intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cuộc xung đột Việt Chiêm trong tiến trình lịch sử dân tộc

Chia sẻ: Nguyễn Thị Kim Thoa | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:15

94
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Cuộc xung đột Việt Chiêm trong tiến trình lịch sử dân tộc nêu lên sự thành lập các vương quốc cổ của người Việt và người Chiêm; những cuộc giao tranh của người Việt và Chiêm trong tiến trình lịch sử dân tộc. Mời các bạn tham khảo tài liệu để bổ sung thêm kiến thức về lĩnh vực này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cuộc xung đột Việt Chiêm trong tiến trình lịch sử dân tộc

  1. Cuộc xung đột Việt Chiêm trong tiến trình lịch sử dân tộc This entry was posted on Tháng Chín 30, 2015, in Lịch sử Viêt Nam ̣  and tagged Champa, Chiêm Thành, chăm, Hoa Anh  Đào, nhà lý, Đại Việt. Bookmark the permalink. 1 Phản hồi Hoa Anh Đào Trên lãnh thổ Việt Nam của chúng ta đã từng chứng kiến sự ra đời và phát triển của ba vương quốc. Đó là  vương quốc Văn Lang ở phía Bắc ra đời vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên, vương quốc Champa ở miền  Trung ra đời vào khoảng thế kỷ II sau công nguyên và vương quốc Phù Nam ra đời ở phía Nam vào khoảng thế  kỷ I sau công nguyên. Sự hưng thịnh của các vương quốc này mỗi thời kỳ một khác, ví như trong khi Âu Lạc  đang chìm trong Bắc thuộc thì ở phía Nam vương quốc Phù Nam phát triển rất rực rỡ, đã áp đặt sự cai trị ở rất  nhiều nơi trong đó có một phần đất Champa và Chân Lạp… Nhưng đến trước khi Âu Lạc giành được độc lập  từ tay bọn đô hộ Trung Quốc thì Phù Nam đã suy yếu và diệt vong.           Nhiều nhà nghiên cứu khi đánh giá việc đất nước thống nhất là sự xâm lược, thôn tính lãnh thổ, mạnh  được yếu thua, cách ứng xử phong kiến mang nặng tính cục bộ mà cho rằng Đại Việt là của người Kinh (tức  người Việt), Champa là của người Chiêm và đất Nam Bộ ngày nay thuộc quyền sở hữu của Chân Lạp (tức  Campuchia sau này), cách nhìn này dễ gây ra tâm lí tỵ hiềm trong lòng dân tộc. Khi tìm hiểu về tình hình quản lý  ở đồng bằng hay miền núi trước đây thì thấy rằng sự chặt chẽ hay lõng lẽo có sự khác nhau ở từng vùng miền, 
  2. nhưng lãnh thổ của quốc gia chung gắn bó với hai trung tâm chính trị của đất nước ở phía Bắc là Thăng Long  (Hà Nội), phía Nam là Chà Bàn (thành Đồ Bàn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay). Giữa Đại Việt và  Champa luôn luôn có sự tranh chấp. Sự tranh chấp đó là không thể tránh khỏi bởi tư duy bành trướng của giai  cấp phong kiến hai nhà nước, luôn luôn xảy ra trình trạng xung đột tùy vào sự hưng vong của hai tập đoàn phong  kiến ở hai miền, trong khi nhân dân chỉ muốn hòa bình, an cư lạc nghiệp. Lý giải vì sao trước đây là ba vương  quốc cùng tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam, mà sau này thống nhất thành một quốc gia duy nhất, điều đó có nhiều  nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất được giải thích như sau: Đây là thời  kỳ đất nước phát triển dưới chế độ phong kiến ở cả hai vùng, trong bối cảnh âm mưu bành trướng xuống  phương Nam của phong kiến Trung Quốc, là nguy cơ thường trực, đe dọa sự sống còn của các dân tộc ở Việt  Nam, đặt trách nhiệm nặng nề cho hai nhà nước phong kiến Đại Việt và Champa. Trong hoàn cảnh đó, xu  hướng đối kháng phong kiến là rất nguy hiểm cho cả hai phía. Do đó, vấn đề hội nhập để tồn tại và phát triển  là xu hướng vận động thực tế khách quan của lịch sử, tạo nên sắc thái mới của nền văn hóa đa dân tộc của Việt  Nam.           Xưa nay khi nói về cuộc xung đột Việt – Chiêm trong lịch sử dân tộc thì người ta thường tránh né không  dám nhìn thẳng vào sự thật. Qua bài viết lần này, chúng tôi có tham vọng cung cấp cái nhìn toàn cảnh hơn về sự  đụng độ của 2 tộc người trên đất nước ta. Từ đó, đưa ra những ý kiến đánh giá khách quan và trung thật nhất  của vấn đề này. I. Sự thành lập các vương quốc cổ của người Việt và người Chiêm. 1. Sự ra đời vương quốc Văn Lang của người Việt. Người Lạc Việt và một bộ phận người Tây Âu (hay còn gọi là người Âu Việt) ở vùng Việt Bắc và Đông Bắc.  Hai thành phần Việt tộc này sống xen kẽ ở nhiều nơi ở phía Bắc nước ta. Cùng với sự phân hóa xã hội bước  đầu, do tác động trực tiếp của nhu cầu đoàn kết trị thủy, làm thủy lợi và chống xâm lấn đã dẫn đến sự ra đời  của một nhà nước đầu tiên của nước ta. Đại Việt sử lược, bộ sử xưa nhất còn lại của nước ta cho biết: “Đến  đời Trang Vương nhà Chu, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng   Vương, đóng đô ở Phong Châu, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần hậu chất phác, chính sự dùng lối  thắt nút, truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng Vương”. Vua Trang Vương nhà Chu là ông vua ở ngôi vào  khoảng năm 696 đến 681 trước công nguyên. Như vậy là một nhà nước đã ra đời trong lịch sử Việt Nam vào thế  kỷ VII trước công nguyên. Không rõ Đại Việt sử lược đã dựa vào đâu, song việc đặt sự ra đời của nhà nước Văn  Lang vào khoảng giai đoạn đầu của văn hóa Đông Sơn là điều có thể chấp nhận được và phù hợp với nguồn tư  liệu khảo cổ. 2. Sự ra đời vương quốc Champa của người Chiêm.
  3. Theo Tiến sĩ  Sử học Huỳnh Công Bá, trong cuốn Lịch Sử Văn Hóa Việt Nam cho rằng: “Sức sản xuất của cư  dân Sa Huỳnh không kém gì sức sản xuất của cư dân Đông Sơn. Chắc rằng trong xã hội Sa Huỳnh thời đó đã  xuất hiện tầng lớp quý tộc có nhiều của cải. Tầng lớp đó chắc hẳn đã có nhiều quyền lực đối với xã hội. Cư  dân văn hóa Sa Huỳnh thời đó chắc hẳn đã hoặc đang chuẩn bị bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước sơ  khai”. Vậy là trước khi bị nhà Hán xâm lược thì cư dân Champa mà chủ yếu có hai bộ lạc sinh sống: bộ lạc Cau  (Kramuka vams’a) và bộ lạc Dừa (Nakirela vams’a). Bộ lạc Cau cư trú trên vùng Bình Thuận – Ninh Thuận –  Khánh Hòa – Phú Yên ngày nay và bộ lạc Dừa cư trú trên vùng Bình Định – Quảng Ngãi – Quảng Nam – Đà  Nẵng ngày nay. Tuy vậy lúc đầu không có một vương quốc chung cho cả hai. Bộ lạc Cau ở phía nam đèo Cù  Mông đã lập riêng cho mình một tiểu quốc vào khoảng đầu công nguyên. Trong lúc tiểu quốc Nam Chăm  (Panduranga) phát triển vài ba thế kỳ thì thế kỷ II, đời Sơ Bình (190 ­193) nhân lúc nhà Đông Hán suy sụp, Trung  Quốc loạn lạc, nhân dân Tượng Lâm ở nơi xa nhất đã đạt được thắng lợi trước tiên. Họ đã nổi dậy, giết huyện  lệnh, giành quyền tự chủ và lập quốc. Cuộc khởi được tiến hành trong hoàn cảnh hết sức thuận lợi, dân Giao  Chỉ và Cửu Chân cũng đang đứng lên đấu tranh chống sự thống trị hà khắc của phong kiến phương Bắc, đánh  phá châu thành, giết thứ sử Chu Phù năm 190 khiến trong mấy năm liền nhà Hán không lập nổi quận trị. Người  lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Tượng Lâm có tên là Khu Liên (có sách viết là Khu Quỳ, Khu Đạt, hay Khu Vương)  lên làm Vua. Vương quốc mới lập của dân Tượng Lâm trong một thời gian dài được các thư tịch cổ Trung Hoa  gọi là nước Lâm Ấp; sách Thủy kinh chú giải thích rõ, Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chử Tượng, chỉ gọi  là Lâm Ấp. Nhưng thực ra, tên gọi vương quốc của người Chăm chính là Champa, lấy tên một loài hoa đẹp và  rất được yêu thích của người phương Nam: hoa Đại (tên khoa học là Michelia Champacca Linnae)[5: tr 111]. Trong  thời gian về sau, các quan lại Trung Quốc thường đem quân đánh để chiếm lại vùng đất này nhưng đều bị thất  bại vì Lâm Ấp dựa vào địa thế hiểm trở để chống lại. Năm Vĩnh Hòa thứ 3 (Tấn Mục Đế), năm 347, vua Lâm  Ấp là Phạm Văn nhận thấy dân các huyện còn lại của Nhật Nam hết sức oán hận thái thú Hạ Hầu Lãm, Phạm  Văn xuất quân đánh chiếm được quận Nhật Nam, báo với thứ sử Giao Châu là Châu Phồn đòi lấy phía Bắc dãy  Hoành Sơn làm biên giới phía Bắc của Lâm Ấp.Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Quảng Bình chép: “Lũy cũ  Hoành Sơn (Hoành sơn cổ Lũy) ở phía Bắc huyện Bình Chính, từ trên núi Ba Hi chạy ngang đến suốt biển.  Tương truyền lũy này là do Phạm Văn vua nước Lâm Ấp đắp để làm đường phân giới Giao Châu Lâm Ấp”. Sau  đó phong kiến Trung Quốc tấn công với ý định chiếm lại Nhật Nam nhưng bị vua Phạm Văn đánh bật trở lại,  Con Phạm Văn là Phạm Phật kế vị (349 – 380) nhiều lần cho quân đánh chiếm vào quận Cửu Chân nhưng không  thành công. II. Những cuộc giao tranh của người Việt và Chiêm trong tiến trình lịch sử dân tộc.
  4.           Mở đầu cho cuộc đụng độ lịch sử này là sự kiện năm 347, vua Champa là Phạm Văn đã đánh chiếm được  toàn bộ quận Nhật Nam do nhà Hán lập ra, Champa còn nhiều lần cho quân đánh chiếm quận Cửu Chân, nhưng  đều bị đánh bại. Về sau núi Đồng Trụ được coi là giới hạn phía Nam của nước ta thời Bắc thuộc với vương  quốc Champa. Đến thời điểm bây giờ, việc xác định địa điểm chính xác của núi Đồng Trụ còn dựa nhiều vào  truyền thuyết. Nhưng khởi nghĩa Hai Bà Trưng thì đã được chính sử ghi lại rõ ràng, các cuộc khởi nghĩa này đã  nổ ra ở Nhật Nam (Nghệ An xưa). Như vậy có lẽ vào thế kỷ I, sông Lam là biên giới của quận Cửu chân và  quận Nhật Nam (hiện tại vẫn có nhiều cơ sở khoa học để chứng minh rằng dòng chảy phần Hạ lưu sông Lam  xưa khác với bây giờ, nếu điều đó là sự thật thì việc xác định ranh giới xưa là rất phức tạp). Từ thế kỷ II, III, IV  nhiều cuộc nổi dậy và xâm lấn đã nổ ra. Các cuộc nổi dậy và xâm lấn này do các lãnh chúa và thủ lĩnh địa  phương người Chăm ở đồng bằng ven biển Hà Tĩnh cầm đầu. Nhưng các lãnh chúa này đã bị đánh bật về phía  Nam Sông Lam (theo An Tĩnh cổ lục)  (Các lãnh chúa vùng đồng bằng ven biển Hà Tĩnh vì trong số họ một số là  người Champa, một số chưa thể khẳng định được là người Việt hay người Champa, kể cả Mai Thúc Loan).
  5.           Đầu thế kỷ VI, Lý Bí khởi nghĩa ở Cửu Đức (Nghệ An) lập ra nước Vạn Xuân (544 – 602). Nhưng rồi vua  Champa là Can­Thực­Luật­Bạt­Ma lại vượt qua Sông Lam.  Các thế kỷ VIII (780), IX (802 – 803) quân Champa  lại tiếp tục chiếm đóng Châu Hoan và Châu Ái nhưng rồi lại bị quân Đường đánh bật về phía Nam Sông Lam.           Thế kỷ X, Đinh Bộ Lĩnh lập nước Đại Cồ Việt. Lúc này ranh giới của Đại Cồ Việt và Champa gọi là  Nam Giới. Các sách An Tĩnh Cổ Lục, Phong thổ ký, các huyện Hà Tĩnh đều nhắc đến cửa Nam Giới và núi Nam  Giới là giới hạn phía Nam của Đại Cồ Việt thời kỳ này. Đối chiếu với địa hình thì cửa Nam Giới chính là cửa  Sót ngày nay, nơi sông Hà Hoàng (bao gồm Sông Nghèn và Sông Sót ngày nay) đổ ra Biển. Như vậy vào thời  điểm bấy giờ có thể cửa Sót còn nằm về phía Nam của núi Nam Giới (Thạch Hải, Hà Tĩnh ngày nay). Điều này  là có cơ sở vì theo Địa chí Can Lộc thì “Sông Nghèn có thể là dòng chảy chính của Hạ Lưu sông Lam ngày xưa”.           Năm 981, Đại Cồ Việt sau nhiều lần bị Champa quấy rối, Lê Hoàn lần đầu tiên đem quân đi chinh phạt  Champa, chiếm được Địa Lý Châu (Quảng Ninh, Quảng Bình). Champa đã phải dời kinh đô (Indrapura) từ miền  Đồng Dương vào thành Phật Thệ (Vijaya, tức Bình Định ngày nay). Sau đó Lê Hoàn trả Địa Lý Châu lại cho  Champa. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt: Champa từ trước vẫn là một nước lớn (đối với Đại Cồ Việt)  nhưng từ sau sự kiện này đã trở thành một “tiểu quốc” chịu thần phục Đại Cồ Việt.            Năm 1011, vua Lý Thái Tổ cho đem quân đánh Champa ở trại Bố Chính    (Quảng Bình ngày nay).            Thời Lý Thái Tông, Champa lại bỏ triều cống và hay cho quân ra quấy nhiễu biên giới, Vua cho đóng mấy  trăm chiến thuyền đặt hiệu là Long, Phụng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh vũ, luyện tập quân bộ tinh nhuệ. Đầu năm  1044, Vua thân chinh cầm quân đánh Champa theo đường thuỷ tiến vào cửa biển Ô –Long  (nay là Tư Hiền,  Thừa Thiên Huế). Quân Champa đại bại, hơn 3000 quân bị giết, 5000 người bị bắt sống, vua Champa là Sạ Đẩu  (Jaya Simhavarman II) bị tướng Champa là Quách Gia Di chém đầu ngay tại trận và đem dâng thủ cấp để xin  hàng. 5000 tù binh bị bắt đưa về nước ta vào trấn Vĩnh Khang (phủ Tương Dương, tỉnh Nghệ An) và trấn Đăng  Châu (Quy Hoá), ban cho họ ruộng đất, lập thành phường ấp làm ăn sinh sống.           Dưới thời Trần, sau khi Chế Mân dâng hai châu Ô và châu Lý cho nhà Trần làm sính lễ thì người Việt đã  di cư vào hai vùng đất này để khai phá. Theo đánh giá chung của nhiều nhà sử học, hai châu Ô, Lý mà nhà Trần  đã đổi thành Thuận – Hóa là dải đất từ Nam Quảng Trị vào đến Bắc Quảng Nam ngày nay. Vấn đề được đặt ra  là địa bàn thực tế phía nam của châu Hóa thời Trần. Theo khảo cứu của học giả Đào Duy Anh trong Đất nước  Việt Nam qua các đời, thì Trà Kệ là huyện Quảng Điền về sau, Bồ Đài là huyện Phong Điền ngày nay, Bồ  Lãng ở vùng thượng du sông Hương, Sa Lệnh là phía đông Huế, Thế Vang là huyện Phú Vang, Lợi Bồng tương  đương với huyện Hương Thủy, và huyện Tư Dung thì Ông cho rằng đặt vào khoảng huyện Phú Lộc ngày nay.  Và cũng theo Đào Duy Anh, biên giới phía Nam của châu Hóa thời thuộc Trần vào đến sông chợ Cửi, tức sông  Thu Bồn của Quảng Nam – Đà Nẵng. Phan Khoang, trong Việt sử xứ Đàng Trong, cho rằng “huyện Phú Lộc,  huyện Phú Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên ngày nay và huyện Hòa Vang, huyện Đại Lộc, phủ Duy Xuyên thuộc tỉnh  Quảng Nam ngày nay là đất Hóa Châu xưa”. Vậy biên giới phía Nam của châu Hóa thời Trần là ở đâu? Và 
  6. người Việt đã vượt qua đèo Hải Vân để khai triển vùng đất Bắc Quảng Nam mà Champa đã giao cho nhà Trần  chưa? Những vấn đề này đã được Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá qua sự khảo cứu của mình đã làm rõ ngọn ngành  những vấn đề này. Qua sự tìm hiểu của mình, bằng những tư liệu khi đi thực địa tại vùng đất này, Ông cho  rằng: “Qua các tư liệu trên, cho thấy ít nhất là khoảng 10 năm sau ngày đám cưới Huyền Trân – Chế Mân, đã có   người Việt đến khai khẩn vùng đất Bắc Quảng Nam. Địa bàn khai phá lúc bấy giờ diễn ra trên địa bàn trong  điểm của đồng bằng sông Thu Bồn và ở phía nam sông này, thuộc đất của huyện Duy Xuyên về sau. Như vậy  biên giới phía nam của châu Hóa thời Trần không dừng lại ở Bắc sông chợ Cửi (Thu Bồn). Căn cứ vào bản cổ  chỉ của tộc Trà làng Phú Xuân (thuộc tổng Quảng Hóa, phủ Duy Xuyên) lập ngày 21 tháng 9 năm Thái Đức 3  (1780), vốn là một tộc họ người Chăm ở lại khai thác đất đai cùng người Việt nơi vùng “tam giác châu” Ô Da –  Thu Bồn. cho biết đến đến cuối thời Trần, do chiến tranh Chiêm – Việt, ông tổ tộc này phải bỏ chỗ ở cũ là làng  La Vân (tức Phú Xuân về sau), chạy vào làng Đồng Dương (ở phía Nam sông Ly Ly), là thôn nhà của ông Chế  Tịnh (một người Chăm khác) ở trọ, chúng tôi cho rằng biên giới phía nam của châu Hóa lúc bấy giờ có khả năng   đến sông Ly Ly (Hương An)”. Và cũng theo Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá đi đến nhận định rằng: “Trong buổi đầu  quốc gia Đại Việt, Bắc Quảng Nam đã thuộc về Thuận – Hóa. Nếu Thuận Hóa là “phên dậu phía Nam” của  nước Đại Việt thì huyện Điện Bàn chính là “phên dậu của phên dậu”, một thời làm “cột mốc biên giới” che đỡ  cho cả Thuận – Hóa trong công cuộc tái thiết xây dựng, và một thời gian dài sau đó sẽ trở thành “hành lang  quân sự” của những cuộc chiến tranh”                  Dưới thời Hồ, để ổn định biên giới phía Nam do Champa trước kia thường xuyên đánh phá ở thời Trần mạt,  Hồ Quy Ly muốn làm cho Champa suy yếu và thần phục nhà Hồ để tránh hậu họa về sau. Vì vậy năm 1402, nhà  Hồ cho xây dựng con đường Thiên lý từ thành Tây Đô đến Hoá Châu, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đời Hán  Thương năm Thiệu Thành thứ 2 (1402), Nhâm Ngọ, tháng 3, sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hoá Châu, dọc  đường đặt phố xá để truyền thư, gọi là đường thiên lý”.           Tháng 7 năm 1402, Hồ Quý Ly cử đại binh đi đánh Champa và thắng trận. Phủ biên tạp lục cho  biết: “Vua nước ấy là Ba­ Đích lại dâng đất Chiêm Động và Cổ Luỹ Động. Quý Ly nhận chia làm 4 châu:  Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ lộ Thăng Hoa, biên làm quân ngũ, khuyên dân nộp trâu thì cho quan tước  để lấy trâu cấp cho dân di cư”.           Theo như sự khảo cứu của Học giả Đào Duy Anh, trong Đất nước Việt Nam qua các đời, thì lộ Thăng Hoa  nằm ở phía Nam sông Chợ Cửi đến sông Bến Ván tương đương với vùng đất Nam Quảng Nam ngay này. Cũng  theo Ông thì châu Thăng là miền Thăng Bình và Duy Xuyên. Châu Hoa là miền Tam Kỳ. Ba huyện Lê Giang, Đô  Hòa và An Bị của châu Thăng tương đương với ba huyện Lễ Dương tức huyện Thăng Bình, Huyện Duy Xuyên  và Huyện Quế Sơn ngày nay. Châu Hoa thì tương đương với phủ Tam Kỳ thời Nguyễn, tương đương với huyện  Hà Đông, tức thành phố Tam Kỳ ngày nay, miền nguồn Chiên Đàn và miền nguồn Hữu Bang. Châu Tư thì thuộc  trong phạm vi của hai huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh trong lưu vực sông Trà Khúc, ở miền Bắc tỉnh Quảng Ngãi, 
  7. huyện Trì Bình ở dưới, huyện Bạch Ô ở trên. Châu Nghĩa trong phạm vi của lưu vực sông Vệ và huyện Mộ  Đức hiện ở miền Đông Nam tỉnh Quảng Ngãi.            Như vậy dưới thời nhà Hồ, trong một thời gian biên giới về phía Nam của Đại Việt đã vượt qua sông Trà  Khúc hơn 50km về phía Nam đến huyện Mộ Đức thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Nhưng sau đó trong khi Đại  Việt bị quân Minh xâm lược thì Champa đã nhân cơ hội đó chiếm lại 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.           Trong những đời vua đầu của thời hậu Lê, sau khi mới giành được độc lập, việc nội trị được ưu tiên hàng  đầu nên trước những hành động quấy rối của Champa ở biên giới, vua Lê Nhân Tông chỉ cho quân đánh vào  thành Đồ Bàn, bắt được vua Champa là Ba Đích Lại đưa về Thăng Long và lập cháu (gọi chú) của Ba Đích Lại  là Maha Quý Lai lên thay chứ không lấy lại Chiêm Động Cổ Luỹ (4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa mà nhà Hồ đã  sáp nhập trước đây).             Đến năm 1470, vua Champa là Bàn La Trà Toàn, một mặt cầu viện nhà Minh, mặt khác xuất 10 vạn quân  ra cướp Hoá Châu. Để chấm dứt sự quấy phá của Champa, vua Lê Thánh Tông thân chinh đem 26 vạn quân đi  đánh Champa. Vua cho vẽ bản đồ Champa để biết rõ những nơi hiểm yếu của vương quốc này, vua Trà Toàn bị  đánh bại. Sau chiến thắng này, vua Lê Thánh Tông cho một số quân đóng tại kinh đô Champa chứ không rút hết  về nước như trước nữa. Trong khi khi vua Lê Thánh Tông đánh vào kinh đô của Champa thì một viên tương của  Champa là Bố Trì Trì đem quân chạy về phía Nam đèo Cả, tự lập làm Vua, xin sắc phong được nhà Lê đồng ý.  Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía Nam, vua Lê Thánh Tông cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới  đèo Cả (hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh. Lại lấy phần thượng nguyên ở phía tây  Hoa Anh – vùng Cheo Reo để Lập nước Nam Bàn.                Như vậy Chiêm Thành ngăn cách hẳn với Đại Việt bằng hai nước, tuy nhỏ nhưng cũng là tấm đệm từ  miền núi ra đến biển. Điều này cũng được Lê Quý Đôn ghi lại ở Phủ biên tạp lục: “Tháng 2 đánh thành Chà –  Bàn. Quân Thuận Hoá bắt sống được Trà Toàn. Tướng nước ấy là Bố Trì chạy đến Phan Lung, giữ đất ấy xưng   vương, chỉ còn lại được 2 phần 5 đất nước, sai người vào cống. Bèn phong Bố Trì làm Chiêm Thành vương, lại  phong Hoa Anh vương và Nam Bàn vương, chia làm 3 nước”.           Vua Lê cho những viên quan Champa đã đầu hàng giữ những chức vụ quan trọng đối với vùng đất mới. Ba  Thái được cử làm Đại Chiêm đồng tri châu, Đa Thuỷ làm Thiêm tri châu. Vua có dụ: “Đại Chiêm và Cổ Luỹ  trước là đất của ta, gần đây bị mất về nước Chiêm Thành, nay lấy lại được hết. Ai dám không theo lệnh thì  chém trước tâu sau”. Vùng đất này được đặt làm đạo Quảng Nam, chia làm ba phủ, chín huyện. Các sở đồn  điền cũng được lập ra để dân nghèo từ miền Bắc vào cùng với những kiều dân cũ đã có ở đó từ trước cùng khai  khẩn, sinh sống.           Trong cuốn sách Vương quốc Champa của Giáo sư Lương Ninh có dẫn của Đại Nam nhất thống  chí như sau “Trong cuộc hành quân này, quân Đại Việt còn vượt qua đèo Cù Mông, tiến tới núi Đá Bia (Thạch 
  8. Bi). Núi Thạch Bi ở phía đông huyện Tuy Hòa, phía bắc đèo Cả, thuộc thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phù Yên ngày nay. Núi   này có một chi, đến bờ biển thành hai… có một khối đá lớn, quan đầu về phía đông như hình người… Vua Lê sai   mài vách núi dựng bia đá để chia địa giới với Chiêm Thành”. Vậy thì phải chăng lãnh thổ Đại Việt về phía nam  dưới thời Lê Thánh Tông kéo đến ngang núi Thạch Bi? Qua quá trình tìm hiểu như sau, theo như Đại Việt sử ký  toàn thư cho biết “Tháng 3 ngày 1, hạ được thành Chà Bàn, bắt sống hơn 3 vạn người…”, “ngày mồng 2 vua  thấy đã phá được thành Chà Bàn rồi, xuống chiếu đem quân về”, từ thành Chà Bàn đến núi Thạch Bi phải qua  đèo Cù Mông, đi qua tỉnh Phú Yên và xuống gần hết tỉnh Phú Yên mới tới đèo Cả trong đó có núi Thạch Bi.  Trong vòng một ngày quân Đại Việt không thể kéo quân đến nơi đây được. Đại Việt sử ký toàn thư như chúng ta  đã biết là được ghi chép dưới thời Lê nên những sự ghi nhận trên là đáng tin cậy. Lý giải vì sao Đại Nam nhất  thống chí lại cho chép vụ việc này thì Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá cho rằng:“qua quá trình mưa gió đã bào mòn, lồi  ra trên đỉnh núi một tảng đá bằng hoa cương không bị bào mòn trông giống như một tấm bia, sau đó người dân  trong vùng đã thiêu dệt thành truyền thuyết rằng vua Lê Thánh Tông đã cho người mài đá và khắc chữ lên phiến  đá đó để đánh dấu cương giới phía Nam của đất nước mà sau này Đại Nam nhất thống chí viết thời nhà  Nguyễn đã có sự lầm lẫn đáng tiếc, đã ghi chép vụ việc này mà giáo sư Lương Ninh đã dẫn”. Vả lại giáo sư  Lương Ninh cũng viết: “Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía nam, vua Lê cắt phần đất ven biển từ đèo  Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh.” Điều này cho thấy phần đất  phía Nam đèo Cù Mông Đại Việt không hề quản lý, thì sự ghi chép của Đại Nam nhất thống chí về địa giới phía  Nam với Chiêm Thành là núi Thạch Bi là sự lầm lẫn hết sức đáng tiếc.           Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá ở tuổi 34. Theo ông là những người bộ khúc( phụ tách  địa phương) ở Tống Sơn và nhân dân xứ Thanh Hoa. Nguyễn Hoàng dựng dinh ở Ái Tử (Quảng Trị), lôi kéo  được đông đảo nhân dân vào Thuận – Quảng với những chính sách ưu đãi, khoan hoà. Đại Nam thực lục tiền  biên cho biết:“ Chúa vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được nhân dân mến phục, bấy giờ   thường xuyên là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng lên, thực là xây nền từ đấy”.            Như vậy, từ những duyên cớ mà lịch sử, Nguyễn Hoàng với sự kiện vào trấn thủ ở vùng Thuận – Quảng,  đã đặt những viên gạch đầu tiên trong sự nghiệp gây dựng nên xứ Đàng Trong.           Cũng trong năm 1558, người Chăm Hoa Anh thường xuyên quấy rối, cướp bóc dân cư người Việt làm ăn  sinh sống ở đây, nên Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh tiến quân vào Hoa Anh, tới sông Đà Rằng đối phó với  quân Champa, sáp nhập vùng đất này vào lãnh thổ xứ Đàng Trong. Đến năm 1611, quân Champa ở Hoa Anh lại quấy nhiễu đánh phá, Nguyễn Hoàng sai Văn Phong vào Phú Yên  đánh dẹp và thu phục tiểu quốc Hoa Anh vào lãnh thổ Đàng Trong. Mở rộng Đàng Trong từ đèo Cù Mông đến  đèo Đại Lãnh. Năm 1653, vua Champa là Bà Tấm đem quân vào đòi lấy Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần sai  Hùng Lộc Hầu làm thống binh đem 3.000 quân đi đánh, thu phục vùng đất Khánh Hòa ngày nay. Năm 1675,  Người Champa thường xuyên cho quân đánh phá đất Phú Yên, Nguyễn Phúc Tần cho quân đánh, Vua Chăm là Bà 
  9. Bật phải xin hàng, dâng đất cho chúa Nguyễn từ sông Phan Rang trở ra, Chúa Nguyễn đặt làm phủ Thái Ninh và  dinh Thái Khang để trấn thủ.           Tháng 2 năm 1693, nhân vua Champa là Bà Tranh chủ động tấn công vào vùng Khánh Hòa ngày nay (tuyên  bố bỏ lệ triều cống, “làm phản, hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh), chúa Nguyễn Phúc Chu  đã ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh chỉ huy quân đánh dẹp, sáp nhập vùng đất còn lại của Champa, lập nên phủ  Bình Thuận. Như đã trình bày kể từ sau năm 1471 trở đi, Champa đã không còn tồn tại với ý nghĩa là một vương  quốc độc lập nữa mà trở thành một đơn vị hành chính đặc biệt nhất của Đại Việt – một phủ có quyền tự trị  tương đối và vẫn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Đại Việt.           Về vấn đề vương quốc Champa vẫn còn tồn tại như một đơn vị hành chính đặc biệt cho đến thời kỳ  Minh Mạng (1833) chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để sáng tỏ hơn.           THAY LỜI KẾT LUẬN           Như vậy, sự xung đột của hai nhà nước phong kiến Đại Việt và Champa là không thể tránh khỏi, bởi trong  tư duy của giới lãnh đạo phong kiến thì tư tưởng bành trướng luôn đóng vai trò chỉ đạo, tùy thuộc vào sự hưng  vong, sức mạnh của mỗi vương quốc qua các giai đoạn mà ưu thế giữa hai bên có sự thay đổi, trái ngược lại với  sự đối kháng đó thì người dân chỉ muốn sinh sống hòa bình, mưu kế sinh nhai. Trong khi đó thì phong kiến Trung  Quốc luôn rình rập âm ưu bành trướng xuống phương Nam, là nguy cơ thường trực, đe dọa sự sống còn của cả  dân tộc. Do đó vấn đề hội nhập để cùng tồn tại và phát triển là xu hướng vận động thực tế khách quan của lịch  sử. Việc phong kiến Đại Việt thắng thế hơn so với Champa và từng bước quản lý vùng đất này ở các giai đoạn  sau tuy nó thuộc vào nhận thức chủ quan là thôn tính của giai cấp phong kiến nhưng nó phù hợp với xu thế  chung của dân tộc là thống nhất, cố kết dân tộc để cùng nhau chống lại mối đe dọa thường trực là âm mưu bành  trướng về phương Nam của phong kiến Trung Quốc. Việc Champa suy yếu và lần lượt sáp nhập thống nhất vào  Đại Việt là kết quả tất yếu của một quá trình, hình thành nên sự cố kết dân tộc, pha trộn bản sắc văn hóa giữa  các cộng đồng dân cư cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Bài do tác giả gởi đến nghiencuulichsu Về quảng cáo Chia sẻ: https://nghiencuulichsu.com/2015/09/30/cuoc-xung-dot-viet-chiem-trong-tien-trinh-lich-su-dan- toc/
  10. CÁC   CUỘC   CHIẾN   TRANH   GIỮA   ĐẠI   VIỆT   VỚI   CHIÊM   THÀNH   VÀ   HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ CỦA NHÂN DÂN CHAMPA 1. Các cuộc chiến tranh giữa Đại Việt với Chiêm Thành a) Giới thiệu sơ lược về danh xưng Đại Việt và Chiêm Thành ­ Đại Việt: Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi đổi quốc hiệu thành Đại  Việt, tiến hành xây dựng nhà nước phong kiến tự chủ. ­ Chiêm Thành (Champa): được hình thành trên cơ  sở  nên văn hóa Sa  Huỳnh từ giữa TNK III TCn đến cuối TNK I Cn. b) Diễn tiến các cuộc chiến tranh giữa Đại Việt với Chiêm Thành Triều vương thứ bảy (991­1044) : vương triều Vijaya  Năm 1044, viện cớ Champa không chịu triều cống từ hơn 16 năm qua và còn  quấy rối lãnh thổ, Lý Thái Tôn dẫn đầu một đại binh gồm 10.000 thủy   quân  xuống  đánh.  Jaya  Sinhavarman II  vừa  tổ   chức  phản  công vừa  cho  người sang Trung Hoa cầu cứu. Quân Chiêm chận quân Đại Việt tại phía  nam sông Thu Bồn (Quảng Nam) nhưng bị  thua to: gần 30.000 binh sĩ và  hơn 60 voi trận phơi thây trên chiến trường, hơn 5.000 quân Champa và 30   voi trận bị bắt sống. Jaya Sinhavarman II cũng bị tử thương trong trận này,  tướng Quách Gia Gi (Isvaras) liền cắt lấy đầu mang sang trại vua Lý làm lễ  vật xin hàng. Lý Thái Tôn thấy quân Champa bị giết quá nhiều liền ra lệnh  không cho binh sĩ giết người vô cớ. Quân Đại Việt tiếp tục tiến xuống phía   Nam, chiếm đế đô Phật Thệ (Vijaya hay Đồ Bàn), bắt được vương phi Mỹ  Ê cùng nhiều cung nữ,nghệ nhân mang về đất Bắc.  Trên đường về  nước, khi đến sông Lý Nhân (sông Hương), Lý Thái Tôn  cho người mời Mỵ  Ê sang chầu nhưng bà nhảy xuống sông tự  tử  để  giữ  tiết với chồng. Quý mến sự thủy chung này, vương phi Mỵ Ê được Lý Thái  Tôn phong tước Hiệp chánh hộ  thiên và cho lập đền thờ. Những tù binh  Chiêm Thành sau đó được cấp ruộng đất và cho định cư  tại Hưng Hóa  (Nghệ  An) trong hai xã Vĩnh Khương và Đăng Châu. Nông dân Đại Việt 
  11. cũng di cư  vào các vùng đất mới tại Bố  Chánh, Địa Lý và Ma Linh lập   nghiệp.  Triều vương thứ tám (1044­1074)  Năm 1069, Lý Thánh Tôn (lên ngôi năm 1054) cùng Lý Thường Kiệt mang  30.000 quân và 200 chiến thuyền tiến chiếm Sri Bini (Qui Nhơn), rồi đế đô  Vijaya (Bình Định), giết tướng giữ thành là Bố  Bì Đà La trên sông Tu Mao   (nay là Hà Giao). Rudravarman III băng rừng chạy sang Chân Lạp tị  nạn.   Tại đây hoàng gia Chăm bị  người Khmer bạc đãi, Rudravarman III về  lại   Vijaya chịu cho quân Đại Việt bắt sống, cùng với 3.000 quân và gia quyến,  hơn là qui thuận Angkor. Tuy vậy thành Vijaya vẫn bị  quân Đại Việt tràn   vào đốt phá trước khi rút về  nước. Dân số  Vijaya lúc đó được ghi nhận là  hơn 2.560 gia đình. Để  chuộc lại tự  do, Rudravarman III xin dâng ba tỉnh  phía   bắc   Champa   gồm   Bố   Chánh   (hay   Bố   Chính),   Địa   Lý   và   Ma   Linh   (Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay). Lãnh địa Indrapura bị xóa tên và  trở  thành ba tỉnh của Đại Việt. Nhà Lý đổi tên Ma Linh thành châu Minh   Linh, Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Bố Chánh được giữ nguyên tên.  Triều vương thứ chín (1074­1139) :  Năm 1075, viện cớ  phục hồi ngôi vua cho con cháu Rudravarman III (Chế  Củ), nhà Lý sai Lý Thường Kiệt mang quân chiếm lại ba châu vừa bị mất.   Trước sự  chống trả  mãnh liệt của quân Chiêm, Lý Thường Kiệt phải lui  binh nhưng cho người vẽ lại địa thế rồi đưa một số  nông dân gan dạ (thật  ra là những binh lính trá hình) vào định cư. Hay tin quân Lý bị Champa đánh  bại, vua Tống sai Vương An Thạch mang 10.000 quân tiến qua biên giới   tấn công Đại Việt. Lý Thường Kiệt lui về  bảo vệ  lãnh thổ  phía bắc. Ba   châu vừa chiếm lại lọt vào tay Champa.  Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì kết hợp với Champa và Angkor, mang  7.000 quân tiến công Đại Việt nhưng bị Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh  bại.   Thừa   thắng,   Lý   Thường   Kiệt   tiến   xuống   chiếm   đóng   đế   đô   Phật  Thành, Harivarman IV phải cùng con cái và một số  thân tín chạy lên núi  trốn ; tại đây phái đoàn được các sắc dân Thượng che chỡ.  Năm 1103, một người Việt ở phủ Diên Châu (Nghệ An) tên Lý Giác nổi lên   làm phản. Lý Thường Kiệt vào đánh, Lý Giác thua chạy sang Phật Thành  (Vijaya) thuyết phục vua Jaya Indravarman II hưng binh chiếm lại vùng đất   đã mất. Lý Thường Kiệt một lần nữa phải thân chinh đi dẹp lọan, Jaya 
  12. Indravarman II bị thua phải trả lại ba châu đã chiếm và chịu triều cống trở  lại năm 1104. Triều vương thứ mười một (1145­1318) : Năm 1167, Lý Anh Tôn sai Tô Hiến Thành mang quân đánh Champa. Jaya  Indravarman IV vội cử  người sang cống nạp, Tô Hiến Thành lui quân về  nước. Năm 1171, một quan nhân gốc Hoa (không rõ tên) ­ quê  ở  Ki Yang  Kiun, Quí Châu, thuộc đảo Hải Nàm, bị  chìm tàu trôi giạt vào bờ  biển   Champa ­ được dân chúng dẫn đến trình diện Jaya Indravarman IV.  Người   này chỉ  cho vua Champa cách cưỡi ngựa xung trận thay vì dùng voi như   trước, điều này làm nhà vua rất thích thú vì hiệu quả thần tốc và gọn nhẹ   của nó. Sau khi nắm vững được thuật cỡi ngựa, Jaya Indravarman IV cử   một đoàn người sang Cửu Châu, đảo Hải nam. Năm 1318, quân Trần tiến xuống Đồ  Bàn, Chế  Năng cùng hoàng gia chạy   sang Java lánh nạn, triều đình Chiêm Thành bị  bỏ  trống. Đây là đợt di dân  thứ  ba của người Chăm ra hải ngoại. Chế  Năng là con thứ  hậu Tapasi,   người Yavadvipa.  Triều vương thứ mười hai (1318­1390) :  Từ 1371 đến 1383, quân Champa đã ba lần chiếm đóng Thăng Long và năm  1390 lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư thì Chế Bồng Nga bị tử trận,   chấm dứt một trang sử anh hùng.  Nét đặc biệt của Chế Bồng Nga là mỗi lần đánh phá xong, ông cho rút quân   về bên kia đèo Hải Vân chứ không cho người ở lại quản trị trực tiếp những  vùng đất vừa bị chiếm như những vua trước, vì người Champa tin rằng trấn  đóng những vùng đất lạ sẽ mang tai họa và cũng không muốn bị hao tổn lực  lượng bởi những hành động kháng chiến. Năm 1407, hoàng tử  Ngauk Glaun Vijaya (con Ba Đích Lại) cất quân đánh  Đại Việt, giết quan trấn thủ lộ Thăng Hoa là Chế  Ma Nô Dã Na (con của   Chế Bồng Nga). Dẹp yên phía Bắc, Ba Đích Lại mang quân xuống tấn công   vương quốc Chân Lạp phía nam đang suy yếu, vì bị  Xiêm La đánh phá liên  tục.  Năm 1428, Lê Lợi đuổi được quân Minh ra khỏi lãnh thổ  và lên ngôi vua,  hiệu Thánh Tổ. Trước thế lực của nhà Lê, Ba Đích Lại trả những vùng đất   đã chiếm dưới thời nhà Minh, đổi thành lộ  Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây  và đặt quan cai trị. Việc giao hảo giữa Champa và Đại Việt trở nên tốt đẹp. 
  13. Năm 1433 Lê Lợi mất, con là Nguyên Long, 11 tuổi, lên ngôi hiệu Thái Tôn,  Ba Đích Lại liền trở mặt. Năm 1434, ông cho quân sang đánh phá các vùng  đất (Hóa châu) vừa giao trả trước đó, vua Lê phải cử Lê Khôi và Lê Chiếc   ra dẹp, vua Champa mới chịu triều cống trở lại.  Trong hai năm 1444 và 1445, Champa nhiều lần dẫn quân tiến vào Hóa châu  nhưng đều bị  đẩy lùi. Năm 1446, được Maha Quí Lai hướng dẫn, quân Lê  chiếm thành Đồ Bàn, bắt sống Bí Cai và tất cả phi tần đem về Thăng Long.   Maha Quí Lai được nhà Lê tôn lên làm vua Champa và chịu triều cống, quan   hệ giữa hai nước tốt đẹp trở lại.  Năm 1448, Lê Nhân Tôn đánh dẹp các lực lượng Thượng do những hoàng  tôn Champa lãnh đạo, chiếm xứ  Bồn Man (Djarai­Kontum) và đặt thành  châu Quy Hợp rồi giao cho một vương tôn Champa thần phục nhà Lê cai  quản.  Triều vương thứ mười bốn (1458­1471) : Trong hai năm 1468 và 1469, Trà Toàn vừa cho người sang cầu viện nhà  Minh vừa mang đại quân (100.000 người) sang chiếm Hóa châu (1469­1471).  Trước khi ra quân, ngày 6­10­1471, nhà vua đọc hịch Bình Chiêm trước ba  quân, lời lẽ rất đanh thép, rồi cho sứ sang Trung Hoa báo cáo sự xâm phạm   lãnh thổ của Champa. Lê Thánh Tôn cất đại quân hơn 250.000 người sang   đánh Champa, trong đó 100.000 đi bằng đường thủy, 150.000 đi bằng đường  bộ. Đại quân nhà Lê chiếm cửa Thị  Nại rồi tiến về  Đồ  Bàn. Trà Toàn sai   em là Po Kaprih dẫn đội tượng binh gồm 5.000 người ra đối chọi nhưng bị  đánh bại, Trà Toàn rút vào cố thủ thành Đồ Bàn. Thành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh.   Vua Champa là Trà Toàn bị  bắt sống và tự  sát trên đường chở  về  Thăng   Long.(05/03/ Al) Trong cuộc tiếp kiến, Trà Toàn xin vua Lê chỉ làm tội một   mình ông và tha cho con cái gồm 10 người. Trên đường về tới Nghệ An, Trà  Toàn tự  tử chết. Lê Thánh Tôn sai cắt đầu Trà Toàn treo  ở  đầu thuyền và   cho khắc chữ  "Cổ  Chiêm Thành ngươn ác Trà Toàn chi thủ". Ít nhất hơn   60.000 người Chăm bị  giết và 30.000 bị  bắt làm nô tỳ  cho quân Đại Việt.   Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn. Kể  từ  năm 1653, đất đai Champa tự  thu hẹp lại trong lãnh địa của tiểu  vương   quốc   Panduranga,   mà   nhà   sử   học   thường   gọi   là   vương   quốc  Panduranga­Champa. 2. Nhận xét về cuộc chiến tranh Đại Việt với Chiêm Thành a) Về tính chất: Đây là cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước, mở rộng lãnh thổ.
  14. b) Về đặc điểm:  ­ Là cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức  ­ Vừa là cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, vừa là cuộc chiến tranh mở rộng   biên giới lãnh thổ. ­ Đối với Đại Việt, đây là cuộc chiến tranh tự lực tự cường; đối với Champa  thì đây là cuộc chiến tranh có sự hậu thuẫn của Trung Hoa. c) Về tư tưởng Ðại Việt và Champa là hai nước láng giềng có hai chủ thuyết chiến tranh hoàn   toàn đối ngược nhau. Là một vương quốc hấp thụ  nền văn minh  Ấn Ðộ  Giáo,  chiến tranh của Champa chống nước làng giềng là chiến tranh chinh phạt để  làm  suy yếu đi sức mạnh quân sự  và chính trị  của phe địch, chứ  không phải là chiến   tranh chiếm đất đai. Chủ  thuyết này đã biểu lộ  rõ rệt trong thời Chế  Bồng Nga.   Hàng năm, Chế  Bồng Nga xuất quân ra miền bắc đốt phá thành Thăng Long sau   đó rồi kéo quân trở về, nhưng Chế Bồng Nga không bao giờ nghĩ đến chính sách   chiếm đất đai Ðại Việt để xát nhập vào lãnh thổ của mình. Nếu Champa áp dụng   chủ  thuyết chiến tranh nhằm chiếm đất đai thì vương quốc Ðại Việt đã bị  xóa   hẳn trên bản đồ vào cuối thế kỷ thứ 14 rồi. Ngoài   ý  niệm  chinh   phạt,  chiến  tranh  của  Champa   chống  nước  làng  giềng   thường mang một yếu tố tín ngưỡng rõ rệt, đó là tàn phá những gì có liên hệ đến   uy quyền thần linh của quốc gia phe địch. Nếu Champa đốt phá thủ  đô Thăng   Long, vì đây là trung tâm chính trị của Ðại Việt; dập tan các nơi thờ phượng thần   linh, vì đó là các thần giữ nước non của Ðại Việt, v.v. Ðối với Champa, đập tan  thần linh phe địch tức là biểu tượng cho sức mạnh thần linh của mình. Chính vì  thế, sau ngày thắng trận, vua chúa Champa thường hay xây đền dựng tháp, dâng   lễ vật cho thần linh để bày tỏ sự tri ân của mình. Ngoài màu sắc tín ngưỡng này, Champa còn có một qui luật riêng liên quan đến   chiến tranh, đó là không bao giờ dùng chiến lược “dương đông kích tây” hay nói  một cách khác tìm cách đánh lén lút sau lưng địch. Mỗi lần xuất quân, Champa   phải hẹn hò trước với phe địch về ngày tháng nhất định và nơi chốn của bãi chiến   trường. Vì quá trọng nhân cách “Quân Tử” trong trận chiến, Champa thường hay  vấp phải những thất bại nặng nề.
  15. Ðối với Ðại Việt, ý niệm về  chiến tranh hoàn toàn đối ngược. Chiến tranh là  trận chiến quân sự không có mục tiêu chinh phạt phe địch theo nghĩa rộng của nó,  mà là để chiếm đoạt tài sản và đất đai của phe địch để sáp nhập vào lãnh thổ của   mình. Nói đến chiến tranh, Ðại Việt thường hay áp dụng mọi chiến lược, mọi toan   tính nhằm che mắt hay lừa phe địch trong những cú đánh bất ngờ  hòng dễ  dàng   phá tan phe địch. Chính vì thế, chiến tranh của Ðại Việt luôn luôn mang màu sắc  linh động, tức là dùng sức mạnh quân sự để mở rộng bờ cỏi đất nước của mình.  Một khi đã chiếm đất đai, Ðại Việt áp dụng chính sách đồng hóa ngay dân bản   xứ để họ trở thành người Việt thật sự có cùng văn hóa Việt. Chỉ cần vài thế  kỷ,  chính quyền  Ðại  Việt  đã lột  bỏ  hoàn toàn tâm linh và tiếng nói của dân tộc  Champa sống trên giải đất bị  chiếm đóng từ  Quảng Bình đến Cam Ranh, không  phải bằng bạo lực mà là bằng cách đồng hóa văn hóa. d) Về lực lượng: + Đại Việt là quốc gia thống nhất, nên lực lượng tham gia binh lính có tinh thần   đoàn kết và thống nhất cao. + Champa được hình thành từ những Mandala­ những tiểu vương quốc nhỏ, nên  Champa không phải là quốc gia thống nhất, trong chiến tranh, quân đội, binh lính  của Champa không phải là một quân đội thống nhất. Đây chính là khuyết điểm  lớn nhất đối với quân đội Champa.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0