Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan: Phần 2
lượt xem 13
download
Tiếp nối phần 1, mời bạn đọc cùng tham khảo phần 2 Tài liệuChuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan của hai tác giả Bá Ngọc và Trần Minh Siêu.Qua Tài liệu, bạn đọc sẽ được biết thêm nhiều chuyện xúc động: Cuộc hành trình mang nặng, đi bộ vượt trên 400km vào Huế, cuộc sống, lao động vất vả nơi kinh thành để giúp chồng con ăn học của bà. Nỗi đau đớn của gia đình: Khi bà sinh bé Xin, thì lâm bệnh nặng, qua đời trong lúc người thân ở xa, chỉ một mình bé Cung tuổi mới lên mười, chịu tang mẹ, xin sữa nuôi em. Cô Thanh, một mình thân gái đi bộ kiên gan đưa hài cốt mẹ về quê. Cậu cả Khiêm tìm nơi đặt hài cốt mẹ, Bạn đọc cũng được biết về vùng quê Nam Đàn địa linh nhân kiệt, về mộ bà Hoàng Thị Loan trên núi Động Tranh - một di tích lịch sử văn hoá quý giá.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan: Phần 2
- BÁ NGỌC - TRẦN MI N H SI ÊU Tầng thắp hương cho ngưòi vđ, trong lòng trào dâng một niềm tin mãnh liệt. Vững vàng bước vào khoa thi. Kết quả, kỳ thi đó, ông đậu đại;khoa - Phó bảng. Di hài côt mẹ về quê Ông Nguyễn Sinh sắp'trong kỳ thi Hội Tân Sửu 1901 đổi tên là NguyễrTSinh Huy. ô n g đậu đại khoa Phó bảng. Công lao th àn h đạt của ông, có vai trò rất quan trọng của bà Hoàng Thị Loan, người đã hy sinh nhiều n hất để ông có điều kiện ăn học, tiến tối. Nhưng khi ông thành đạt thì bà Loan không còn nữa. Như đê báo đáp công ơn vỢ, ông tập trung dạy dỗ các con trưởng thành. Đấy là một trong những lý do mà sau khi đậu đại khoa Phó bảng ông cứ lần lựa ở quê chăm lo dạy dỗ các con, chứ không muốn ra làm quan. Năm 1906, triều đình H uế có giấy triệu ông vào Kinh để nhận chức Thừa biện Bộ Lễ. Vào Kinh, ông mang theo cậu Khiêm (tên mối là Tất Đạt), cậu Cung (tên mới là T ất Thành) để nuôi dưõng học hành. Vào những ngày lễ, ngày giỗ bà Loan, ba cha con thường lên núi Tam Tầng để chăm sóc hương khói phần mộ bà Loan. Đến khoảng năm 1909, vì hoàn cảnh gia đình, mỗi người một nơi: ông sắc vào làm tri huyện Bình Khê. Cậu Đạt trở về quê. Cậu Thành, sau vụ tham gia biểu tình chống thuê (tháng 5-1908) của đồng bào Thừa Thiên - Huế, bị thực dân Pháp gây khó khăn, nên đã bí mật rời Huê đi về phương Nam, rồi xuất dương đi tìm đường cứu nưốc. Do đó trong khoảng 13 năm (từ 1909 42
- c^liiniịii Uể liêit mộ íià 7ốoàiiạ ^ h i £ o ơ n đên 1922), ngôi mộ bà Loan không có được bàn tay chăm sóc của ngưòi thân trong gia đình. Nhưng anh em, bạn bè, những người dân phô" thân quen vẫn quan tâm chăm lo hương khói. ớ quê cô, Nguyễn Thị Thanh bí m ật tham gia hoạt động yêu nước. Năm 1918, cô đã phối hỢp với tổ chức yêu nước vào doanh trại của lính khô" xanh ỏ thành phô Vinh lấy trộm súng. Không may bị phát hiện, cô Thanh bị bắt và bị tra tấn dã man. Tòa án Nam Triều kêt tội, xử phạt Nguyễn Thị Thanh 100 trượng và 9 năm tù khổ sai. Cô Thanh bị đày vào giam tại nhà lao Quảng Ngãi. Án sát tỉnh Quảng Ngãi lúc đó là Phạm Bá Phổ, có người vỢ bị bệnh ỏ vú không cho con bú được. Nhiều thầy thuốc trong vùng chạy chữa cho bà ta nhưng đều bó tay. Thấy cảnh ngộ ngưòi phụ nữ đáng thương, cô Thanh liền dùng phương thuôiíc đặc hiệu của mình chữa trị, một thòi gian ngắn bệnh bà ta khỏi hẳn, dòng sữa được trở lại bình thường. Án sát Phạm Bá Phổ hêt lời cảm đn và kính phục. Thấy cô Thanh là người con gái thông minh, xinh đẹp, có tài chữa bệnh, Án sát Phạm Bá Phổ can thiệp lên cấp trên quan thầy Pháp và triều đình, đặc biệt nhò quan hệ anh em kết nghĩa giữa ông ta với Chánh m ật thám Trung Kỳ là Xô-nhi nên cô Thanh được ban một đặc ân: được đên ỏ làm hành dịch tại nhà riêng của án sát Phạm Bá Phổ. Năm 1922, Phạm Bá Phổ được thăng chức làm Tham tri Bộ Hình, được điểu ra Kinh đô Huô. Cô Thanh cũng được theo ra Huế. ở Huê một thòi gian cô Thanh yêu cầu Phạm Bá Phổ cho cô không ở nhà riêng của y mà chịu sự quản lý của quan chức địa phương Huê theo chê độ tù án trí. Lúc này cô 43
- BÁ NGỌC - TRẦN MI NH S I Ê U Thanh có điều kiện đi lại chăm lo hương khói phần mộ mẹ. Nhận thấy nếu để phần mộ mẹ ở nơi đất khách quê ngưòi, xa người thân, không được chăm nom chu đáo, cô Thanh quyết định bàn với những người th ân thiết nhất, bí m ật lên núi Tam Tầng đưa hài cốt mẹ về quê. Hài cốt mẹ được cô Thanh dùng nước thơm rửa sạch, gói vào tấm lụa quý. Chọn một túi đẹp, vừa gọn đặt bộ hài cốt kín bên trong, trông như hành lý của khách đi đưòng. Một mình cô Thanh thân gái dặm trường men theo con đường “thiên lý” mang hài cốt mẹ về quê. Đêm nghỉ, ngày đi, cô Thanh vượt trên 400 kilômét đường từ Huê ra Hoàng Trù. Trên đưòng, bao nỗi gian truân, nhiều lúc trộm cưốp nguy hiểm đến tính mạng. Kẻ thù, súng đạn, cực hình tra tấn, sống chết tù đày, chẳng hề lay chuyển được ý chí, sự kiên gan của cô, thì cực khổ, gian nguy dọc đưòng thiên lý cũng phải lùi trưốc cô. Sự vất vả, đưồng xa, đèo cao, suôi sâu làm cô m ệt mỏi. Túi đựng hài cốt mẹ nặng trĩu trên vai cô. Nhiều lúc, cô dừng lại th àn h khẩn vái vong linh mẹ: “Mẹ mang nặng con chín tháng mưòi ngày, mà lòng mẹ nhẹ nhàng, phấn khởi chịu đựng vì con. Nay con đưa mẹ về quê, mẹ có thiêng thì phù hộ cho con chân cứng đá mềm, đường xa ngắn lại đê con nhanh được đưa mẹ an toàn về an nghỉ ở quê nhà”. Mỗi khi thấm mệt, cô Thanh lại cầu khấn mẹ. Như có phép mầu, tú i đựng hài cốt mẹ như nhẹ hơn, đưòng đi qua mỗi chặng như gần hdn, đất dưới chân như phang hơn, tròi dịu nắng, gió m át hơn. Mỗi đêm nghỉ trọ, để bảo đảm tín ngưõng không đưỢc đưa hài cốt ngưòi quá cô" vào nhà nghỉ, cô Thanh đành dấu vào một ndi kín đáo, hôm sau, bí m ật từ tin h mơ khi chưa 44
- // uể hên mộ bà 'ĩùeimq ^ íù Jloaii ai tỉnh giấc, cô lại cùng hài cõt mẹ lên đưòng. Vượt qua muôn trùng vất vả, cô Thanh đưa hài cô"t mẹ vể Kim Liên an toàn, trọn vẹn. Quả thật, thòi đó, mang một bộ hài cốt bên mình hàng tuần lễ đi bộ dọc con đưòng dài đằng đẵng, là một thử thách chả mấy ai làm được. Nhưng cô Thanh làm được, quả là một kỳ tích. Tình cảm mẹ con đã giúp cô vượt qua tấ t cả. Thương mẹ vất vả, đêm ngày lao động nuôi chồng con ăn học, m ất ở đất khách quê ngưòi lúc tuổi mối ba mươi ba, m ất trong cảnh cô đđn vắng chồng, vắng bà con ruột thịt, trong cảnh ốm đau thiếu thôn trăm đưòng... Tình thương đó tạo nên sức mạnh phi thưòng của người con gái hiếu nghĩa. Cậu Cả Khiêm trở thành “thầy địa lý” bất đắc dĩ Sau chặng đường thiên lý vất vả, cô Thanh đã mang được hài cô"t mẹ về làng Sen một cách an toàn, tốt đẹp. Hài côt bà Loan tạm thòi được đặt trong khu vưòn nhà ông Phó bảng Nguyễn Sinh sắc từ năm 1922 đến năm 1942. Khi có điều kiện, cậu cả Khiêm mối đi tìm nơi đế cải táng vĩnh viễn hài côt mẹ. Cậu Khiêm là con trai cả của ông sắc và bà Loan, lằ người con có chí khí, giàu lòng yêu nhân dân lao động. Có tinh thần tự tôn dân tộc, cậu Khiêm tham gia hoạt động yêu nưốc theo tiêng gọi của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu. Cậu Khiêm từ rấ t sốm đã tham gia phong trào yêu nước của Đội Quyên, Đội 45
- BÁ NGỌC - TRẦN MI NH SI Ê U Phấn. Năm 1913, cậu Khiêm được dân làng Sen bầu giữ chức Hương hào. Vối chức Hưđng hào đế che m ắt địch, cậu Khiêm đã bí m ật trực tiếp tham gia hoạt động của nghĩa quân ở vùng Thanh Chương và Tân Kỳ, làm nhiệm vụ cung cấp lương thực, tài chính cho nghĩa quân. Năm 1914, kẻ thù muôn mua chuộc Nguyễn Sinh Khiêm, làm tay sai cho chúng. Chúng đưa cho Nguyễn Sinh Khiêm một số tiền lốn và hứa sẽ đưa thêm nữa nếu chỉ điểm cho chúng bắt được Đội Cung và Đội Phấn. Nguyễn Sinh Khiêm giả vò vui vẻ n h ận sô' tiền ấy, nhưng lại dùng vào việc tiếp tế cho nghĩa quân, không may việc bại lộ. Ngày 1 tháng 4 năm 1914, Nguyễn Sinh Kliiêm bị bắt, sau đó bị kẻ th ù mở phiên tòa xét xử và kết tội 3 năm tù khổ sai. Nguyễn Sinh Elhiêm tổ chức vượt ngục vởi một số người nữa, nhưng không thành. Nguyễn Sinh Khiêm lại bị đưa ra xét xử thêm tội danh “gây phiến loạn” và án tăng lên 9 năm tù khổ sai. Năm sau Nguyễn Sinh Khiêm bị đày vào làm khổ sai đắp đưòng trong Nha Trang, và phải lao động khổ sai ở đây 5 năm. Đến năm 1920 kẻ thù chuyển Nguyễn Sinh Khiêm về giam lỏng ỏ H uế theo chế độ tù án trí. Tối năm 1940, Nguyễn Sinh Khiêm mối được tự do, về quê. Khi trở về sinh sống tại làng Sen, Nguyễn Sinh Khiêm mới có điều kiện đi khắp đó đây trong vùng Nam Đàn, Hưng Nguyên tìm nơi cát địa để đưa hài côt mẹ đến táng. Nguyễn Sinh Khiêm thông minh, học rộng. Rất có tài chữa bệnh, thòi kỳ chịu án tù giam lỏng, Nguyễn Sinh Khiêm đi đên nhiều nơi chữa bệnh được cho nhiều người. Bệnh nhân là người nghèo, ông không những không lấy tiền 46
- ^¿lỉttỉỊên Uể hèn mộ hít Ktoìmq 'jhì Maan mà còn giúp thêm tiền bồi bổ sức khỏe. Gặp người đói rách, thương cảm, nhiều lần ông cho luôn đồ dùng của mình. Nhò học rộng, hiểu biết nhiều, Nguyễn Sinh Khiêm đọc và nghiên cứu thêm thuyết phong thủy với muc đích tìm nơi đia linh đăt hài cốt me. N am Đ àn, m ột v ù n g “địa lin h n h ân k iệt” Theo quan niệm của các nhà hiền triết cô đại phương Đông thì nguồn gốc của con ngưòi gắn liền với trời đất (thiên, địa). Thuyết thiên, địa, nhân của Kinh Dịch xem con ngưòi là chủ thể thứ ba sau tròi và đất (thiên và địa). Cdn người khắc chê lợi, dụng thiên và địa đế phục vụ cho cuộc sông của mình. Do vậy con người luôn ước mong gặp được thiên thòi, địa lợi, nhân hòa. Nam Đàn xưa nay đã được người đời công nhận là vùng địa linh, nhân kiệt. Nam Đàn nằm ở hạ lưu Lam Giang, là vị trí trung tâm giữa khe Nước Lạnh (ranh giới bắc xứ Nghệ) và đèo Ngang (ranh giối nam xứ Nghệ), diện tích 29.552 km^ kéo dài từ 18°34’ đến 18"47’ vĩ bắc, trải rộng từ 105°24’ đên 105°37’ kinh đông. Một chi nhánh của dãy núi Trường Sơn hùng vĩ chạy theo hướng đông - tây, từ huyện Tưdng Dương, huyện Anh Sơn đến huyện Thanh Chương chia làm hai nhánh. Nhánh bên phải là dãy Thiên Nhận, nhánh bên trái là dãy Đại Vạc, Đại Huệ, như hai cánh tay khổng lồ ôm trọn lấy toàn bộ huyện Nam Đàn. 47
- BÁ NGỌC - TRẦN MI N H SI ÉƯ Giữa thung lũng Nam Đàn nổi lên nhiều ngọn đồi nhỏ như Hồ Sơn, Ngọc Đái Sơn, Ngọc TưỢng Sơn, Án Sơn, Anh Sơn, Trăn Sơn, Chùy Sơn, Bình Sơn, Thổ Sơn, N hạn Sơn, Thận Sơn, Chung Sđn, v.v... Dòng sông Lam, như một con rồng xanh (Thanh Long) khổng lồ, chảy từ đại ngàn Trường Sơn qua các huyện Kỳ Sơn, Tương Dưdng, Con Cuông, Anh Sơn, Đô Lương, Thanh Chường, đổ vào địa phận huyện Nam Đàn ở xã Khả Lãm (nay là xã Nam Thượng), bị kẹp giữa núi Kia và núi Đừng. Đến đây dòng sông chuyển dòng theo hướng tây nam - đông bắc, ôm trọn phía đông chân núi Đụn. Khi đến địa phận Sa Nam, dòng sông lại đổi chiều theo hướng tây bắc - đông nam, đổ thẳng về chân núi Lam Thành, tạo th àn h nguồn thủy mạch lớn. Núi cao sông rộng của Nam Đàn là long mạch chủ đạo của cả một vùng quê trù phú, tích tụ được khí thiêng sông núi từ ngàn đồi. Án ngữ phía tây huyện Nam Đàn là dãy Hùng Sơn (núi Gấu). Năm 722 Mai Hắc Đế đã xây dựng kho quân lương ở Hùng Sơn, nên từ đó Hùng Sơn đưỢc nhân dân gọi là núi Đụn. Núi Đụn cao 300 mét, nằm gọn trên địa bàn xã Khả Lãm (nay là xã Nam Thượng) và xã Đông Liệt (nay là xã Nam Thái). Núi Đụn có dòng Cương Giang (Rào Giang) ôm vòng phía bắc, dòng Lam Giang ôm trọn phía đông, thuyền bè ngưỢc xuôi tấp nập, chở đầy sản vật và cũng chở đầy những câu đò đưa cuốn hút lòng người; “Ai biết nước sông Lam răng là trong răng là đục Thì biết cuộc đời răng là nhục răng là vinh Thuyền em lên thác xuống ghềnh Nước non là nghĩa, là tinh ai ơi". 48
- ^Jim fịn k ể hèn IIIỘ Ixì lùoìntq GT/í/ Monn Núi Đụn từ xưa đã được vào hàng “danh sơn mây khói tụ ”. Núi Đụn có nhiều cây cối, tạo nên phong cảnh kỳ vĩ: Thụ nhập Đụn Sơn bới kiếm kích Phàm quy Lam phô'động tinh kỳ”'"' (Tạm dịch: Rú Đụn cây bày như giáo dựng Buồm xuôi Lam phô' tự cờ giăng). Cũng nằm trong quần thể núi Đụn, chếch phía bắc, cách chừng một kilômét, có một ngọn núi có hình dáng tròn trĩnh, mọc nhiều cây dẻ, nên nhân dân gọi là núi Dẻ. Có một người con gái ở làng Mai Phụ (nay là xã Thạch Bắc), huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, men theo sông cửa Sót, rồi sông Lam lên định cư ở đây, đẻ ra một người con trai, đặt tên là Mai Thúc Loan. Khi Mai Thúc Loan vừa tròn mười tuổi thì mẹ hiền của ông đã bị hổ vồ chết. Xác bà được táng trên đỉnh núi Dẻ. Theo truyền thuyết ở địa phương, ngôi mộ đã đặt đúng nơi linh địa. Sau khi mẹ mất, Mai Thúc Loan được nhân dân đùm bọc, đã trở thành một đô vật nổi tiếng cả vùng. Năm 722 Mai Thúc Loan cùng vói dân phu đi cống vải cho bọn thốhg trị nhà Đường đã nổi lên đánh đuổi bọn xâm lược ngoại bang. Dưới ngọn cờ chính nghĩa, được nhân dân cả nước rầm rộ hưởng ứng, các nước trong vùng Đông Nam Á như Chiêm Thành, Chân Lạp, Mã Lai nhiệt tình ủng hộ, nên chỉ trong một thòi gian ngắn, cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan đã giành đưỢc toàn thắng. Mai Thúc Loan được nhân Ợ) Trích thơ Hoàng Phan Thái. 49
- BÁ NGỌC - TRẦN MI NH S I Ê U dân tôn lên làm vua, đê hiệu là Mai Hắc Đế. Mai Thúc Loan là người xứ Nghệ đầu tiên được làm vua của nước Việt Nam. Mai Hắc Đế dựng quốc đô bên bò sông Lam tại Sa Nam. Được vài năm, quân xâm lược nhà Đưòng trở lại tái chiếm nước ta. Thê và lực của nghĩa quân thấp hơn của bọn xâm lược nhiều, nên Mai Hắc Đê cùng con trai là Mai Thúc Huy rú t lui vào thung lũng núi Đụn, xây dựng căn cứ địa chông giặc Nhưng không may, Mai Hắc Đế bị chết bất ngò bởi bị một con rắn độc cắn. Mai Thúc Huy kế nghiệp cha, cầm quân đánh giặc, xưng là Mai Thiếu Đế. Mai Thiếu Đế hy sinh oanh liệt trước sự tấn công hung hãn bạo tàn của tướng giặc là Dương Tư Húc và Quang Sở Khách. Trong núi Đụn có một thung lũng bằng phẳng, sau lưng và hai bên trái, phải đều có núi bao bọc, trước m ặt là sông Lam, quanh năm rì rầm sóng vỗ, phong cảnh rất hữu tình, ơ đó có một ngôi mộ cể được tu sửa trang nghiêm, nơi lưu giữ di hài của Mai Hắc Đế, tính đến nay đã được 1278 nám (726 - 2004). Trưốc đây khắp xứ Nghệ có lưu truyền câu sấm về núi Đụn: Đụn Sơn phân giới Bò Đái thất thanh Thủy đáo Lam Thành Song Ngu thủy thiển (Dịch nghĩa: Núi Đụn nứt làm đôi Khe Bò Đái m ất tiếng Nước đến chân Lam Thành Hai hòn N gư nước cạn). 50
- Il Ui' l>ỉu mõ hà 'JC/oamß Çîlii Moan Câu sấm này không biết xuất hiện từ thời nào, và do ai làm ra. Nhiều người cho rằng đó là câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585). Có th ậ t thê không, thì đến nay cũng chưa được xác định rõ ràng. Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1757 - 1828) là một danh sĩ, làm Đốc học Nghệ An trong thời gian 1805 - 1808, đi chu du khắp các vùng trong tỉnh, rồi viết nên tác phẩm Nghệ An ký. Trong tác phẩm này, khi nói về núi Đụn và khe Bò Đái, có nhắc đến câu sấm này. Như vậy khe Bò Đái “mất tiếng” cách ngày nay ít n h ất cũng trên hai trăm năm. Khe Bò Đái, còn gọi là khe ổ ồ hay suối Võ Nguyên, chảy từ vách đá dựng đứng ỏ rú Kia (Cớ Sđn) làng Chi Cơ (Kẻ Kia), có độ cao trên vài chục trượng, rộng trên vài chục thưốc ta, nưốc từ trên cao đổ xuông, bọt nước tung trắng xóa, tiếng nước chảy ồ ồ, ngoài mười dặm còn nghe thấy. Ngày nay khe Bò Đái vẫn chảy, nhưng không còn nghe tiếng nước chay vọng ra nữa. Từ khi có một đờt động đất, làm núi Đụn nứt đôi (phân giới), khe Bò Đái cũng bị nứt ra, nước thẩm thấu nhiều vào lòng đất nên dòng suối chảy không phát ra tiếng kêu nữa. Câu sấm “Đụn Sơn phân giới, Bò Đái thất thanh” có lẽ là như vậy. Còn câu “Thủy đáo Lam Thành, Song Ngư thủy thiển”, thì nay cũng đã rõ. Vào thòi Tự Đức (1848 - 1883), nước lũ sông Lam đã cuổn mất làng Triều Khẩu thuộc huyện Hưng Nguyên và nước sông Lam đã chảy đến chân Lam Thành sơn, còn Song Ngư là hòn Son và hòn Mực ỏ ngoài cửa Hội nổi liền nhau, bởi nưốc biển ở đây đã cạn dần. 51
- BÁ NGỌC - TRẦN MI N H S I Ê U Vào CUỐI th ế kỷ 19 đầu th ế kỷ 20 thiên niên kỷ thứ 2, khi các phong trào cứu nưốc như Văn Thân, Cần Vương lần lượt bị th ấ t bại, thì nhân dân lại khao khát sóm có một vị cứu tinh kế tiếp đứng ra dắt dẫn nhân dân đấu tran h giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp. Cụ Phan Bội Châu, một th ần đồng nổi tiếng hay chữ, đứng đầu “Tứ hổ Nam Đàn”, một nhà Nho yêu nước, sau khi đỗ Giải nguyên khoa Canh Tý (1900), không chịu ra làm quan mà đã đi khắp hai miền Nam Bắc, hô hào sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên chổng Pháp, cứu nưốc, sáng lập ra nào là Duy Tân, nào là Đông Du, đưa th an h niên ra nước ngoài học tập để về cứu nước. Vào lúc đó, có thể có một nhà Nho yêu nưốc nào đó đã sửa câu sấm có mấy trăm năm trước thành câu sấm mối: Đụn Sơn phân giới Bò Đái thất thanh Nam Đàn sinh thánh để ám chỉ cụ Phan Bội Châu, một bậc th án h nhân, nay đã xuất hiện. Có thể nói, trong ý thức, trong niềm tin của nhân dân xứ Nghệ hồi ấy, hình tượng Phan Bội Châu là một vị thánh. Ngày 18-6-1925), trên đưòng từ Hàng Châu về Quảng Châu (Trung Quốc) để làm lễ kỷ niệm tròn một năm ngày Phạm Hồng Thái hy sinh và chuẩn bị cải tổ Quốc dân đảng theo sự gợi ý của Nguyễn Ái Quốc, thì Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc ở ga bắc Thượng Hải. Thực dân Pháp đã cướp đi một thòi cơ tốt n h ất trong đòi hoạt động cách mạng của nhà chí sĩ họ 52
- (¿¡HttỊê11 k ể hên mộ hà 'Jfioàiiq 07« Mean Phan: chúng đưa cụ về giam lỏng tại ngôi nhà tranh ở dốc Bến Ngự, kinh đô Huế. Năm 1929, giữa sự rình mò, bao vây của thực dân Pháp, thấy cần phải tổng kết cuộc đời hoạt động của mình, để làm bài học cho thế hệ mai sau, Phan Bội Châu làm cuốn Phan Bội Châu niên biểu. Trong đó, nhiều lần cụ trân trọng nhắc đến tên ông Nguyễn Ái Quốc. Tại ngôi nhà tran h ở dốc Bến Ngự, Huế, có một ngưòi đã hỏi cụ Phan Bội Châu: “Thánh Nam Đàn là ai?”, thì cụ nói ngay; “Thánh Nam Đàn là ông Nguyễn Ái Quốc”. Cụ Phan khuyên thanh niên có tâm huyết với vận mệnh đất nước lúc ấy không nên theo cụ nữa, theo ông Nguyễn Ái Quôc để hoạt động cứu nưốc. Năm 1934, ông T rần Lê Hựu (ngưòi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi bằng dượng), ghé thăm cụ Phan Bội Châu trong một chiếc thuyền trên sông Hương. Qua câu chuyện về đất nước, ông Trần Lê Hựu than thở: “Thưa cụ, chúng tôi không hiểu rồi nước ta có được độc lập hay không. Thấy từ trưốc đến nay, hễ lớp anh hùng chí sĩ nào nổi lên là bị bắt, bị tù đày, bị giết, cho đến cụ là niềm hy vọng trong mấy chục năm nay, rồi cũng bị bắt và giam lỏng ở đây, như th ế thì còn mong gì nữa?”. Cụ Phan Bội Châu khoát tay giải thích: “Ông không nên nghĩ như vậy. Đòi hoạt động cách mạng của tôi rốt cuộc là một th ất bại lớn. Đó là bởi vì tôi có lòng mà bất thực tài. Nhưng dân tộc ta th ế nào rồi cũng đưỢc độc lập, n h ất định phải thế. Hiện nay đã có lớp ngưòi khác lốn hơn lốp chúng tôi nhiều, đứng ra đảm đương công việc để làm tròn cái việc mà chúng tôi không làm xong, ông có nghe tiếng ông Nguyễn Ái Quốc không?”. Lúc ấy, ông Trần Lê Hựu với giọng 53
- BÁ NGỌC - TRẦN MI NH S I E U buồn rầu, thương tiếc, nói: “Các báo đăng tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt và chết ở Hương c ả n g cách đây mấy năm rồi”. Cụ Phan phủ nhận cái tin đó; “Không, tôi chắc ông Nguyễn Ái Quổic vẫn còn, mà ông ấy còn thì nước ta sẽ được độc lập. Họ bắt tôi thì dễ, chứ họ làm sao bắt được ông Nguyễn Ái Quốic, mà có bắt được thì họ cũng phải thả ra thôi. Vì ông ấy giỏi chứ có như chúng tôi đâu, ông ấy lại có nhiều vây cánh và bạn bè khắp th ế giới”. Thực tế đã chứng minh hùng hồn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, là dành nhân vãn hóa kiệt xuất của thê giới. Che chắn cho phía tây - nam huyện Nam Đàn có dãy núi Thiên Nhận trùng trùng điệp điệp như đàn ngựa ruổi quanh, là ranh giối giữa huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Núi Thiên Nhận có 99 ngọn, đứng án ngữ cả một phương tròi, đỉnh cao n hất 278 mét. ở đây có nhiều cảnh đẹp nên thơ như rú Trông, rú Chiêng, vụng Cọp Quẹp, vụng Máu, bãi Cây Đỏ, khe Hoa, SUỐI Mài, vực Nàng, v.v..., có dòng suối từ trên cao chảy xuốhg, dòng nước trắn g xóa, đứng xa trông giốhg như tấm vải trắng, nên gọi là khe Bộc Bô". Tại ngọn Hoàng Tâm trong dãy Thiên N hận có thành Lục Niên của nghĩa quân Lê Lợi xây dựng năm 1424 để đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh. Đến giữa thế kỷ 18 có trại Bùi Phong, nơi La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp ẩn dật trong 20 năm và Sùng Chính thư viện, th àn h lập năm 1791 dưối thòi vua Quang Trung, do La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đứng đầu. 54
- n Ui' bên t n ó bà Kioiinq 'jhi Jleati Cũng thuộc dãy núi Thiên Nhận, có Quải Bái Sơn (múi treo cò) ỏ xã Lương Trường (nay là xã Nam Lộc), có miếu Thông Chinh thò Tiến sĩ Nghĩa Quận công Tốhg Tat Thắng, người có công đánh giặc Sầm, giặc Bồn Man ỏ phía tây đến xâm phạm nưốc ta hồi thế kỷ 16. Vịnh cảnh đẹp của núi Thiên Nhận, La Sơn phu tử đã viết: Quỳ, Trà long thế cực nam minh Thiên Nhận sơn thanh thủy cộng thanh (Nghĩa là: Mảnh đất Phủ Quỳ, Phủ Trà đi mãi đến biển xanh. Núi Thiên Nhận xanh, nước cũng xanh) . Án ngữ phía Bắc huyện Nam Đàn có dãy núi Đại Huệ. Núi Đại Huệ là ranh giới giữa huyện Nam Đàn với huyện Đô Lương và huyện Nghi Lộc. Núi cao 454 mét. Núi này xưa kia có tên là Đại Tuệ, nhân dân địa phương tlnường gọi là rú Nậy. Sau khi đại thắng quân xâm lược nhà Thanh giữa Tết Kỷ Dậu (1789) trở về, vua Quang Tr’ung đã đổi tên núi Đại Tuệ thành núi Đại Huệ. Có một giai thoại ở vùng này kể rằng: Khi vua Quang Trung đang đứng trên đỉnh núi Đại Tuiệ nhìn đoàn quân chiến thắng trở về, bỗng có một cụ già ngưòi địa phướng đến thưa rằng: - Tôi biết đại vương vốn gốc nhà Hồ. Nhà Hồ trước ầãi về đây xây dựng thành luỹ để chống giặc Minh, thiành luỹ xây rồi lại đổ. Sau phải xây ngôi chùa thồ Phật Bà, công việc mới trôi chảy. Đại vương qua dây, lần nào cũng chiến thắng, chắc là có Phật Bà phù hộ. Vậy nên theo gương trước, ắt thắng tích còn nhiều. Quang Trung hỏi: - Thê Phật Bà ở đây tên gì? 55
- BÁ NGỌC - TRẦN M I N H S I Ê U - Dạ, P hật Bà tên là Đại Tuệ (trí sáng suốt lớn). Quang Trung nghiêm nghị, nói sang sảng: - Nước là nước của dân, thần P hật nào giúp ta làm nên chiến tích ta sẽ nhớ ơn. Từ nay hãy đổi tên núi Đại Tuệ th àn h núi Đại Huệ. Nghe vua Quang Trung nói vậy, ba quân reo hò vang dội, tỏ ý hoan hỉ, tá n thành. Trong tập Tây ngữ tuỳ hành có một đoạn đại ý như sau: Đã vào thăm đất Hoài Hoan thì đừng bỏ quên hai danh thắng, đó là Hông Sơn và Đại Tuệ Sơn. Hông Sơn tức là dãy núi Hồng Lĩnh có 99 ngọn thuộc địa phận huyện Nghi Xuân, tỉn h H à Tĩnh. Còn Đại Tuệ Sơn (Đại Huệ Sơn) nằm ở phía bắc huyện Nam Đàn, thuộc địa phận xã T hanh Tuyền (Nam Thanh) và Nộn Liễu (Nam Xuân và Nam Anh). Đại Huệ là một dãy núi kéo dài từ huyện Đô Lương đến huyện Hưng Nguyên. Phía tây Đại Huệ có các ngọn Hải Thủy, Hồ Cương, phía bắc có ngọn Đại Quốc (Đại Vạc), phía đông có các ngọn Đại Bàn, Đại Tứ, Đại Hải, phía nam có núi Động Tranh - có hai cấp là Động Tranh thấp và Động T ranh cao. Đứng dưối nhìn lên, núi Đại Huệ thê cao thấp trập trùng, cây cỏ xanh tưđi, trông đẹp như tra n h vẽ. Sườn núi phía nam và phía đông - nam là những vạt chè lốn, hoa quả nhiều, mùa nào thức ấy. Qua vải là đặc sản ở đây ngon nổi tiếng khắp nơi. Viên quan nhà Đường đô hộ Hoan Châu biết rõ vua quan nhà Đưòng, đặc biệt ái khanh của vua là Dương Quý Phi, rấ t ưa thích vải này. Chuyện truyền rằng, mỗi khi mùa vải chín, ngắm trời phương nam, khi ngựa đưa vải tiến 56
- ^ J ịtiiiỊn ỈU ' hên fn ộ bà 7ôoàng. Q/i/ tẼoan dâng vua về đến Tràng An, Dương Quý Phi nhoẻn miệng cười. Đỗ Mục, nhà thơ nổi tiếng thời Vãn Đường, đã viết; N hất ky hồng trần Phi tử tiếu Vô nhân tri thị lệ chi lai (Bụi hồng ngựa ruổi Phi cười nụ Vải tiến mang về ai biết đ ă u ìp Từ đó, người ta đặt cho vải này cái tên là Phi tử tiếu (nàng Phi cưòi). ở vùng Nam Đàn còn truyền lại một bài hát Chầu vàn vạch rõ tội ác tày tròi của bọn thông trị nhà Đường và tô" cáo lên nỗi thông khổ của nhân dân nơi đây trước ách đô hộ tàn bạo, nhất là việc phải cốhg vải sang tận kinh đô Tràng An, Trung Quốíc; ... Nhớ khi nội thuộc Đuờng triều Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai Sâu quả vải ui ai vạch lá Ngựa hồng trần k ể đã héo hon. Biết bao người phu Nam Đàn đã phải bỏ mạng trên đường cấp tốc cống đặc sản quý báu này. Ngọn lửa hờn càm bọn thông trị nhà Đường đang âm ỉ trong nhân dân. Mai Thúc Loan, là một trong những dân phu cổhg vải, hiểu rõ khát vọng giải phóng dân tộc của nhân dân, nên đã thổi bùng ngọn lửa hờn căm th àn h một cuộc khởi nghĩa lớn năm Nhâm T uất (722). Với tài năng lỗi lạc và ý chỉ kiên cường, Mai Thúc Loan đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi được bọn xâm lược, đưa lại thái bình cho Tổ quốc, hạnh phúc cho mọi nhà. Ợ) Tương Như dịch. 57
- BÁ NGỌC - TRẦN M I N H SI E U Tại đền thò Mai Thúc Loan ở làng Nghi Lễ (nay là thị trấn Nam Đàn), trong 'Yiên chân báo ứng tản kinh'’, có ghi bài thơ ca ngợi công đức tròi biển của ông: Hùng cứ Hoan châu địa nhất phương, Vạn An thành luỹ, Vạn An hương. Tứ phương hưởng ứng hô M ai Đế, Bách chiến uy danh nhiếp L ý Đuờng. Lam thủy giang thanh, thanh lãng ngọc, Hùng sơn phong tĩnh, tĩnh yên lang. Lệ chi tuyệt công Đường nhi hậu, Dân đáo vu kim thụ tứ trường. (Dịch; Hùng cứ Hoan châu đất một vừng, Vạn An thành luỹ khói hương xông. Bốn phương Mai Đ ế lừng uy đức, Trăm trận Lý Đường phục võ công. Lam thủy trăng in tăm ngạc lặn, Hùng sơn gió lặng khói lang không. Đường đi công vải từ đây dứt, Dân nước đời đời hưởng phúc chung). ở phía nam núi Đại Huệ có Nộn hồ rộng bao la, là một trong những hồ lớn của Việt Nam. Những chiểu hè oi ả, khi có những trậ n gió nồm từ biển thổi lên, cộng vối hơi nưốc của hồ thì con người sống ở đây trà n đầy cảm giác thư thái dễ chịu. Bóng Đại Huệ in xuống Nộn hồ rung rinh theo sóng nhẹ. Ngày xưa dòng Lam Giang chảy qua đây. Nộn hồ là vết tích của một cuộc biển dâu. Tác giả Đại Nam nhất thông chí khi nói về núi Đại Huệ đã viết: “'Nộn hồ và sông Lam hao quanh, thuyền ghe xuôi ngưỢc 58
- 'II Uẽ hèn m ộ hà Kifíáittf ^ h i Jloan trong khoảng nắng sớm, mù chiều, thật là một danh thắng trong tỉnh Nghệ A n”. Trên đỉnh Đại Huệ có động Thăng Thiên, trong động có chùa Đại Tuệ, tục truyền do Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thưdng dựng lên để thò Phật Bà Đại Tuệ, người đã phù hộ hai cha con nhà Hồ xây dựng thành Đại Huệ làm căn cứ chống giặc ngoại xâm. Ngoài chùa Đại Tuệ còn có chùa Hương Lâm, giếng Thạch Tĩnh, có khe Trúc, khe Mai bên cạnh, cảnh đẹp như chốh đào nguyên. Mé dưới có suôi Ngọc Tuyền nước trong veo, thơm mát. Trong dãy núi Đại Huệ có truông Băng và truông Hến. Từ xã Thanh Tuyền muôn qua Trù ú , Đại Sơn của huyện Đô Lương, phải vượt qua Đại Huệ ở truông Băng, từ xã Nộn Liễu (Nam Anh, Nam Xuân) muốh qua vùng Xã Đoài, Hưng Yên của huyện Hưng Nguyên, phải vượt qua Đại Huệ ở truông Hến. Cuối năm 1788, Nguyễn Huệ - Quang Trung đã dẫn đại quân vượt qua truông Băng, truông Hến ra Thăng Long đại phá 29 vạn quân xâm lược nhà Thanh giữa Tết năm Kỷ Dậu (1789). Khi đại thắng trở về Nguyễn Huệ - Quang Trung lại đập ta n sô' quân mai phục Lê Hân - một cựu thần nhà Lê - ở truông Băng và truông Hến hiểm trở này. Cảnh đẹp nên thơ của núi Đại Huệ được Phó bảng Nguyễn Thúc Dinh vẽ lại trong bài thơ sau: Huy hoàng cảnh vật đất Hồng Lam, Đại Huệ danh cương vẻ khác phàm. Cao ngất đồi non m ây trắng phủ, Rầm rì cây côi lá xanh chàm. 59
- BÁ NGỌC - TRẦN M I N H SI ÊU Gió tùng huyên náo lòng tơ tưởng, Trái lá xôn xao bạn tiếu đàm. Sáu bảy dặm hòa liên tiếp mãi, Chuyên tâm cổ ngạn ý chưa cam. Đứng ỏ phía đông làm ranh giới giữa huyện Nam Đàn và huyện Hưng Nguyên là dãy núi Độc Lôi. Núi có tên là Độc Lôi vì dưới chân núi có đền Độc Lôi. Tương truyền rằng, đòi Lý, có tướng quân họ Phạm đi đánh giặc ở phía tây về, đóng quân ở đây. Một đêm, trời đang quang đãng, bỗng trên không trung nổ một tiếng sấm dữ dội, tiếp theo là một cơn lốc lớn, mấy ngàn quân cùng vị tướng họ Phạm bay lên trời đi mất. Vua nhà Lý được tin liền hạ lệnh cho dân ở đây lập đền thờ và lấy tên đền là Độc Lôi. Dãy núi Độc Lôi có ba đỉnh, đỉnh cao nhất gọi là Thai Phong. Dưới chân Thai Phong có một thung lũng gọi là Trảng Vương. Theo huyền thoại được lưu truyền ở địa phướng, ỏ Trảng Vương có một huyệt cát địa phát hoàng đế vối cảo địa lý: “D ĩ Lam sơn vi kỳ, d ĩ Chung sơn vi cổ, d ĩ Thai sơn vi kiếm, d ĩ Hồng Lĩnh vi vạn mã thiên binh, ph át tại N am phương’ (Nghĩa là: Lấy núi Lam Thành làm cò, lấy núi Chung làm trống, lấy núi Thai làm kiếm, lấy Hồng Lệnh làm binh hùng, tướng mạnh, phát tại Nam phương). Nơi đó đã để mộ tổ của Nguyễn Huệ - Quang Trung, người anh hùng áo vải, lãnh tụ tốì cao của phong trào Tây Sơn. Tổ tiên bốh đòi của Nguyễn Huệ là Hồ Phi Long, vốh ở làng Mạc Điền, sau đổi th àn h Thái Lão, nay thuộc xã Hưng Thái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ 60
- ^ Jin i/çn Uế hèn fnộ hà ICmỉinạ Ç îlù Mean An. Trong những năm 1655 - 1663, Hồ Phi Long bị chúa Nguyễn bắt đưa vào Bằng Châu, tỉnh Bình Định. Hồ Phi Long lấy một người con gái họ Đinh. Ông bà sinh được một trai là Hồ Phi Tiễn. Khôn lớn, Hồ Phi Tiễn lên Phú Lạc buôn trầu, rồi lấy bà Nguyễn Thị Đồng, con một nhà giàu ở Phú Lạc. Hồ Phi Tiễn và Nguyễn Thị Đồng cũng chỉ sinh được một tra i là Hồ Phi Phúc. Bà Nguyễn Thị Đồng là ngưòi con độc n h ất của gia đình, nên, để đủ tư cách hợp pháp k ế thừa món tài sản lớn của cha mẹ để lại, bà đã bàn với chồng đổi họ cho con trai mình, từ họ Hồ sang họ Nguyễn. Hồ Phi Phúc lấy họ theo mẹ là Nguyễn Phi Phúc'*'. Nguyễn Phi Phúc kết duyên với Mai Thị Hạnh, tiếp tục làm nghề buôn trầu, làm nhà ở làng Kiên Mỹ (tức là khu vực Bảo tàng Quang Trung ngày nay), sinh được ba trai là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. về phía nam, cách Nam Đàn khoảng 5 kilômét, có núi Lam Thành với ba ngọn Triều Khẩu, PhưỢng Hoàng và Nghĩa Liệt đứng kề ngã ba Tam Chế của sông Lam và sông La. Tại núi Nghĩa Liệt có khe Hương Tuyền (nước thơm), nước trong mát và thđm. Tương truyền, ngày xưa nhân dân địa phương hàng năm phải lấy nước ở đây cho vào bình đê tiến lên vua. Núi Phượng Hoàng liền với núi Nhuyễn (rú Nhóm) hay còn gọi là Châu Phong. Giữa hai núi ấy có chỗ eo lại làm đường đi qua núi. Tương truyền, theo thuyết phong thủy, ỏ đây có huyệt đế vương, nên ngày xưa Cao Biền đã dùng phép thuật chặt đứt để yểm long mạch và triệt linh khí, bởi th ế núi mới có chỗ eo như vậy. Ợ) Theo tài liệu của Quách Tấn. 61
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn