YOMEDIA
ADSENSE
Cúp C1 Châu Âu Và Những Thống Kê (2010)
246
lượt xem 77
download
lượt xem 77
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Năm 1954, nhà báo Gabriel Hanot của báo L'Equipe đã đề xuất lập ra một giải thi đấu giữa các đội vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu. Tháng 1 năm 1955, báo L'Equipe đã gửi bản dự thảo "European Cup" đến nhiều câu lạc bộ bóng đá. Ngày 2 tháng 4 năm 1955, 16 đại diện các câu lạc bộ đã thảo luận bản dự thảo này và thông qua sau 3 giờ đồng hồ.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cúp C1 Châu Âu Và Những Thống Kê (2010)
- Champions League 1 Sự ra đời Năm 1954, nhà báo Gabriel Hanot của báo L'Equipe đã đề xuất lập ra một giải thi đấu giữa các đội vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu. Tháng 1 năm 1955, báo L'Equipe đã gửi bản dự thảo "European Cup" đến nhiều câu lạc bộ bóng đá. Ngày 2 tháng 4 năm 1955, 16 đại diện các câu lạc bộ đã thảo luận bản dự thảo này và thông qua sau 3 giờ đồng hồ. Trận đấu đầu tiên đã diễn ra ngày 4 tháng 9 năm 1955 tại Lisbon (Bồ Đào Nha) giữa Sporting Lisbon và FK Partizan (Nam Tư), kết quả hòa 33. Và đội vô địch đầu tiên là Real Madrid (giải có 16 đội tham dự). Từ mùa bóng 1991/1992, giải được đổi tên thành "UEFA Champions League". Và đến mùa bóng 1997/1998, có một sự thay đổi lớn trong điều lệ giải, ngoài các đội vô địch quốc gia, các đội có thứ hạng cao trong mỗi giải vô địch (tùy theo mỗi quốc gia) cũng có quyền tham dự. Mùa bóng năm 2005/2006 và 2006/2007, 3 quốc gia Tây Ban Nha, Anh và Ý được quyền cử 4 đội tham gia. Nhạc hiệu Bản nhạc nền Cúp C1 châu Âu do do nhà soạn nhạc người Anh Tony Britten soạn theo phong cách của nhà soạn nhạc người Đức George Frideric Handel (16581759), được dàn nhạc Royal Philharmonic Orchestra (London Anh) trình bày. Bản nhạc có mang nhiều âm hưởng của bản Zadok the Priest của Handel. Chiếc cúp Cúp cao 74cm, nặng 8kg và trị giá khoảng 200.000 Franc. Đội đoạt cúp còn được nhận 20 Huy chương vàng và một phiên bản cúp, đồng thời có quyền giữ chiếc cúp thật trong vòng một năm trước khi trao lại cho UEFA "trong tình trạng nguyên xi" (nếu hư hại sẽ bị phạt nặng), một tháng trước trận chung kết lần sau. Nếu 3 lần liên tiếp đoạt chức vô địch, hoặc 5 lần khác nhau, đội có quyền sở hữu vĩnh viễn chiếc cúp và lúc này UEFA phải làm một chiếc cúp khác hoàn toàn giống hệt. Tính tới thời điểm hiện tại, có 5 câu lạc bộ có được vinh dự này là: Real Madrid (9 lần vô địch vào các năm 1956, 1957, 1958, 1959, 1960, 1966, 1998, 2000, 2002); AC Milan (7 lần vô địch vào các năm 1963, 1969, 1989, 1990, 1994, 2003, 2007); Liverpool FC (5 lần vô địch vào các năm 1977, 1978, 1981, 1984, 2005); FC Bayern München (3 lần vô địch liên tiếp vào các năm 1974, 1975, 1976); AFC Ajax (3 lần vô địch liên tiếp vào các năm 1971, 1972, 1973)
- Các đội tham dự và thể thức thi đấu Kể từ khi ra đời với tên gọi Cup C1, giải đấu này chỉ dành cho các đội đoạt chức vô địch quốc tại giải vô địch hạng cao nhất của các quốc gia châu Âu là thành viên của UEFA và đội đương kim vô địch của mùa giải trước đang giữ cúp. Vì vậy, nếu một đội bóng không bảo vệ được danh hiệu vô địch trong nước nhưng đoạt được Cup C1 thì năm sau tiếp tục được dự giải và quốc gia đó sẽ là nước duy nhất có 2 đội dự Cup C1. Nếu đội vô địch Cúp C1 đồng thời đoạt "cú đúp" vô địch cả giải trong nước thì quốc gia đó vẫn chỉ có 1 đội dự Cup này như những nước khác. Trong cả trường hợp đội vô địch Cup C1 bị xuống hạng ở giải trong nước vẫn được dự giải này trong mùa bóng tiếp theo. Thể thức duy nhất mà UEFA áp dụng từ năm 1955 tới năm 1991 là phân cặp đấu loại trực tiếp từ vòng đầu tới vòng cuối cùng. Vòng đầu có 32 đội, lần lượt qua 5 lượt tới trận chung kết còn 2 đội. Mùa bóng 19861987, vòng 1 Cup C1 chỉ có 31 đội tham dự do sự cố chính trị làm vắng mặt 1 thành viên. Do đó đội đương kim vô địch là Steaua Bucharest của Rumani được vào thẳng vòng 2. Từ mùa bóng 19911992, Cup C1 đổi tên thành Champions League Giải đấu của các nhà vô địch. Sau 2 vòng loại đầu tiên, 8 đội mạnh nhất chia 2 bảng đấu vòng tròn để chọn ra 2 đội đầu bảng vào chung kết. Real Madrid là đội bóng giữ kỷ lục lâu bị loại ở Cup C1 nhất. Tính từ khi tham gia năm 1955 tới năm 1960, Real Madrid liên tục vô địch Cup này 5 năm và chưa từng bị loại. Tới mùa bóng 1960 1961, Real cùng FC Barcelona là đội vô địch trong nước cùng đại diện cho Tây Ban Nha dự giải. Do thời đó chưa có quy định hạt giống nên việc bốc thăm ngẫu nhiên khiến Real Madrid và Barcelona gặp nhau ngay vòng đầu. Kết quả Barcelona đã loại Real bằng kết quả hoà 22 ở sân Bernabeu và thắng 21 ở sân Nou Camp. Đó là lần đầu tiên Real Madrid bị loại ở Cup C1. Từ mùa bóng 19971998, UEFA mở rộng số đội tham dự, cho phép các nước có thành tích cao nhất được cử 2 đại diện tham dự đội vô địch và đội á quân. Do số đội tăng lên, số đội dự vòng bảng là 16 và do đó có 4 bảng sau 2 vòng đầu. 8 đội đứng đầu 4 bảng lọt vào vòng tứ kết, đấu loại trực tiếp tới chung kết. Trong những năm tiếp theo, do sức ép từ phía nhóm G14, các đội bóng mạnh và giàu có ở châu Âu, UEFA mở rộng đối tượng tham dự Champions League hơn, cho phép 3 quốc gia có thành tích cao nhất được cử tới 4 đội tham dự, các nước có thành tích thấp hơn có số đội tham dự giảm dần, để tạo điều kiện cho những đội bóng giàu có có cơ hội đoạt Cup này ngay cả khi không vô địch trong nước nhiều năm liền. Các vòng loại cho các đội yếu từ những nước có hệ số điểm thấp được thu xếp từ mùa hè để bắt đầu vào tháng 9, vòng 1 bắt đầu là vòng đấu bảng với số đội tham gia là 32 đội tại 8 bảng đấu.
- Quy định mở rộng đối tượng tham dự này khiến cho giải thực chất không còn đúng với tên gọi "giải đấu của các nhà vô địch" Champions League nữa. Quy định hiện nay Vòng sơ loại đầu tiên: gồm 22 đội vô địch quốc gia các nước được xếp hạng từ 27 và thấp hơn. Vòng sơ loại thứ nhì: gồm 28 đội (11 đội thắng của vòng sơ loại đầu tiên, 11 đội vô địch của các quốc gia xếp từ 16 đến 26 và 6 đội á quân của các quốc gia có các thứ hạng từ 10 15). Vòng sơ loại thứ ba: gồm 32 đội (14 đội thắng của vòng sơ loại thứ hai, 6 đội vô địch của các quốc gia có thứ hạng từ 1015; 3 đội á quân của các quốc gia có thứ hạng từ 7 9; 6 đội hạng 3 của các quốc gia có thứ hạng từ 16 và 3 đội hạng tư của các quốc gia có thứ hạng từ 1 3). Vòng đấu bảng thứ 1: gồm 32 đội, chia làm 8 bảng (4 đội/bảng): 16 đội thắng vòng sơ loại thức 3, đội đương kim vô địch, 9 đội vô địch của các quốc gia có thứ hạng từ 1 9, 6 đội á quân của các quốc gia có thứ hạng từ 16. Sau khi thi đấu vòng tròn, hai đội đứng đầu mỗi bảng sẽ được vào vòng sau. Vòng đấu bảng thứ 2: 16 đội chia thành 4 bảng. Sau khi thi đấu vòng tròn, hai đội đầu mỗi bảng vào vòng tứ kết. Kề từ mùa giải 20032004, Các đội vào vòng đầu bảng thứ 2 sẽ bốc thăm phân cặp đấu loại trực tiếp 2 lượt đi và về. Vòng tứ kết: Bốc thăm phân cặp đội đấu loại trực tiếp. Bán kết: Chung kết: Có tất cả 239 trận đấu. Các đội bị loại tại vòng loại thứ 3 được chuyển sang thi đầu từ vòng 1 cúp UEFA, và xếp hạng 3 tại vòng đấu bảng thứ 1 sẽ được chuyển sang thi đấu tại vòng 3 cúp UEFA. Thể thức bốc thăm phân cặp Vòng đấu bảng thứ nhất: các CLB cùng một liên đoàn không chung bảng. Vòng đấu bảng thứ hai: các CLB cùng một liên đoàn cũng như từng gặp nhau tại vòng bảng thứ 1 không chung bảng. Vòng tứ kết (các đội nhì bảng gặp các đội đầu bảng): 2 đội cùng liên đoàn, từng gặp nhau tại vòng bảng thứ 1, từng gặp nhau tại vòng bảng 2 không gặp nhau tại tứ kết. Những đội nhì bảng sẽ đấu lượt đi trên sân nhà. Vòng bán kết: bốc thăm phân cặp đấu lượt đi và về. Chung kết: đấu 1 trận duy nhất trên sân trung lập. Nếu hòa đá 2 hiệp phụ. Tại tứ kết và bán kết nếu sau 2 lượt tổng tỷ số bằng nhau sẽ đá hiệp phụ cổ điển (không tính bàn thắng vàng hay bạc), nếu vẫn hòa sẽ đá luân lưu xác định đội thắng thua. Xếp hạng vòng bảng Đội thắng được 3 điểm, hòa 1 điểm, thua 0 điểm. Trong trường hợp có hai hay nhiều đội bằng điểm nhau sau khi vòng đấu bảng kết thúc, việc phân định ngôi thứ sẽ dựa trên các tiêu chuẩn sau:
- Giành được nhiều điểm hơn trong các trận đối đầu trực tiếp. Có hiệu số bàn thắng bại cao hơn trong các trận đối đầu trực tiếp Ghi được nhiều bàn thắng trên sân của đối phương hơn trong các trận đối đầu trực tiếp. Có hiệu số bàn thắng bại của tất cả các trận đấu trong bảng cao hơn Ghi được nhiều bàn thắng hơn trong tất cả các trận đấu trong bảng Hệ số điểm của quốc gia vào thời điểm đầu mùa bóng (Hệ số này do UEFA thiết lập và xếp hạng) Các trận chung kết 1956 Real Madrid 43 Reims Parc des Princes, Paris 1957 Real Madrid 20 Fiorentina Santiago Bernabéu, Madrid 1958 Real Madrid 32 A.C. Milan Heysel, Brussels 1959 Real Madrid 20 Reims Neckar, Stuttgart 1960 Real Madrid 73 Eintracht Frankfurt Hampden Park, Glasgow 1961 SL Benfica 32 FC Barcelona Wankdorf, Berne 1962 SL Benfica 53 Real Madrid Olympic, Amsterdam 1963 A.C. Milan 21 SL Benfica Wembley, London 1964 Inter Milan 31 Real Madrid Ernst Happel, Wien 1965 Inter Milan 10 SL Benfica San Siro, Milano 1966 Real Madrid 21 FK Partizan Heysel, Brussels 1967 Celtic F.C. 21 Inter Milan Nacional, Vale do Jamor 1968 Manchester United 41 SL Benfica Wembley, London 1969 A.C. Milan 41 Ajax Amsterdam Santiago Bernabéu, Madrid 1970 Feyenoord Rotterdam 21 Celtic F.C. San Siro, Milano 1971 Ajax Amsterdam 20 Panathinaikos Wembley, London 1972 Ajax Amsterdam 20 Inter Milan De Kuip, Rotterdam 1973 Ajax Amsterdam 10 Juventus Crvena Zvezda, Belgrade 1974 FC Bayern München 11, 40 (đá lại) Atletico Madrid Heysel, Brussels 1975 FC Bayern München 20 Leeds United F.C. Parc des Princes, Paris 1976 FC Bayern München 10 AS Saint Etienne Hampden Park, Glasgow 1977 Liverpool F.C. 31 Borussia Moenchengladbach Olimpico, Roma 1978 Liverpool F.C. 10 Club Brugge Wembley, London 1979 Nottingham Forest F.C. 10 Malmö FF Olympic, München 1980 Nottingham Forest F.C. 10 Hamburger SV Santiago Bernabéu, Madrid 1981 Liverpool F.C. 10 Real Madrid Parc des Princes, Paris 1982 Aston Villa F.C. 10 FC Bayern München De Kuip, Rotterdam 1983 Hamburger SV 10 Juventus Olympic, Athena 1984 Liverpool F.C. 11, 42 (11m) AS Roma Olimpico, Roma 1985 Juventus 10 Liverpool F.C. Heysel, Brussels 1986 Steaua Bucarest 00, 20 (11m) FC Barcelona Sánchez Pizjuán, Seville 1987 FC Porto 21 FC Bayern München Ernst Happel, Wien
- 1988 PSV Eindhoven 00, 65 (11m) SL Benfica Neckar, Stuttgart 1989 A.C. Milan 40 Steaua Bucarest Camp Nou, Barcelona 1990 A.C. Milan 10 SL Benfica Ernst Happel, Wien 1991 FK Crvena Zvezda 00, 53 (11m) Olimpique de Marseille San Nicola, Bari 1992 F.C. Barcelona 10 U.C. Sampdoria Wembley, London 1993 Olympique de Marseille 10 A.C. Milan Olympic, München 1994 A.C. Milan 40 FC Barcelona Olympic, Athena 1995 Ajax Amsterdam 10 A.C. Milan Ernst Happel, Wien 1996 Juventus 11, 42 (11m) Ajax Amsterdam Olimpico, Roma 1997 Borussia Dortmund 31 Juventus Olympic, München 1998 Real Madrid 10 Juventus Amsterdam Arena, Amsterdam 1999 Manchester United 21 FC Bayern München Camp Nou, Barcelona 2000 Real Madrid 30 Valencia CF Stade de France, SaintDenis 2001 FC Bayern München 11, 54 (11m) Valencia CF San Siro, Milano 2002 Real Madrid 21 Bayer Leverkusen Hampden Park, Glasgow 2003 A.C. Milan 00, 54 (11m) Juventus Old Trafford, Manchester 2004 FC Porto 30 AS Monaco FC VeltinsArena, Gelsenkirchen 2005 Liverpool F.C. 33, 32 (11m) A.C. Milan Atatürk Olimpiyat, Istanbul 2006 Barcelona 21 Arsenal Stade de France, Paris 2007 Ac Milan 2–1 Liverpool Olympic, Athena 2008 Manchester United 11, 65 (11m) Chelsea Luzhniki, Moskva 2009 Barcelona 20 Manchester United Olimpico, Roma 2010 Inter Milan 20 FC Bayern München Santiago Bernabéu, Madrid ………………………………………. Các kỷ lục Trận đấu đông khán giả nhất: Trận chung kết có tỷ số cao nhất: Năm 1960 giữa Real Madrid Eintracht Frankfurt: 73 Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất: Raúl González 64 bàn (tính đến ngày 22 tháng 10 năm 2008) Cầu thủ ghi bàn tại nhiều trận chung kết liên tiếp: Di Stefano (Real Madrid): 5 trận chung kết liên tiếp, từ 1956 1960. Câu lạc bộ đoạt nhiều cúp nhất: Real Madrid (9 lần: 1956, 1957, 1958, 1959, 1960, 1966, 1998, 2000, 2002) Câu lạc bộ tham gia nhiều trận chung kết nhất: Real Madrid (12 lần). Nếu chỉ tính từ khi đổi tên thì Milan là số 1 với 6 lần đoạt 4 cúp. Cầu thủ tham gia nhiều trận chung kết nhất: Francisco Gento (Real Madrid) và Paolo Maldini (AC Milan) cùng 8 lần có mặt trong trận chung kết cúp C1. Cầu thủ đoạt nhiều cúp C1 nhất: Francisco Gento (Real Madrid) với 6 lần Bàn thắng nhanh nhất trong trận chung kết: do công của Paolo Maldini (số 3, AC Milan) ghi vào giây thứ 51, trận Liverpool AC Milan năm 2005 và anh cũng thiết lập luôn kỉ lục cầu thủ lớn tuổi nhất ghi bàn trong 1 trận chung kết
- Bàn thắng nhanh nhất giải Champion League: thực hiện giây thứ 10,2 do công của Roy Makaay trong trận Bayern München Real, lượt về vòng 2, mùa giải 20062007 Cầu thủ lớn tuổi nhất tham gia trận chung kết: Dino Zoff (thủ môn Juventus) ra sân năm 1983 khi 41 tuổi 86 ngày; còn tính Champions League thì Paolo Maldini (hậu vệ Milan) ra sân trận chung kết 2007 khi 38 tuổi 331 ngày. Đội bóng thất bại trong nhiều trận chung kết nhất: SL Benfica (Bồ Đào Nha): 5 lần (1963, 1965, 1968, 1988, 1990) Cầu thủ đầu tiên giành Cup C1 trong màu áo 2 câu lạc bộ khác nhau: Belodedici (người Romania): năm 1986 vô địch với Steaua Bucharest và 1991 vô địch với Sao Đỏ Belgrade. Cầu thủ đạt thành tích này với 2 câu lạc bộ trong 2 năm liên tiếp là Marcel Desailly: năm 1993 với Olympic Marseille và năm 1994 với AC Milan ; Samuel Etoo: năm 2009 với Barca và năm 2010 với Inter Milan. Cầu thủ duy nhất đoạt cúp 4 lần với 3 CLB khác nhau: Clarence Seedorf: Ajax Amsterdam (1995), Real Madrid (1998), AC Milan (2003, 2007) Huấn luyện viên giành nhiều cúp nhất: Bob Paisley, dẫn dắt Liverpool trong giai đoạn 1974 1983 với 3 lần được tận hưởng vinh quang kể trên (1977, 1978, 1981) .
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn