TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 12, 2002<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH BỜ SÔNG HƯƠNG <br />
THEO LÝ THUYẾT ỔN ĐỊNH MÁI DỐC<br />
Trần Hữu Tuyên, Đỗ Quang Thiên<br />
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Với diện tích lưu vực 2830 km2, chảy ngang qua một đô thị cổ có nhiều di tích <br />
lịch sử văn hoá, sông Hương đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống, tâm tư <br />
và tình cảm của người dân. Dòng sông này đã góp phần tạo nên môi trường cảnh <br />
quan xanh sạch đẹp cho Huế. Vì thế, đảm bảo độ ổn định của bờ sông Hương <br />
hiện nay là nhiệm vụ vô cùng cấp bách và mang tính thời sự.<br />
Như đã biết, vào những mùa mưa lũ hàng năm gần đây, nhất là vào mùa mưa lũ <br />
cuối năm 1998, 1999 và 2000 trên đoạn sông thuộc hạ lưu sông Hương quá trình sạt <br />
lở bờ đã xảy ra rất mạnh mẽ. Nguyên nhân gây sạt lở bờ rất đa dạng, nhưng nhìn <br />
chung có 2 nguyên nhân chính dẫn đến sự mất ổn định bờ sông Hương như sau: <br />
Sạt lở bờ về những mùa lũ do xâm thực ngang của dòng chảy. Qui mô và <br />
cường độ của hiện tượng này phụ thuộc vào chế độ thuỷ văn thuỷ lực, lưu lượng <br />
bùn cát cũng như hình thái lòng dẫn và cấu trúc địa chất của bờ ...<br />
Trượt trọng lực xảy ra khi hình dạng của lòng sông thay đổi do xâm thực sâu <br />
của dòng chảy (do khai thác cát hoặc xây dựng các công trình ven bờ). Quá trình trượt <br />
trọng lực chủ yếu phụ thuộc vào trắc diện ngang của bờ, tính chất địa chất công <br />
trình của các loại đất đá cấu tạo nên bờ và tác động thuỷ động lực của nước ngầm.<br />
Thật ra, không có ranh giới phân định rõ ràng về sự mất ổn định bờ sông do <br />
xâm thực ngang của dòng chảy và trượt trọng lực (xâm thực sâu của dòng chảy). <br />
Điều khác biệt dễ nhận thấy là cách thức biểu hiện của chúng.Trong khi hiện tượng <br />
sạt lở bờ thường xảy ra khi lũ lớn trên các đoạn sông uốn khúc, quanh co thì trượt <br />
trọng lực có thể xảy ra vào thời điểm bất kỳ với cường độ mạnh hơn nhiều và <br />
mang tính chất của tai biến địa chất. Hiện tượng trượt lỡ đường ở gần Ngã Ba <br />
Tuần, trên quốc lộ 49 vào mùa lũ năm 1998 là ví dụ khá điển hình.<br />
Trên cơ sở lý thuyết ổn định mái dốc và số liệu của Dự án “ Nghiên cứu, dự <br />
báo phòng chống sạt lở bờ sông hệ thống sông miền Trung” do PGS. TSKH Nguyễn <br />
<br />
<br />
39<br />
Viễn Thọ chủ trì, chúng tôi thử tiến hành đánh giá độ ổn định bờ sông Hương đoạn <br />
Tuần Bao Vinh (TBV) bằng mô hình SLOPE/W như sau:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
40<br />
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT<br />
Có thể nói, Coulomb là người đầu tiên đặt nền tảng cho lý thuyết ổn định mái <br />
dốc, bởi lẽ vào những năm 70 của thế kỷ 18 chính ông đã viết cuốn sách cơ học đất <br />
đầu tiên và đưa ra phương trình nổi tiếng về cường độ chống cắt của đất = n ă + <br />
C. Mặt dù ý tưởng do ông đưa ra còn gặp phải nhiều nhược điểm, chẳng hạn ông đã <br />
giả thiết mặt trượt là mặt phẳng và chưa đề cập đến áp lực nước lỗ rỗng cũng như <br />
ảnh hưởng của các ứng suất. Tuy nhiên, chính điều đó đã hội tụ được sự quan tâm <br />
của các nhà khoa học và thúc đẩy lý thuyết ổn định mái dốc dần phát triển và hoàn <br />
thiện hơn trong vài thế kỷ qua trong việc đánh giá độ bền của mái dốc tự nhiên hoặc <br />
nhân tạo khi thiết kế và thi công các công trình bằng đất như: mái đập, ta luy đường, <br />
kênh dẫn, bờ sông...<br />
Trong thời đại ngày nay với những tiến bộ và phát triển thần kỳ của khoa học <br />
kỹ thuật, việc kiểm toán ổn định đã được chương trình hóa trên máy tính với phần <br />
mềm SLOPE/W của hãng GEO SLOPE Internation Ltd (Canada). Chương trình này <br />
được thiết lập để tính toán hệ số an toàn nhỏ nhất theo phương pháp của Canada <br />
(GLE General limit equilibrium). Nhìn chung, phần mềm này đã tổng hợp khá đầy <br />
đủ các yếu tố ảnh hưởng đến sự phân tích ổn định mái dốc, đặc biệt là việc xét đến <br />
các tính chất của đất trong điều kiện bảo hòa nước (hệ số bảo hòa khác 1) đã làm <br />
tăng độ chính xác của kết quả tính tóan. Đây là chương trình tính toán độ ổn định <br />
mái dốc thông dụng nhất hiện nay dựa theo lý thuyết phân mảnh do Fellenius đề <br />
xuất vào đầu thế kỷ 19 và cho đến nay không ngừng được hoàn thiện. Chúng được <br />
xem như là phương pháp số (Soil mechanic; T.Wu Boston, 1966) rất có hiệu lực để <br />
tính toán ổn định mái dốc vì có thể xét đến tính không đồng nhất của khối đất đá và <br />
áp lực nước lổ rỗng tại mọi điểm trong khối đất.<br />
Theo lý thuyết phân mảnh, khối đất được phân chia thành các mảnh thẳng <br />
đứng và đánh số thứ tự từ 1 đến n. Từ sơ đồ lực tổng quát trên hình 1, cho thấy lực <br />
tác động lên một mảnh bất kỳ như sau: <br />
Tải trọng ngoài tác động trên đỉnh mảnh Qi <br />
Trọng lượng mảnh Wi<br />
Lực tương tác của mảnh bên trái và bên phải: Et, Ep.<br />
Lực tiếp tuyến bên trái và bên phải mảnh: Xt,Xp.<br />
Lực pháp tuyến Ni tác động trên đáy mảnh.<br />
Lực tiếp tuyến Si tác động trên mặt trượt.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
41<br />
<br />
Hình 1: Sơ đồ lực tác động tổng quát vào một mảnh<br />
Khối đất ở trạng thái cân bằng bền khi:<br />
+ Cân bằng tĩnh học: gồm có<br />
Cân bằng hình chiếu theo phương ngang : h = 0<br />
Cân bằng hình chiếu theo phương đứng : v = 0<br />
Cân bằng momen quay tại M bất kỳ: M = 0<br />
+ Điều kiện bền Morh Coulomb cho quan hệ N và S trên mặt trượt<br />
Si=Nitg i + Ci li <br />
(Ci , tg i lần lượt là lực dính và góc ma sát trong của đất; li là chiều dài cung <br />
trượt thứ i)<br />
Độ ổn định của khối đất được đặc trưng bằng hệ số ổn định K và được định <br />
nghĩa là tỷ số giữa các lực chống trượt trên lực gây trượt. Tỷ số này càng lớn thì khối <br />
đất có độ ổn định càng cao và hiện tượng trượt càng khó xảy ra.<br />
Bài toán đánh giá sự ổn định của mái dốc là bài toán siêu tĩnh. Để đưa về dạng <br />
tĩnh định, các nhà khoa học đã đề xuất các phương pháp tính toán dựa trên các giả <br />
thiết khác nhau như: bỏ bớt các lực tương tác hoặc giả thiết hướng lực tác dụng <br />
không đổi... Sau đây, chúng tôi xin đề cập đến các giả thiết của một số phương pháp <br />
tính tóan ổn định mái dốc thông dụng như sau: <br />
Phương pháp Fellenius: <br />
Phương pháp này ra đời đầu tiên và có cách tính đơn giản nhất với các giả thiết <br />
sau:<br />
Xem mặt trượt là cung tròn hình trụ có tâm O, bán kính R<br />
Bỏ qua các lực tương tác giữa các mảnh: Ei = 0, Xi=0.<br />
Điểm đặt N là trung điểm đáy mảnh.<br />
Phương pháp Bishop:<br />
Xem mặt trượt là cung tròn hình trụ có tâm O, bán kính R.<br />
Bỏ qua thành phần thẳng đứng của lực tương tác Xi=0.<br />
Điểm đặt phản lực N là trung điểm đáy mảnh .<br />
Phương pháp Janbu: <br />
Hiện nay, đây là phương pháp hoàn thiện nhất của lý thuyết phân mảnh dựa <br />
trên các giả thiết:<br />
Mặt trụ tròn tâm O, bán kính R.<br />
Các điểm đặt của các lực tương tác nằm trên một đường cong trong phạm vị <br />
khối trượt được gọi là đường tương tác.<br />
<br />
42<br />
Điểm đặt phản lực N là trung điểm của đáy mảnh.<br />
Giải hệ phương trình cân <br />
bằng trên với một mái dốc cụ thể, <br />
ta sẽ có các đường trượt khác nhau <br />
tương ứng là các hệ số ổn định <br />
khác nhau. Hệ số ổn định nhỏ nhất <br />
(Kmin) đặc trưng cho độ ổn định <br />
chung của khối đất. Tuy nhiên Kmin <br />
không phải là hệ số để khẳng định <br />
xem khối đất có bị trượt hay không <br />
mà chỉ đánh giá nguy cơ xảy ra mất <br />
ổn định mà thôi. <br />
Kmin 1.2. Khối đất ở <br />
trạng thái cân bằng bền, khó xảy <br />
ra trượt.<br />
Để xác định Kmin dùng <br />
phương pháp lặp có điều chỉnh <br />
bậc cao, do đó khối lượng tính toán rất lớn. Tuy nhiên, với sự trợ giúp của chương <br />
trình SLOPE/W, việc xác định độ ổn định của mái dốc được đơn giản đi rất nhiều <br />
và đạt được độ chính xác cần thiết. <br />
Hình 2: Sơ đồ các mặt cắt tính toán<br />
<br />
3. ĐÁNH GIÁ ĐỘ ỔN ĐỊNH BỜ SÔNG HƯƠNG ĐOẠN TUẦN BAO <br />
VINH<br />
3.1. Cơ sở số liệu:<br />
Để đánh giá độ ổn định trượt bờ sông Hương, đoạn Tuần Bao Vinh, chúng tôi <br />
đã sử dụng các số liệu và tài liệu của dự án “Nghiên cứu, dự báo phòng chống sạt lở <br />
bờ sông hệ thống sông miền Trung”. Trong đó gồm có:<br />
Số liệu đo đạc địa hình tại 23 mặt cắt ngang của sông Hương (Hình 2). <br />
Tài liệu về cấu trúc địa chất được thu thập ở các công trình lân cận các mặt <br />
cắt tính toán. <br />
Tính chất cơ lý của các lớp đất được xác định trong điều kiện bảo hoà nước.<br />
3.2. Các giả thiết tính toán:<br />
43<br />
Các mặt cắt được lựa chọn để tính toán độ ổn định thuộc các đoạn bờ có <br />
nguy cơ xảy ra trượt cao.<br />
Thời điểm tính toán trùng với mùa mưa lũ của khu vực tương ứng với điều <br />
kiện bất lợi nhất đối với sự ổn định bờ sông.<br />
Bỏ qua ảnh hưởng của áp lực thuỷ động của dòng ngầm cũng như dòng chảy <br />
mặt.<br />
Phương pháp Janbu được lựa chọn để xác định hệ số ổn định nhỏ nhất Kmin.<br />
3.3. Kết quả tính toán <br />
Hệ số ổn định mái dốc Kmin tại các mặt cắt lựa chọn tính toán bằng chương <br />
trình SLOPE/W được thể hiện ở hình 3 và bảng 1.<br />
Số Mặt Vị trí Khu vực Hệ số Thông số hình thái của cung trượt <br />
TT cắt Bờ ổn định <br />
Kh.lượng M Dài L (m) Rộng B (m)<br />
K<br />
1 101 Trái Bao Vinh 1.207 (T/m)*<br />
99.9 22.3 1.8<br />
2 101 Phải Bao Vinh 0.753 18.8 29.7 1.2<br />
3 103 Trái Bao Vinh 1.147 141.0 22.3 7.0<br />
4 103 Phải Bao Vinh 0.748 96.7 16.2 2.2<br />
5 105 Trái Chợ B.Vinh 2.120 60.8 15.5 0.5<br />
6 105 Phải Chợ B.Vinh 0.680 69.1 17.4 3.0<br />
7 109 Trái Chợ B.Vinh 0.964 93.9 14.6 3.6<br />
8 109 Phai Chợ B.Vinh 1.163 99.2 15.9 4.2<br />
9 111 Trái Đập La û 1.306 76.5 15.2 2.1<br />
10 111 Phai Đập La û 9.560 <br />
11 114 Trái Chợ Dinh 1.267 86.0 15.3 1.3<br />
12 114 Phải Chợ Dinh 1.140 75.0 15.8 0.8<br />
13 119 Trái Đông Ba 1.110 74.5 15.0 3.2<br />
14 201 Trái Quốc Học 0.952 60.8 9.84 1.5<br />
15 203 Trái Trạm TV 0.957 53.1 12.3 1.1<br />
16 205 Trái CTGCT** 0.942 33.7 3.83 2.5<br />
17 205 Phải CTGCT** 0.715 91.5 9.45 1.8<br />
18 207 Trái Văn Thánh 1.611 42.2 7.83 1.3<br />
19 207 Phải Văn Thánh 1.316 47.3 7.23 1.5<br />
20 209 Trái Chợ HL*** 1.599 13.3 7.08 0.5<br />
21 209 Phải Chợ HL*** 0.757 91.4 4.63 1.2<br />
22 212 Trái Xước Dũ 0.626 96.1 5.41 1.8<br />
23 215 Trái Thuỷ Biều 0.911 78.9 7.89 1.8<br />
24 215 Phải Thuỷ Biều 0.863 47.9 9.04 1.1<br />
25 216 Phải Vạn Niên 0.829 93.0 20.7 2.0<br />
26 219 Phải Hòn Chén 0.626 31.6 8.06 2.3<br />
27 221 Phải Gà Lôi 0.823 132.0 18.6 5.0<br />
28 221 Trái Gà Lôi 3.469 <br />
<br />
44<br />
29 223 Phải Tuần 1.220 76.0 13.1 1.0<br />
<br />
Bảng 1: Kết quả tính tóan hệ số ổn định nhỏ nhất của mái dốc Kmin<br />
* Trọng lượng đất được được tính cho 1m dài của khối trượt ( Tấn/m)<br />
* * Công ty Giống cây Trồng Thừa Thiên Huế ; ** *Chợ Hương Long<br />
<br />
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br />
Từ các kết quả tính toán ổn định bờ sông Hương trên các mặt cắt ngang, chúng <br />
tôi nhận thấy rằng đa số hệ số ổn định nhỏ nhất Kmin thay đổi từ 0.8 đến 1.2, nghĩa là <br />
phần lớn bờ sông Hương đang ở trạng thái cân bằng giới hạn, rất dể bị phá vở và <br />
xảy ra hiện tượng trượt bờ sông. Vì thế, chúng tôi xin có những kết luận sau:<br />
Khả năng xảy ra trượt lớn nhất trên các các đoạn bờ thuộc khu vực: Tuần, <br />
Bao Vinh và Thiên Mụ. <br />
Tuy bề rộng đỉnh trượt (tính từ đường mép nước đến bờ) nhỏ thay đổi từ <br />
0.5m 5 mét, nhưng nhìn chung trọng lượng các khối trượt nguy hiểm dự đoán khá <br />
lớn. <br />
<br />
13 Các kết quả tính toán trên <br />
12<br />
0.930 đã loại trừ ảnh hưởng của áp <br />
11<br />
lực thuỷ động của nước ngầm <br />
10<br />
<br />
<br />
a 9<br />
và dòng chảy mặt. Nếu các nhân <br />
8 tố trên tác động công hưởng với <br />
7<br />
nhau thì độ ổn định của bờ sông <br />
6<br />
Hương giảm đi rất nhiều.<br />
5<br />
<br />
4 Cho nên, để đảm bảo độ <br />
3<br />
ổn định của bờ sông Hương, <br />
chúng tôi xin kiến nghị:<br />
2<br />
<br />
1<br />
<br />
0 Hạn chế hoạt động khai <br />
-1<br />
thác cát, sỏi trên sông Hương <br />
-2<br />
<br />
-3<br />
đoạn Tuần Bao Vinh. Đặc biệt <br />
-4 các đoạn có độ ổn định thấp như <br />
-5<br />
0 2 4 6 8 10 12 14 16 18<br />
đã đề cập ở trên.<br />
20 22 24 26 28 30 32 34 36 38 40 42 44<br />
<br />
Khoang cach (m)<br />
Không tiến hành xây <br />
dựng các công trình có tải trọng lớn lận cận bờ sông .<br />
Hình 3: Mặt cắt 221 bờ phải (SLOPE/W software) <br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Lê Quí An, Nguyễn Công Mẫn. Giáo trình cơ học đất. Nxb Đại học và Trung học <br />
chuyên nghiệp. Hà Nội (1970)<br />
<br />
<br />
45<br />
2. Phan Trường Giang. Nâng cao hiệu lực của phương pháp phân mảnh tính ổn định <br />
đập đất bằng lý thuyết phân tích hệ thống. Luận án Thạc sĩ Khoa học Kỹ thuật. <br />
Trường Đại học Thuỷ lợi . Hà Nội (2000)<br />
3. D.F. Fredlund. The analysis of slope. Short course. Hà Nội (1997).<br />
4. R.w. whilow. Cơ học đất . Nxb. Giáo dục (1996)<br />
5. GEOSLOPE. Slope/ W for slope stability analysis. Canada.(1999)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
46<br />
STABILITY ANALYSIS FOR HUONG RIVERBANK <br />
BY SLOPE STABILITY THEORY<br />
Tran Huu Tuyen, Do Quang Thien<br />
College of Sciences, Hue University<br />
<br />
<br />
SUMMARY<br />
The slope stability theory has occurred in 1920's. It is used to analyse slope <br />
stabilization of: dam, road, and canal bank of. In this article, the author has analysed <br />
the stability of Tuan Bao Vinh section of Huong riverbank using Slope/W software. <br />
The research involved 29 slopes and base on Hue universities project documents to <br />
find minimal safety coefficients and stability of Huong river bank.<br />
In this caculating section, Kmin coefficient: 0.81.2. Bank of Huong River <br />
occurred within the limit of equilibrium state and landslide process would happen if the <br />
balanced factors are changed.<br />
The anthors suggest a reduction for sand exploitation, construction in Bao <br />
Vinh, Tuan, Thien Mu section of Huong River .<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
47<br />