intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

CHUYÊN ĐỀ:NGÀNH HÀNG CÀ PHÊ CỦA VÙNG TÂY NGUYÊN TẠI TỈNH ĐĂK LĂK

Chia sẻ: Lan Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

198
lượt xem
51
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong những năm vừa qua, cuộc khủng hoảng cung cấp dư thừa cà trên phạm vi toàn thế giới đã làm ngành sản xuất cà phê của nhiều nước bị tàn phá, trong đó có Việt Nam, một nước đã từng bị chỉ trích là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng. Việc xem xét, tìm hiểu thực tế hiện trạng của ngành cà phê Việt Nam, tác động của biến động cà phê thế giới sản xuất cà phê Việt Nam, định hướng lâu dài cho phát triển bền vững ngành cà phê là việc cần thiết. Báo cáo này nhằm phân tích những thuận lợi và...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: CHUYÊN ĐỀ:NGÀNH HÀNG CÀ PHÊ CỦA VÙNG TÂY NGUYÊN TẠI TỈNH ĐĂK LĂK

  1. BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ____________ *&*____________ Đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ Cấp nhà nước KC 07.17 NGHIÊN CỨU LUẬN CỨ KHOA HỌC ĐỂ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ Đề tài nhánh 3 : XÁC ĐỊNH ĐIỀU KIỆN VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI CCKTNN VÀ NT CỦA CÁC VÙNG KINH TẾ Hợp phần 2 : NGÀNH HÀNG CÀ PHÊ CỦA VÙNG TÂY NGUYÊN TẠI TỈNH ĐĂK LĂK Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam Địa chỉ: Văn Điển - Thanh Trì - Hà Nội Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Quốc Doanh Thực hiện: ThS. Vũ Nguyên; KS. Nguyễn Tố Anh Hà Nội - 2003
  2. Trong những năm vừa qua, cuộc khủng hoảng cung cấp dư thừa cà phê trên phạm vi toàn thế giới đã làm ngành sản xuất cà phê của nhiều nước bị tàn phá, trong đó có Việt Nam, một nước đã từng bị chỉ trích là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng. Việc xem xét, tìm hiểu thực tế hiện trạng của ngành cà phê Việt Nam, tác động của biến động cà phê thế giới tới sản xuất cà phê Việt Nam, định hướng lâu dài cho phát triển bền vững của ngành cà phê là việc cần thiết. Báo cáo này nhằm phân tích những thuận lợi và những khó khăn khi phát triển ngành cà phê, những định hướng phát triển bền vững cho cây cà phê Việt Nam và ở tỉnh Đak Lak. A. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ TRÊN THẾ GIỚI. 1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT. Trên thế giới có khoảng 75 nước trồng cà phê và chủ yếu tập trung ở Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Khoảng 10 triệu lao động tham gia sản xuất cà phê. Tổng diện tích cà phê thế giới trên 10 triệu ha, sản lượng hàng năm trên dưới 6 triệu tấn, đem lại thu nhập cho khoảng 100 triệu người. Nếu kể cả những người trồng và những người liên quan đến tiêu thụ cà phê thì trên toàn thế giới có khoảng 20-25 triệu người sống nhờ cây cà phê. Tại nhiều nước, cà phê chiếm hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đối với trên 17 quốc gia trồng cà phê chính, mặt hàng này đóng góp 25% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các nước đứng đầu sản xuất cà phê hiện nay là: Braxin, Indonesia, Ethiopia, Mêhicô, Côlômbia, Việt Nam, Ấn Độ. Trong khi đó, các nước phát triển như Mỹ, các nước EU, Nhật Bản và một số nước công nghiệp hoá mới như Singapore và Malaysia là những nước nhập khẩu chủ yếu. Thị trường cà phê thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo, không ổn định, nhất là về giá cả. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) do không còn giữ được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại đây. Tình trạng này dẫn đến hậu quả là nhiều nước phải huỷ bỏ bớt diện tích cà phê, hoặc không tiếp tục chăm sóc vì kinh doanh không còn thấy có hiệu quả. Giá cà phê hiện nay giảm chỉ bằng 50% giá cà phê của thập kỷ 1980 do cung vẫn vượt cầu khá xa, làm cho 25 triệu hộ nông dân trồng cà 2
  3. phê lâm vào cảnh bần hàn. Nhiều hộ gia đình vay tiền ngân hàng đầu tư cho cà phê đã bị phá sản do bán cà phê thấp hơn giá thành. Xuất khẩu cà phê toàn cầu năm 2002 đạt 87,09 triệu bao, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 5,09 tỷ USD. Doanh thu hàng năm của việc kinh doanh mặt hàng cà phê tăng lên gần 80 tỷ USD, nhưng các nước sản xuất cà phê chỉ thu được 5,5 tỷ USD, bằng 8,58% tổng doanh thu và phê thế giới, số còn lại thuộc về các nước nhập khẩu chế biến, buôn bán cà phê. 2. XU HƯỚNG TIÊU THỤ CÀ PHÊ. Trong các giải pháp được đưa ra nhằm giải quyết tình trạng khó khăn này người ta cũng nói nhiều tới việc khuyến khích tiêu dùng trên toàn cầu. Tuy nhiên, điều này có vẻ khó thực thi, thể hiện ở con số tăng trưởng tiêu thụ cà phê hàng năm trong mấy năm gần đây khá chậm chạp, chưa có bước đột phá đáng kể nào, mặc dù ICO rất nỗ lực trong việc thúc đẩy tốc độ tăng tiêu dùng cà phê cộng thêm thuận lợi là mức giá hiện đang rất thấp .Từ năm 1992 đến năm 2000 tiêu thụ chỉ tăng có 2,35%. Vụ 2001/02 ước tính tổng tiêu thụ cà phê sẽ đạt khoảng 105,6 triệu bao, tăng 1,1 triệu bao so với vụ trước. Bảng 1: Tiêu thụ tại các nước sản xuất. Đơn vị: 1000 bao (60 kg/bao) Nước 2001/02 2000/01 1999/00 1998/99 Braxin 13410 13100 12750 12100 Indonesia 1675 1630 1610 1600 Ethiopia 1700 1667 1610 1633 Mêhicô 1500 1280 1250 1000 Côlômbia 1400 1400 1400 1600 Việt Nam 583 417 350 272 Ấn Độ 925 917 916 833 Tổng ở các 27255 26401 25868 25003 nước sản xuất Nguồn: www.vicofa.org.vn Việc ước tính chính xác lượng tiêu thụ ở mỗi nước là một điều khó thực hiện do ngay ở từng nước các con số được đưa ra cũng đã không 3
  4. đồng nhất. Tuy nhiên qua bảng trên ta cũng có thể thấy sự tăng trưởng khá đều trong những năm gần đây. Braxin cũng như một số quốc gia sản xuất hàng đầu khác, đã bắt đầu nhận thức được những thuận lợi trong việc đẩy mạnh tiêu dùng cà phê trong nước và hiện đang khá tích cực khuyến khích điều này. Braxin không chỉ là nước sản xuất cà phê đứng đầu thế giới mà còn được xếp thứ hai sau Mỹ trong việc tiêu thụ cà phê. Hiện nay Braxin tiêu thụ trên 13 triệu bao mỗi năm, chiếm khoảng 40% sản lượng trung bình của nước này. Nếu tính theo đầu người, trung bình mỗi người Braxin uống 4,9 kg cà phê/năm, trong khi ở Côlômbia là 1,9 kg, còn ở Việt Nam con số này quá nhỏ để có thể tính chính xác. Ngành cà phê Braxin đã đặt mục tiêu đưa lượng tiêu thụ nội địa lên 1,5 triệu bao mỗi năm thông qua các chương trình quảng cáo và khuyến mãi, đẩy con số bình quân đầu người lên 5,3 kg. Các nước sản xuất cà phê Trung và Nam Mỹ cũng đã nhận biết được lợi ích của việc sản xuất cà phê chất lượng cao để cung cấp cho thị trường cà phê đặc sản mới nổi lên. Ví dụ như Côlômbia dự định tăng gấp đôi lượngcà phê hảo hạng trong vòng 5 năm tới đây. Hiện nay, cà phê hảo hạng mới chiếm 10% tổng lượng xuất khẩu của nước này. Còn ở những nước Trung Mỹ có tiềm lực tài chính đủ mạnh, người ta đầu tư nhiều vào đa dạng hoá mặt hàng cà phê hữu cơ đặc biệt bởi xu hướng này cũng đang phát triển khá mạnh. Ở Ấn Độ, tiêu thụ cà phê trong thập kỷ vừa qua gần như không có chuyển biến nhiều, giữ ở mức 0,92 đến 1 triệu bao mỗi năm, trong đó 80% ở các thị trấn lớn ở vùng trồng cà phê phía nam. Ở các khu vực khác, người ta rất ít uống cà phê. Đối thủ chính của cà phê ở các vùng này là trà và các loại đồ uống lạnh. Người dân phía bắc lại có vẻ thích cà phê nhập khẩu hơn nhưng như vậy giá cả lại khá đắt và vượt quá khả năng của một số khách hàng tiềm năng. Ấn Độ là một trong những nước đông dân nhất thế giới nên phạm vi phát triển khá rộng, tuy nhiên để đạt được sự chấp thuận của công chúng thì còn nhiều việc cần phải làm. Giá cả là điều kiện khá quan trọng trong quyết định của người tiêu dùng nước này do có nhiều loại đồ uống khác có giá rẻ hơn nhiều. 4
  5. Dự trữ cà phê đầu niên vụ 2000/01 tại những nước nhập khẩu cà phê giảm 0,74 triệu bao xuống còn 20,35 triệu bao. Tuy nhiên kho dự trữ chiến lược tăng từ 16 triệu bao năm 2000 lên 20 triệu bao năm 2002. Tiêu thụ cà phê toàn cầu mấy năm gần đây ở mức 109 triệu bao. Các nước nhập khẩu tiêu thụ 81,75 triệu bao năm 2002 so với mức 82 triệu bao năm 2001. Lượng cà phê tiêu thụ ở 5 nước tiêu thụ cà phê nhiều nhất thế giới, trong đó Nhật bản đứng thứ ba thế giới tiêu thụ 7 triệu bao/năm lại đang giảm mạnh. Bảng 2: Tiêu thụ tại các nước nhập khẩu đứng đầu Đơn vị: 1000 bao Nước 2001/02 2000/01 1999/00 1998/99 Mỹ 19500 19400 18700 19100 EU 34800 34600 34400 34400 Nhật 7000 6900 6800 6500 Tổng ở các nước 78600 78100 77100 77000 NK Nguồn: www.vicofa.org.vn Nhìn vào bảng trên ta thấy tốc độ tăng trưởng tiêu dùng cà phê tại các nước nhập khẩu phát triển quá chậm, thậm chí chậm hơn nhiều so với dự đoán, mặc dù giá đã giảm quá mạnh. Tuy nhiên nhu cầu cà phê đặc sản vẫn tiếp tục chuyển biến theo chiều hướng tốt, đặc biệt ở các nước EU. Tốc độ tăng của tiêu thụ cà phê ở khối EU hoàn toàn phản ánh được sự phát triển của thị trường cà phê đặc sản, đặc biệt ở Đức và Anh quốc. Trong khối EU, Vương quốc Anh có lượng tiêu thụ cà phê theo đầu người thấp nhất, khoảng 2,4 kg mỗi năm, trong khi Thuỵ Sĩ đứng đầu với 11,9 kg/người/năm. Hiện tượng cà phê đặc sản cũng đang lan rộng tại nước này và các hiệp hội cấp khu vực và cấp quốc gia đang nỗ lực tìm kiếm biện pháp đẩy mạnh nhu cầu. Tốc độ tăng trưởng nhu cầu cà phê tại Nhật Bản mấy năm lại đây có xu hướng khá tốt do lượng cà phê được uống tại nhà tăng đáng kể cộng thêm sự mở rộng của mạng lưới các cửa hàng cà phê đặc sản. Trong năm 2000 nước này đã nhập khẩu 7,36 triệu bao cà phê. 11 tháng đầu 5
  6. năm 2001 Nhật Bản đã nhập khẩu tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2000. Công nghệ tiên tiến, ví dụ như sản xuất loại phin pha cà phê dùng 1 lần, chiếm vị trí quan trọng trong bước phát triển này. Với chương trình khuyến khích tiêu thụ cà phê của ICO, cà phê ngày càng được coi là thời thượng ở Nga, nhu cầu tăng lên khá rõ rệt. Tuy nhiên các công ty trong nước chi chiếm 15% thị phần, 85% còn lại thuộc về các tập đoàn lớn như Nestle. Năm 2001 nước này đã nhập 21400 tấn cà phê, tăng 5,4 lần so với năm 2000. ICO cho biết tiêu thụ tại thị trường này sẽ tăng 19% mỗi năm. Cà phê hoà tan hiện nay khá được ưa chuộng tại Nga và ngày càng nhiều công ty trong nước tham gia vào sản xuất loại sản phẩm này. Cà phê được nhập khẩu thâm nhập vào thị trường thông qua việc đẩy mạnh sản xuất và thiết lập các nhà máy đóng gói và các cơ sở phân phối. Tuy Nga là nước có truyền thống uống trà, mặc dù nhập khẩu chè vẫn không mấy thay đổi, nhập khẩu cà phê vẫn tăng khá đều. Theo ICO, Trung Quốc cũng là nước mục tiêu của ICO bên cạnh Nga, mỗi năm tiêu tụ tăng tới 30%. Tuy nhiên đây chỉ là bước nhảy vọt từ con số ban đầu quá nhỏ bé do văn hoá trà đã ăn sâu vào tiềm thức người dân, mọi ý định thay đổi đều gặp những phản kháng khá mạnh. Các quán bar đã được đưa vào, chủ yếu đặt tại Bắc Kinh và Thượng Hải. Bảng 3: Tổng tiêu thụ toàn cầu. Đơn vị: Triệu bao Nhóm 2001/02 2000/01 1999/00 1998/99 Nước NK 78,6 78,1 77,1 77 Nước SX 27,0 26,4 25,9 25,0 Tổng 105,6 104,5 103,3 102,0 Nguồn: www.vicofa.org.vn Với khoảng 1/4 dân số thế giới hiện uống cà phê thường xuyên, triển vọng tăng tiêu thụ là rất khả quan. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ chờ đợi và không có hành động tích cực nào để đẩy mạnh, e rằng tốc độ tăng chắc chắn sẽ còn chậm chạp chẳng khác gì những năm vừa qua. Và nếu 6
  7. cứ giữ mức tăng chưa đầy 5% mỗi năm hiện nay có lẽ tới vụ 2005/26 chúng ta mới hy vọng tổng lượng tiêu thụ đạt mức 110 triệu bao. 3. THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM. Tuy sản lượng bắt đầu giảm, Việt Nam vẫn là nước sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Braxin, đồng thời ở Việt Nam cà phê cũng là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn đứng thứ hai sau gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Vụ 2000/01 Việt nam đã xuất cà phê đi 61 nước, trong đó 10 nước nhập khẩu cà phê đứng đầu gồm: Bảng 4: 10 nước nhập khẩu hàng đầu của ngành cà phê Việt Nam Số lượng Trị giá % so với tổng xuất STT Tên nước (tấn) (USD) khẩu 1 Bỉ 138603 57947984 15,85 2 Mỹ 137501 59371585 15,72 3 Đức 134321 60054805 15,36 Tây Ban 4 73852 31666889 8,44 Nha 5 Ý 62559 27796789 7,15 6 Pháp 45998 20147381 5,26 7 Ba Lan 38155 17171839 4,36 8 Anh 30153 13055058 3,45 9 Nhật 26905 13274686 3,08 10 Hàn Quốc 26288 11310104 3,01 Nguồn: www.vicofa.org.vn Trong vụ 2001/02 dù tình hình giá cả biến động không lợi cho chúng ta nhưng thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam không những không giảm mà còn tăng lên từ 61 lên 64 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên về lượng tiêu thụ của từng nước có những thay đổi lớn. Đức lại nổi lên là khách hàng số 1 của Việt Nam với 112739 tấn, Mỹ nhập cà phê Việt Nam ít đi ở vị trí thứ hai với số lượng nhỏ đi nhiều là 89288 tấn. Vụ 2000/01 có 15 nước hàng đầu nhập trên 10000 tấn tổng cộng đã nhập 785086 tấn chiếm 89,75% thị phần. Vụ 2001/02 này cũng có 15 7
  8. nước hàng đầu nhập trên 10000 tấn tổng cộng đã nhập 614275 tấn chiếm 86,06% thị phần (624275 tấn). Và danh sách 15 nước này qua hai vụ chỉ thay đổi 1 nước còn 14 nước giữ nguyên nhưng có thay đổi vị trí. 14 nước đó là: Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Ba Lan, Pháp, Nhật, Hàn Quốc, Anh, Philippines, Hà Lan, Úc, Hungari. Nước thứ 15 ở vụ 2000/01 là Canada và ở vụ sau là Romania. Trung Quốc cũng là một khách hàng khá ổn định nhiều năm, Ấn Độ và Indonesia là hai nước sản xuất cà phê vào hàng lớn ở châu Á nhưng hàng năm vẫn mua cà phê của ta. Riêng thị trường Nga thì chúng ta chưa bán được nhiều, mỗi năm chỉ vài trăm tấn. 4. TÁC ĐỘNG CỦA THẾ GIỚI. Năm 1994 do những đợt sương muối và sau đó là hạn hán diễn ra ở Braxin (nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới) vì vậy đã làm cho sản lượng cà phê của nước này giảm xuống gần 50%, do đó đã góp phần làm cho giá cà phê tăng vọt, có lợi cho những người trồng và xuất khẩu cà phê trên thế giới. Do sự kích thích của giá cả thị trường nên ở Việt Nam, diện tích và sản lượng cà phê tăng lên quá nhanh, vượt các mục tiêu của kế hoạch, ngoài tầm kiểm soát của ngành cũng như của Nhà nước. Vấn đề này đã có tác động quan trọng trong việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường, đẩy giá cà phê đến mức thấp nhất trong thời gian mấy chục năm qua, chính ngành cà phê Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi vì sản lượng càng lớn thua lỗ càng nhiều. Theo ICO, nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng cà phê hiện nay là do cung vượt cầu, sản lượng cà phê năm 2002 đạt 120 triệu bao, tăng 9 triệu bao so với niên vụ trước. Năm 2001, sản lượng cà phê thế giới là 116,3 triệu bao, cao hơn khoảng 10 triệu bao so với nhu cầu tiêu dùng. Trong khi đó, sản lượng cà phê Robusta lại tăng từ mức trung bình 30% lên 39% tổng sản lượng thế giới. Ngân hàng thế giới (WB) cho biết sản lượng cà phê toàn cầu trong 5 năm trở lại đây ở mức trung bình 114 triệu bao, cao hơn nhiều so với mức trung bình 99 triệu bao trong các niên vụ từ 1992 – 1997. Yếu tố này gây ra áp lực rất lớn lên ngành cà phê Việt Nam, nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới và là nước xuất khẩu thứ nhì sau Braxin. Giá cà phê Robusta đã giảm từ mức 3000 USD/tấn từ năm 1994 – 1998 xuống còn 320 USD/tấn vào năm 2001. 8
  9. Có thể nói tình hình phát triển chung của ngành cà phê toàn cầu tác động lớn đến ngành cà phê nước ta. Ngành cà phê Việt nam sau một vài năm phát triển với tốc độ quá nhanh nên cũng gặp rất nhiều khó khăn. Giá bán cà phê thấp nên doanh thu không đủ chi phí sản xuất và người nông dân đã ngừng mua phân bón, nước tưới và không chăm sóc cho cây cà phê. Nhiều hộ nông dân ở Tây Nguyên đã lâm vào cảnh nghèo đói. Các tỉnh Đak Lak và Gia Lai cũng đã dự kiến cắt giảm diện tích cà phê khoảng gần 90000 ha. Sản lượng cà phê cũng đã giảm từ 900000 tấn năm 2000 xuống 700000 tấn trong năm 2001. Xem xét diễn biến của tình hình xuất khẩu cà phê ở Việt Nam qua các vụ từ 1995/96 đến 2000/01 có thể thấy sự tăng trưởng nhanh chóng về lượng xuất khẩu cùng với sự giảm sút nhanh chóng về giá cả: Bảng 5: Lượng xuất khẩu và đơn giá bình quân. Đơn giá bình quân Niên vụ Xuất (tấn) (USD/tấn) 1994/95 212038 2633 1995/96 221496 1815 1996/97 336242 1198 1997/98 395418 1521 1998/99 404206 1373 1999/00 653678 823 2000/01 874676 436,6 Nguồn: www.vicofa.org.vn Các vụ cà phê từ 1998/99 về trước lượng cà phê xuất khẩu tăng hàng năm không lớn lắm. Nhưng hai vụ 1999/00 và 2000/01 mỗi vụ tăng trên 200000 tấn tức là tăng khoảng 3,5 triệu bao, và đơn giá xuất khẩu hai vụ này cũng thấp thảm hại, giá vụ sau chỉ bằng xấp xỉ 60% giá vụ trước. Tình hình này đem lại cho những người trồng cà phê và các doanh nghiệp xuất khẩu nhiều khó khăn, nếu kéo dài thì chắc chắn sẽ không chịu đựng nổi. Kết quả tất yếu dẫn đến là nông dân bỏ không chăm sóc vì hết khả năng đầu tư và cũng không thu hái sản phẩm để vườn cây suy thoái dần, thậm chí còn chặt bỏ cà phê để trồng cây khác. 9
  10. Do sản lượng cà phê tăng nhiều, giá cà phê xuống thấp nên việc xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn và đã phát sinh nhiều tranh chấp về hợp đồng, bị khách hàng phàn nàn, kiện cáo. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) đã khuyến cáo các nước sản xuất cà phê giảm sản lượng, đưa ra những tiêu chuẩn khắt khe về cà phê xuất khẩu, huỷ cà phê xấu, không xuất khẩu cà phê vối có trên 150 lỗi/300 gam, cà phê chè có trên 86 lỗi, cà phê nhân có thuỷ phần trên 12,5%,.... Nhưng đây cũng lại là một vấn đề: nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cà phê đều thừa nhận việc nâng cao chất lượng cà phê là yêu cầu bức thiết nhưng loại cà phê chất lượng cao vẫn chưa có đầu ra ổn định. Cái khó nữa của nhà sản xuất là chi phí đầu tư để sản xuất loại sản phẩm chất lượng cao thường tốn thêm 30-40 USD/tấn (gồm chi phí vận chuyển đến nhà máy, giảm tạp chất, giảm hạt vỡ,...) nhưng các nhà xuất khẩu chỉ chấp nhận mức chênh lệch so với loại cà phê thường khoảng 20 USD/tấn. Trước tình hình khó khăn của ngành cà phê, từ năm 2000 đến nay Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương, biện pháp tích cực, kể cả biện pháp tài chính huy động ngân sách nhà nước để giúp đỡ nông dân cũng như các doanh nghiệp qua khỏi khó khăn như: - Quyết định 116/2000/QĐ/BNN-KH ngày 15-11-2000 về việc ban hành Quy chế tạm trữ và quản lý lượng cà phê tạm trữ. - Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính Về việc thưởng theo kim ngạch xuất khẩu cho các mặt hàng gạo, cà phê, thịt lợn, rau quả hộp trong năm 2001. - Thông tư số 01/2000/TT-BTM ngày 5 tháng 1 năm 2001 hướng dẫn điều khoản giá trong hợp đồng xuất khẩu cà phê. - Quyết định 1067/QĐ-TTg ngày 27-10-2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ cà phê xuất khẩu niên vụ 2000-2001 . - Chính sách khoanh nợ và giãn nợ đối với những khoản vay đầu tư trồng cà phê trong những năm trước cho các hộ nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, tiếp tục cho nông dân vay tiền để chăm sóc vườn cà phê hoặc trồng cây khác v.v…. Tuy nhiên, những giải pháp đó mang tính chất tạm thời hơn là những chính sách mang tính dài hạn. Do khả năng tài chính của đất nước có hạn nên thực hiện các chính sách này cũng còn nhiều khó khăn. Chẳng hạn chính sách thu mua tạm trữ đã góp phần tăng giá xuất khẩu lên tới 25,4% ngay tại thời điểm áp dụng nhưng việc tạm trữ diễn ra không lâu sau đó lại phải xuất khẩu nên giá lại giảm. Tác dụng của chính sách này 10
  11. bị hạn chế do người hưởng lợi chính là người kinh doanh xuất khẩu. Chính sách thưởng theo kim ngạch xuất khẩu có thể nâng giá bán lên khoảng 3,4% nhưng cũng là mang tính tạm thời vì sản lượng trong và ngoài nước vẫn tiếp tục tăng lên và không đủ mạnh để giữ giá lâu, và tác động trực tiếp của nó là các nhà xuất khẩu được lợi chứ không phải là nông dân trồng cà phê, nhất là những ngừi nghèo.... Để ngành cà phê Việt Nam đứng vững và phát triển ổn định, điều quan trọng hơn cả là cần có một chiến lược hoàn chỉnh cho ngành cà phê cả về sản xuất, kinh doanh, các giải pháp và tổ chức quản lý ngành. Chính phủ cần phải chỉ ra hướng đi cho ngành cà phê và sự điều chỉnh phương hướng là một vấn đề cần phải làm ngay đối với ngành cà phê Việt Nam. Cuộc khủng hoảng dư thừa cà phê hiện nay đã tác động rất xấu đến ngành cà phê Việt Nam. Nhưng cũng có thể nói là bên cạnh những mặt xấu đó cũng có mặt tốt là chính trong khó khăn này những người làm cà phê mới thấy rõ những thiếu sót tồn tại của mình và từ đó chọn cho mình hướng đi đúng đắn hơn. B. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT TRONG NƯỚC. 1. TÌNH HÌNH CHUNG CẢ NƯỚC Nước Việt nam nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc Bán cầu, trải dài theo phương kinh tuyến từ 8030’ đến 23030’ vĩ độ Bắc. Điều kiện khí hậu và địa lý rất thích hợp với việc phát triển cà phê. Miền địa lý khí hậu phía Nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thích hợp với cà phê Robusta. Miền khí hậu phía Bắc có mùa đông lạnh và có mưa phùn thích hợp với cà phê Arabica. Cách đây 25 năm, vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra, chủ yếu là tại địa bàn hai tỉnh Đak Lak và Gia Lai Kontum ở Tây Nguyên. Vào thời gian này cả nước mới chỉ có không đầy 20000 ha phát triển kém, năng suất thấp với sản lượng chỉ khoảng 4000 – 5000 tấn.  Trong vòng 15-20 năm trở lại đây ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc, sản lượng cà phê cả nước tăng lên hàng trăm lần. đến nay đã có hơn 500000 ha, hầu hết sinh 11
  12. trưởng khoẻ, năng suất cao, tổng sản lượng đạt tới 900000 tấn. Diện tích cà phê ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh vào nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Nguyên nhân dẫn đến những thành tựu đó trước hết là nhờ chính sách đổi mới của Nhà nước phù hợp với nguyện vọng của nông dân là làm giàu trên mảnh đất của mình dựa vào sự cần cù lao động của bản thân mình. Về nguyên nhân khách quan phải nói rằng đó là do giá cà phê trên thị trường trên thế giới những năm gần đây diễn biến theo hướng có lợi cho người sản xuất, cà phê làm ra bán được giá cao hơn và thu nhập của người nông dân cũng tăng lên đáng kể. Sự kích thích của giá cả là động lực mạnh nhất thúc đẩy cà phê ở Việt Nam phát triển nhanh chóng. Từ năm 1992 đến 2001 sản lượng cà phê của Việt nam tăng liên tục, nhưng đến niên vụ 2001 – 2002 sản lượng cà phê đã bắt đầu giảm. Ta có thể thấy sự phát triển quá nhanh của ngành cà phê Việt Nam qua những con số diện tích và sản lượng 9 niên vụ vừa qua: Bảng 6: Diễn biến diện tích và sản lượng cà phê Việt nam trong 9 niên vụ vừa qua. Niên vụ Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) 1992/93 140000 140400 1993/94 150000 181200 1994/95 215000 211920 1995/96 295000 236280 1996/97 350000 342300 1997/98 410000 413580 1998/99 460000 404206 1999/00 520000 700000 2000/01 500000 900000 2001/02 612000 12
  13. 2002/03 550000 Nguồn: www.vicofa.org.vn Việc giảm sản lượng do hai nguyên nhân chủ yếu sau:  Bỏ một số diện tích cà phê chuyển sang loại cây trồng khác do hiệu quả cây cà phê quá kém. Ở Đak Lak, tỉnh tập trung nhiều cà phê, chiếm tới 60% tổng sản lượng cà phê cả nước đã bỏ tới 40000 ha cà phê chuyển sang cây ca cao, hồ tiêu, cao su, cây ăn quả, điều và cả cây bông, ngô...  Giảm đầu tư do thiếu vốn, bón ít phân, tưới không đủ nước,... Với tổng diện tich đạt trên 500000 ha và sản lượng 10 triệu bao mỗi năm, cà phê hiện nay được xếp thứ hai sau gạo trong danh mục hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Để đạt được sản lượng cao như vây, ngành cà phê Việt Nam mỗi năm thu hút khoảng 300000 hộ gia đình, với trên 600000 lao động, đặc biệt vào 3 tháng thu hoạch, con số này có thể lên tới 700000 hoặc 800000. Như vậy, số lao động của ngành cà phê đã đạt tới 1,83% tổng lao động trên toàn quốc nói chung và 2,93% tổng số lao động trong ngành nông nghiệp nói riêng. Ngoài ra còn có khoảng trên một triệu người có cuộc sống quan hệ với ngành sản xuất cà phê. Chính vì vậy, thu hẹp diện tích sản xuất là chính sách ảnh hưởng mạnh nhất đối với ngành và người trồng cà phê trong thời điểm hiện nay. Cùng với việc thu hẹp diện tích trồng cà phê, chính sách đa dạng hoá sản xuất đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hoá thu nhập, tránh tình trạng phụ thuộc vào một loại cây trồng. 2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÀ PHÊ Ở TỈNH ĐAK LAK. Với điều kiện tự nhiên ưu đãi và có khoảng 200000 hộ gia đình tham gia trồng cà phê, Đăk Lăk là tỉnh sản xuất cà phê chính của Việt Nam, đóng góp 53% sản lượng và 50% kim ngạch xuất khẩu cà phê cả nước. Đối với tỉnh Đak Lak cà phê có giá trị xuất khẩu chiếm 85 – 90% kim ngạch xuất khẩu và 45 – 50% giá trị GDP. Diện tích cà phê tăng từ 153050 ha (1996) lên 173200 ha (1999). Do thị trường cà phê có giá, cà phê trở thành nguồn thu nhập lớn nhất đối với người dân địa phương, nên diện tích cà phê đã tăng đột biến, không theo quy hoạch và các cơ quan 13
  14. chức năng của địa phương cũng không thể kiểm soát nổi. Tại các địa phương đồng bào đã phá rừng trồng cà phê, thậm chí họ còn phá cao su để trồng cà phê và trồng cà phê trên những diện tích đất không có khả năng tưới và không đảm bảo độ sâu tầng đất. Diện tích cà phê của các huyện: Đăk Mil, Đăk Nông, Đăk R’Lấp do dân di cư tự do vào phá rừng trồng từ những năm 1997 trên các đồi cao, sườn dốc, không có cây che bóng và không đảm bảo quy trình kỹ thuật nên chất lượng vườn cây kém. Thập kỷ 90, diện tích trồng cà phê trên địa bàn tỉnh tăng 14,1%/năm, đạt 259.030 ha năm 2000, trong đó 88,4% được trồng trên đất bazan, còn 11,6% được trồng trên đất khác. Hậu quả là diện tích rừng bị giảm nhiều, tầng nước ngầm có nguy cơ bị cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm nặng. Năm 2003 diện tích cà phê toàn tỉnh đã giảm, chỉ còn 237000 ha, chiếm 57,43% đất nông nghiệp và 86,24% diện tích cây công nghiệp lâu năm trong toàn tỉnh. Bảng 7: Diễn biến diện tích, năng suất, sản lượng và phê (Diện tích: ha, năng suất: tạ/ha, sản lượng: tấn) Tăng Mục 1995 1996 1997 1998 1999 BQ (%) Diện tích 131119 153050 165000 169620 173200 105,72 T.S. Kinh 53000 75192 87939 101667 110000 115,72 doanh Năng 22,00 21,23 24,32 24,29 23,64 101,45 suất Sản 154596 159630 212110 246950 260000 114.50 lượng Nguồn: www.vicofa.org.vn Tuy Đak Lak hiện nay đã trở thành vùng chuyên canh cà phê lớn nhất cả nước, sản lượng cà phê ở Đak Lak tăng là do diện tích trồng cà phê được mở rộng chứ không phải do tăng năng suất. Cà phê đã hình thành được các vùng sản xuất chuyên canh và tập trung: Krông Buk: 27800 ha, Cư M’Ga: 23400 ha, Krông Ana và Krông Păk mỗi huyện trên 17000 ha, Krông Năng, Đăk Mil trên 13000 ha, các huyện Đăk R’Lấp, 14
  15. Đăk Nông và Buôn Ma Thuột mỗi huyện từ 9000 – 10000 ha,... Đăk Lăk trồng cà phê vối là chính, để thay đổi cơ cấu cà phê năm 1995 tỉnh đã có chủ trương trồng 5000 ha cà phê chè tại hai huyện Đăk Nông và Đăk R’Lấp đến nay đã trồng được trên 500 ha nhưng khả năng thực hiện dự án 5000 ha cà phê chè là rất khó vì không còn đủ đất và nông dân chưa yên tâm với cây cà phê chè Catimor do thời vụ thu hoạch trùng vào thời điểm mưa lớn tập trung tại các khu vực này. Trong tổng diện tích cà phê có khoảng 110000 ha cà phê kinh doanh. Năng suất cà phê từ những năm trước 1990 chỉ xấp xỉ 8 – 9 tạ nhân/ha, từ năm 1991 trở lại đây, các doanh nghiệp thực hiện cơ chế khoán vườn cây cho người lao động, gắn lợi ích của người lao động với kết quả lao động của họ, người lao động nhận khoán đã coi vườn cà phê là của mình, tích cực đầu tư và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăm sóc vườn cà phê, vì thế mà năng suất cà phê tăng nhanh: 11,69 tạ/ha (1992); 18,4 tạ/ha (1994); 24,32 tạ/ha (1997) và 23,64 tạ/ha (1999) trên diện tích 110000 ha kinh doanh. Đặc biệt đã có gia đình đạt năng suất 50 – 60 tạ/ha. Nhưng đối với những hộ nghèo không đủ khả năng để tiếp cận và áp dụng kỹ thuật mới thì năng suất thấp hơn nhiều. Hầu hết nông dân đều trồng cà phê theo phương pháp truyền thống, không có điều kiện tiếp cận nên cũng không áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào chăm sóc cà phê, do đó các vườn cà phê của họ thường cho năng suất thấp. Nói chung không có sự khác nhau nhiều về năng suất giữa các hộ trồng cà phê trong một khu vực nhưng có sự khác nhau lớn về năng suất giữa các vùng sinh thái. Sản lượng cà phê tăng nhanh từ 130000 tấn (1996) lên 246400 tấn (1998) và 260000 tấn năm 1999. Năm 1998 sản lượng cà phê xuất khẩu 198000 tấn, góp phần thực hiện kim ngạch xuất khẩu 316,47 triệu USD, năm 1999 lượng cà phê xuất khẩu 239540 tán cà phê nhân, trị giá xuất khẩu đạt 306 triệu USD. Sự rớt giá của cà phê xuất khẩu dẫn đến giảm giá bán cà phê của nông dân. Ở Đak Lak, giá cà phê nhân khô loại R1 giảm từ 11500 đồng/kg tháng 1/2000 xuống 9100 đồng tháng7/2000 và xuống 4000 – 45000 đồng/kg trong hai tuần đầu tháng 12/2000, tức là giá đã giảm 62%. Nếu so với mức giá 20500 – 21000 đồng/kg tháng 1/1999 thì giá đã giảm 80%. Với giá cà phê không ổn định như vậy, không những các nông dân phải huỷ bỏ vườn cây của mình mà không ít nhà kinh doanh thua lỗ, mất vốn đến mức nghiêm trọng, các công ty xuất khẩu cà phê cũng không 15
  16. dám trữ cà phê như trước nên việc bán cà phê thêm khó khăn đối với nông dân. 2.1. Các tác nhân tham gia ngành hàng và kênh tiêu thụ sản phẩm cà phê. Theo điều tra của ICARD tháng 3/2002 tại Đăk Lăk, các tác nhân tham gia thị trường cà phê bao gồm hộ gia đình trồng cà phê, các cơ sở thu gom, các đại lý thu mua của các công ty xuất khẩu/chế biến cà phê và các công ty xuất khẩu/chế biến cà phê. Các hộ gia đình bán 93% cà phê quả tươi, cà phê khô và nhân xô cho các cơ sở thu gom tư nhân với giá bình quân 2.587đ/kg, còn lại 7% bán trực tiếp cho các doanh nghiệp chế biến hoặc xuất khẩu trực tiếp với giá bình quân 2.587 đ/kg. Các cơ sở thu gom bán 100% sản phẩm cà phê thu mua được bán cho các doanh nghiệp chế biến/xuất khẩu với mức giá bình quân 4.192đ/kg. Các doanh nghiệp chế biến hoặc xuất khẩu trực tiếp, bán 94% sản phẩm cà phê nhân xô sau khi chế biến và phân loại ra thị trường thế giới với giá trung bình là 5.784 đ/kg, trong đó 99,9% xuất khẩu giá FOB tại cảng Sài Gòn, 0,1% xuất khẩu giá CIF, 6% sản phẩm còn lại được chế biến thành cà phê bột để bán ở thị trường trong nước với giá 30.000đ/kg. Dao động giá cùng một loại sản phẩm giữa các tác nhân tham gia thị trường không cao, khoảng 100 đ/kg. Chênh lệch cao chủ yếu từ khả năng chế biến của các tác nhân tham gia thị trường. Như vậy, trong kênh phân phối, người trồng cà phê là người chịu nhiều thiệt thòi nhất, lợi nhuận dành cho họ thấp nhất và họ là người chịu nhiều rủi ro nhất. Người tiêu thụ không được lợi gì khi giá cà phê xuống thấp do giá cà phê chế biến không thay đổi, do đó lợi nhuận tập trung nhiều nhất vào những người chế biến, rang xay. Trong các doanh nghiệp và chủ hộ kinh doanh cà phê: các nông trường quốc doanh hiện nay luôn bị lỗ do mức khoán ở các nông trường quốc doanh hiện nay không hợp lý, cần phải có một văn bản cho phép 16
  17. điều chỉnh vì: lúc bắt đầu thực hiện khoán là những năm 1990, 1991, 1992 thì mức khoán là hợp lý vì lúc đó nông trường không có vốn và vật tư, vườn cây thì xuống cấp nghiêm trọng. Nhưng sau 5, 6 vụ cà phê được giá, được mùa, người nhận khoán được lớn còn nông trường thì thua thiệt vì giá thành cao hơn giá bán, nông trường bị lỗ nghiêm trọng do vướng các văn bản Nhà nước về khoán trước đây, không thể tự điều chỉnh mức khoán. Nông dân trồng cà phê cũng có hai loại: Những người mới vào kinh doanh khi cà phê được giá thì mất nhiều hơn được. Còn nông dân có vườn cây ổn định từ trước thì vẫn có hiệu quả dù rằng thấp hoặc ít nhất cũng không bị lỗ. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng có nhiều trường hợp bị lỗ vốn do thiếu thông tin về thị trường, và quan trọng hơn là do không có khả năng phân tích thông tin để dự đoán diễn biến giá cả, không dự báo được nhu cầu nên ký hợp đồng giao kỳ hạn quá dài và chốt giá không đúng thời điểm, định giá khi giá thấp và phải giao hàng khi giá cao. Thực ra đây là một khó khăn rất lớn không dễ làm được không chỉ đối với ngành cà phê. 2.2. Chi phí sản xuất. Đầu tư ban đầu để kiến thiết vườn cà phê khá lớn: khoảng 35 triệu đồng/ha/3 năm đầu (làm đất, phân bò: 15 m 3, NPK: 4 tạ, tưới: 4 triệu,....). Sau đó vườn bắt đầu cho thu nhập nhưng năm đầu tiên: 1 tấn/ha sau đó tăng dần 1,5 tấn/ha, 2 tấn/ha, 2,2 tấn/ha, 2,5 tấn/ha rồi đến 2,8 tấn/ha,..... Sau khoảng 20 năm thì năng suất của vườn bắt đầu giảm. Đối với các hộ nhận khoán của công ty hoặc nông trường, đầu tư ban đầu cho kiến thiết cơ bản được công ty hỗ trợ vốn. Nếu công ty không đủ vốn thì sẽ đứng ra vay vốn ngân hàng hộ nông dân với lãi suất thấp để đầu tư chăm sóc cà phê. Chi phí sản xuất cho cà phê chủ yếu là cho phân bón. Lượng phân bón được sử dụng tăng theo tuổi của vườn cây và phụ thuộc vào thu nhập của người nông dân và giá cà phê. Chi phí sản xuất còn bao gồm thuốc trừ sâu, tưới và phụ thuộc vào chất đất, lượng nước có sẵn và kỹ thuật canh tác. Khi giá cà phê cao, cà phê là nguồn thu nhập chính, người nông dân đã đầu tư lớn cho việc trồng mới và chăm sóc những vườn đã có. 17
  18. Trung bình đầu tư cho 1 kg cà phê nhân là khoảng 8200 đồng/kg, lượng đầu tư thay đổi theo từng vùng sinh thái, điều kiện của từng gia đình nhưng không dưới 7000 đồng/kg. Như vậy nếu giá cà phê xuống đến 4000 đồng/kg thì chỉ thu được 1/2 chi phí sản xuất. SƠ ĐỒ MÔ TẢ TỔ CHỨC NGÀNH HÀNG CÀ PHÊ Người sản xuất – trồng cà phê 7% 93% Đại lý Tổ thu Đại lý Cơ sở của mua tư nhân thu gom công ty Xưởng chế Trạm kinh biến doanh cà phê 6% CÔNG TY Xuất khẩu 94% sản phẩm thô CHẾ biến Xuất khẩu sản phẩm đã chế biến Nhà phân phối Đại lý bán sỉ Người bán lẻ Các quán cà phê Người tiêu dùng cuối cùng 18
  19. 2.3. Chế biến và xuất khẩu cà phê ở Đak Lak. Cà phê là loại nước uống cao cấp, nhu cầu đòi hỏi của người tiêu dùng vẫn không ngừng tăng lên, chưa có những sản phẩm nhân tạo được chấp nhận để thay thế cho cà phê, vì vậy việc trồng, xuất nhập khẩu loại hàng hoá đặc biệt này vẫn có một ý nghĩa kinh tế lớn đối với nhiều nước. Vấn đề rất quan trọng cần có nhận thức đầy đủ là: sản phẩm cà phê đem ra thị trường phải đảm bảo chất lượng. Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cà phê như: điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và giống được trồng, các khâu thu hái, chế biến, phơi sấy, bảo quản cà phê có một vị trí hết sức quan trọng. Các công đoạn chế biến và bảo quản sau thu hoạch có mối quan hệ khăng khít với nhau và phải được thực hiện nghiêm túc thì mới có khả năng tạo ra mặt hàng thương phẩm có giá trị cao trên thị trường quốc tế, đó cũng là bước quyết định nâng cao lợi tức của người sản xuất và kinh doanh cà phê. Vùng cà phê Tây Nguyên đã hình thành khu chế biến công nghiệp với khoảng trên 63 nhà máy và 500 cơ sở chế biến tư nhân. Tổng cộng công suất đạt trên 300000 tấn sản phẩm / năm. Khoảng 80% sản lượng cà phê được chế biến tại các hộ gia đình nông dân bằng những thiết bị nhỏ, tự chế, lạc hậu, sân phơi bằng nhiều loại vật liệu khác nhau, thậm chí phơi cà phê trên sân đất, cà phê lẫn nhiều tạp chất. Các hộ tự chế biến cà phê chỉ sử dụng phương pháp chế biến khô. Phương pháp này rất đơn giản, chỉ là phơi khô quả tươi rồi sau đó xát bỏ vỏ khô bằng máy xay xát nhỏ để có được cà phê nhân và bán cho các cơ sở thu gom. Phương pháp này có chi phí thấp (khoảng 100000 đồng/tấn), dễ làm nhưng sản xuất không ổn định vì phụ thuộc vào thời tiết và cho chất lượng sản phẩm thấp và không đồng đều vì thời gian phơi khô càng lâu thì chất lượng cà phê càng giảm. Tỷ lệ hạt bị đen do bị lên men nhiều. Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê thường phải chế biến lại loại cà phê 19
  20. này với chi phí khoảng 48000 đồng/tấn. Ở Đak Lak, cà phê của các công ty, nông trường sản xuất ra thường có chất lượng tốt, mặt hàng đẹp, được khách hàng đánh giá cao, gồm có cà phê của các công ty Thắng Lợi, Phước An, các công ty Việt Đức, Buôn Hồ, Đ’Rao.... Nhìn chung lâu nay việc mua bán cà phê không theo tiêu chuẩn nhà nước, việc quy định chất lượng trong các hợp đồng mua bán còn giản đơn và mang tính chất thoả thuận giữa người mua và người bán nên chưa tạo thành sức ép thúc đẩy việc cải tiến công nghiệp chế biến nâng cao chất lượng cà phê. Hiện nay, sản lượng cà phê Việt Nam vẫn chủ yếu là Rubusta với phương pháp chế biến chủ yếu là chế biến khô, cà phê thu hái về được phơi khô tận dụng năng lượng mặt trời. Những năm mưa kéo dài trong vụ thu hoạch người dân phải sấy trong các lò sấy đốt bằng than đá, củi,... cũng có một số doanh nghiệp chế biến theo phương pháp ướt dùng máy đánh nhớt. Một phần nhỏ sản lượng là cà phê Arabica các doanh nghiệp nhà nước đều chế biến theo phương pháp ướt. Có nơi dùng máy chọn màu Sortex trong khâu phân loại, loại bỏ cà phê hạt đen, nâu,... Nhìn chung, cà phê Việt Nam thường cho ra sản phẩm chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường nên thường bị các nhà nhập khẩu ép giá. Vấn đề đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước còn gặp nhiều cản trở do một số yếu tố sau:  Nghiên cứu nhu cầu thị trường, tiếp thị yếu  Thiếu hiểu biết về thị trường.  Không nghiên cứu có hệ thống về công nghệ thích hợp với yêu cầu thị trường  Thiếu hiểu biết về công nghệ thích hợp.  Doanh nghiệp nhà nước ít có khả năng lựa chọn về nguồn vốn, phụ thuộc vào vốn của ngân hàng  Chưa có thị trường vốn trung hạn và dài hạn.  Thủ tục đòi hỏi quá nhiều cấp xét duyệt, mất thời gian, công sức, tiền bạc  Thủ tục đầu tư phức tạp, mất thời gian.  Số người lao động lớn tuổi, ít được đào tạo e ngại không tiếp cận được với công nghệ mới.  Do ít phải chịu sức ép cạnh tranh nên lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước không cần phải đổi mới công nghệ  Lãnh đạo doanh nghiệp thiếu quyết tâm. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2