PHAN ĐÌNH PHÙNG<br />
(1847 -1895)<br />
<br />
P h an Đ ình P h ù n g hiệu C hâu Phong, quê làng<br />
Đông Thái, huyện La Sơn, tỉn h H à Tĩnh.<br />
Thuở nhỏ, ông học bài rấ t lâu thuộc, nhưng<br />
nhò cần cù chăm chỉ và có chí, nên sau đỗ Tiến sĩ<br />
đình nguyên, làm quan chức Ngự sử. ô n g là<br />
người cương trực, k hẳng khái. N ăm 1883, khi<br />
triề u đình xảy ra việc phê tr u ấ t vua Dục Đức, lập<br />
Hiệp Hòa lên thay, ông đứng ra can, bị b ắ t giam<br />
mười hai ngày rồi bị bãi chức về làng.<br />
Năm 1885, vua Hàm Nghi ra sơn phòng Hà<br />
Tình, ông đến bái yết, được nhà vua giao cho trông<br />
coi các nghĩa quân chông Pháp ở vùng Nghệ Tĩnh. Năm 1888, vì có kẻ phản bội, vua H àm Nghi<br />
bị Pháp bắt, phong trào sú t kém, nhưng ông vẫn<br />
một m ình đảm đương cuộc kháng chiến trong suốt<br />
mười năm tròi. Trong ngót chục năm ấy, giặc Pháp<br />
và tay sai đem danh lợi ra m ua chuộc, b ắ t người<br />
102<br />
<br />
1 /ĩệ t<br />
<br />
th ân , đào mộ tổ tiên ông song không lay chuyển<br />
được quyết tâm sắ t đá vì nước vì dân của ông.<br />
P h a n Đ ình P h ù n g lấy nú i Vụ Q uang (tục gọi<br />
là N gàn Trươi) làm căn cứ chỉ huy, đ ánh nhau<br />
nh iều tr ậ n với giặc Pháp, tu y cuộc k h án g chiến<br />
không th à n h công, nhưng cũng đã làm cho chúng<br />
bị tổn th ấ t n ặn g nể.<br />
Các n h â n sĩ T h an h - Nghệ - T ĩnh bấy giờ<br />
thường v ẫn gọi P h an Đ ình P hùng là "Sơn tru n g<br />
tể" (ông chúa sơn lâm).<br />
Tương tru y ền , trong thời kỳ P h an Đ ình<br />
P h ù n g đóng q u ân ở N gàn Trươi, viên tu ầ n phủ<br />
H à T ĩnh bấy giờ là Võ Khoa, vốn có tìn h quen<br />
biết, lại có lòng kính trọng chí khí của P h a n Đ ình<br />
P hùng, chính vì vậy nên Võ Khoa có điều muôn<br />
bày tỏ với ông m à không dám nói thẳng, h ắn liền<br />
gửi tới cho ông m ột bài thơ như sau:<br />
K ý vô h ạ vũ tô binh hỏa<br />
A n sử xu â n phong biến hỗ hàn<br />
C hỉ vị ngô châu di n h ấ t ái<br />
T h ử hồi n inh p h ụ th ử g ia n g san.<br />
Tạm dịch:<br />
M ưa rào chẳng dập cơn binh lửa<br />
Gió rét còn gieo lạnh ớn lòng<br />
~ ữ M ih td ĩÂ H<br />
<br />
l^ ịt<br />
<br />
103<br />
<br />
C hỉ tại châu ta còn m ột kẻ<br />
Phen này đ à n h chịu p h ụ non sông.<br />
Bài thơ do m ột người tâm phúc của Khoa đưa<br />
tới, người này theo lời dặn, trước khi đưa thơ đã<br />
nói h ế t cho P h an Đ ình P h ù n g biết rõ binh lực của<br />
P háp hùng m ạnh n h ư th ế nào, để cốt ý khuyên<br />
ngầm P h an Đ ình P h ù n g nên bãi binh, đừng<br />
chống lại m à uổng công.<br />
P h an Đ ình P h ù n g nghe người đưa thơ nói<br />
chuyện, rồi đọc thơ của Võ Khoa, biết Khoa m uôn<br />
khuyên m ình "đành chịu phụ non sông" m à bãi bỏ<br />
cuộc k háng chiến, ông tỏ vẻ không bằng lòng. Rồi<br />
để đập lại th á i độ của m ột kẻ mà ông cho là cầu<br />
an, hèn n h át, ông bèn nhắm nguyên vận họa lại<br />
một bài rằng;<br />
Bách niên tông xã d ư hoài nhiệt<br />
N h ấ t ph iến cô trung tặc đ ả m hàn.<br />
K ý ngữ đồng nhân tri dã p h ẩ u<br />
S ở Vương th ế lực bạt hà san.<br />
Tạm dịch:<br />
Trăm năm non nước ta yêu m ến<br />
Một tấm lòng trung giặc lạnh lòng.<br />
N h ắ n hỏi bạn cfi người có biết<br />
Sở Vương bạt núi dốc nghiêng sông.<br />
104<br />
<br />
'ì/ĩệt<br />
<br />
Võ Khoa n h ậ n được thơ họa, th ấy P h an Đình<br />
P hùng tỏ ý cương quyết chiến đấu đến cùng, biết<br />
ông là người cứng rắ n không gì lay chuyển được,<br />
đành thôi không dám khuyên can gì nữa.<br />
Thơ văn của P h an Đ ình P hùng để lại, đến<br />
nay không còn nhiều. Song cũng đủ phác họa<br />
được chân dung của m ột nh à nho tru n g nghĩa, có<br />
cái n h ìn sáng suốt về cục diện đ ấ t nước, một vị<br />
th ủ lĩnh vì dân và biết dựa vào lực lượng hùng<br />
h ậu của dân, để chôKg lại giặc đến cùng, và cuổì<br />
cùng đã hy sin h m ột cách cao đẹp và đầy ý nghĩa.<br />
<br />
l/ĩề t<br />
<br />
105<br />
<br />
TÔ HIẾN THÀNH<br />
(7-1179)<br />
<br />
Tô H iến T hành, hiệu Phi Diên, người làng Hạ<br />
Mỗ, huyện 0 Diên (nay thuộc huyện Đ an Phượng,<br />
H à Tây). Là m ột d anh th ần , m ột n h à chính trị có<br />
tà i dưới thời vua Lý A nh Tông (lên ngôi 1138 m ất 1175).<br />
Tô H iến T h àn h nổi tiếng ngay từ hồi còn nhỏ<br />
bởi sự thông m inh, n h a n h nhẹn. Khi ra làm quan<br />
với triều Lý. Tô H iến T hành cũng nức tiếng là<br />
người cương trực, k hẳng khái, văn võ toàn tài,<br />
nên vua đặc biệt tin dùng.<br />
Tương truyền, khi mới ra làm quan, vào<br />
những ngày n h à n rỗi, Tô H iến T hành vẫn thường<br />
cùng với một vài người th â n về th ăm quê. ở ô<br />
Diên quê ông, có m ột ngôi m iếu cổ, từ bao đời nay<br />
vẫn được tru y ền tụ n g là râ't thiêng. Người ta rỉ tai<br />
n h au rằng: Ai ôm đau, m ất m át gì, cứ m ua lễ đến<br />
cầu ắ t sẽ được. Tô H iến T h àn h vốn không tin có<br />
106<br />
<br />
~ ữ ^ ih tơ ĩÂ n<br />
<br />
1 / ỉệ t<br />
<br />