để  tính xác suất nhận thời gian kế  hoạch T KH  đối với sự kiện k (có thể là sự kiện cuối cùng) được tính như sau: TKH TSK UK K 2 (1.5) Si i 1 TSK: thời hạn sớm nhất có thể xuất hiện sự kiện k   Si: độ lệch chuẩn cho thời gian sớm nhất có thể của sự kiện i Độ  tin cậy của công việc khi nhận phân phối chuẩn có thể  tính từ  phân bố xác suất bằng: U SI 1 U2 exp du 2 2 U mi 1 U2 P exp du (1.6) 2 2 Un 1 U2 exp du 2 2 Giới hạn của tích phân USi, Umi, Un dược xác định như sau: Z Si Zn U Si Un c 2 ; Umi = 0 ; c 2 (1.7) S r 1 1
  14.      s : độ  lệch chuẩn công việc phụ  thuộc chuỗi công việc tính theo thời  gian sớm nhất   r   : độ lệch chuẩn công việc tính theo thời gian thực tế. Khái niệm độ  tin cậy về  thời gian thực hiện dự án được thể  hiện   trong hình sau: f(t) tei Zsi và Zci, Zri t Hình 1.3. Sơ đồ mô tả khái niệm độ tin cậy về thời gian thực hiện dự án Zsi: dự trữ tự do Zci: dự trữ toàn phần Zsi: dự trữ (thực) độc lập 1.4. Khái niệm an toàn Theo Từ  điển Tiếng Việt ­ Ngôn ngữ  học Việt Nam của nhà xuất   bản Từ điển bách khoa, an toàn là "bình yên không bị  tai nạn, thiệt hại”;   Thco từ  điển Từ  và ngữ  Việt Nam của nhà xuất bản thành phố  Hồ  Chí 
  15. Minh an toàn là “yên ổn, không còn sợ  tai hoạ"; Theo từ điền Tiếng Việt  2004 của Viện Ngôn ngữ học, an toàn là "yên ổn hẳn, tránh được tai nạn,  tránh được thiệt hại". Trong SXKD, có thể hiểu an tòan là khả năng đảm  bảo không xảy ra những rủi ro, tổn thất hoặc xảy ra rủi ro, t ổn th ất  ở  mức chấp nhận được và đảm bảo thực hiện các mục tiêu đã đề ra với xác   suất đã cho.    An toàn được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu: xác suất an  toàn và độ an tòan. Xác suất an toàn có thể  hiểu là xác suất cho phép đảm bảo thực  hiện các mục tiêu đã đặt ra. Trong các ứng dụng thực tế, xác suất an toàn  thường được biểu thị thông qua xác suất tin cậy Pt . Giữa xác suất an toàn  (Pt) và xác suất rủi ro (Pr) có quan hệ  tổng và được biểu thị  thông qua   biểu thức: Pa + Pr = 1  (l.8) Xác suất an toàn càng cao, xác suất rủi ro càng thấp và ngược lại. Độ an toàn là khái niệm để chỉ mức độ đảm bảo an toàn, không xảy   ra rủi ro, tổn thất trong SXKD hoặc trong các công tác khác. Trong công  tác quản lý SXKD có các khái niệm độ an toàn và kỹ thuật, độ an toàn về  tài chính, độ  an toàn chất lượng, độ  an toàn vô giá thành, độ  an toàn và  thời gian thực hiện, độ an toàn có liên quan đến môi trường,... Để đo mức độ an toàn, có thể sử dụng chỉ số độ an toàn (A). Độ an   toàn (A) có thể được biểu thị bằng nhiều cách khác nhau: có thể biểu thị  bằng một phổ các con số chỉ mức độ an toàn trong SXKD hoặc bằng khái   niệm chỉ mức độ an toàn từ thấp đến cao cho các lĩnh vực như giao thông,  y tế hoặc bằng các ký hiệu, màu sắc khác nhau (vàng, da cam, đỏ) để chỉ  mức độ an toàn về quân sự, an ninh, hoả hoạn. Chỉ số độ an toàn càng lớn thì mức độ an toàn càng cao và do đó khả  năng xảy ra rủi ro càng thấp. 1.5.Phân biệt rủi ro và bất định Với  mỗi  hoạt   động nào  đó thường  sẽ  xảy ra một trong ba tình  huống sau: Tình huống xác định là sự  chắc chắn về  kết quả  sẽ  đạt được trong  tương lai. Tình huống rủi ro: không chắc chắn về  kết quả sẽ đạt được trong  tương lai nhưng có thể ước tính được xác suất xảy ra của các biến cố sẽ  đạt được trong tương lai hoặc các viễn cảnh mà chúng ta mong muốn  (nếu chúng ta tiến hành nghiên cứu một cách đầy đủ và khoa học).
  16. Tình huống bất định: không chắc chắn về  kết quả  sẽ  đạt được  trong lương lai đồng thời không thể   ước tính được xác suất xảy ra của   các biến cố trong tương lai. Rủi ro và bất định đều được hình thành do tình trạng thiếu các  thông tin hoặc thiếu những hiểu biết về  các vấn đề  liên quan đến các  hoạt động trong tương lai một cách chính xác (chắc chắn) như  thiếu các  hiểu biết và điều kiện kinh doanh, sự phát triển kỹ  thuật, khả năng cung  cấp VĐT,... Khái niệm bất định chỉ  trạng thái nhận thức của mỗi cá nhân về  nguy cơ rủi ro, vì vậy nó rất khó có thể đo lường trực tiếp. Khi tham gia  vào các hoạt động phức tạp chẳng hạn như hoạt động kinh doanh, mỗi cá  nhân có cách  ứng xử  rất khác nhau, có người rất thận trọng nhưng bên  cạnh đó lại có những người mạnh dạn hơn và thậm chí có những người   rất mạnh dạn hay còn được gọi là mạo hiểm và thậm chí có người được   đánh giá là liều lĩnh. Nhìn chung, sự  bất định có thể  hiện diện trong hai  mức độ khác nhau được minh họa trong bảng 1. 1 Bảng 1.1. Các mức độ của sự bất định Sự bất định Những đặc tính Ví dụ minh họa Mức 1 Có   thể   dự   đoán   được   kết  Tai nạn giao thông, một số  quả   nhưng   không   biết   xác  suy đoán trong kinh doanh suất Mức 2 Không   dự   đoán   được   kết  Sự   thám   hiểm   không   gian,  quả  và không biết được xác  các nghiên cứu về di truyền suất  Mức độ  bất định nảy sinh từ  một loại rủi ro nào đó sẽ  ảnh hưởng   đến tổ  chức phải đối mặt với rủi ro đó. Việc xác định mức độ  bất định   của mỗi rủi ro phụ  thuộc vào năng lực đánh giá rủi ro của mỗi tổ  chức.   Mức độ  bất định phụ  thuộc vào khối lượng, loại thông tin có được để  nhận ra những kết quả  có thể  có và khả  năng xảy ra của các biến cố.   Việc giảm bớt sự bất định có giá trị kinh tế lớn nhưng muốn giảm sự bất   định đòi hỏi phải thu thập được nhiều thông tin liên quan đến biến cố đó. Có thể  nói rằng hầu hết các nhân tố   ảnh hưởng đến sự  bất định  đều tồn tại ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng. Các nhân tố gây ra sự  bất định là nhiều và rất khác nhau trong đó chủ  yếu là do sự  thiếu thông   tin khi nghiên cứu, ngoài ra độ  dài của thời gian nghiên cứu và loại hình  SXKD cũng là những nhân tố quan trọng mang đến nhiều yếu tố bất định.
  17. Nhìn chung bất định là một khái niệm để chỉ trạng thái nghi ngờ về  khả  năng tiên đoán kết quả  đạt được trong tương lai của những hành  động hiện tại. Sự bất định xuất hiện khi một cá nhân nhận thức được sẽ  có khả năng xảy ra các biến cố nhưng không dự đoán được xác suất xảy  ra cũng như mức độ tổn thất của các biến cố đó. Việc phân biệt giữa rủi  ro và bất định cũng không hoàn toàn cụ thể. Có những biến cố ban đầu là   bất định nhưng trong quá trình nghiên cứu lại xác định được xác suất xảy  ra và chuyển thành rủi ro và ngược lại. Vì vậy, trong các nội dung nghiên  cứu của luận án không chú ý nhiều đến việc phân biệt này mà chủ  yếu  tập trung vào việc nghiên cứu các rủi ro và các biện pháp để  quản lý rủi   ro nói chung và quản lý rủi ro trong hoạt động của các doanh nghiệp XD   nói riêng.  1.6 Khái niệm quản lý rủi ro  Các rủi ro có ảnh hưởng rất lớn đến các tổ chức, các doanh nghiệp,  các hoạt động SXKD ở chỗ nó gây ra những tổn thất đòi hỏi phải tốn kém   những khoản chi phí không nhỏ  để khắc phục những tổn thất đó, các chi  phí này được gọi là chi phí rủi ro Chi phí rủi ro là khoản tổn thất đối với tổ chức khi có rủi ro. Thông  thường chi phí rủi ro có hai dạng: chi phí rủi ro xác định và chi phí rủi ro   khó xác định. Chi phí rủi ro xác định là khoản tiền mà tổ chức hoặc doanh nghiệp   bị  tổn thất khi có rủi ro xảy ra như  tài sản bị  phá huỷ, con người bị  tai   nạn,… Khoản chi phí này có thể  xác định được thông qua giá trị  các tài  sản bị tổn thất hoặc số tiền đền bù thiệt hại cho người bị tai nạn. Chi phí rủi ro khó xác định là khoản chi phí do sự lo sợ rủi ro gây ra.  Đối với một cá nhân, chi phí rủi ro khó xác định thể  hiện bằng sự  lo sợ,  mệt mỏi, mất ngủ, dẫn đến những hành động không sáng suốt có thể gây  thiệt hại đến tài sản và tính mạng hoặc khoản chi phí bảo hiểm đã đóng  những không có rủi ro xảy ra. Đối với một tổ chức, chi phí rủi ro khó xác  định xuất hiện khi có sự lo sợ rủi ro xảy ra dẫn đến việc bố trí các nguồn   tài nguyên bất hợp lý, đưa ra các quyết định yếu kém về  mặt tổ  chức   hoặc bỏ  qua các cơ  hội đầu tư  vào các dự  án có lợi (thường thể  hiện   bằng hành động tiến hành dự trữ lớn, mua bảo hiểm cao,…). Nhìn chung,  khoản chi phí rủi ro này rất khó đo lường một cách chính xác do các tổn  thất thường mang tính dây chuyền và trong nhiều trường hợp là các yếu  tố định tính rất khó lượng hoá. 
  18. Để đối phó với các rủi ro nhằm hạn chế tối mức tối đa các tổn thất  có thể  xảy ra, các tổ  chức nhất là các tổ  chức SXKD phải thực hiện các  biện pháp quản lý rủi ro. Quản lý rủi ro (QLRR) được định nghĩa là một sự  cố  gắng có tổ  chức để  nhận ra và lượng hoá các khả  năng xảy ra rủi ro đồng thời đề  xuất các kế hoạch nhằm loại trừ hoặc giảm bớt các hậu quả mà rủi ro có  thể gây ra . Để đề phòng rủi ro, biện pháp thông dụng thường được các cá nhân   và tổ  chức thực hiện là mua bảo hiểm nhằm chuyển các rủi ro (nếu có)  sang các hãng bảo hiểm. Với biện pháp này, việc đối phó với các rủi ro  mang tính chất bị động vì việc bảo hiềm chỉ có hiệu quả khi rủi ro đã xảy  ra. Trái lại, QLRR là cách tiếp cận với các rủi ro mang tính tích cực, đó là   chủ  động dự  kiến trước những mất mát có thể  xảy ra và tìm cách giảm   nhẹ hậu quả của chúng. Khi đó, bảo hiểm không còn là phương pháp duy  nhất để  hạn chế  rủi ro mà chỉ  là một trong những phương pháp quan   trọng và có hiệu quả để  bù lại phần kinh phí do bị  mất mát trong trường  hợp có rủi ro xảy ra.  Theo một số  tài liệu, QLRR đã được thực hiện một cách không  chính thức ngay từ  thuở  ban dầu của loài người nhưng hoạt động này  được phát triển rầm rộ vào thập niên 60, 70 của thế kỷ XX. Theo giáo sư  H.Wayne Snider thuộc đại học Temple của Hoa Kỳ thì QLRR bắt đầu đi  vào một giai đoạn mang tính quốc tế từ giữa những năm 70 ­ ông gọi đó là  “giai đoạn toàn cầu hoá". Cũng theo Snider, hiệp hội quản trị rủi ro và bảo  hiểm (viết tắt là RIMS) ­ hiệp hội gồm những chuyên gia hàng đầu trong   lĩnh vực này ­ là hiệp hội đi đầu trong việc thiết lập những quan hệ  với   các nhà QLRR châu Âu và châu Á vào những năm 70 của thế  kỷ  XX.   Trong những năm 90, các hoạt động QLRR tiếp tục phát triển, hàng loạt  các hiệp hội QLRR ra đời ở Mỹ  như  hiệp hội QLRR công cộng (viết lắt  là PRIMA), hội QLRR về  chăm sóc sức khoẻ  Mỹ  (viết tắt là ASHRM),  hiệp hội QLRR và bảo hiểm của trường đại học (viết tắt là URMIA),   trung tâm quốc gia về  QLRR và bảo hiểm cộng đồng,... đã làm cho hoạt  động này trở thành một hoạt động không thể thiếu đối với các tổ chức và   doanh nghiệp nhất là các tổ chức có qui mô lớn. Mặc dù có nhiều chức năng quản trị  cơ  bản giống như  các hình  thức quản trị khác trong các tổ  chức hoặc các doanh nghiệp như  quản trị  chiến lược, quản trị hoạt động,...nhưng mục đích cuối cùng của các nhà  QLRR là giúp cho các tổ  chức, các doanh nghiệp giảm tối đa các chi phí  
  19. về  rủi ro dưới mọi hình thức và làm tăng tối đa những lợi ích của rủi ro   nhờ mạo hiểm. Nhìn chung, quá trình QLRR gồm 4 bước sau: Nhận dạng rủi ro   Phân loại rủi  ro   Đo lường và đánh giá rủi ro  Xử lý rủi ro  .Nhận dạng rủi ro là quá trình xác  định liên tục và có hệ  thống các rủi ro  của   một   dự   án   (hoặc   doanh   nghiệp).  Các hoạt động nhận dạng rủi ro nhằm  thu thập các thông tin đầy đủ  và nguồn  rủi ro, các yếu tố hiểm họa và nguy cơ  rủi ro để  từ  đó đưa ra một danh sách  các   rủi   ro   mà   dự   án   (hoặc   doanh  nghiệp) phải chịu. Danh sách này càng  đầy   đủ   và   hệ   thống   bao   nhiêu,   cũng  giúp cho quá trình QLRR hiệu quá bấy  nhiêu.
  20. Thông thường một nhà QLRR thường khó có thể xác định được hết  các rủi ro của dự án nên không thể có biện pháp quản lý đối với các rủi ro  chưa được phát hiện do đó đã vô tình giữ lại các rủi ro này, đó là điều nên   tránh. Vì vậy một phương pháp nhận dạng rủi ro có hệ  thống là rất cần  thiết. Có một số phương pháp nhận dạng rủi ro đã được áp dụng có hiệu   phương pháp sử dụng bảng liệt  quả  như   kê,   phương   pháp   lưu   đồ   phương  pháp thanh tra hiện trường,... trong  đó phương pháp sử  dụng bảng liệt  kê tỏ ra đơn giản và đã được một số tổ chức QLRR lớn  trên thế giới áp dụng. Một bảng liệt kê các rủi ro mà tổ  chức có  thể  gặp phải thường được hình thành từ  một  bảng câu hỏi được thiết kế  phục vụ  cho một  mục đích nhất định. Thông thường, bảng câu hỏi yêu cầu các  Các  thông tin cần thiết để  nhận dạng và xử  lý các đối tượng rủi ro.   bảng   câu   hỏi   thường   được   thiết   kế  nhằm   mục   đích   nhắc   các   nhà   QLRR  phát hiện ra các tổn thất có thế  có, thu  thập thông tin diễn tả hình thức và mức  độ rủi ro mà dự án có thể sẽ gặp phải,  dự  kiến một chương trình quản trị  rủi  ro hiệu quả. Đối với các rủi ro thuộc về kỹ thuật, chỉ cần lập  bảng liệt kê với các dự kiến về mức độ  thiệt hại và tần số tổn thất. Đối 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2