intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc điểm phân bố của ốc cối (Conus spp) tại vịnh Vân Phong Khánh Hòa

Chia sẻ: Danh Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

44
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này xác định thành phần loài, đặc điểm phân bố của ốc cối tại vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) và xây dựng bản đồ phân bố của một số loài phổ biến. Tổng số 19 loài được tìm thấy tại 10 điểm thu mẫu đại diện cho mùa khô và mùa mưa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc điểm phân bố của ốc cối (Conus spp) tại vịnh Vân Phong Khánh Hòa

Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> <br /> Soá 3/2011<br /> <br /> THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br /> <br /> ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ CỦA ỐC CỐI (CONUS SPP)<br /> TẠI VỊNH VÂN PHONG KHÁNH HÒA<br /> DISTRIBUTION OF CONE SNAIL (CONUS SPP) AT VAN PHONG BAY,<br /> KHANH HOA<br /> Đặng Thúy Bình, Bùi Vân Khánh, Nguyễn Thị Thu Nga<br /> Viện Ngiên cứu CNSH & MT - Trường Đại học Nha Trang<br /> TÓM TẮT<br /> Ốc cối (Conoidea) là giống ốc độc có giá trị mỹ nghệ và là nguồn dược liệu quý. Nghiên cứu này xác<br /> định thành phần loài, đặc điểm phân bố của ốc cối tại vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) và xây dựng bản đồ phân<br /> bố của một số loài phổ biến. Tổng số 19 loài được tìm thấy tại 10 điểm thu mẫu đại diện cho mùa khô và mùa<br /> mưa. Số lượng cá thể/điểm thu mẫu vào mùa khô cao hơn mùa mưa và dao động từ 15 - 55/100m2. Các loài<br /> phổ biến là Conus textile (83 cá thể/ 8 điểm thu mẫu); C. striatus (54 cá thể/10 điểm thu mẫu); C. vexilum (42<br /> cá thể/8 điểm thu mẫu); và C. miles (38 cá thể/6 điểm thu mẫu). Bản đồ phân bố của các loài ốc phổ biến cho<br /> thấy ốc cối hiện diện ở hầu hết các điểm thu mẫu nhưng mật độ phân bố mùa khô cao hơn mùa mưa (lần lượt<br /> là 29 - 55 và 12 - 22). Dữ liệu trên làm cơ sở cho các nghiên cứu bảo tồn nguồn lợi giống ốc cối có giá trị kinh<br /> tế và y học.<br /> Từ khóa: Conus, bản đồ phân bố, vịnh Vân Phong, ốc cối<br /> ABSTRACT<br /> The Cone snail (Conoidea) is the toxic Conus species known as precious drug. This study presents<br /> the species composition and distribution of Conus species at Van Phong Bay, Khanh hoa Province. Based<br /> on this data, the distribution of four common Conus species has been mapped. Nineteen species have been<br /> totally found at 10 sampling sites representatively for dry and rainy seasons. The number of individuals per<br /> location was found higher in dry than in the rainy seasons (29-55 and 12-22, respectively). Dominaant species<br /> are Conus textile (83 individuals/8 sampling sites); C. striatus (54 individuals/10 sampling sites); C. vexilum<br /> (42 individuals/8 sampling sites); and C. miles (38 individuals/6 sampling sites). The distribution maps show<br /> that diminant Conus species has been found in most of sampling sites, but the density is higher in dry season<br /> compared to the rainy one. These data can be used for further research on conservation of this high value and<br /> medical species.<br /> Keywords: Conus, distribution map, Van Phong Bay, Cone snail<br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> <br /> trong 16 quốc gia có sự đa dạng di truyền cao<br /> <br /> Bờ biển Việt Nam dài 3.260km và có hơn<br /> <br /> trên thế giới. Đa dạng sinh học của Việt Nam<br /> <br /> 3.000 đảo lớn nhỏ. Năm 1992, Trung tâm<br /> <br /> đặc trưng bởi 11.458 loài động vật, 21.017 loài<br /> <br /> quan trắc bảo tồn thế giới (World Conservation<br /> <br /> thực vật và 3.000 loài vi sinh vật. Việt Nam có<br /> <br /> Monitoring Center) đánh giá Việt Nam là một<br /> <br /> tiềm năng về kinh tế biển với khoảng 20 hệ sinh<br /> <br /> 82 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br /> <br /> Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> <br /> Soá 3/2011<br /> <br /> thái biển, trong đó có khoảng 11.000 loài bao<br /> <br /> tính và kiểm chứng tính chất của một số độc tố<br /> <br /> gồm 2.500 loài cá biển, 225 loài tôm, hơn 200<br /> <br /> (http://www.vnio.org.vn/). Ngô Đăng Nghĩa và<br /> <br /> loài thủy sinh vật, gần 700 loài động vật nổi và<br /> <br /> cs (2010) đã tiến hành khảo sát, phân loại, mô<br /> <br /> 100 loài thực vật rừng ngập mặn, 15 loài cỏ biển<br /> <br /> tả đặc điểm hình thái, xây dựng mối quan hệ<br /> <br /> và hơn 6.000 loài động vật không xương sống.<br /> <br /> tiến hóa và bước đầu khảo sát độc tính của các<br /> <br /> Theo ước tính, có khoảng 1.122km rạn san hô<br /> <br /> loài ốc cối thu tại vùng biển Nam Trung bộ. Tuy<br /> <br /> phân bố từ Bắc vào Nam, 90% các loài san hô<br /> <br /> nhiên, những nghiên cứu sâu về đặc điểm phân<br /> <br /> cứng ở vùng biển Ấn Độ - Thái Bình Dương<br /> <br /> bố của ốc cối vẫn còn rất hạn chế.<br /> <br /> 2<br /> <br /> được tìm thấy ở Việt Nam (Dang và Chu, 2005).<br /> <br /> Nghiên cứu này xác định thành phần loài<br /> <br /> Ở nước ta, ốc là một trong những nguồn<br /> <br /> và đặc điểm phân bố ốc cối ở vịnh Vân Phong<br /> <br /> lợi hải sản có mức độ phong phú về thành phần<br /> <br /> (Khánh Hòa) để xây dựng bản đồ phân bố của<br /> <br /> loài, có giá trị thực phẩm và kinh tế cao. Song<br /> <br /> một số loài ốc cối phổ biển làm cơ sở cho các<br /> <br /> những năm gần đây, tình trạng khai thác quá<br /> <br /> nghiên cứu bảo tồn nguồn lợi giống thủy sản có<br /> <br /> mức cộng với sự ô nhiễm môi trường đang<br /> <br /> giá trị kinh tế và y học.<br /> <br /> làm cho nguồn lợi ốc có chiều hướng suy giảm<br /> nghiêm trọng. Nhiều loài nhuyễn thể có giá trị<br /> cao đang có nguy cơ tuyệt chủng như ốc tù và,<br /> <br /> II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN<br /> CỨU<br /> <br /> ốc đụn, ốc bàn tay, trai tai tượng, ốc vú nàng<br /> <br /> 1. Địa điểm, phương pháp thu mẫu và phân<br /> <br /> (http://www.baomoi.com/Home/DuLich/cand.<br /> <br /> loại<br /> <br /> com.vn/).<br /> <br /> Mẫu ốc cối được thu 2 lần/ năm, đại diện<br /> <br /> Ốc cối là loại động vật thân mềm, có nọc<br /> <br /> cho mùa mưa và mùa khô (tháng 5 và tháng<br /> <br /> độc, sống chủ yếu ở các vùng nước nông nhiệt<br /> <br /> 10 năm 2010) quanh đảo Hòn Lớn thuộc<br /> <br /> đới. Ở Việt Nam có hơn 76 loài (Hylleberg và<br /> <br /> vịnh Vân Phong (Khánh Hòa). Mẫu được thu<br /> <br /> Kilburm, 2003) và khoảng 500 - 700 loài được<br /> <br /> theo phương pháp lặn quan sát theo mặt cắt<br /> <br /> ghi nhận trên toàn thế giới (Nam và cs, 2009;<br /> <br /> (Transect surveys) và quan sát tự do không theo<br /> <br /> Cunha và cs, 2005). Chúng thường được khai<br /> <br /> mặt cắt (free-swimming observations) (Hodgson,<br /> <br /> thác để làm hàng mỹ nghệ và còn là nguồn thực<br /> <br /> 1998; English và cs, 1997).<br /> <br /> phẩm cao cấp ở một số quốc gia như Vanuatu,<br /> <br /> Các thông tin liên quan đến địa điểm khảo<br /> <br /> New Caledonia, Philippines. Gần đây, ốc cối còn<br /> <br /> sát (vị trí, thời gian) được mô tả và ghi chép đầy<br /> <br /> được biết đến như là một loại dược liệu quý để<br /> <br /> đủ vào sổ nhật ký thực địa làm cơ sở cho việc<br /> <br /> chữa các cơn đau mãn tính, ung thư và nhiều<br /> <br /> lập bản đồ phân bố sau này. Vị trí các mặt cắt<br /> <br /> bệnh khác (Oliverra, 2002; Terlau và Olivera,<br /> <br /> (điểm khảo sát) có diện tích khoảng 100m2 và<br /> <br /> 2004; Puillandre và cs, 2010).<br /> <br /> được xác định bằng máy định vị cầm tay GPS<br /> <br /> Những nghiên cứu về ốc cối ở Việt Nam<br /> <br /> (Magellan JPS colour tract, hệ quy chiếu GW 84,<br /> <br /> phần lớn vẫn còn ở mức độ khảo sát, thu<br /> <br /> Đài Loan). Ốc cối được định danh theo Röckel<br /> <br /> thập mẫu và tư liệu liên quan (Hylleberg và<br /> <br /> và cs (1995) và Nguyễn Ngọc Thạch (2007).<br /> <br /> Kilburm, 2003); phân loại, mô tả đặc điểm hình<br /> <br /> Thông tin về 10 điểm thu mẫu được trình bày<br /> <br /> thái (Nguyễn Ngọc Thạch, 2002); xác định độc<br /> <br /> ở bảng 1.<br /> TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 83<br /> <br /> Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> <br /> Soá 3/2011<br /> <br /> Bảng 1. Vị trí các điểm thu mẫu ở Vân Phong (Khánh Hòa)<br /> Ký hiệu<br /> <br /> Thời gian (mùa)<br /> <br /> Kinh độ<br /> <br /> Vĩ độ<br /> <br /> D1<br /> <br /> 5/2010 (khô)<br /> <br /> 109°18’0.84”E<br /> <br /> 12°37’56.23”N<br /> <br /> D2<br /> <br /> 5/2010 (khô)<br /> <br /> 109°18’25.88”E<br /> <br /> 12°38’52.65”N<br /> <br /> D3<br /> <br /> 5/2010 (khô)<br /> <br /> 109°18’25.88”E<br /> <br /> 12°38’52.65”N<br /> <br /> D4<br /> <br /> 5/2010 (khô)<br /> <br /> 109°18’34.30”<br /> <br /> 12°36’12.03”N<br /> <br /> D5<br /> <br /> 5/2010 (khô)<br /> <br /> 109°21’24.82”E<br /> <br /> 12°34’10.39”N<br /> <br /> D6<br /> <br /> 10/2010 (mưa)<br /> <br /> 109°22’33.27”E<br /> <br /> 12°33’11.45”N<br /> <br /> D7<br /> <br /> 10/2010 (mưa)<br /> <br /> 109 . 19 .51.6 E<br /> <br /> 120.38’ 02.7”N<br /> <br /> D8<br /> <br /> 10/2010 (mưa)<br /> <br /> 1090. 20’.19.4”E<br /> <br /> 120.38’ 02.7”N<br /> <br /> D9<br /> <br /> 10/2010 (mưa)<br /> <br /> 1090. 17’.31.6”E<br /> <br /> 120.37’ 31.6”N<br /> <br /> D10<br /> <br /> 10/2010 (mưa)<br /> <br /> 1090. 18’.36.9”E<br /> <br /> 120.38’ 39.6”N<br /> <br /> 2. Nghiên cứu phân bố ốc cối<br /> <br /> 0<br /> <br /> ’<br /> <br /> ”<br /> <br /> khác biệt về kiểu vân trên vỏ (C. betulinus, hình<br /> <br /> Mẫu ốc cối được phân loại sơ bộ, đo kích<br /> <br /> 1 - 4,5). Một số loài có đặc điểm hình thái rất<br /> <br /> thước, khối lượng, và chụp ảnh, vận chuyển<br /> <br /> giống nhau nên dễ gây nhầm lẫn (C. litteratus<br /> <br /> nhanh về phòng thí nghiệm trong nitơ lỏng, sau<br /> <br /> và C. leopardus, hình 1 - 1,2); C. bandanus và<br /> <br /> đó được lưu giữ ở -70 C.<br /> <br /> C. marmoreus, hình 1 - 11,12).<br /> <br /> 0<br /> <br /> Dữ liệu phân bố (số cá thể/điểm thu mẫu)<br /> <br /> Loài phổ biến nhất là Conus textile (83 cá<br /> <br /> của một số loài phổ biến được sử dụng để xây<br /> <br /> thể tại 8/10 điểm thu mẫu (nhiều nhất là 18 cá<br /> <br /> dựng bản đồ phân bố bằng phần mềm Golden<br /> <br /> thể tại điểm 3, ít nhất 5 cá thể ở điểm 8,9), Một<br /> <br /> Software Surfer ver 8.<br /> <br /> số loài khác cũng khá phổ biến là C. striatus<br /> <br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> 1. Thành phần loài, mật độ phân bố ốc cối<br /> <br /> (54 cá thể phân bố khá đồng đều tại 10/10 điểm<br /> thu mẫu), loài C. vexilum (42 cá thể phân bố tại<br /> 8/10 điểm thu mẫu), và loài C. miles (38 cá thể<br /> <br /> Chúng tôi đã tiến hành thu mẫu tại Vịnh<br /> <br /> phân bố tại 6/10 điểm thu mẫu). Loài C. betulinus<br /> <br /> Vân Phong (Khánh Hòa) tại 10 điểm thu mẫu.<br /> <br /> và C. quercinuss có mật độ phân bố trung bình.<br /> <br /> Thành phần, số lượng cá thể và sự phân bố của<br /> <br /> Một số loài rất hiếm gặp như C. arenatus và<br /> <br /> các loài ốc cối được trình bày ở bảng 2. Qua<br /> <br /> C. leopardus. Các loài có kích thước lớn như<br /> <br /> khảo sát cho thấy ốc cối ở vịnh Vân Phong khá<br /> <br /> C. textile, C. striatus, C. vexilum, C, betulinus,<br /> <br /> đa dạng về thành phần loài (bảng 2), cụ thể ở<br /> <br /> C. distans và C. leopardus. Loài có kích thước<br /> <br /> Vân Phong tìm thấy 19 loài tại các điểm thu mẫu<br /> <br /> dao động lớn như C. litteratus và C. lividus. Số<br /> <br /> khác nhau giữa mùa khô và mùa mưa (9 - 12<br /> <br /> lượng cá thể tại các điểm thu mẫu dao động từ<br /> <br /> loài ở mùa khô và 5 - 9 loài ở mùa mưa). Hình<br /> <br /> 15 - 55/100m2 khu vực thu mẫu, cao nhất là tại<br /> <br /> thái ngoài của các loài trên được biển hiện ở<br /> <br /> điểm 3 và 5, lần lượt là 52 và 55 cá thể.<br /> <br /> hình 1. Một số loài biểu hiện sự đa dạng về mặt<br /> <br /> Kết quả cũng cho thấy tần xuất bắt gặp<br /> <br /> hình thái, có sự khác nhau về màu sắc và vân<br /> <br /> ốc cối vào mùa khô cao hơn so với mùa mưa<br /> <br /> trên vỏ (C. caractericus, hình 1 - 22,23) hay sự<br /> <br /> (29 - 55 tổng cá thể/điểm thu mẫu vào mùa khô<br /> <br /> 84 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br /> <br /> Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> <br /> Soá 3/2011<br /> <br /> và 15 - 22 tổng cá thể/điểm thu mẫu vào mừa<br /> <br /> các vùng biển thế giới, trong đó nhiều nhất là<br /> <br /> mưa). (hình 2). Số lượng cá thể ốc tại từng điểm<br /> <br /> vùng biển Ấn Độ - Thái Bình Dương. Nguyễn<br /> <br /> thu mẫu cũng nhiều hơn (5 - 18 đối với các loài<br /> <br /> Ngọc Thạch (2007) đã xác định có 39 loài ở Việt<br /> <br /> phổ biển và 2 - 5 đối với các loài khá phổ biến.<br /> Tuy nhiên, đối với các loài hiếm đôi khi chỉ gặp<br /> 1 đến 2 cá thể. Về thành phần loài cũng có đặc<br /> điểm tương tự. Các điểm có số lượng loài nhiều<br /> là D1 và D4 (có 12 loài); tiếp theo là các điểm<br /> D2, D3, D5 và D7 (có 9 loài) (bảng 2)<br /> <br /> Nam thuộc họ Conidae, trong đó họ phụ Coninae<br /> gồm giống Conus L 1758 (loài đặc trưng (type<br /> species) là Conus marmoreus L 1758) được<br /> phân thành các lớp phụ Asprella Schaufuss,<br /> 1869; Chelyconus Morch, 1852;<br /> Iredale<br /> <br /> 1930;<br /> <br /> Hermes<br /> <br /> Darioconus<br /> <br /> Montifort,<br /> <br /> 1810;<br /> <br /> Lithconus Morch, 1852; Phasmoconus Morch,<br /> 1852;<br /> <br /> Pimoconus Morch, 1852; Rhizoconus<br /> <br /> Morch, 1852; Stephanoconus Morch, 1852;<br /> Vigiconus Cotton, 1945; Viroconus Iradale,<br /> 1930. Tác giả cũng ghi nhận một số loài chưa<br /> được định danh, ví dụ ốc cối thon dài (Conus<br /> sp1.), ốc cối thon nhí (Conus sp2.), ốc cối rãnh<br /> cạn (Conus (Rhizoconus) sp1.); ốc cối đáy bằng<br /> Hình 2. Phân bố cá thể ốc cối theo điểm thu mẫu<br /> tại vịnh Vân Phong.<br /> Điểm 1 - 5 thu vào mùa khô và 6 - 10 thu vào mùa mưa<br /> <br /> (Conus (Rhizoconus) sp1.).<br /> Tập hợp tất cả các nghiên cứu trong và<br /> ngoài nước và các mẫu vật thu được về khu hệ<br /> <br /> 2. Đặc điểm phân bố ốc cối<br /> <br /> động vật thân mềm biển Việt Nam từ trước đến<br /> <br /> Sự phân bố của ốc cối được thể hiện bằng<br /> <br /> nay sau khi xem xét và điều chỉnh, Hylleberg<br /> <br /> bản đồ phân bố trên hình 3, các loài phổ biến<br /> <br /> và Kilburn (2003) đã xác định biển Việt Nam có<br /> <br /> nhất C. textile, C. striatus, C. vexilum và C.<br /> <br /> khoảng 2.200 loài thuộc 700 giống của 200 họ<br /> <br /> miles. Loài C. textile phân bố rộng (8/10 điểm)<br /> <br /> phụ đã được công bố ở Việt Nam. Trong đó,<br /> <br /> và số cá thể được tìm thấy nhiều nhất ở các<br /> <br /> giống ốc cối được ghi nhận có khoảng 76 loài.<br /> <br /> điểm thu mẫu 2 - 5 (10 - 18 cá thể), trong khi đó<br /> <br /> Các tác giả cũng ghi chú 18 loài ốc cối được<br /> <br /> loài C. striatus và C. vexilum được tìm thấy ở<br /> <br /> mô tả bởi Nguyễn Ngọc Thạch (2007) hoặc các<br /> <br /> hầu hết các điểm với số lượng cá thể gần như<br /> <br /> công bố khác, nhưng những loài này không<br /> <br /> đồng đều (thấp nhất 4 cá thể, cao nhất 10 cá<br /> <br /> được ghi nhận có mặt ở Việt Nam hoặc tên của<br /> <br /> thể). Loài C. miles được tìm thấy ở 6 điểm thu<br /> <br /> chúng đã thay đổi theo Röckel và cs (1995) như<br /> <br /> mẫu với số lượng cá thể trung bình (5 - 8 cá thể).<br /> <br /> Conus luteus Sowerby, 1833; Conus monachus<br /> <br /> IV. THẢO LUẬN<br /> 1. Thành phần loài, mật độ phân bố ốc cối<br /> <br /> Linnaeus, 1758.<br /> Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm thấy 19<br /> loài tại vịnh Vân Phong (chiếm 30% số loài bắt<br /> <br /> Thành phần loài và sự phân bố của động<br /> <br /> gặp ở Việt Nam). Tất cả các loài trên đã được<br /> <br /> vật thân mềm đã được nghiên cứu trên hầu hết<br /> <br /> định danh chính xác dựa trên đặc điểm hình<br /> TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 85<br /> <br /> Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> thái và sự đa dạng về màu sắc và vân trên vỏ<br /> <br /> Soá 3/2011<br /> 2009 (chủ yếu vào cuối mùa mưa).<br /> <br /> đã được ghi nhận (hình 1). Các loài phổ biển<br /> <br /> Qua 2 đợt thu mẫu, chúng tôi nhận thấy tần<br /> <br /> nhất là C. textile, C. striatus và C. vexilum. Kết<br /> <br /> xuất bắt gặp ốc cối vào mùa khô cao hơn mùa<br /> <br /> quả này cũng khá phù hợp với các nghiên cứu<br /> <br /> mưa (hình 2); Vào mùa mưa, có thể do nhiệt độ<br /> <br /> trước đó (Ngô Đăng Nghĩa, 2010). Loài C. miles<br /> <br /> xuống thấp hơn, chúng trốn vào các hốc, ghềnh<br /> <br /> cũng phân bố rộng nhưng tần suất bắt gặp và số<br /> <br /> đá, rạn san hô. Theo điều tra khảo sát chúng<br /> <br /> lượng cá thể ít hơn.<br /> <br /> tôi nhận thấy vào mùa khô là lúc thu mẫu dễ và<br /> <br /> Tuy nhiên, qua đợt khảo sát tại vịnh Vân<br /> <br /> nhiều nhất. Đồng thời kích cỡ mẫu ốc của cùng<br /> <br /> Phong, cũng như thu mẫu dọc bờ biển Nam<br /> <br /> loài thu vào vào mùa khô (6 - 8cm) lớn hơn hẳn<br /> <br /> Trung Bộ (Lý Sơn, Cù Lao Chàm, Bình Thuận,<br /> <br /> so với các mẫu thu được vào mùa mưa (3 - 4cm).<br /> <br /> Sông Cầu) đều không thấy sự xuất hiện của<br /> ốc cối địa lý (C. geographus) là loài được công<br /> bố phổ biến ở Việt Nam. Đây là loài ốc ăn cá<br /> và được biết đến là một trong các loài có tính<br /> độc cao nhất trong số các loài ốc cối (http://<br /> vn.vinaseashells.com/oc-coi-nau.htm). Có thể<br /> ốc cối địa lý có thói quen săn mồi vào ban đêm,<br /> ban ngày thường vùi mình trong cát nên rất khó<br /> phát hiện hoặc do cơ thể có kích thước lớn, màu<br /> sắc đẹp nên chúng bị khai thác tập trung dẫn<br /> đến sự suy giảm về số lượng.<br /> So sánh với dữ liệu phân bố của ốc cối thu<br /> ở Vân Phong năm 2009 (Ngô Đăng Nghĩa và cs,<br /> 2010), chúng tôi nhận thấy năm 2010 có sự đa<br /> dạng hơn về loài và số lượng cá thể. Cụ thể kết<br /> quả khảo sát ở 4 tỉnh (Quảng Nam, Quảng Ngãi,<br /> Khánh Hòa và Bình Thuận) năm 2009 tìm thấy<br /> <br /> 2. Đặc điểm phân bố ốc cối<br /> Giống ốc cối thường phân bố ở vùng vĩ<br /> độ giữa 400 Bắc và 400 Nam, thuộc các vùng<br /> biển: Ấn Độ - Thái Bình Dương, Panamic,<br /> Caribbean, Peruvian, Patagonic, Tây và Nam<br /> Phi và Địa Trung Hải. Một vài loài có thể phân<br /> bố ở vĩ độ trên 400 Bắc - Nam như ở Nam Phi.<br /> Nam Australia, Nam Nhật Bản và biển Địa Trung<br /> Hải. Nhìn chung, ốc cối xuất hiện ở hầu hết các<br /> vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, nhưng đa<br /> dạng nhất ở khu vực Ấn Độ - Tây Thái Bình<br /> Dương (Indo-West Pacific). Mật độ phân bố lớn<br /> nhất của chúng đạt 40 cá thể/m2 (Kohn và cs,<br /> 2001). Ốc cối được tìm thấy chủ yếu ở các rạn<br /> san hô. Chúng có thể ở các vùng nước nông<br /> gần rạn san hô, dưới rạn san hô, vùi mình trong<br /> <br /> 18 loài, trong đó ở vịnh Vân Phong có 12 loài tại<br /> <br /> cát hoặc ở dưới các tảng đá hoặc sỏi (Röckel và<br /> <br /> 6 điểm thu mẫu. C. textile 13 cá thế, C. striatus<br /> <br /> cs, 1995). Một vài loài ốc cối sống ở rừng ngập<br /> <br /> 13 cá thể và C. vexilum 5 cá thể; Tuy nhiên loài<br /> <br /> mặn. Một số lượng đáng kể ốc cối sống xa bờ<br /> <br /> C. miles có số lượng cá thể là 19, trong khi năm<br /> <br /> hoặc ở những vùng nước sâu đến 400m (Röckel<br /> <br /> 2010 chúng tôi thu được loài C. striatus 54 cá<br /> <br /> và cs, 1995)<br /> <br /> thể, C. textile 83 cá thế và C. vexilum 42 cá thể;<br /> <br /> Ở Việt Nam, ốc cối phân bố chủ yếu ở các<br /> <br /> và C. miles có số lượng cá thể là 38. Có thể số<br /> <br /> vùng ven biển thuộc khu vực Nam Trung bộ từ<br /> <br /> lượng đợt/điểm thu mẫu năm 2010 nhiều hơn<br /> <br /> Đà Nẵng (Khánh Hòa, Bình Thuận...) đến Vũng<br /> <br /> và tập trung vào mùa khô và đầu mùa mưa nên<br /> <br /> Tàu, Kiên Giang, và quanh các đảo (như Lý Sơn,<br /> <br /> tần suất bắt gặp nhiều hơn so với mẫu thu năm<br /> <br /> Cù Lao Chàm, Trường Sa, Hoàng Sa, Phú Quý,<br /> <br /> 86 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0