108<br />
<br />
Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất Tập 58, Kỳ 3 (2017) 108-120<br />
<br />
Đánh giá khả năng gia tăng thu hồi dầu từ bơm ép nước: Trường<br />
hợp nghiên cứu ở khu vực I của mỏ X, bể Nam Côn Sơn, thềm<br />
lục địa Việt Nam<br />
Trần Văn Lâm 1,*, Nguyễn Mạnh Tuấn 1, Nguyễn Hải Long 1, Phạm Đức Thành 1, Lê<br />
Vũ Quân 2, Nguyễn Văn Đô 2<br />
1<br />
2<br />
<br />
Công ty Điều hành Thăm dò Khai thác Dầu khí Trong Nước (PVEP POC), Việt Nam<br />
Viện Dầu khí Việt Nam (VPI), Việt Nam<br />
<br />
THÔNG TIN BÀI BÁO<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Quá trình:<br />
Nhận bài 26/02/2017<br />
Chấp nhận 19/5/2017<br />
Đăng online 28/6/2017<br />
<br />
Mỏ X có hai đối tượng chứa chính là đá vôi Mioxen giữa và trầm tích lục<br />
nguyên Mioxen dưới. Theo cấu trúc, mỏ được chia làm 4 khu vực chính: khu<br />
vực I, II, III và IV lần lượt về phía Bắc, phía Nam, phía Tây và phía Đông của<br />
mỏ. Khu vực I bao gồm các khối 1, 2, 3, 4, 5 và 6 đã được đưa vào khai thác<br />
sớm từ cuối năm 1994. Hiện tại, sản lượng dầu khai thác tích lũy của khu vực<br />
I là hơn 37 triệu thùng, chiếm trên 70% sản lượng dầu toàn mỏ, đạt hệ số thu<br />
hồi trung bình 14,6%. Do đặc điểm địa chất phức tạp với các khối có diện tích<br />
nhỏ và khép kín nên sau thời gian ngắn khai thác áp suất vỉa khu vực I đã suy<br />
giảm rõ rệt cùng với tỷ số khí dầu tăng cao. Giải pháp bơm ép nước đã được<br />
áp dụng đối với tầng chứa cát kết lục nguyên Mioxen dưới ở khối 4 không<br />
những duy trì được áp suất vỉa mà còn làm tăng hệ số thu hồi dầu của cả khối.<br />
Để tận thu hồi dầu ở các khối còn lại, việc nghiên cứu áp dụng giải pháp bơm<br />
ép là cần thiết, đặc biệt đối với các khối khi sản lượng khai thác đã giảm tới<br />
ngưỡng có ít hiệu quả kinh tế. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu bơm<br />
ép nước trên mô hình mô phỏng tầng chứa cát kết lục nguyên Mioxen dưới<br />
cho các khối 1, 2-3 và 4 với các chế độ bơm ép khác nhau. Kết quả cho thấy hệ<br />
số thu hồi dầu gia tăng thêm từ 2 đến 9% so với phương án không bơm ép.<br />
Bên cạnh đó nhóm tác giả cũng đưa ra các ý tưởng nhằm điều chỉnh và tối ưu<br />
hóa thiết kế khai thác để tận thu hồi dầu cho khu vực I cũng như toàn mỏ X.<br />
<br />
Từ khóa:<br />
Tận thu hồi dầu<br />
Mô hình mô phỏng<br />
Bơm ép nước<br />
<br />
© 2017 Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tất cả các quyền được bảo đảm.<br />
<br />
1. Giới thiệu<br />
Mỏ X nằm ở lô Y, tại khu vực nước sâu<br />
(khoảng 110m nước), xa bờ, thuộc bể Nam Côn<br />
_____________________<br />
<br />
*Tác giả liên hệ.<br />
E-mail: lamtv@pvep.com.vn<br />
<br />
Sơn, thềm lục địa Việt Nam. Kết quả nghiên cứu<br />
địa chất - địa vật lý (PVEP POC, 2010) cho thấy<br />
trên bình đồ cấu trúc nóc tầng sản phẩm chính của<br />
mỏ (T125), mỏ X bị phân chia thành nhiều khối<br />
nhỏ bởi hệ thống đứt gãy với 3 hướng chính: đông<br />
bắc - tây nam, tây bắc - đông nam và á vĩ tuyến.<br />
Trong đó, hệ thống đứt gãy phương đông bắc - tây<br />
nam có chiều dài và biên độ dịch chuyển lớn,<br />
<br />
Trần Văn Lâm và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 108-120<br />
<br />
quyết định khung cấu trúc của mỏ. Theo cấu trúc,<br />
mỏ được chia làm 4 khu vực chính đã được triển<br />
khai khoan thăm dò và thẩm lượng: khu vực I<br />
(phía Bắc mỏ), khu vực II (phía Nam mỏ), khu vực<br />
III (phía Tây mỏ) và khu vực IV (phía Đông mỏ).<br />
Trong đó, khu vực I (bao gồm các khối 1, 2, 3, 4, 5<br />
và 6) được đưa vào khai thác từ rất sớm (Hình 1).<br />
<br />
109<br />
<br />
Kết quả khoan thăm dò, thẩm lượng và khai thác<br />
đã xác nhận hầu hết các đứt gãy phân khối của mỏ<br />
đóng vai trò là đứt gãy chắn, các khối phân cách<br />
bởi các đứt gãy có thể độc lập với nhau về mặt thủy<br />
lực.<br />
Đối tượng chứa sản phẩm chính của mỏ X là<br />
cát kết lục nguyên Mioxen dưới và đá vôi Mioxen<br />
<br />
Hình 1. Vị trí khu vực I.<br />
<br />
Hình 2. Hiện trạng khai thác khối 4.<br />
<br />
110<br />
<br />
Trần Văn Lâm và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 108-120<br />
<br />
giữa. Trong đó, tầng chứa cát kết lục nguyên (đóng<br />
vai trò chủ yếu ở khu vực I) được thành tạo trong<br />
môi trường sông, đồng bằng tam giác châu. Chất<br />
lượng tầng chứa khá tốt, độ rỗng dao động từ 13%<br />
đến 20% có nơi lên tới hơn 25%, độ thấm từ vài<br />
chục mD đến gần 1D. Tầng chứa đá vôi (gồm hai<br />
loại là đá vôi ám tiêu và đá vôi dạng thềm) phân bố<br />
chính ở 2 khu vực trung tâm mỏ và khu vực phía<br />
Nam, trong đó chỉ có đá vôi ám tiêu được phát hiện<br />
chứa dầu với độ rỗng phổ biến trong khoảng từ<br />
12% đến 28%, có nơi lên tới hơn 30%. Các thân<br />
dầu trong đá vôi thềm được phát tại khu vực phía<br />
Tây và phần cánh sụt phía Đông của mỏ, tuy nhiên<br />
tiềm năng không cao. Đặc điểm chính của các khu<br />
vực khai thác là các thân dầu phân bố ở những<br />
khối cạnh nhau nên thuận lợi cho việc bố trí mạng<br />
lưới giếng khai thác, đường ống dẫn dầu và hệ<br />
thống xử lý sản phẩm khai thác trong một khu vực.<br />
Tháng 10 năm 1994, mỏ X được đưa vào khai thác<br />
tại khu vực I với lưu lượng dầu ban đầu đạt trên<br />
35000 thùng từ các giếng X-1A (khối 2), X-2A, X3A (khối 4) và X-12A (khối 1).<br />
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp về cấu trúc<br />
địa chất của mỏ X với hệ thông đứt gãy phân cắt<br />
mỏ thành nhiều khối, độc lập nhau về thủy động<br />
lực, các khối có diện tích nhỏ và khép kín, sự biến<br />
đổi nhanh của môi trường trầm tích, hệ thống vỉa<br />
chứa đa tầng, áp suất vỉa ban đầu gần với áp suất<br />
bão hòa… nên sau một thời gian ngắn khai thác áp<br />
suất vỉa suy giảm mạnh, tỷ số khí dầu tăng cao đã<br />
gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thu hồi<br />
dầu.<br />
Để duy trì áp suất vỉa, nhà điều hành đã triển<br />
khai công tác bơm ép nước trên khối 4 sau gần<br />
một năm đưa mỏ vào khai thác. Cho đến hiện tại,<br />
giải pháp bơm ép nước đã cho thấy được hiệu quả<br />
khi hệ số thu hồi dầu khối 4 cao hơn nhiều so với<br />
các khối khác chưa áp dụng bơm ép. Do vậy, nhằm<br />
gia tăng thu hồi dầu, việc nghiên cứu, đánh giá<br />
hiệu quả bơm ép nước là rất cần thiết để có cơ sở<br />
xem xét áp dụng giải pháp bơm ép nước cho các<br />
khối còn lại trong khu vực I cũng như toàn mỏ X.<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
Hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam, việc áp<br />
dụng giải pháp bơm ép nước để duy trì áp suất vỉa,<br />
tăng cường thu hồi dầu được thực hiện khá phổ<br />
biến, trong đó có mỏ X. Tuy nhiên, do đặc thù của<br />
mỏ X gồm nhiều khối nhỏ, số lượng giếng trong<br />
mỗi khối ít, tính liên thông thủy lực hạn chế và rủi<br />
<br />
ro về địa chất,… nên biện pháp bơm ép nước mới<br />
chỉ được áp dụng cho khối 4 thuộc khu vực I. Đánh<br />
giá kết quả bơm ép nước trên khối 4 cho thấy hiệu<br />
quả khá tốt khi áp suất vỉa được duy trì và hệ số<br />
thu hồi dầu hiện đã lên tới 22%, cao hơn nhiều so<br />
với nghiên cứu dự báo nếu không tiến hành bơm<br />
ép nước (từ 7 đến 17%). Mặc dù vậy, bên cạnh kết<br />
quả khả quan trên, vẫn có một số yếu tố ảnh<br />
hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác bơm<br />
ép nước tại khối 4 như: giếng khai thác hoàn thiện<br />
đa tầng và tính chất vỉa giữa các tầng không đồng<br />
đều; khoảng cách giữa các giếng khá gần nhau<br />
(khoảng 500m); chế độ bơm ép chưa hợp lý,… đã<br />
dẫn đến việc khó kiểm soát được nước bơm ép<br />
xâm nhập nhanh từ các vỉa có độ thấm tốt vào các<br />
giếng khai thác.<br />
Rút kinh nghiệm từ thực tế triển khai bơm ép<br />
nước trên khối 4, nhóm tác giả đã thực hiện<br />
nghiên cứu nhằm tiếp tục tối ưu bơm ép nước cho<br />
khối 4 cũng như đánh giá hiệu quả của bơm ép<br />
nước tại các khối 1 và 2-3 bằng mô hình mô phỏng<br />
khai thá c. Kết quả nghiên cứu sẽ làm cơ sở cho việc<br />
xem xét khả năng áp dụng giải pháp bơm ép nước<br />
cho toàn mỏ nhằm nâng cao hệ số thu hồi dầu của<br />
mỏ X. Dưới đây là những nội dung và kết quả<br />
nghiên cứu đã đạt được.<br />
3. Hiện trạng khai thác các khối 1, 2-3 và 4<br />
Kết quả nghiên cứu địa chất - địa vật lý và<br />
công nghệ mỏ đến thời điểm 12/2013 (PVEP POC,<br />
2013), tổng trữ lượng dầu tại chỗ mức 2P toàn mỏ<br />
X khoảng 450 triệu thùng. Trong đó, khu vực I<br />
chiếm trên 55% trữ lượng toàn mỏ và riêng các<br />
khối 4, 2-3, 1 có trữ lượng lớn nhất trong khu vực<br />
này lần lượt là 68, 78, 83 triệu thùng.<br />
Tính đến năm 2016, tổng quỹ giếng của cả<br />
bốn khối 1, 2-3 và 4 là 10 giếng. Trong đó quỹ<br />
giếng khai thác là 4 giếng, 2 giếng đóng, 3 giếng<br />
dừng khai thác do sự cố, 1 giếng bơm ép.<br />
3.1. Khối 4<br />
Khối 4 gồm có 3 giếng X-2A, X-3A và X-4A.<br />
Trong đó, giếng X-2A và X-3A được đưa vào khai<br />
thác từ tháng 10/1994 với lưu lượng dầu mỗi<br />
giếng là 10000 thùng/ngày, tỷ số khí dầu (GOR)<br />
khoảng 500 bộ khối/thùng. Giếng X-4A được đưa<br />
vào khai thác sau đó 6 tháng với lưu lượng dầu là<br />
4000 thùng/ngày, GOR khoảng 520 bộ<br />
khối/thùng, hàm lượng nước là 2,3%.<br />
<br />
Trần Văn Lâm và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 108-120<br />
<br />
111<br />
<br />
Hình 3. Hiện trạng khai thác các khối 2-3.<br />
<br />
Hình 4. Hiện trạng khai thác khối 1.<br />
Đến tháng 7/1995 giếng khai thác X-2A được<br />
chuyển thành giếng bơm ép nước do năng lượng<br />
vỉa ở khối 4 bị suy giảm mạnh. Việc tiến hành bơm<br />
ép nước ở giếng X-2A đã giúp duy trì được áp suất<br />
vỉa và làm giảm sự gia tăng của tỷ số khí dầu. Tuy<br />
nhiên, sau một thời gian khai thác do lượng nước<br />
ở 2 giếng X-3A và X-4A tăng nhanh nên tháng<br />
12/2002 đã ngừng bơm nước ở giếng X-2A do<br />
một số vỉa có độ thấm tốt nên nước bơm ở giếng<br />
X-2A đã ảnh hưởng trực tiếp tới các giếng khai<br />
thác trên. Nhưng từ tháng 4/2003 phải chuyển<br />
giếng X-4A sang bơm ép nước vì suy giảm áp suất<br />
ở trên khối 4 quá nhanh. Đầu năm 2011, giếng X2A phải đóng do sự cố van sâu thủy lực. Từ cuối<br />
<br />
năm 2011, giếng X-4A bơm é p luan phien khong<br />
ỏ n định và dừng bơm é p từ thá ng 2/2016 đé n nay<br />
do sự cố máy bơm. Giữa năm 2016, giếng X-3A<br />
tạm dừng khai thác do sự cố hỏng van an toàn khi<br />
lưu lượng dầu đang hơn 1000 thùng/ngày, độ<br />
ngập nước khoảng 60% (Hình 2). Tổng thu hồi của<br />
khối 4 tính đến năm 2016 đạt hơn 15 triệu thùng<br />
(tương ứng với hệ số thu hồi lên tới 22%).<br />
3.2. Khối 2 và 3<br />
Các khối 2-3 gồm 4 giếng: X-1A, X-8A, X-9A và<br />
X-10A. Giếng X-1A (khối 2) được đưa vào khai<br />
thác tháng 10/1994 với lưu lượng dầu ban đầu<br />
11000 thùng/ngày, GOR khoảng 1400 bộ<br />
<br />
112<br />
<br />
Trần Văn Lâm và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 108-120<br />
<br />
khối/thùng. Do không có các biện pháp duy trì<br />
năng lượng vỉa nên áp suất vỉa giảm rất nhanh, lưu<br />
lượng giếng chỉ còn khoảng 1200 thùng/ngày,<br />
GOR tăng đến hơn 6000 bộ khối/thùng vào năm<br />
2007. Sau khi nhận quyền điều hành mỏ từ cuối<br />
2003, tháng 8 và 11/2007 lần lượt các giếng X-8A<br />
(khối 2), X-10A (khối 3) và X-9A (khoan qua cả 2<br />
khối 2-3) được PVEP đưa vào khai thác đã nâng<br />
sản lượng dầu các khối 2-3 lên hơn 8000<br />
thùng/ngày, độ ngập nước chưa đến 5%.<br />
Hiện tại, lưu lượng dầu khai thác các khối 2-3<br />
đang được duy trì ở mức 350 thùng/ngày từ X-8A,<br />
độ ngập nước khoảng 5% (Hình 3). Các giếng X10A và X-9A đã lần lượt được đóng từ tháng<br />
8/2011 và tháng 10/2014 do năng lượng vỉa quá<br />
yếu và X-1A dừng khai thác tháng 6/2016 do sự<br />
cố van an toàn. Tổng thu hồi dầu của 2 khối 2-3<br />
tính đến năm 2016 đạt hơn 13 triệu thùng (tương<br />
ứng với hệ số thu hồi 17%).<br />
3.3. Khối 1<br />
Hiện nay khối 1 đang có 3 giếng khai thác là<br />
X-12A, X-11A và X-6A. Giếng X-12A được đưa vào<br />
khai thác từ tháng 10/1994 với lưu lượng dầu<br />
khai thác ban đầu là 5500 thùng/ngày, GOR trung<br />
<br />
bình 700 bộ khối/thùng. Do hầu hết các vỉa đều có<br />
tầng nước đáy nhưng không có các biện pháp duy<br />
trì năng lượng vỉa nên sau một thời gian khai thác,<br />
áp suất vỉa giảm nhanh cùng với sự gia tăng của<br />
GOR và nước khai thác, lưu lượng dầu chỉ còn<br />
khoảng vài trăm thùng/ngày. Tháng 7 và 8/2014,<br />
lần lượt X-11A và X-6A được đưa vào khai thác,<br />
nâng tổng sản lượng của khối lên khoảng 3000<br />
thùng/ngày.<br />
Hiện tại, lưu lượng dầu khai thác khối 1 đang<br />
được duy trì ở mức gần 2000 thùng/ngày, độ ngập<br />
nước khoảng 40% (Hình 4). Tổng thu hồi dầu của<br />
khối 1 tính đến năm 2016 đạt hơn 6 triệu thùng<br />
(tương ứng với hệ số thu hồi 7.<br />
4. Mô hình mô phỏng khai thác<br />
4.1. Số liệu đầu vào<br />
Đặc tính lưu thể vỉa<br />
Nhiè u mẫu lưu thể đáy vỉa thuộc các tầng sản<br />
phẩm mỏ được lấy trong quá trình thử vỉa DST.<br />
Các số liệu cho thấy dầu của mỏ X thuộc nhóm<br />
phân loại từ trung bình cho đến nặng với khối<br />
lượng riêng dao động từ 0,827 g/cm3 đến 0,93<br />
g/cm3, ít lưu huỳnh, chứa nhiều parafin.<br />
<br />
Hình 5. Kết quả đo RFT/RCI/MDT mỏ X.<br />
<br />