intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cơ chế tạo nghĩa khái quát trong tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp (trên ngữ liệu nhóm tục ngữ chứa từ ngữ trỏ bộ phận cơ thể người)

Chia sẻ: Thôi Kệ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

79
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Qua việc chỉ ra những phương tiện ngôn ngữ biểu hiện ý nghĩa khái quát và phân tích sự vận động của những phương tiện này trong diễn ngôn tục ngữ, bài viết làm sáng tỏ những điểm tương đồng và khác biệt trong quá trình tạo nghĩa khái quát của tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp đồng thời lý giải nguyên nhân dẫn đến những sự tương đồng và khác biệt này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cơ chế tạo nghĩa khái quát trong tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp (trên ngữ liệu nhóm tục ngữ chứa từ ngữ trỏ bộ phận cơ thể người)

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Cơ chế tạo nghĩa khái quát trong tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp<br /> (trên ngữ liệu nhóm tục ngữ chứa từ ngữ<br /> trỏ bộ phận cơ thể người)<br /> <br /> Nguyễn Thị Hương‫٭‬<br /> Phòng Khoa học – Công nghệ, Trường Đại học Ngoại ngữ,<br /> Đại học Quốc gia Hà Nội, Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam<br /> <br /> Nhận bài : 22 tháng 12 năm 2011, Nhận đăng : 11 tháng 6 năm 2012<br /> <br /> <br /> Tóm tắt. Dựa vào lý thuyết hiện thực hóa của Guillaume và của trường phái praxématique, bài<br /> viết đặt vấn đề tìm hiểu cơ chế tạo nghĩa khái quát của tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp trên ngữ liệu<br /> nghiên cứu được giới hạn trong nhóm tục ngữ chứa từ ngữ trỏ bộ phận cơ thể người. Qua việc chỉ<br /> ra những phương tiện ngôn ngữ biểu hiện ý nghĩa khái quát và phân tích sự vận động của những<br /> phương tiện này trong diễn ngôn tục ngữ, bài viết làm sáng tỏ những điểm tương đồng và khác biệt<br /> trong quá trình tạo nghĩa khái quát của tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp đồng thời lý giải nguyên nhân<br /> dẫn đến những sự tương đồng và khác biệt này.<br /> Từ khóa : tục ngữ, ý nghĩa khái quát, hiện thực hóa, kiểu loại diễn ngôn, sở chỉ, chỉ định từ, thì, thể.<br /> tục ngữ các dân tộc thì sự thể hiện nó bằng các<br /> 1. Đặt vấn đề∗ phương tiện ngôn ngữ lại không giống nhau<br /> trong mỗi ngôn ngữ, tùy theo các đặc trưng loại<br /> Ý nghĩa khái quát (tiếng Pháp : généricité, hình và các đặc thù văn hóa-xã hội. Trong bài<br /> tiếng Anh : genericity) là một phạm trù ngữ viết này, chúng tôi vận dụng khái niệm hiện<br /> nghĩa phổ quát được biểu hiện đậm nét trong thực hóa – một khái niệm chủ chốt trong lý<br /> tục ngữ các dân tộc, đến nỗi nhắc đến tục ngữ là thuyết ngôn ngữ học của Gustave Guillaume<br /> người ta nghĩ ngay đến những diễn ngôn tổng (1883-1960) và của trường phái praxématique<br /> loại1 (diễn ngôn khái quát, diễn ngôn toàn do Robert Lafont sáng lập vào năm 1976 vào<br /> chủng) diễn đạt những chân lý, những nhận phạm vi tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp (ngữ liệu<br /> định mang tính thường tồn được chứng nghiệm nghiên cứu được giới hạn trong nhóm tục ngữ<br /> và đảm bảo bởi cái gọi là trí tuệ dân tộc. Tuy có chứa từ ngữ trỏ bộ phận cơ thể người2) để<br /> nhiên, nếu như tính khái quát là điểm chung của tìm hiểu những con đường mà tục ngữ Việt và<br /> tục ngữ Pháp lựa chọn, với những phương tiện<br /> _______<br /> ∗<br /> ĐT: +84-942 992 609 ngôn ngữ riêng và cách thức thực hiện rất khác<br /> Email: nguyenhuong2k@yahoo.com nhau, trong việc xây dựng ý nghĩa khái quát<br /> 1<br /> Việc biểu hiện ý nghĩa khái quát không phải là một<br /> đặc quyền của tục ngữ. Một số kiểu loại diễn ngôn<br /> khác, chẳng hạn như diễn ngôn luật, tuyên ngôn…cũng _______<br /> 2<br /> thường tuyển lựa diễn ngôn tổng loại phục vụ cho mục Từ đây trở đi, bộ phận cơ thể người được viết tắt là<br /> đích biểu đạt của mình. BPCTN<br /> 112<br /> N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129 113<br /> <br /> <br /> thông qua biểu hiện ngôn ngữ học của nó là thành phần là ngôn ngữ và lời nói và quan hệ<br /> những diễn ngôn tổng loại. giữa ngôn ngữ và lời nói là một sự đối lập giữa<br /> hai hệ thống mang tính tự trị. Theo Guillaume,<br /> Saussure đã không tính đến yếu tố chuyển tiếp<br /> 2. Những tiền đề lý thuyết (successivité) giữa ngôn ngữ và lời nói – yếu tố<br /> đảm bảo cho sự chuyển hệ ngôn ngữ sang lời<br /> Trong quá trình tìm hiểu các tài liệu liên nói, yếu tố khiến cho mối quan hệ giữa ngôn<br /> quan đến vấn đề nghiên cứu, chúng tôi thấy đã ngữ và lời nói không còn là mối quan hệ lưỡng<br /> có nhiều công trình bàn đến ý nghĩa khái quát phân cực đoan nữa. Cặp phạm trù ngôn ngữ và<br /> và những biểu hiện ngôn ngữ học của nó (Dahl lời nói (langue – parole) được Guillaume chỉnh<br /> 1975 ; Carlson 1977, 1980 ; Croft 1986 ; Gross lại thành ngôn ngữ và diễn ngôn (langue –<br /> 1985 ; Lago 1990 ; Kleiber 1985, 1989, 1990). discours) và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và diễn<br /> Tuy nhiên, trong các công trình của mình, các ngôn được hình dung giống như một sự xếp lớp<br /> tác giả chỉ viện dẫn tục ngữ như những bằng của hành động ngôn từ trên hai tầng mức : tầng<br /> chứng hiển nhiên, rõ ràng nhất của sự thể hiện mức trong đó hành động ngôn từ tồn tại ở trạng<br /> tính khái quát chứ không lấy tục ngữ làm đối thái tiềm năng, không thể quan sát một cách<br /> tượng nghiên cứu chính. Riêng trong giới Việt trực tiếp được (langue) và tầng mức trong đó<br /> ngữ học, theo hiểu biết của chúng tôi, chưa mấy hành động ngôn từ được cấp cho một sự tồn tại<br /> ai để tâm nghiên cứu vấn đề này. Bài viết này hữu thực, có thể quan sát một cách trực tiếp<br /> của chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu cơ chế tạo (discours). Như thế, ngôn ngữ và diễn ngôn là<br /> nghĩa khái quát của tục ngữ Việt và tục ngữ hai mặt của cùng một quá trình là hành động<br /> Pháp dựa vào một cách tiếp cận hoàn toàn mới3, ngôn từ. Trong quan niệm của Guillaume, hành<br /> đó là thông qua quá trình hiện thực hóa của diễn động ngôn từ cũng chính là hiện thực hóa với tư<br /> ngôn tục ngữ để rút ra cơ chế tạo nghĩa khái cách là một hành động ngôn ngữ cụ thể nhằm<br /> quát của tục ngữ. Vậy khái niệm hiện thực hóa biến những tiềm năng của ngôn ngữ thành<br /> (actualisation) được lập thức như thế nào trong những hiệu quả thực tế trong diễn ngôn. Yếu tố<br /> lý thuyết của Guillaume và của những người kế chuyển tiếp nói ở trên chính là khoảng thời gian<br /> tục ông thuộc trường phái praxématique ? cần thiết để quá trình hiện thực hóa diễn ra.<br /> Hiện thực hóa là thao tác của tư duy nhằm Năm 1929, trong cuốn «Thì và động từ. Lý<br /> biến những tiềm năng (potentialité) tồn tại trong thuyết về thể, thức và thì» [1], Guillaume đã<br /> ngôn ngữ thành hiện thực (actualité) trong diễn cấp cho cái yếu tố chuyển tiếp này một cái tên<br /> ngôn. Như vậy, hiện thực hóa bao hàm một sự chính thức là temps opératif, tạm dịch là thời<br /> phân biệt động giữa ngôn ngữ và diễn ngôn. gian thao tác. Những nhà ngôn ngữ học kế tục<br /> Guillaume không tán thành Saussure khi ông tổ Guillaume thuộc trường phái praxématique<br /> của chủ nghĩa cấu trúc biểu diễn mối quan hệ nhấn mạnh đến tính vật lý cụ thể của yếu tố thời<br /> giữa ba khái niệm hành động ngôn từ, ngôn ngữ gian thao tác này. Đó chính là thời gian tinh<br /> và lời nói bằng phương trình : hành động ngôn thần được điều chỉnh bởi luồng thần kinh trong<br /> từ = ngôn ngữ + lời nói. Theo công thức này, vỏ não của chủ thể nói năng. Quan điểm duy<br /> hành động ngôn từ là một tổng thể hợp bởi hai vật về thời gian thao tác đã khiến các nhà ngôn<br /> ngữ thuộc trường phái praxématique xem hiện<br /> _______ thực hóa là một hành động tiếp cận hiện thực<br /> 3<br /> Mới theo nghĩa là trước nay chưa có ai làm.<br /> 114 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129<br /> <br /> <br /> <br /> của ý thức, nói cách khác, hiện thực hóa là một được đánh dấu trong một thời điểm cụ thể (ở<br /> quá trình vận hành trong đó ý thức của chủ thể đây là thời quá khứ) và vì vậy « ngủ » không<br /> nói năng, với sự trợ giúp của các phương tiện còn là một ý niệm siêu nghiệm nữa mà đã thuộc<br /> ngôn ngữ, xây dựng lên một hình ảnh của thực về phạm vi hiện thực, nó đã được hiện thực hóa<br /> tại (représentation), một sự tình của thế giới hoàn toàn. Chúng tôi lấy thêm ví dụ về các<br /> hiện thực và quá trình vận hành này của tư duy dạng hiện thực hóa của DT. Trong phát ngôn<br /> luôn được đặt dưới sự kiểm soát của hiện thực Tôi nói chuyện về cây (cối) (Je parle d’arbre),<br /> khách quan. Như vậy, hình ảnh – không gian mức độ hiện thực hóa của cây là zéro, «cây »<br /> (image – espace) chính là kết quả của quá trình chỉ là một ý niệm đồng đẳng với các ý niệm<br /> hiện thực hóa danh từ (DT), hình ảnh – thời khác như « chó », « nhà », « trẻ em ». Trái lại,<br /> gian (image – temps) chính là kết quả của quá cây trong phát ngôn Tôi nói về cái cây này (Je<br /> trình hiện thực hóa động từ (ĐT). Theo parle de cet arbre) có mức độ hiện thực hóa cao<br /> Guillaume và các nhà ngôn ngữ học trường nhất. Trong phát ngôn Tôi nói chuyện về cây,<br /> phái praxématique, có một sự diễn tiến trong tư DT cây được hiện thực hóa với quán từ zéro<br /> duy của chủ thể nói năng khi thiết lập hình ảnh biểu đạt một hình ảnh thực tại ảo, tiềm tàng về<br /> không gian và hình ảnh thời gian. Sự diễn tiến cây, đó là một thực tại thuần tâm lý, có giá trị<br /> này được đánh dấu bởi ba giai đoạn : khởi đầu, tương đương như một mục từ trong từ điển.<br /> trung gian và kết thúc, theo đó hình ảnh thực tại Còn trong câu Tôi nói về cái cây này, danh từ<br /> của đối tượng được nhận thức càng lúc càng cây được hiện thực hóa với quán từ cái và từ<br /> được xây dựng hoàn thiện [1], [2]. Sau đây trực chỉ này biểu đạt một hình ảnh thực tại đầy<br /> chúng tôi đưa ra một số ví dụ để làm sáng rõ đủ về cây, đó là cái cây có sở chỉ tồn tại ngay<br /> luận điểm vừa nêu. trong tầm nhìn của cả người nói và người nghe.<br /> Xét các dạng hiện thực hóa của ĐT dormir Như vậy, nếu như quá trình hiện thực hóa của<br /> (ngủ). Trong phát ngôn Dormir est une perte de ĐT được thực hiện chủ yếu bằng các hình thái<br /> temps (Ngủ là một sự lãng phí thời gian), ĐT của ĐT thì quá trình hiện thực hóa của DT lại<br /> dormir được sử dụng ở dạng nguyên thể, biểu cầu viện đến các chỉ định từ (déterminants).<br /> hiện khái niệm « ngủ » trong sự đối lập với các Các hình thái của ĐT và các chỉ định từ được<br /> khái niệm khác như « aller» (đi), « nager » gọi là các tác tử hiện thực hóa (actualisateur,<br /> (bơi), « aimer » (yêu). Còn phát ngôn Je opérateur d’actualisation), tức là các phương<br /> souhaite que mon fils dorme bien (Tôi mong tiện ngôn ngữ phục vụ cho việc biến các dạng<br /> con trai tôi ngủ ngon) diễn đạt mong muốn của tiềm năng trong ngôn ngữ thành những hiệu quả<br /> tôi – người mẹ về chất lượng giấc ngủ của con thực tế trong diễn ngôn thông qua quá trình<br /> trai. Mong muốn đó hoàn toàn độc lập với tình hiện thực hóa ĐT và DT.<br /> trạng thực tế của giấc ngủ cậu con trai, con trai Khi tìm hiểu lý thuyết hiện thực hóa của<br /> hoàn toàn có thể ngủ ngon hay ngủ không ngon. Guillaume và của các nhà ngôn ngữ học thuộc<br /> Sự tình ngủ ngon tồn tại ở dạng tiềm năng, nằm trường phái praxématique, chúng tôi thấy có thể<br /> trong phạm vi của cái có thể. Trong phát ngôn thiết lập một mối dây liên hệ giữa lý thuyết này<br /> La nuit dernière, mon fils a bien dormi (Đêm với lý thuyết về chức năng quy chiếu<br /> qua, con trai tôi ngủ ngon), ý niệm « ngủ » đã (référence), hành động quy chiếu<br /> được lĩnh hội một cách cụ thể, bởi nó hướng (référenciation) và về sở chỉ (référent) của kí<br /> đến một người cụ thể (ở đây là con trai tôi) và<br /> N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129 115<br /> <br /> <br /> hiệu ngôn ngữ. Dù Guillaume4 và các nhà ngôn thực hóa, hành động quy chiếu là một hành<br /> ngữ học praxématique không đề cập một cách động dàn cảnh của ngôn ngữ để làm nổi rõ mối<br /> hiển ngôn đến những khái niệm liên quan đến quan hệ giữa ngôn ngữ và hiện thực. Chức năng<br /> quy chiếu ngôn ngữ nhưng có thể thấy khái của hành động quy chiếu là khai thác chiều kích<br /> niệm hình ảnh của thực tại rất gần gũi với khái tiềm năng của kí hiệu ngôn ngữ, thông qua một<br /> niệm sở chỉ, và nội hàm của các khái niệm chức hành động ngôn ngữ nhất định để biến những<br /> năng quy chiếu, hành động quy chiếu cũng tiềm năng đó thành những công cụ phục vụ cho<br /> chứa nhiều điểm tương thích với khái niệm hiện việc biểu đạt sở thị (dénotation) của kí hiệu<br /> thực hóa. Thật vậy, sở chỉ là người hay sự vật ngôn ngữ. Như vậy, có thể nói, hiện thực hóa<br /> ngoài ngôn ngữ được kí hiệu ngôn ngữ biểu thị với tư cách là một thao tác tư duy, một hành<br /> thông qua quá trình hành chức. Cần lưu ý rằng động tư duy là điều kiện tồn tại của hành động<br /> sở chỉ không trùng khít với hiện thực khách quy chiếu của ngôn ngữ. Nhờ có hiện thực hóa<br /> quan, không phải là dữ liệu trực tiếp của thực tế mà một kí hiệu ngôn ngữ như từ chẳng hạn<br /> khách quan mà được chia cắt dựa trên kinh được đặt vào trong một ngữ cảnh nhất định và<br /> nghiệm của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định. nhờ đó mà nó có được sở chỉ của nó.<br /> Như vậy, cả « hình ảnh của thực tại » và « sở Như chúng tôi đã nói ở trên, tính khái quát<br /> chỉ » đều là kết quả của hành động nhận thức, là một đặc trưng ngữ nghĩa làm nên diện mạo<br /> hành động cấu trúc hóa thế giới của chủ thể của kiểu loại diễn ngôn tục ngữ. Vận dụng khái<br /> thông qua hành động ngôn ngữ. Chúng đều niệm hiện thực hóa vào việc nghiên cứu ý nghĩa<br /> phản ánh thế giới hiện thực thông qua lăng kính khái quát của diễn ngôn tục ngữ, chúng tôi<br /> nhận thức và thông qua kinh nghiệm ngôn ngữ muốn tìm hiểu cách thức vận hành của tính khái<br /> và văn hóa của một cộng đồng người nhất định, quát – một phạm trù ngữ nghĩa thuộc phạm vi<br /> do vậy cần phải hiểu là hình ảnh thực tại/sở chỉ ngôn ngữ - vào trong một kiểu loại diễn ngôn<br /> không đồng nhất với đối tượng tồn tại hiển cụ thể là tục ngữ thông qua sự hành chức của<br /> nhiên trong thực tế mà chúng là đối tượng của ngữ đoạn danh từ và ngữ đoạn động từ trong<br /> tư duy, của nhận thức. Cũng giống như hiện tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp. Đặt vấn đề như<br /> _______ vậy, khi thực hiện, chúng tôi đã gặp phải những<br /> 4<br /> Guillaume và lý thuyết của ông được đánh giá là khó khó khăn không nhỏ liên quan đến đến sự khác<br /> xếp loại. Bản thân ông tự đặt mình vào hàng ngũ những<br /> nhà ngôn ngữ học cấu trúc (ông là học trò của Antoine biệt về loại hình ngôn ngữ của tiếng Việt và<br /> Meillet mà Meillet lại là học trò của Saussure). Tác tiếng Pháp cũng như sự không đồng nhất trong<br /> phẩm của Guillaume thể hiện một nghịch lí : vừa là phương pháp tiến hành phân tích đối chiếu ngữ<br /> một sự tiếp tục, vừa là một sự ly khai với ngôn ngữ học<br /> cấu trúc. Người ta nhận thấy trong lý thuyết của ông có liệu trong hai ngôn ngữ này. Tiếng Việt và tiếng<br /> một số quan niệm trùng với những quan niệm nền tảng Pháp là hai ngôn ngữ có những khác biệt đáng<br /> của lý thuyết ngữ pháp tạo sinh của Chomsky, nhất là kể về loại hình. Sự khác biệt này thể hiện đậm<br /> quan niệm về sự đối lập giữa cấu trúc bề mặt và cấu<br /> trúc sâu, về sự đối lập giữa cơ chế hữu hạn của ngôn<br /> nét trong hai từ loại DT và ĐT. Việc nghiên<br /> ngữ và những kết hợp vô hạn của diễn ngôn. Ngoài ra, cứu quá trình hiện thực hóa của DT và ĐT<br /> ông cũng được xem là người đặt nền móng cho các trong tiếng Pháp tỏ ra dễ dàng hơn nhiều so với<br /> trường phái ngôn ngữ học phân tích diễn ngôn ở Pháp.<br /> Sau cùng, mặc dù ông mất trước khi ngôn ngữ học tri<br /> trong tiếng Việt bởi trong tiếng Pháp, quá trình<br /> nhận chính thức ra đời nhưng lý thuyết của ông hàm hiện thực hóa của DT và ĐT được thực hiện bởi<br /> chứa nhiều quan niệm rất gần gũi và tương thích với một hệ thống các tác tử hiện thực hóa là các chỉ<br /> các quan niệm cơ sở của trường phái ngôn ngữ học<br /> này.<br /> định từ, thì và thể của ĐT. Ngược lại, tiếng<br /> 116 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129<br /> <br /> <br /> <br /> Việt, với tư cách là một ngôn ngữ đơn lập điển 3. Tính khái quát của diễn ngôn tục ngữ<br /> hình, không có một hệ thống quán từ được tổ trong nhóm tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp<br /> chức chặt chẽ như tiếng Pháp, không có thì với chứa từ ngữ trỏ BPCTN qua quá trình hiện<br /> thực hóa DT và ĐT<br /> tư cách phạm trù ngữ pháp, cho nên quá trình<br /> hiện thực hóa của DT và ĐT được thực hiện bởi<br /> Việc biểu hiện ý nghĩa khái quát do diễn<br /> những phương tiện ngôn ngữ riêng, khác với<br /> ngôn tổng loại đảm nhiệm. Chúng tôi quan<br /> tiếng Pháp. Khó khăn về đặc điểm loại hình kéo<br /> niệm diễn ngôn tổng loại (discours générique)<br /> theo khó khăn liên quan tới phương pháp phân<br /> là kiểu diễn ngôn biểu hiện một sự tình được<br /> tích đối chiếu, tức là không thể dùng chung một<br /> đặc trưng bởi tính phi thời gian, phi không gian<br /> bộ công cụ phân tích cho cả hai ngôn ngữ. Để<br /> và vô nhân xưng, nói cách khác, trong kiểu diễn<br /> giải quyết những khó khăn đó, chúng tôi đã áp<br /> ngôn này, người ta không xác định được thời<br /> dụng một nguyên lý phân tích xuất phát từ định<br /> gian, không gian và chủ thể nói năng một cách<br /> đề là mọi ngôn ngữ đều có khả năng diễn đạt<br /> cụ thể, chính xác. Tục ngữ biểu thị những chân<br /> cùng một nội dung ý nghĩa nhưng các ngôn ngữ<br /> lý phổ quát, những nhận định tổng loại, do vậy,<br /> phân biệt nhau bởi cơ chế biểu đạt. Tục ngữ<br /> có thể xếp diễn ngôn tục ngữ vào kiểu diễn<br /> Việt và tục ngữ Pháp đều biểu thị những chân<br /> ngôn tổng loại. Có thể nói, trong diễn ngôn tục<br /> lý phổ quát, những nhận định tổng loại nhưng<br /> ngữ, tính phi thời gian, phi không gian và vô<br /> cái nội dung ý nghĩa này lại không được cấu<br /> nhân xưng vừa là đặc trưng bản chất của tục<br /> trúc hóa một cách giống nhau bởi những<br /> ngữ - những đặc trưng mà nhờ đó tục ngữ được<br /> phương tiện ngôn ngữ như nhau trong mỗi ngôn<br /> xác định như một kiểu loại diễn ngôn độc lập,<br /> ngữ. Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm cách điều<br /> vừa là hướng đích, ý đồ của diễn ngôn tục ngữ,<br /> chỉnh phương pháp phân tích đối chiếu – một<br /> tức là những chủ đích mà diễn ngôn tục ngữ<br /> trong những phương pháp mà chúng tôi sử dụng<br /> hướng tới nhằm thực hiện chức năng giao tiếp<br /> chủ yếu trong nghiên cứu này. Chúng tôi quan<br /> của mình. Tính phi thời gian, phi không gian,<br /> niệm rằng trên thực tế không có một miêu tả<br /> vô nhân xưng, vì vậy, vừa là đặc trưng bản chất,<br /> loại hình học nào có thể bao trùm tất cả các mặt<br /> vừa là mục đích tự thân của tục ngữ. Đặt tính<br /> của một ngôn ngữ hay của một nhóm ngôn ngữ<br /> khái quát của diễn ngôn tục ngữ trong mối quan<br /> cũng như không có một ngôn ngữ nào là hoàn<br /> hệ với quá trình hiện thực hóa DT và ĐT trong<br /> toàn và tuyệt đối biến hình hay đơn lập nên<br /> nhóm tục ngữ chứa từ ngữ trỏ BPCTN, chúng<br /> chúng tôi chọn một cách phân tích đối chiếu<br /> tôi sẽ chỉ ra những phương tiện ngôn ngữ biểu<br /> phù hợp với mục đích nghiên cứu của chúng<br /> thị tính chất phi thời gian, phi không gian và vô<br /> tôi: rút ra những xu hướng nổi trội nhất trong<br /> nhân xưng của diễn ngôn tục ngữ trong nhóm<br /> mỗi ngôn ngữ chứ không phải là những quy luật<br /> tục ngữ này đồng thời phân tích những cách<br /> toàn năng5. Xu hướng nổi trội ở đây được hiểu<br /> thức, những con đường mà tục ngữ sử dụng để<br /> theo quan niệm của C. Hagège (1985) [3]: đó là<br /> biểu đạt những đặc trưng vừa nêu, qua đó thấy<br /> những đặc tính xuất hiện thường xuyên, có phổ<br /> được mối quan hệ động giữa những yếu tố ngôn<br /> khuyếch tán rộng và có khả năng được xử lí<br /> ngữ tồn tại ở dạng có sẵn trong ngôn ngữ và<br /> như những nét khái quát, phổ biến.<br /> những yêu cầu bắt buộc của diễn ngôn tục ngữ<br /> _______ nhằm mục đích hiện thực hóa những yếu tố<br /> 5<br /> Việc tìm ra những quy luật toàn năng, có khả năng<br /> giải quyết rốt ráo, triệt để mọi hiện tượng ngôn ngữ là<br /> ngôn ngữ có sẵn này sao cho phù hợp với ý đồ<br /> điều hi hữu trong nghiên cứu ngôn ngữ học. biểu hiện của diễn ngôn tục ngữ. Nói một cách<br /> N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129 117<br /> <br /> <br /> cụ thể hơn, trong phạm vi DT và ĐT, chúng tôi khác, sở chỉ của một danh ngữ6 có danh từ khối<br /> sẽ chỉ ra những tác tử hiện thực hóa biểu hiện ý làm trung tâm chỉ có thể được xác định nhờ vào<br /> nghĩa khái quát, phân tích sự vận động của ngữ cảnh. Ngoài ra, trong tiếng Việt, một DT<br /> những tác tử hiện thực hóa này trong việc biểu khối khi đứng một mình không chứa dấu hiệu<br /> hiện ý nghĩa khái quát, đồng thời chúng tôi sẽ hình thức nào để chỉ rõ hình thức tồn tại của nó.<br /> tìm cách lý giải vì sao diễn ngôn tục ngữ lại Ví dụ, khó có thể xác định một cách rõ ràng<br /> « mời gọi » tác tử hiện thực hóa này và « từ phương thức định tính và định lượng của DT<br /> chối » tác tử hiện thực hóa kia. khối chanh khi nó đứng một mình. Cần thêm<br /> 3. 1. Tính khái quát của diễn ngôn tục ngữ những DT đơn vị như cây, quả, múi, lát…để có<br /> trong nhóm tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp chứa thể xác định hình thức tồn tại của chanh : cây<br /> từ ngữ trỏ BPCTN qua quá trình hiện thực hóa chanh, quả chanh, múi chanh, lát chanh. Như<br /> DT vậy, trong tiếng Việt, một DT khối khi không<br /> được đánh dấu bằng quán từ hoặc không đi kèm<br /> Nếu như DT trỏ BPCTN trong tiếng Việt là<br /> với DT đơn vị sẽ chỉ chủng loại, loài, lớp.<br /> DT khối (nom massif) thì DT trỏ BPCTN trong<br /> Trong tiếng Pháp, ý nghĩa số và tính [± xác<br /> tiếng Pháp lại là DT đơn vị (nom comptable).<br /> định] được đánh dấu bởi các chỉ định từ, nói<br /> Trong tiếng Pháp, DT trỏ BPCTN có thể kết<br /> cách khác, tiếng Pháp chọn lựa cách mã hóa ý<br /> hợp trực tiếp với số từ : un cœur (‫٭‬một tim),<br /> nghĩa số và ý nghĩa [± xác định] cho một DN<br /> une oreille (‫٭‬một tai), cinq os (‫٭‬năm xương),<br /> bằng cách ghép chỉ định từ mang ý nghĩa số và<br /> un visage (‫٭‬một mặt)… còn DT trỏ BPCTN<br /> ý nghĩa [± xác định] vào DT. Như vậy, việc<br /> trong tiếng Việt không có khả năng này. Đây là<br /> nghiên cứu quá trình hiện thực hóa của DT chỉ<br /> điểm khác biệt rất quan trọng, dẫn đến sự khác<br /> BPCTN trong tục ngữ Việt đồng nghĩa với việc<br /> biệt cơ bản trong cách nắm bắt sở chỉ cũng như<br /> nghiên cứu sự vận động của nó trong mối liên<br /> cách thức biểu hiện ý nghĩa khái quát của DT<br /> hệ với DT đơn vị hoặc quán từ còn việc nghiên<br /> trỏ BPCTN trong hai ngôn ngữ.<br /> cứu quá trình hiện thực hóa của DT chỉ BPCTN<br /> Theo Cao Xuân Hạo [4], trong tiếng Việt, trong tục ngữ Pháp sẽ dẫn đến việc xem xét sự<br /> DT đơn vị được chỉ số (đơn hay phức) một cách vận động của các chỉ định từ đi kèm DT. Tuy<br /> bắt buộc và được chỉ rõ tính [± xác định] còn nhiên, sự hiện thực hóa ý nghĩa khái quát của<br /> các DT khối thì không thể được chỉ số và không DN chỉ BPCTN không chỉ phụ thuộc vào các<br /> bắt buộc phải chỉ rõ tính [± xác định]. Một DT chỉ định từ (trường hợp tục ngữ Pháp) và sự đi<br /> khối như chó chẳng hạn khi hiện thực hóa một kèm/không đi kèm với DT đơn vị/quán từ của<br /> mình, tức là không đi kèm với DT đơn vị DT khối (trường hợp tục ngữ Việt) mà còn phụ<br /> hoặc/và quán từ có thể chỉ một con chó cụ thể,<br /> _______<br /> chỉ cả chủng loại chó hay tiểu chủng loại chó. 6<br /> Chúng tôi dùng danh ngữ (DN) với hàm ý chỉ DT<br /> Trong phát ngôn Chó sủa, chó có thể được đang hành chức, nói cách khác, khi DT được hiện thực<br /> dùng để chỉ con chó của người nói, những con hóa trong một ngữ cảnh cụ thể thì dùng danh ngữ sẽ<br /> chuẩn xác hơn danh từ. DN ở đây có thể hiểu tương<br /> chó của ông X hoặc chỉ chủng loại chó trong đương với noun phrase (tiếng Anh), syntagme nominal<br /> thế đối lập với các chủng loại khác như mèo, (tiếng Pháp), mà các nhà Việt ngữ học dịch là ngữ đoạn<br /> chim. Tính xác định của DT khối trong tiếng để chỉ những bộ phận của câu có chức năng cú pháp<br /> nhất định và biểu hiện những vai nghĩa nhất định [5].<br /> Việt được xác định qua ngữ cảnh, nói cách Như vậy, cấu trúc chung của ngữ đoạn danh từ hay<br /> DN sẽ là : (chỉ định từ) DN (định ngữ). Các thành phần<br /> trong ngoặc là tùy ý, không bắt buộc.<br /> 118 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129<br /> <br /> <br /> <br /> thuộc vào ngôn cảnh của diễn ngôn tục ngữ. những yếu tố thuận lợi cho việc hiện thực hóa<br /> Ngôn cảnh của diễn ngôn tục ngữ phải chứa và việc nhận hiểu ý nghĩa khái quát.<br /> <br /> <br /> Tục Chọn mặt gửi vàng 169/278<br /> DN chỉ BPCTN truồng<br /> ngữ DN chỉ Đầu ai chấy nấy 60,79%<br /> Việt BPCTN không Định ngữ + DN chỉ Sẩy chân hơn sẩy miệng 77/278<br /> kèm DT đơn BPCTN Mất lòng trước được lòng sau 27,69%<br /> vị hoặc quán Đừng tham da trắng tóc dài, Đến khi 20/278<br /> DN chỉ BPCTN + Định<br /> từ nhỡ bữa có mài mà ăn 7,19%<br /> ngữ<br /> Vàng đỏ nhọ lòng son<br /> DT đơn vị 12/278<br /> Thương cái xương không còn<br /> hoặc quán từ + 4,31%<br /> Một đồng kiếm nát đống cỏ, hai đồng<br /> DN chỉ<br /> kiếm đỏ con mắt<br /> BPCTN<br /> Chỉ định từ Cœur blessé ne peut aider 113/278<br /> zéro Mieux vaut corps que bien 40,64%<br /> (déterminant<br /> zéro)<br /> Quán từ xác định Le visage est le miroir du cœur 123/278<br /> Chỉ định từ<br /> (article défini) Les mains noires font le pain blanc 44,24%<br /> xác định Từ chỉ định 0%<br /> Tục<br /> ngữ (déterminant (démonstratif)<br /> Pháp défini) Từ sở hữu (possessif) Nos ventres sont nos maîtres 17/278<br /> Mon cul m’est plus proche que ma 6,11%<br /> chemise<br /> Chỉ định từ bất Quán từ bất định Une langue douce peut briser les os 20/278<br /> định (article indéfini) Un bon visage est toujours une bonne 7,19%<br /> dot<br /> (déterminant<br /> Số từ (numéral) Deux chiens sont mauvais à un os 3/278<br /> indéfini)<br /> Un poil fait ombre 1,79%<br /> <br /> Bảng 1. Quá trình hiện thực hóa danh từ trong nhóm tục ngữ chứa từ ngữ trỏ BPCTN<br /> <br /> Trên đây là bảng phân loại sự vận động của Bảng 1 cho thấy những xu hướng nổi trội<br /> các DN chỉ BPCTN trong nhóm tục ngữ Việt và của tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp trong việc<br /> tục ngữ Pháp7 nhằm mục đích sản sinh, tạo lập tuyển lựa các phương tiện ngôn ngữ phục vụ<br /> ý nghĩa khái quát. cho ý đồ tạo nghĩa khái quát và điều này phụ<br /> _______<br /> 7<br /> Chúng tôi tập hợp 278 diễn ngôn tục ngữ Việt và 278 diễn ngôn tục ngữ ở mỗi ngôn ngữ, sau đó với mong<br /> diễn ngôn tục ngữ Pháp lấy từ các từ điển tục ngữ và từ muốn làm một nghiên cứu triệt để, chúng tôi mở rộng<br /> điển ngôn ngữ. Tiêu chí tập hợp ngữ liệu là tất cả các phạm vi khảo sát bằng cách lấy tất cả những diễn ngôn<br /> diễn ngôn mang đầy đủ đặc trưng của một diễn ngôn tục ngữ chứa từ ngữ trỏ BPCTN có thể có trong các<br /> tục ngữ và có chứa từ ngữ chỉ BPCTN. Những con số loại từ điển mà chúng tôi tham khảo. Kết quả là sự<br /> thống kê đưa ra ở bảng 1 và bảng 2, theo chúng tôi, là chênh lệnh giữa các con số thống kê trong nhóm ngữ<br /> đáng tin cậy. Chúng tôi xin đưa ra một bằng chứng. liệu gồm 122 tục ngữ và nhóm ngữ liệu gồm 278 tục<br /> Lúc đầu chúng tôi chỉ định giới hạn khảo sát trên 122 ngữ là rất nhỏ, không đáng kể.<br /> N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129 119<br /> <br /> <br /> thuộc rất nhiều vào đặc trưng loại hình của mỗi Sau đây, chúng tôi sẽ phân tích một số ví dụ<br /> ngôn ngữ. Trong tục ngữ Việt, ý nghĩa khái cụ thể để làm rõ cách thức vận hành ý nghĩa<br /> quát được thể hiện qua sự xuất hiện áp đảo của khái quát của các loại DN khối chỉ BPCTN<br /> DN khối hiện thực hóa một mình. Đối với tục trong tục ngữ Việt và các chỉ định từ đi kèm các<br /> ngữ Pháp, những hình thức ngôn ngữ được ưu DN chỉ BPCTN trong tục ngữ Pháp.<br /> tiên trong việc tạo lập nghĩa khái quát là quán Như chúng tôi đã nói ở trên, tính không xác<br /> từ zero, quán từ xác định le. Tiếng Việt, do đặc định về không gian và thời gian trong tục ngữ<br /> điểm loại hình, không có các tác tử hiện thực Việt được thể hiện qua sự xuất hiện áp đảo của<br /> hóa chuyên dụng để biểu hiện ý nghĩa khái quát DN khối hiện thực hóa một mình (60,79%).<br /> như tiếng Pháp nên tiếng Việt đã lựa chọn cách Trong tiếng Việt, tính [+xác định] của sở chỉ<br /> thức không đánh dấu tính [+xác định] để biểu của một DN khối được thực hiện bằng các DT<br /> thị kiểu ý nghĩa này. Có thể thấy, tục ngữ Việt đơn vị hoặc/và các quán từ. Khi DT đơn vị và<br /> và tục ngữ Pháp có xu hướng tuyển chọn những quán từ vắng mặt trong diễn ngôn, nghĩa của<br /> hình thức ngôn ngữ thích hợp với việc tạo nghĩa DN khối chỉ là một ý niệm trừu tượng, do đó,<br /> khái quát và giới hạn, loại trừ những hình thức giá trị tiềm tàng trong ngôn ngữ và giá trị tạm<br /> ngôn ngữ bất lợi cho việc nhận hiểu, lý giải ý thời trong diễn ngôn của DN trùng khít với<br /> nghĩa khái quát. nhau và như vậy DN sẽ được nhận hiểu theo<br /> Thoạt nhìn, có thể thấy, mặc dù giữa tục nghĩa khái niệm. Ví dụ, DN thân trong Ốm tiếc<br /> ngữ Việt và tục ngữ Pháp tồn tại một sự khác thân, lành tiếc của chỉ một tập hợp bao gồm<br /> biệt rất lớn về loại hình ngôn ngữ dẫn đến sự toàn bộ các cá thể sự vật có cùng tính chất, ở<br /> khác biệt rất lớn về công cụ và cách thức thực đây là thân. DN thân được tri nhận như một<br /> hiện nhưng tục ngữ hai dân tộc lại gặp nhau ở khái niệm mang những thuộc tính đặc trưng, cơ<br /> nguyên lý vận hành ý nghĩa khái quát. Trong bản của khái niệm thân - những thuộc tính có<br /> tiếng Pháp, DT đi kèm với quán từ zero và quán tác dụng phân biệt thân với những khái niệm<br /> từ xác định có xu hướng không phân biệt giá trị khác như của, hổ, chó, mắt… DN thân không<br /> trong ngôn ngữ và giá trị trong diễn ngôn, nói có sở chỉ cụ thể mà hàm chứa toàn bộ sở chỉ có<br /> cách khác, không có sự phân biệt giữa giá trị thể có : thực, tưởng tượng, hiện tại, quá khứ,<br /> tiềm tàng của DT trong ngôn ngữ và giá trị thực tương lai…Tương tự như vậy, sở chỉ của DN<br /> tế của nó trong diễn ngôn. Trong tiếng Việt, mũi trong Rắm ai vừa mũi người ấy cũng là<br /> một DN khối được hiện thực hóa một mình có một sở chỉ tiềm năng. Tất cả các cá thể được tập<br /> xu hướng tiến gần đến trạng thái của một khái hợp bởi kiểu sở chỉ này không bị ràng buộc về<br /> niệm thuần túy được tri nhận giống như một mặt thời gian và không gian, nói cách khác,<br /> mục từ trong từ điển. Do vậy, sở chỉ của DN chúng không bị đóng khung trong một không<br /> được hiện thực hóa bằng quán từ zero và quán gian và thời gian cụ thể, xác định. Tính bất định<br /> từ xác định trong tiếng Pháp có cùng tính chất của sở chỉ càng được nhấn mạnh bởi cặp<br /> như sở chỉ của DN khối được hiện thực hóa một ai…người ấy8. Ai…người ấy biểu thị một cá<br /> mình trong tiếng Việt. Đó không phải là một sở<br /> _______<br /> chỉ cụ thể, xác định mà là một sở chỉ tiềm năng 8<br /> Trong nhóm ngữ liệu tục ngữ Việt, chúng tôi thấy có<br /> được tri giác như tập hợp của các thuộc tính cơ sự xuất hiện của hai đại từ ấy, nấy. Trong ngôn ngữ,<br /> bản, cần thiết, đặc trưng cho tất cả các cá thể sự ấy, nấy được dùng để chỉ cái đã được nhắc tới, để chỉ<br /> chính cái vừa nói đến trước đó. Trong diễn ngôn tục<br /> vật cùng loại. ngữ, ấy, nấy vẫn giữ giá trị trên nhưng lại quy chiếu<br /> 120 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129<br /> <br /> <br /> <br /> thể không xác định, một cá thể tưởng tượng, Những vị từ trạng thái đứng trước DT biểu thị<br /> hoàn toàn mang tính giả định. Như vậy, DN nghĩa tinh thần, còn nghĩa của những vị từ trạng<br /> khối hiện thực hóa một mình được tri nhận như thái đứng sau DT là nghĩa miêu tả thuần sinh lý.<br /> một khái niệm chung tồn tại một cách thường Tuy nhiên, việc vị từ trạng thái đứng trước hay<br /> trực trong tư duy và loại trừ tất cả những gì cụ đứng sau DT chỉ BPCTN không hề làm ảnh<br /> thể, nhất thời. hưởng đến tính chất khái quát của sở chỉ được<br /> Trong nhóm tục ngữ Việt, bên cạnh mô xây dựng trong diễn ngôn tục ngữ. So sánh :<br /> hình DN vừa kể trên còn có các mô hình Muốn đẹp mặt phải nặng cổ, vướng tay và<br /> DN sau : Định ngữ + DN chỉ BPCTN (27,69%) Đừng tham da trắng tóc dài, Đến khi nhỡ<br /> và DN chỉ BPCTN + Định ngữ (7,19%). Thành bữa có mài mà ăn. Sở chỉ của mặt, cổ, tay<br /> phần định ngữ ở cả hai mô hình chủ yếu do các không phải là một cái mặt, một cái cổ, một cái<br /> vị từ trạng thái đảm nhiệm : ở mô hình Định tay cụ thể mà chỉ cả tập hợp, chủng loại mặt,<br /> ngữ + DN chỉ BPCTN có 76,72% (89/116)9 DN tay, cổ, nói cách khác đó không phải là một sở<br /> được hiện thực hóa với vị từ trạng thái, ở mô chỉ cụ thể mà tất cả sở chỉ có thể có. Vị từ trạng<br /> hình DN chỉ BPCTN + Định ngữ có 70,37% thái đứng trước DT chỉ BPCTN chỉ đơn thuần<br /> (19/27) DN được hiện thực hóa với vị từ trạng là yếu tố đồng hành, cung cấp cho DT một giá<br /> thái. Ngoài vị từ trạng thái còn có một số từ loại trị biểu trưng mà không tham gia vào việc xây<br /> đóng vai trò định ngữ như : DT, vị từ quá trình, dựng sở chỉ của DN và do đó DN chỉ BPCTN,<br /> vị từ hoạt động nhưng số này chỉ chiếm một tỉ trong trường hợp này, hoạt động như những DN<br /> lệ nhỏ, không đáng kể. Điều đặc biệt là trong số khối hiện thực hóa một mình. Đối với trường<br /> định ngữ của DN chỉ BPCTN không hề xuất hợp DN chỉ BPCTN + Định ngữ, với tư cách là<br /> hiện vị từ tư thế. Có thể giải thích điều này dựa định ngữ miêu tả, vị từ trạng thái đứng sau DN<br /> vào ý đồ tạo nghĩa của diễn ngôn tục ngữ : điều chỉ BPCTN tham gia vào việc xây dựng sở chỉ<br /> mà tục ngữ nhắm tới không phải là hành động, bằng cách cung cấp một nét nghĩa miêu tả nào<br /> là tư thế sinh học của cơ thể con người mà là đó cho DN chỉ BPCTN. Nội dung nghĩa miêu tả<br /> chiều kích tinh thần, biểu trưng được biểu đạt này có tác dụng thu hẹp phạm vi áp dụng của sở<br /> qua trung gian là cơ thể con người. Điều này chỉ. DN da trắng, tóc dài không còn là da, tóc<br /> cũng được thể hiện qua sự thắng thế của định với tư cách chủng loại trong thế đối lập với các<br /> ngữ là vị từ trạng thái đứng trước DN chỉ chủng loại khác như đầu, miệng, tay… mà bị<br /> BPCTN so với định ngữ là vị từ trạng thái đứng thu hẹp thành tiểu loại. Đó là tiểu loại da trắng,<br /> sau DN chỉ BPCTN. Trong tiếng Việt, nghĩa tóc dài nằm trong thế đối lập ngầm với tiểu loại<br /> của DN chỉ BPCTN sẽ thay đổi tùy theo vị trí Da – không – trắng, Tóc – không – dài. Tuy<br /> của vị từ trạng thái đi kèm DT. Ví dụ : to đầu # nhiên, bản chất của sở chỉ của DN vẫn không bị<br /> đầu to, chậm chân # chân chậm, xấu mặt # mặt thay đổi, nghĩa là sở chỉ vẫn giữ nguyên tính<br /> xấu, đẹp mặt # mặt đẹp, mát mặt # mặt mát... khái quát của nó. Diễn ngôn tục ngữ không quy<br /> chiếu vào một cá thể cụ thể mà tất cả các cá thể<br /> có thể có, miễn là thỏa mãn được điều kiện : da<br /> vào chủ ngữ giả định ai, cho nên sự xuất hiện của ấy, trắng, tóc dài. Do vậy, sở chỉ của DN da trắng,<br /> nấy không làm ảnh hưởng đến tính bất định của khung<br /> sự tình trong diễn ngôn tục ngữ. tóc dài không được xác định cụ thể và không bị<br /> 9<br /> Số lượng DN chỉ BPCTN cao hơn số lượng diễn ngôn giới hạn về số lượng.<br /> tục ngữ vì có nhiều trường hợp một diễn ngôn tục ngữ<br /> chứa nhiều DN chỉ BPCTN.<br /> N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129 121<br /> <br /> <br /> Trong tục ngữ Pháp, hai phương tiện ngôn « mặn mà » với quán từ này. Trong ngữ liệu tục<br /> ngữ được tuyển lựa để biểu thị ý nghĩa khái ngữ của chúng tôi, tỉ lệ DN chỉ BPCTN hiện<br /> quát là quán từ zero (40 ,64%) và quán từ xác thực hóa với quán từ xác định số ít chiếm đến<br /> định (44,24%). Cũng giống như trường hợp DN 82,82%. Nếu như sở chỉ của DN đi kèm với le<br /> khối được hiện thực hóa một mình trong tục được tri nhận như một khối đồng chất hợp bởi<br /> ngữ Việt, sở chỉ của DN chỉ BPCTN hiện thực các cá thể giống hệt nhau thì sở chỉ của DN đi<br /> hóa với quán từ zero thuộc dạng sở chỉ tiềm kèm với les lại là một tập hợp mở bao gồm các<br /> năng. Đó là một tập hợp các điều kiện hoặc cá thể không giống nhau, tách rời nhau. Tính<br /> thuộc tính mà một cá thể phải thỏa mãn để có chất mở của tập hợp sở chỉ khiến cho diễn ngôn<br /> thể trở thành sở chỉ của DN. Và tổng thể của chứa DN đi kèm les có thể chấp nhận những<br /> các điều kiện và thuộc tính này tạo thành một ngoại lệ, những phản ví dụ - điều khó xảy ra với<br /> lớp, một tập hợp sở chỉ có thể có của DN. Quán diễn ngôn chứa DN đi kèm le (So sánh : Les<br /> từ zero có vai trò vô hiệu hóa mọi sự phân biệt enfants aiment le chocolat, mais pas mon fils<br /> giữa các cá thể trong tập hợp sở chỉ của DN. và L’enfant aime le chocolat, mais pas mon<br /> Chính vì vậy, có thể nói, cách thức vận hành ý fils). Có thể nói, sở chỉ của DN được hiện thực<br /> nghĩa khái quát của DN được hiện thực hóa với hóa với quán từ zero và quán từ xác định le<br /> quán từ zero và DN được hiện thực hóa với được xây dựng qua phương thức định tính còn<br /> quán từ xác định le có nhiều điểm tương đồng sở chỉ của DN được hiện thực hóa quán từ xác<br /> với nhau. So sánh : Qui a dent a faim (Ai có định les được xây dựng qua phương thức định<br /> răng thì biết đói) và Le cœur ne peut douleur lượng.<br /> ce que l’œil ne peut voir (Những gì mà mắt Chỉ định từ bất định và chỉ định từ sở hữu<br /> không thấy thì tim không đau). Sở chỉ của DN cũng có khả năng biểu thị ý nghĩa khái quát.<br /> dent (răng) , le cœur (tim), l’œil (mắt) là một Trong ngữ liệu tục ngữ, phần lớn DN chỉ<br /> tập hợp răng, tim, mắt được biểu thị một cách BPCTN đi kèm chỉ định từ bất định được cấu<br /> đồng nhất, nói cách khác dent, le cœur, l’œil ở tạo theo mô hình : Un+DN+Định ngữ và<br /> đây được tri giác như những chủng loại dent thường đứng ở vị trí chủ ngữ. Điều này giúp<br /> (răng), cœur (tim), œil (mắt) được hợp thành từ cho việc nhận hiểu ý nghĩa khái được dễ dàng<br /> những cá thể đồng chất, thuần nhất. Đó là hơn. DN đi kèm un quy chiếu vào một tập hợp<br /> những đồng thể với tất cả các thuộc tính đặc sở chỉ bằng cách « bốc » một cách ngẫu nhiên<br /> trưng, cơ bản, tiêu biểu cho chủng loại. Qua một cá thể trong tập hợp sở chỉ đó. Ví dụ : trong<br /> việc sử dụng quán từ zero và quán từ xác định Un cœur tranquille est la vie du corps (Một<br /> le, diễn ngôn tục ngữ muốn xóa nhòa mọi chỉ trái tim thanh thản là sự sống của cơ thể), người<br /> dẫn cụ thể về số lượng, về phạm vi không gian, ta có thể lấy bất cứ cá thể cœur (tim) nào trong<br /> về thời gian. Điều này phù hợp với ý đồ tạo tập hợp sở chỉ tiềm năng cœur (tim) miễn là cá<br /> nghĩa của diễn ngôn tục ngữ. Chỉ những thể này được cấp cho đặc tính tranquille (thanh<br /> phương tiện ngôn ngữ có khả năng tạo nghĩa thản). Đối với những diễn ngôn tục ngữ chứa<br /> khái quát ở mức độ cao mới được chấp nhận DN chỉ BPCTN đi kèm với chỉ định từ sở hữu,<br /> vào hệ thống. Hiệu lực của quán từ zero và ý nghĩa khái quát được tạo bởi tính chất rỗng<br /> quán từ xác định le trong việc tạo nghĩa khái hoặc khái quát của chủ thể, nói cách khác diễn<br /> quát mạnh hơn, rõ rệt hơn so với quán từ xác ngôn tục ngữ không quy chiếu vào một chủ thể<br /> định les nên diễn ngôn tục ngữ không mấy cụ thể, xác định mà là một chủ thể tiềm năng (Il<br /> 122 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129<br /> <br /> <br /> <br /> ne faut pas s’arracher le nez pour faire honte nhân vật tham gia giao tiếp ( ví dụ tiếng Pháp :<br /> à son visage, Qui voit Ouessant voit son sang, Ce plat sent délicieusement bon !(Món này<br /> On tient toujours plus à sa peau qu’à sa thơm tuyệt !); ví dụ tiếng Việt : Em thích món<br /> chemise). Tuy nhiên, để ý nghĩa khái quát của nào nhất trong các món này ?). Việc nhận diện<br /> DN chỉ BPCTN đi kèm chỉ định từ bất định và sở chỉ phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh giao<br /> chỉ định từ sở hữu được hiện thực hóa trong tiếp, ngữ cảnh giao tiếp phải cung cấp đủ những<br /> diễn ngôn tục ngữ cần nhiều điều kiện, nhiều thông tin cần thiết để xác định sở chỉ, đó là<br /> ràng buộc như vị ngữ (prédicat) phải tương những thông tin về đối tuợng được đề cập đến<br /> thích với DN và ngôn cảnh phải thuận lợi cho trong phát ngôn, về địa điểm, về thời gian. Đòi<br /> việc tạo nghĩa khái quát mà do đặc trưng kiểu hỏi này không khả thi với diễn ngôn tục ngữ vì<br /> loại, các yếu tố này khó có chỗ đứng trong tục tục ngữ là những sáng tác truyền khẩu dân gian,<br /> ngữ. Chính vì phải chịu nhiều ràng buộc như vô danh, khó có thể tái tạo ngữ cảnh ra đời và<br /> vậy mà chỉ định từ bất định và chỉ định từ sở với tư cách là những diễn ngôn tổng loại, tục<br /> hữu không phải là những tác tử hiện thực hóa ngữ có thể áp dụng vào nhiều hoàn cảnh khác<br /> được ưu tiên trong tục ngữ. nhau. Chẳng hạn không thể biết khi nào và ở<br /> Trong quá trình xử lý ngữ liệu, chúng tôi đâu diễn ngôn tục ngữ : Cha nào con nấy (Tel<br /> nhận thấy có sự vắng mặt hoàn toàn của từ chỉ père, tel fils) ra đời và diễn ngôn tục ngữ này<br /> định (démonstratif) trong diễn ngôn tục ngữ. có thể được sử dụng để chỉ sự giống nhau mang<br /> Giải thích lý do của sự vắng mặt này cho phép tính di truyền giữa bố và con nhưng cũng có thể<br /> hiểu sâu hơn bản chất của cơ chế tạo nghĩa khái dùng để chỉ mối quan hệ gần gũi giữa một nghệ<br /> quát trong diễn ngôn tục ngữ. sĩ với tác phẩm của anh ta, giữa người nông dân<br /> với đám ruộng của anh ta...Ngoài ra, diễn ngôn<br /> Từ chỉ định có hai cách dùng : hồi chỉ<br /> tục ngữ này hoàn toàn được sử dụng với hàm<br /> (anaphore) và trực chỉ (déictique). Ở cách dùng<br /> nghĩa tốt hoặc xấu, khen ngợi hoặc chê bai.<br /> hồi chỉ, sở chỉ của DN đi kèm từ chỉ định được<br /> Như vậy, cả hai cách dùng của từ chỉ định<br /> nhìn nhận như là cái biết trước, được giới thiệu<br /> không phù hợp với ý đồ tạo nghĩa của diễn<br /> từ trước (ví dụ tiếng Pháp : J’ai acheté le<br /> ngôn tục ngữ và không tương thích với đặc<br /> dernier ouvrage de M. Kundera. Ce livre est<br /> trưng kiểu loại của diễn ngôn tục ngữ nên từ chỉ<br /> un chef d’œuvre. (Tôi đã mua tác phẩm mới<br /> định bị loại thải một cách tuyệt đối ra khỏi hệ<br /> nhất của M. Kundera. Cuốn sách này/ Đó là<br /> thống tục ngữ.<br /> một kiệt tác); ví dụ tiếng Việt : Nước Việt Nam<br /> là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể 3. 2. Tính khái quát của diễn ngôn tục ngữ<br /> cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không trong nhóm tục ngữ Việt và tục ngữ Pháp chứa<br /> bao giờ thay đổi. - Hồ Chí Minh). Như thế, để từ ngữ trỏ BPCTN qua quá trình hiện thực hóa<br /> từ chỉ định có thể thực hiện được chức năng của ĐT<br /> mình, cần phải có một chuỗi phát ngôn và điều Như chúng tôi đã chỉ ra ở phần 1 của bài<br /> này không tương thích với kiểu loại diễn ngôn viết này, nghiên cứu quá trình hiện thực hóa của<br /> tục ngữ, vốn là một kiểu loại tối giản động từ trong tục ngữ Pháp đồng nghĩa với việc<br /> (élémentaire) cấu thành từ một phát ngôn duy phân tích giá trị của các hình thức hình thái học<br /> nhất. Ở cách dùng trực chỉ, sở chỉ của DN đi của động từ biểu hiện thì và thể trong diễn ngôn<br /> kèm từ chỉ định là cái có mặt trong hoàn cảnh tục ngữ. Tuy nhiên, nếu như việc biểu hiện thì<br /> giao tiếp, là cái nằm trong tầm quan sát của các<br /> N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28 (2012) 112-129 123<br /> <br /> <br /> và thể là một nét đặc tính cố hữu của động từ trạng ngữ chỉ thời gian (circonstants de temps)<br /> trong tiếng Pháp thì tình hình lại không như vậy đảm nhiệm.<br /> trong tiếng Việt, nhất là những vấn đề liên quan Barceló và Bres trong [8] gọi thì là “thời<br /> đến phạm trù thì. Cũng như tiếng Pháp và tất cả gian bên ngoài” của sự tình và thể là “thời gian<br /> các ngôn ngữ khác, tiếng Việt có khả năng biểu bên trong” của sự tình, nói cách khác thì biểu<br /> thị ý nghĩa thời gian vì đó là một phạm trù ngữ thị ba thời quá khứ, hiện tại và tương lai trong<br /> nghĩa phổ quát nhưng biểu hiện ngôn ngữ học đó sự tình diễn ra và thể diễn đạt những đặc<br /> của ý nghĩa này trong tiếng Việt lại không trưng trong diễn tiến của sự tình. Thể có thể<br /> giống với tiếng Pháp. Ý nghĩa thời gian trong được xem như là cái nhìn, quan điểm của người<br /> tiếng Việt không bị/được ngữ pháp hóa, tức là phát đối với sự kiện được trình bày trong diễn<br /> không phải là một phạm trù ngữ pháp như trong ngôn. Như vậy, thì và thể là hai khái niệm khác<br /> tiếng Pháp. Khi cần thiết phải định rõ một sự nhau nhưng có mối liên hệ với nhau. Thì định vị<br /> tình trên trục thời gian, tiếng Việt lại cầu viện sự tình do động từ biểu thị vào một trong ba<br /> đến các biểu thức ngôn ngữ chỉ thời gian. Riêng thời: quá khứ, hiện tại và tương lai còn thể quan<br /> đối với phạm trù thể thì hầu hết các nhà Việt tâm đến sự thực hiện của sự tình trong các pha<br /> ngữ học đều nhất trí cho rằng tiếng Việt có khác nhau, nói cách khác, thể được tri nhận<br /> phạm trù thể với tư cách là một phạm trù ngữ trong tư duy như là một quá trình bao gồm một<br /> pháp và nghĩa học quan trọng được đánh dấu điểm mở đầu, một số điểm trung gian và một<br /> bởi các vị từ10 trong diễn ngôn. điểm kết thúc. Những điểm này minh họa cho<br /> Theo Benveniste [7], thì chỉ có thể được những cách thức nhìn nhận sự tình trong mối<br /> xây dựng trong và bởi hành động phát ngôn. quan hệ với diễn tiến của sự tình. Có thể hình<br /> Thì là một khái niệm được xây dựng xoay dung diễn tiến của sự tình như một đường tuyến<br /> quanh trục tam giác: tôi - ở đây – bây giờ (moi tính bị chặn bởi hai giới mốc (borne) và sự phân<br /> – ici – mantenant) của hành động phát ngôn. biệt các kiểu ý nghĩa thể dựa trên cách thức một<br /> Tôi (moi) là người phát, ở đây (ici) là địa điểm sự tình có được biểu diễn trong giới mốc hay<br /> diễn ra hành động phát ngôn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0