intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyển đổi số trong giáo dục đại học – Tác động và giải pháp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

10
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết của tác giả làm rõ những tác động của chuyển đổi số tới giáo dục đại học, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong dạy và học đại học hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyển đổi số trong giáo dục đại học – Tác động và giải pháp

  1. CHUYỂN ĐỔI SỐ: XU HƯỚNG VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 63 CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC – TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP ThS Hoàng Trung Dũng* TÓM TẮT Sự phát triển của Khoa học - Công nghệ, tác động của cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) và những thách thức toàn cầu như đại dịch Covid-19 vừa qua, buộc giáo dục đại học phải thay đổi, đặc biệt là chuyển đổi số. Trong giáo dục, chuyển đổi số giúp gia tăng khả năng đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng đa dạng của người học và ứng phó với sự thay đổi, qua đó tăng hiệu quả đào tạo và quốc tế hóa hoạt động giáo dục. Bài viết của tác giả làm rõ những tác động của chuyển đổi số tới giáo dục đại học, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong dạy và học đại học hiện nay. Từ khóa: chuyển đổi số, giáo dục đại học, tác động chuyển đổi số, giải pháp chuyển đổi số 1. Mở đầu Chuyển đổi số đang trở nên cấp thiết đối với giáo dục đại học để thích ứng với mọi hoàn cảnh, đồng thời là đòn bẩy thúc đẩy đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến, bắt kịp xu thế của giáo dục toàn cầu. Nắm bắt được xu thế đó, giáo dục đại học đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trước yêu cầu chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, giáo dục đại học xác định sứ mệnh tiên phong trong thực hiện nhiệm vụ này, góp phần rút ngắn quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học cũng gặp phải những khó khăn, thách thức về nguồn lực con người, về hạ tầng công nghệ thông tin… 2. Nội dung 2.1. Chuyển đổi số và chuyển đổi số trong giáo dục Mặc dù đã xuất hiện từ lâu trên thế giới, song đến khi cách mạng công nghiệp lần thứ tư bùng nổ, chuyển đổi số (Digital transformation) mới xuất hiện và trở nên phổ biến trong những năm gần đây. Chuyển đổi số được hiểu là “việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau”.1 Khoa Lý luận chính trị, Đại học Xây dựng Hà Nội * Bộ Thông tin và Truyền thông, Đề án chuyển đổi số quốc gia, Dự thảo 1.0 ngày 04/4/2019. Tải xuống 1 http://mic.gov.vn/Upload_Moi/DuThaoVanBan/PL03-DU-THAO-DE-AN-CHUYEN-DOI-SÓ- QGVER-1.0.pdf
  2. 64 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC Có thể hiểu một cách khái quát, chuyển đổi số là quá trình chuyển từ mô hình truyền thống sang mô hình số, bằng cách ứng dụng các công nghệ mới như vạn vật kết nối - Internet of things (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), trí tuệ nhân tạo (AI)…, các phần mềm công nghệ để thay đổi phương thức điều hành, quản lý, quy trình làm việc, văn hóa cơ quan, đơn vị; chuyển các hoạt động từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng. Nhờ vậy, con người dễ dàng và tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian. Chuyển đổi số chính là một công cuộc cải biến toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm khai thác tối đa sức mạnh thời đại và tiến bộ công nghệ để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và kiến tạo nền tảng căn bản cho hành trình phát triển bền vững. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới như Thái Lan, Malaysia, Anh, Pháp, Đan Mạch, Úc, Estonia,... đã và đang triển khai các chiến lược quốc gia về chuyển đổi số. Tùy thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà mỗi quốc gia xây dựng nội dung chuyển đổi số trong các lĩnh vực cho phù hợp. Tuy nhiên, nhìn chung chuyển đổi số của các quốc gia đều hướng tới các nội dung chính như: Chính phủ số (dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu mở); kinh tế số (phát triển các doanh nghiệp số, tài chính số, thương mại điện tử); xã hội số (giáo dục, văn hóa, y tế, an toàn xã hội) và chuyển đổi số trong các ngành kinh tế trọng điểm (điện lực, du lịch, giao thông, công nghiệp). Trong lĩnh vực giáo dục, chuyển đổi số là việc ứng dụng công nghệ số vào việc đổi mới mọi khía cạnh trong tổ chức và hoạt động của giáo dục (quản lý, dạy, học, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng). Quá trình này đã diễn ra từ khi bước sang thế kỷ XXI do sự bùng nổ của công nghệ thông tin, song khi thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nó mới trở thành xu thế toàn cầu. Trong điều kiện sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện nay, kỹ năng và tri thức của con người trở thành tài sản chính yếu của mọi quốc gia, dân tộc. Nếu trước đây lao động sản xuất chủ yếu dựa vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên, thì hiện nay lao động sản xuất lại chú trọng vào việc thu hút các nguồn tài năng và chất xám người lao động. Bởi vậy, chuyển đổi số trong giáo dục là tất yếu khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu lãnh đạo, quản lý giảng dạy, học tập của người lãnh đạo, người dạy và người học, giúp họ phát huy tối đa khả năng tư duy, tính sáng tạo, chủ động, tích cực trong hoạt động lãnh đạo, dạy và học. Trong giáo dục, chuyển đổi số được thể hiện ở hai nội dung cơ bản là: Chuyển đổi số trong quản lý giáo dục; chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học. Trong quản lý giáo dục, chuyển đổi số bao gồm: Số hóa thông tin quản lý, tạo ra hệ thống cơ sở dữ liệu lớn, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (như blockchain, AI, phân tích dữ liệu) để quản lý, điều hành, dự báo, định hướng trong lĩnh vực giáo dục một cách nhanh chóng, chính xác. Trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học bao gồm: số hóa học liệu (sách giáo trình, bài giảng điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, học liệu số đa phương tiện, phần mềm mô phỏng, bài báo và các học liệu khác), thư viện số, phòng thí nghiệm.
  3. CHUYỂN ĐỔI SỐ: XU HƯỚNG VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 65 2.2. Tác động của chuyển đổi số tới giáo dục đại học Trong vài năm gần đây, người ta nhắc ngày càng nhiều đến ‘chuyển đổi số’ (digital transformation), nhất là ở các ngành công nghệ, kinh tế, kinh doanh, dịch vụ. Còn trong giáo dục, phải đến khi đại dịch Covid-19 bùng phát trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam là một trong những nước chịu tác động làm đình trệ mọi hoạt động kinh tế xã hội, học sinh, sinh viên không thể đến trường, chuyển đổi số mới thực sự được nhắc nhiều tới trong ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Chuyển đổi số trở thành một quá trình mà tất yếu mà kết quả của nó có thể là một diện mạo giáo dục hoàn toàn mới, mang lại cho giáo dục những phương thức, cách thức, phương pháp, kĩ thuật, công cụ và phương tiện giáo dục mới. 2.2.1. Thay đổi phương pháp, công nghệ dạy học Trên thực tế chuyển đổi số không phải là câu chuyện của ngày hôm qua hay do tác động của đại dịch Covid-19. Mà từ hơn hai thập kỷ trước khi công nghệ thông tin, mạng Internet được sử dụng rộng rãi trong đào tạo, giáo dục, chuyển đổi số đã được đặt ra, nhưng phần nào còn mơ hồ, bởi chưa thực sự có những lý do để bắt buộc phải thực hiện nó. Nhưng đến đầu năm 2020 với những sự kiện có thể nói chưa từng xuất hiện trong xã hội hiện đại tác động trực tiếp đến kinh tế, văn hóa, giáo dục… của cả thế giới. Lúc ấy một câu hỏi đặt ra là làm sao có thể tiến hành “giáo dục” trong hoàn cảnh mới. Nhu cầu giáo dục, được tiếp tục học tập không phải đơn thuần là nhu cầu của một cá nhân hay một tập thể mà là nhu cầu chung của tất mọi người, của các cơ quan quản lý, các cơ sở giáo dục, sự ổn định của xã hội. Khi vấn đề dạy học truyền thống, trực tiếp ở lớp là một điều không thể thì lúc này chuyển đổi số là một giải pháp tất yếu. Đi kèm với đó là những phương pháp, công nghệ dạy học hoàn toàn mới đòi hỏi phải có sự chuẩn bị và thực hiện một cách đồng bộ mới mang lại hiệu quả như mong muốn. Lúc này có một câu hỏi lớn đặt ra là chuyển đổi số trong giáo dục bao gồm sự chuyển đổi ở lĩnh vực nào và mức độ thay đổi sẽ ra sao. Câu trả lời sẽ không giống nhau đối với các cá nhân, các tổ chức và các quốc gia, vùng miền bởi lẽ xuất phát điểm của chuyển đổi số là rất khác nhau. Có một điểm chung là chuyển đổi số phải cho phép giáo dục được thực hiện toàn diện và đầy đủ mà không có gặp mặt, giao tiếp trực tiếp, có nghĩa rằng phương thức chuyển tải giáo dục thay đổi. Đi kèm với nó là những công nghệ dạy học phải thay đổi để đáp ứng cho phương pháp dạy học mới. Đầu tiên chuyển đổi số trong giáo dục là sự thay đổi phương pháp dạy học, áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào dạy và học nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh sinh viên và giảng viên. Điều này có nghĩa là người dạy và người học phải có những phương tiện hỗ trợ như máy tính, điện thoại thông minh có kết nối Internet thì việc học sẽ diễn ra đơn giản hơn. Người học không cần gặp giảng viên một cách trực tiếp vẫn có thể tiếp thu được tri thức một cách đơn giản nhưng vẫn giúp người dạy và người học phát huy tối đa khả năng tư duy, sáng tạo, chủ động của mình. Nếu trước đây vài chục, vài trăm sinh viên
  4. 66 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC ngồi trên giảng đường nghe giảng trong những giảng đường với bốn bức tường như trước đây, thì giờ đây công nghệ số mở ra một không gian học tập linh động hơn. Thì giờ đây người học có thể linh động và thuận tiện hơn trong việc tiếp cận việc học nhờ các thiết bị điện tử thông minh. Nó loại bỏ hoàn toàn những giới hạn về khoảng cách, tối ưu thời gian học và nâng cao nhận thức, tư duy của người học. Lúc này người học có thể chủ động trong việc tiếp cận tri thức hơn, việc học trở nên cá nhân hóa, và vì lợi ích cao nhất của người học. 2.2.2. Truy cập tài liệu, học hiệu không giới hạn Chuyển đổi số mở ra một cánh cửa tri thức khổng lồ với vô vàng tài liệu, học liệu không giới hạn. Vì vậy giúp cho người học thay vì phải tốn tiền mua sách, tài liệu, hay tới thư viện mượn sách tốn nhiều thời gian. Thì hiện nay người học có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin, kiến thức thông qua khai thác các tài liệu trực tuyến bằng các thiết bị điện tử. Ngoài ra việc khai thác các tài liệu trên không gian mạng còn giảm thiểu chi phí cho người học. Cùng một lúc bằng cách truy cập vào nhiều phần mềm, hay ứng dụng khác nhau người học có thể so sánh đối chiếu các tài liệu, học liệu khác nhau. Việc ấy cho phép người học có thể dễ dàng tìm kiếm được thông tin mình mong muốn và phù hợp với bản thân. Vì trên thực tế với nguồn thông tin mở vô hạn, nhưng người học cần có những kỹ năng nhất định mới có thể tìm kiếm, chọn lọc được những gì cần thiết cho việc học của mình. Mặt khác, việc chuyển đổi số cũng giúp việc chia sẻ tài liệu, giáo trình, tập bài giảng giữa sinh viên và giảng viên trở nên dễ dàng và tiết kiệm hơn do giảm thiểu được các chi phí về in ấn. Nhưng đó cũng vô hình tạo nên một áp lực buộc giảng viên phải liên tục thay đổi phương pháp, nội dung cũng như hình thức của bài giảng, tài liệu nhằm thu hút sinh viên tương tác vào quá trình học. Vì trong một giây trên không gian mạng có vô vàng tài liệu, tri thức mới, điều đó buộc người giảng viên phải thay đổi nếu không thì sẽ không bắt kịp được xu hướng, tri thức mới. Bên cạnh một số thuận lợi đã nêu thì vẫn còn tồn tại một số vấn đề khi người học được truy cập không giới hạn tài liệu trên không gian mạng như: Việc lựa chọn nội dung kiến thức phù hợp với bản thân cũng như yêu cầu của môn học; Vấn đề bản quyền hay việc truy cập mạng quá nhiều làm cho sinh viên bỏ đi thói quen đọc sách… 2.2.3. Nâng cao chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng Nâng cao chất lượng trong giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển nói chung và nâng cao vị thế của trường đại học, cao đẳng nói riêng. Nhưng trên thực tế đào tạo trong Nhà trường hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng và đào tạo lại khi tuyển dụng đang là bài toán khó đối với thị trường lao động nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp lại tốn rất nhiều thời gian công sức kinh phí để đi tìm nhân sự chất lượng cao hoặc là mất thời gian, công sức để đào tạo lại vì phần nhiều ứng cử viên không đáp ứng được nhu cầu của công việc. Một trong những nguyên nhân chính của nghịch lý ấy là chương trình đào tạo hiện nay của các
  5. CHUYỂN ĐỔI SỐ: XU HƯỚNG VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 67 trường đại học, đã được xây dựng cách đây hàng chục năm nên không đáp ứng được với yêu cầu của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Chính vì thế sinh viên tốt nghiệp thiếu trầm trọng những kỹ năng mềm cần có mà doanh nghiệp cần ở người lao động. Ngày nay cuộc cách mạng 4.0 đã biến đổi rất nhiều về phong cách sống, phong cách làm việc cũng như phương thức giao tiếp của nhân loại theo hướng hoàn toàn mới. Trung tâm của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là công nghệ thông tin và Internet kết nối vạn vật, nó không chỉ giúp con người giao tiếp với con người, mà còn giúp con người giao tiếp với máy, con người giao tiếp với đồ vật và đồ vật giao tiếp với nhau. Do đó, các quốc gia nếu không muốn tụt lùi lại phía trong cuộc cách mạng công nghiệp này đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc cách mạng vào thực tiễn lao động sản xuất để có thể đáp ứng được yêu cầu mà phát triển đặt ra. Vì thế, ngay từ trên giảng đường đại học, sinh viên phải chủ động tích lũy tri thức, kinh nghiệm về công nghệ thông tin và trình độ ngoại ngữ tốt, cũng như một số kỹ năng mềm thành thạo chủ động cập nhật kịp thời và ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất của thế giới vào cuộc sống thì chúng ta mới có cơ hội cạnh tranh việc làm, mở ra cánh cửa để bước vào sân chơi toàn cầu hóa. 2.3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong dạy và học đại học hiện nay Thứ nhất, phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thống nhất trong các cấp, các ngành về thực hiện chuyển đổi số, xây dựng văn hoá số trong giáo dục và đào tạo nói chung, dạy và học đại học nói riêng. Đồng thời, rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các bộ tiêu chuẩn về ứng dụng công nghệ dạy và học đại học. Thứ hai, tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/03/2019 của Thủ tướng Chính phủ “về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến 2025”. Chú trọng triển khai hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu toàn ngành giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục và đào tạo đại học nói riêng. Kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu từ Trung ương đến địa phương, nhà trường và đồng bộ với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác, góp phần hình thành cơ sở dữ liệu mở quốc gia; thực hiện số hóa triệt để, thay thế văn bản, tài liệu giấy bằng sử dụng văn bản điện tử (sổ sách, bài giảng, sổ điểm điện tử…); hoạt động chỉ đạo, điều hành, giao dịch, họp, tập huấn, hội thảo được thực hiện chủ yếu trên môi trường mạng. Tăng cường kết hợp công nghệ như Big data, Blockchain, AI, Open API… với cơ sở dữ liệu số chuyên ngành để xây dựng các hệ thống thu thập thông tin, đưa ra các dự báo, dự đoán và tạo ra các ứng dụng, dịch vụ phù hợp với đối tượng sinh viên. Thứ ba, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, kết nối mạng internet đồng bộ, thiết bị công nghệ thông tin đảm bảo phục vụ tốt cho dạy - học, tạo cơ hội học tập bình đẳng cho sinh viên
  6. 68 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC các trường, giữa các vùng miền có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, ưu tiên hình thức thuê dịch vụ và tăng cường xã hội hóa, hợp tác với các doanh nghiệp lớn triển khai ứng dụng công nghệ thông tin. Thứ tư, hình thành cổng thông tin thư viện điện tử toàn ngành liên thông, chia sẻ học liệu với các cơ sở đào tạo; áp dụng phương thức học tập kết hợp; phát triển một số mô hình đào tạo trực tuyến, thúc đẩy phát triển học liệu số phục vụ dạy - học, kiểm tra, đánh giá, tham khảo, nghiên cứu khoa học; hình thành kho học liệu số, học liệu mở, liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, tự nghiên cứu, học tập suốt đời của sinh viên; tiếp tục đổi mới phương pháp, hình thức dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số, khuyến khích và hỗ trợ áp dụng các mô hình giáo dục đào tạo mới, tiên tiến dựa trên các nền tảng số. Thứ năm, kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ đối với việc triển khai mạng xã hội giáo dục, đảm bảo thống nhất, tạo môi trường số kết nối, chia sẻ giữa cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, gia đình, giảng viên, sinh viên nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo trong giáo dục đại học; phát triển các khóa học trực tuyến mở; triển khai hệ thống học tập trực tuyến dùng chung toàn ngành phục vụ công tác bồi dưỡng giảng viên, hỗ trợ dạy học cho các vùng khó khăn. Thứ sáu, chú trọng, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực công nghệ thông tin, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên để tác nghiệp trên môi trường số, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Các trường đại học cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học cho giảng viên, sinh viên. Đồng thời, bản thân mỗi giảng viên, sinh viên phải nâng cao tính chủ động, tích cực tự học, tự tìm hiểu về công nghệ thông tin để nâng cao năng lực ứng dụng trong dạy, học, nghiên cứu khoa học trong mọi lúc, mọi nơi trong điều kiện có mạng internet. Thứ bảy, đổi mới nội dung chương trình đào tạo, phương pháp, hình thức tổ chức, quản lý dạy và học phù hợp với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin. Hiện nay, chương trình đào tạo, giáo trình nhiều môn học bậc đại học đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Kiến thức nghiêng nhiều về lý thuyết hàn lâm, tính ứng dụng vào thực tiễn còn hạn chế. Để nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong dạy, học đại học đòi hỏi các tiêu chuẩn về nội dung đào tạo được xây dựng hiện đại, chuẩn đầu ra phù hợp với từng chuyên ngành, có kèm điều kiện tích hợp công nghệ thông tin. Đây chính là cơ sở giúp cán bộ, giảng viên, sinh viên có những định hướng đúng, tạo ra sự đồng thuận trong nhà trường đối với việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy và học. Bên cạnh đó, cần đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức, quản lý dạy và học, tận dụng tối đa các công cụ hỗ trợ cho quá trình tổ chức, quản lý dạy và học mà công nghệ thông tin mang lại nhằm tiết kiệm thời gian, công sức, “mở rộng được tầm mắt, kéo dài được đôi tay” để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học.
  7. CHUYỂN ĐỔI SỐ: XU HƯỚNG VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 69 3. Kết luận Dưới sự tác động mạnh mẽ khoa học - công nghệ, CMCN 4.0 vào giáo dục và nhu cầu học tập của người học ngày càng đa dạng, việc chuyển đổi cho giáo dục là cần thiết. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” chính là cơ hội cho việc xây dựng chương trình, kế hoạch chuyển đổi số, thích ứng với CMCN 4.0 và toàn cầu hoá trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, những thành tựu của chuyển đổi số đã làm thay đổi tính chất và hiệu quả của hoạt động dạy và học trong nhà trường để có thể bù đắp sự thiếu hụt lao động trình độ cao, có chuyên môn, kỹ năng do yêu cầu từ công nghệ số hóa trong hoạt động kinh tế - xã hội. Tài liệu tham khảo Bộ Chính trị (2014). Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, ban hành ngày 01/07/2014. Bộ Thông tin và Truyền thông (2019). Đề án chuyển đổi số quốc gia, Dự thảo 1.0 ngày 04/4/2019. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, ban hành ngày 03/6/2020. Thủ tưởng Chính phủ (2020). Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày về đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới, ban hành ngày 28/5/2020.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2