intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cơn đau thắt ngực không ổn định

Chia sẻ: Quynh Quynh Ha | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

250
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cơn đau thắt ngực không ổn định là một dạng của hội chứng vành cấp và giống như tất cả các hội chứng vành cấp khác, nó cần phải được xem là một trường hợp cấp cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cơn đau thắt ngực không ổn định

  1. Cơn đau thắt ngực không ổn định Cơn đau thắt ngực không ổn định là một dạng của hội chứng vành cấp và giống như tất cả các hội chứng vành cấp khác, nó cần phải được xem là một trường hợp cấp cứu. Cơn đau thắt ngực (cảm giác đau ngực hoặc khó chịu ở ngực khi cơ tim không được cung cấp đủ máu nuôi) được xem là "không ổn định" khi nó không còn xuất hiện theo cùng một kiểu và có thể dự báo trước được như cơn đau thắt ngực ổn định.
  2. Cơn đau thắt ngực không ổn định được gọi là "không ổn định" vì 2 lý do sau: Lý do thứ nhất, ngược lại với cơn đau thắt ngực ổn định,  các triệu chứng của cơn đau thắt ngực không ổn định xảy ra một cách ngẫu nhiên hơn và khó đoán hơn. Trong khi trong cơn đau thắt ngực ổn định, các triệu chứng thường xuất hiện khi gắng sức, mệt mỏi, giận dữ, hoặc bị stress, còn các triệu chứng của cơn đau thắt ngực không ổn định có thể xảy ra mà không cần có tác nhân thúc đẩy nào cả. Trong thực tế, cơn đau thắt ngực không ổn định thường xảy ra lúc nghỉ ngơi, và thậm chí nó còn có thể làm cho người bệnh thức dậy lúc nửa đêm giữa một giấc ngủ say. Ngoài ra, khi bị đau thắt ngực không ổn định, các triệu chứng thường kéo dài nhiều hơn vài phút và nitroglycerin thường không làm giảm được đau. Do đó, đau thắt ngực không ổn định được gọi là "không ổn định" vì các triệu chứng có thể xảy ra thường xuyên hơn bình thường, không có các tác nhân thúc đẩy có thể nhận thấy được, và kéo dài trong một khoảng thời gian dài. Lý do thứ hai, và cũng là lý do quan trọng hơn, cơn đau  thắt ngực không ổn định được gọi là "không ổn định" vì, cũng như tất cả các dạng của hội chứng vành cấp, nó thường gây ra bởi sự vỡ ra thật sự của các mảng bám trên thành các động mạch vành. Ở những bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định, các mảng bám bị vỡ ra, cùng với các cục huyết khối hầu như luôn luôn đi kèm với sự vỡ ra của các mảng bám này, gây tắc nghẽn một phần động mạch. Sự tắc nghẽn này thường diễn tiến theo kiểu giật cục (do huyết khối lớn ra rồi thu nhỏ lại), làm cho cơn đau thắt ngực đến và đi theo một cách không thể đoán trước được. Nếu huyết khối gây bít tắc hoàn toàn động mạch (thường xảy ra), vùng cơ tim được cung cấp máu bởi động mạch bị tắc nghẽn hoàn toàn đó sẽ gặp nguy hiểm do có nguy cơ bị tổn thương không hồi phục hoàn toàn. Nói theo một cách khác, nguy cơ sắp xảy ra nhồn máu cơ tim hoàn toàn là rất cao ở những bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định. Do đó hiển nhiên là tình trạng này rất "không ổn định" và vì lý do đó nó được xem như là một trường hợp cấp cứu. Khi nào thì bạn nên nghĩ là mình bị đau thắt ngực không ổn định?
  3. Bất kỳ ai đã từng hoặc đang bị bệnh mạch vành đều nghi ngờ bị đau thắt ngực không ổn định nếu cơn đau bắt đầu xuất hiện khi vận động ở mức thấp hơn m ọi khi một cách đáng kế, hoặc nếu nó xuất hiện lúc nghỉ ngơi, kéo dài lâu hơn bình thường, nitroglycerin khó làm nó thuyên giảm hơn và đặc biệt là khi nó làm cho bạn thức giấc dậy lúc nửa đêm. Những người chưa từng bị bệnh mạch vành cũng có thể bị đau thắt ngực không ổn định, nhưng những người này có thể là những người nằm trong nhóm có nguy cơ cao do họ không may là lại thường không nhận ra được những triệu chứng báo hiệu mình bị đau thắt ngực. Những triệu chứng cổ điển của cơn đau thắt ngực là bị đè ép ở ngực hoặc đau ngực, đôi khi là cảm giác vặn xoắn, bóp nghẹt ở ngực, thường lan đến hàm dưới hoặc cánh tay trái. Tuy nhiên điều không may là nhiều bệnh nhân bị đau thắt ngực lại không có những triệu chứng cổ điển này. Sự khó chịu đến với họ có thể rất nhẹ nhàng và có thể xuất hiện ở phía sau lưng, ở bụng, ở vai, hoặc ở cả hai tay. Có thể họ chỉ gặp những triệu chứng như buồn nôn, khó thở,, hoặc có cảm giác như nóng rát ở ngực. Điều này có nghĩa là bất kỳ ai ở độ tuổi trung niên hoặc lớn tuổi hơn, đặc biệt là những người có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ bị bệnh mạch vành, đều nên được báo động về những triệu chứng có thể là biểu hiện của một cơn đau thắt ngực. Nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể bị đau thắt ngực không ổn định, bạn nên ngay lập tức đến phòng mạch của bác sĩ hoặc đến phòng cấp cứu ở bệnh viện. Cơn đau thắt ngực không ổn định được chẩn đoán như thế nào? Triệu chứng là yếu tố đặc biệt quan trọng trong chẩn đoán cơn đau thắt ngực không ổn định, cũng như của bất kỳ dạng hội chứng vành cấp nào. nếu bạn bị từ một trong 3 triệu chứng dưới đây trở lên, bác sĩ sẽ cho đó là một cơ sở vững chắc để nghĩ rằng bạn đang bị một dạng nào đó của hội chứng vành cấp: Bị đau thắt ngực lúc nghỉ ngơi, đặc biệt là nếu như nó kéo  dài hơn 20 phút mỗi đợt.
  4. Một đợt đau thắt ngực mới khởi phát làm giới hạn đáng kể  khả năng hoạt động thể lực của bệnh nhân. Các giai đoạn đau thắt ngực ổn định gia tăng, với các đợt  đau xảy ra thường xuyên hơn, kéo dài lâu hơn, hoặc xuất hiện ở mức gắng sức thấp hơn so với trước đây. Một khi nghi ngờ bạn bị hội chứng vành cấp, bác sĩ sẽ ngay lập tức cho bạn đo điện tâm đồ (ECG), và xét nghiệm máu để đo các men tim. Nếu một đoạn trong điện tâm đồ có tên là đoạn ST chạy chếch lên trên (là một biểu hiện cho biết động mạch bị tắc nghẽn hoàn toàn) và các men tim gia tăng (là biểu hiện cho biết các tế bào tim đang bị hủy hoại), bạn sẽ được chẩn đoán là nhồi máu cơ tim rộng (còn được gọi là nhồi máu cơ tim có ST chênh lên). Nếu đoạn ST không chênh lên (có nghĩa là động mạch không bị tắc nghẽn hoàn toàn) nhưng men tim tăng (có sự hủy hoại tế bào), bạn sẽ được chẩn đoán là nhồi máu cơ tim hẹp (còn được gọi là nhồi máu cơ tim không ST chênh lên). Nếu đoạn ST không chênh lên và men tim bình thường (có nghĩa là động mạch không bị tắc nghẽn hoàn toàn và không có hủy hoại tế bào), bạn sẽ được chẩn đoán là đau thắt ngực không ổn định. Một điều đáng chú ý là đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim không ST chênh lên là những tình trạng tương tự nhau. Ở mỗi trường hợp, đều xảy ra sự vỡ ra của các mảng bám ở động mạch vành, nhưng động mạch vành không bị tắc nghẽn hoàn toàn do đó vẫn còn ít nhất một lượng máu nào đó đến nuôi cơ tim. Cả hai trường hợp đều có các triệu chứng của cơn đau thắt ngực không ổn định. Điểm khác biệt duy nhất giữa chúng là nhồi máu cơ tim không ST chênh lên có số lượng tế bào cơ tim bị hủy hoại đủ để làm cho men tim tăng lên ở kết quả xét nghiệm máu. Do 2 tình trạng này tương tự nhau nên cách điều trị cũng giống nhau. Điều trị đau thắt ngực không ổn định (và nhồi máu cơ tim không ST chênh lên) như thế nào? Cả cơn đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim không ST chênh lên đều được điều trị như là những tình trạng cấp cứu. Chúng
  5. là 2 dạng có mối quan hệ mật thiết với nhau của hội chứng vành cấp, do chúng đều có nguyên nhân là do sự vỡ ra của các mảng bám ở động mạch vành. Trong bất kỳ loại hội chứng vành cấp nào, điều quan trọng nhất là ổn định tình trạng thiếu máu cơ tim do mảng bám bị vỡ ra, sau đó thực hiện các bước làm ổn định mảng bám. Ngoài ra, ở cả đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim không ST chênh lên đều quan trọng ở việc quyết định lên lịch thực hiện thông tim sớm (thông thường là đặt stent) hoặc dùng những cách điều trị không xâm lấn. Ổn định Nếu bạn bị đau thắt ngực không ổn định hoặc nhồi máu cơ tim không ST chênh lên, bác sĩ sẽ ngay lập tức thực hiện các biện pháp để ổn định tim. Mục tiêu của những cố gắng ổn định này là bảo vệ cơ tim đang bị hủy hoại, và để ngăn sự phát triển lớn lên thêm của cục huyết khối đi kèm với mảng xơ vữa bị vỡ gây tắc nghẽn dòng máu. Chấm dứt tình trạng thiếu máu - cũng có nghĩa là chấm dứt luôn cả đau ngực - thường bằng cách dùng oxy, morphine (nếu cơn đau dữ dội và kéo dài), nitroglycerin (để làm giảm khối lượng công việc của tim bằng cách làm giảm áp lực lên cơ tim), và chẹn beta (làm giảm tác dụng của adrenalin lên cơ tim). Những bước này thường làm giảm hầu hết các trường hợp thiếu máu trong vòng vài phút. Để ngăn không cho huyết khối lớn lên thêm nữa, bác sĩ sẽ cho bạn thuốc aspirin cùng với Plavix, và trong nhiều trường hợp còn cho một trong các thuốc ức chế IIb/IIIa (Integrilin hoặc Reopro). Tất cả những loại thuốc này phối hợp với nhau để ức chế tiểu cầu. Cuối cùng, hầu hết các bác sĩ cũng cho thêm những loại thuốc ức chế hệ thốngđông máu thrombin (heparin, Lovenox, hoặc Arixtra). Những biện pháp này được dùng cùng lúc làm giảm mạnh mẽ nguy cơ hình thành huyết khối trong tương lai. Một điểm quan trọng, trong đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim không ST chênh lên, việc dùng những thuốc làm vỡ cục huyết khối như Streptase để làm phân hủy những huyết khối đã hình thành cho thấy làm gia tăng nguy cơ mà không tạo ra những tác dụng có lợi nào có thể đánh giá được. Do đó những loại thuốc này không được dùng. (Chúng chỉ được dùng ở những bệnh nhân đã bị tắc
  6. nghẽn động mạch vành hoàn toàn và gây ra cơn nhồi máu cơ tim kinh điển). Bạn cũng có thể được bắt đầu điều trị bằng statin, thường là bằng Lipitor, càng sớm càng tốt. Statin thường được dùng để làm giảm cholesterol, trong trường hợp hội chứng vành cấp, lợi ích chính của chúng là giúp ổn định mảng xơ vữa và giảm tình trạng viêm. Lipitor được đặc biệt khuyên dùng vì nó là loại thuốc được dùng trong các thử nghiệm lâm sàng cho thấy làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong, nhồi máu cơ tim và những biến chứng khác của tim khi sử dụng ở những bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim không ST chênh lên. Quyết định lựa chọn giữa cách điều trị thận trọng với cách điều trị xâm lấn Ngoài bước ổn định được thực hiện ở tất cả những bệnh nhân bị bệnh này, thông tim sớm với chỉnh hình mạch máu và đặt stent cũng được khuyến cáo ở nhiều bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim không ST chênh lên. Thông thường, nếu bạn được xem là nằm trong nhóm bệnh nhân có nguy cơ thấp, bác sĩ sẽ chọn cách điều trị cho bạn mà không cần dùng những phương pháp xâm lấn ngay lập tức. Còn ngược lại, những cách điều trị xâm lấn được ưu tiên hơn. Thang điểm nguy cơ được dùng để quyết định điều này được gọi là thang điểm TIMI, được lấy từ thử nghiệm lâm sàng TIMI. Thang điểm này được xác định bằng cách xem xét 7 đặc điểm lâm sàng sau: Tuổi từ 65 trở lên.  Có ít nhất 3 yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành (tăng  huyết áp, đái tháo đường, tăng lipid máu, hút thuốc lá, hoặc tiền sử gia đình có người bị nhồi máu cơ tim khi còn trẻ). Lần tắc nghẽn mạch vành trước đó >50%  Có tình trạng lệch của đoạn ST  Có ít nhất 2 đợt đau thắt ngực trong vòng 24 giờ trước.  Tăng men tim  Có dùng aspirin trong vòng 7 ngày trước  Nếu bạn có từ 2 yếu tố nguy cơ kể trên trở xuống (có nghĩa là thang điểm TIMI dưới 2), nhiều bác sĩ tim mạch sẽ chọn cách điều trị cho bạn mà không cần phải thông tim cho đến khi nào tình trạng lâm
  7. sàng của bạn ổn định một cách nhanh chóng. Còn như ngược lại, bác sĩ sẽ cần bạn đi đến phòng thông tim càng sớm càng tốt sau khi đã trải qua bước ổn định cho tình trạng của bạn. Nếu bạn không được điều trị theo cách xâm lấn, bạn có thể sẽ được thực hiện nghiệm pháp gắng sức trước khi xuất viện, và nếu khi thực hiện nghiệm pháp này, bạn cho thấy có các dấu hiệu của thiếu máu cơ tim vẫn còn đang tiếp diễn, có thể bạn sẽ được gửi đến phòng thông tim trước khi về nhà. Xuất viện Trước khi xuất viện, bạn sẽ được đánh giá toàn bộ nguy cơ của bệnh tim và có thể sẽ được hướng dẫn về những biện pháp tích cực để làm giảm nguy cơ bị những đợt đau tương tự như vậy trong tương lai. Bạn cần phải thực hiện theo hướng dẫn một cách đầy đủ về các luyện tập, chế độ ăn, bỏ hút thuốc, giữ được cân nặng lý tưởng, kiểm soát huyết áp, và giữ nồng độ lipid máu ở mức độ lý tưởng. Những liệu pháp điều trị bằng thuốc dài hạn sau khi bị đau thắt ngực không ổn định hoặc nhồi máu cơ tim không ST chênh lên bao gồm: aspirin, Plavix (trong vòng ít nhất từ 6 đến 12 tháng, thường là mãi mãi), thuốc chẹn beta, và thuốc statin. Nitrate có thể được kê toa nếu bạn vẫn còn bị đau thắt ngực ổn định. Nếu bạn bị suy tim, loạn nhịp tim, hoặc những bệnh khác của tim ở một vài mức độ nào đó, có thể bạn sẽ cần thêm một vài liệu pháp điều trị khác nữa. Thời gian quay trở về những sinh hoạt bình thường tùy thuộc vào từng cá nhân. Nhưng hầu hết những người vẫn còn có tình trạng ổn định có thể kỳ vọng thời gian quay trở về hoạt động ở mức bình thường trong vòng 2 đến 3 tuần sau khi xuất viện.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2