Đào tạo các nhóm dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp
lượt xem 2
download
Bài viết "Đào tạo các nhóm dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp" nêu lên những khó khăn lớn đã gặp phải và những bài học được rút ra từ sự thay đổi quan điểm và thực tiễn liên quan đến việc sử dụng chất hóa học trong nông nghiệp. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đào tạo các nhóm dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp
- ĐÀO TẠO CÁC NHÓM DÂN TỘC THIẾU SỔ CÓ TRÌNH ĐỘ DÂN TRÍ THẤP Mr. John Collins, nhà nghiên cứu Australia Bài viết này nêu lên những khó khăn lớn vững. Bài viết này nêu bật những khó khăn đã gặp phải và những bài học được rút ra từ sự chính gặp phải trong thay đổi thái độ và thực thay đổi quan điểm và thực tiễn liên quan đến trạng sử dụng các hóa chất nông nghiệp. việc sử dụng chất hóa học trong nông nghiệp. Nghiên cứu này tiến hành trên đối tượng là Rất nhiều hoa quả và rau tươi tiêu thụ ở những dân tộc thiểu số đang sinh sống và làm Australia được sản xuất bởi những người nông việc ở lưu vực sông Sydney bang New South dân mới nhập cư đến từ các nước không nói Wales. tiếng Anh. Những người nông dân này thường Nước Úc ngày nay đã trải qua những làn không biết tiêng Anh. Do đó họ gặp khó khăn sóng nhập cư liên tiếp. Trong những năm sau trong việc tìm hiểu luật, các quy định của Úc 1945 là làn song nhập cư đến từ các nước châu và các hướng dẫn sử dụng an toàn trên bao bì Âu và Địa Trung Hải. Trong những năm 1960 các sản phẩm hóa chất nông nghiệp như thuốc và 1970 người nhập cư từ các nguồn hết sức trừ sâu và chất tẩy rửa. đa dạng di cư nhiều tới nước này. Tất cả các bang và vùng lãnh thổ ở Úc Một số người nhập cư có học thức và khả đều có luật và quy định về bảo vệ sức khỏe của năng tài chính. Một số khác thì ngược lại. người nông dân và người tiêu dùng, đồng thời Nhóm thứ hai này là đôí tượng chính được hạn chế mức độ lan rộng của ô nhiễm môi thảo luận trong phần còn lại của bài nghiên trường. Lạm dụng hóa chất cũng có thể khiến cứu. doanh nghiệp nông nghiệp mất tính bền vững Dân nhập cư nghèo, không được học hành bởi việc tăng chi phí đầu vào hoặc các nông đầy đủ thường tìm việc làm đầu tiên của họ ở phẩm không tiêu thụ được. những nơi bẩn thỉu, nguy hiểm, lương thấp mà Cung cấp dịch vụ đào tạo mở rộng cho thường những người dân có mức thu nhập cao những nhóm nông dân mù chữ đến từ nhiều hơn tránh xa. Những người mới nhập cư chấp nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau tiềm ẩn rất nhận làm những công việc đó bởi đó thường là nhiều khó khăn, một phần là do thái độ chống công việc hiếm hoi mà họ có thể tìm được. đối luật của họ, nhưng phổ biến nhất là do Nhiều người sớm tìm cách chuyển sang các những khó khăn trong việc thiết lập kênh giao công việc có điều kiện làm việc tốt hơn. tiếp hiệu quả với họ. Những được xem là “khá hơn” có thể là công Một vài khó khăn có thể nêu ra đây liên việc chăn nuôi nông sản lấy thịt (ví dụ như thịt quan tới các công tác: tiếp cận với những gia cầm hoặc sản xuất trứng) ở những trang nhóm xã hội khép kín, xác định và thuyết phục trại diện tích nhỏ, không đòi hỏi vốn đầu tư lớn những người lãnh đạo cộng đồng đó, biên soạn vào máy móc, đất đai hoặc thiết bị. nguồn tài liệu dễ hiểu và hữu ích, đối phó với Những nhóm người di cư trong các giai những thông tin sai lệch từ các tài liệu không đoạn trước đó có thể được cấp đất để canh tác. chính thống và chọn ra những người tham gia Ví dụ như những người di cư người Ý, Hy Lạp đào tạo thích hợp. Cũng đã có đánh giá về và Malta đã đến vào những năm 1950 hoặc những chiến lược đào tạo khác nhau, sự thành 1960 có thể đã làm việc đủ lâu để mua từ 1 tới công hay thất bại của những chiến lược đó. 5 hecta ở vùng ngoại ô của Sydney, nơi mà giá Thay đổi thái độ và hành vi của các nhóm đất thấp hơn. Đến những năm 1990, những đối tượng là một phần thiết yếu của quá trình người di cư đó đã quá tuổi để có thể làm việc tạo ra tăng trưởng kinh tế và phát triển bền các trang trại của họ, nên họ thuê lao động từ 147
- các nhóm người mới đến như Khmer, Lebanon quyền khi vi phạm luậtdo thiếu hiểu biết. hoặc Somalia. Quá trình này đã phát triển Trong các trường hợp như vậy, họ thường tìm trong nhiều thập kỷ. Kết quả là lưu vực Sydney cách tránh né chính quyền bất cứ khi nào có trở thành một lăng kính về các dân tộc thiểu số thể. Nhiều người mới di cư NESB gần đây ở khu vực nông nghiệp nhỏ. Uớc tính rằng hơn cũng đã từngtham gia vào các lĩnh vực như 85% hoa và rau quả của Sydney được sản xuất chính trị, tôn giáo hay kinh tế ở quê nhà, nơi từ các trang trại vùng lưu vực Sydney, được họ có những mâu thuẫn về quyền hoặc lợi ích quản lý và làm việc bởi những người có nguồn với những nhóm công dân khác, và chính điều gốc không nói tiếng Anh (NESB). Hơn nữa, này là khiến họ có xu hướng không tin tưởng người ta ước tính rằng hơn 65% người làm và tránh tiếp xúc với các cơ quan chính quyền vườn NESB là những người nhập cư thế hệ ở Úc . Kết quả là, chính quyền Úc cảm thấy đầu tiên [1]. khó khăn để xác định, giao tiếp và giành được Có sự khác biệt đáng kể rõ ràng giữa các lòng tin của những nhóm người nhập cư mới trường hợp được mô tả ở đây với hoàn cảnh này. của các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam. Tất cả các bang và vùng lãnh thổ của Úc Nhóm dân cư nông nghiệp được mô tả trong đã giới thiệu luật và quy định quản lý mua và / bài nghiên cứu này chủ yếu chỉ sống cách hoặc sử dụng các hóa chất nông nghiệp và thú trung tâm thành phố lớn khoảng 1 giờ đi lại, họ y. Song nạn mù chữ trong các nhóm nông dân không sống tại các vùng lãnh thổ bị các tính NESB tạo thành một rào cản đáng kể đối với năng địa lý chi phối như địa hình núi và giao việc nắm các quy tắc, quy định cũng như thông khó khăn. Nhưng cũng vẫn tồn tại 1 số những thông tin an toàn trên bao bì sản phẩm. điểm tương đồng có thể nêu ra đây: Không quen với thổ nhưỡng ở Úc, khí hậu, - Đa dân tộc giống cây trồng và điều kiện sâu bệnh với vô Những làn sóng nhập cư thành công vàn khó khăn khác - thực vật lạ, điều kiện đã đóng góp vào lực lượng lao động nông nông học mới, sâu bệnh lạ và sự thiếu hiểu biết nghiệp ở lưu vực Sydney. Những nhóm lớn, về các hóa chất phù hợp, tỷ lệ ứng dụng, thời sắp xếp theo thứ tự nhập cư, bao gồm dân gian giữ thuốc, nguy cơ sức khỏe và tác động thuộc các nền văn hóa khác nhau: Địa Trung môi trường tạo nên một sự cộng hưởng các rủi Hải (tiếng Ý, tiếng Hy Lạp, tiếng Malta), các ro. nền văn hóa Đông Dương (Khmer, Việt Nam, Nông dân NESB tìm hiểu về sử dụng an Lào), Trung Quốc, Ấn Độ tiểu lục địa và toàn và hiệu quả các hóa chất từ láng giềng của Trung Đông, châu Phi và Nam Mỹ. họ, các nhóm ngôn ngữ của họ trong - Trình độ học vấn thấp vùng(thường liên lạc ở chợ), đại lý tiếp thị và Thị trường làm vườn thường là của những các nhà bán lẻ hóa chất, các sản phẩm và thiết người có lựa chọn nghề nghiệp hạn chế. bị nông nghiệp khác. Những người hàng xóm - Cô lập về xã hội và chính trị và các nhóm ngôn ngữ này thường có xu Học vấn thấp và bản chất của nông dân hướng đề cao và tin tưởng vào thực tiễn trước làm trang trại nhỏ làm gia tăng khoảng cách mắt họ thay vì những lời khuyên được tư vấn. với cộng đồng dân cư đông đúc, văn hóa và Một số nghiên cứu đã nhận ra vai trò quan các nhóm chính trị khác. trọng tích cực của các nhà bán lẻ hóa chất bảo - Thiếu tin tưởng các cơ quan thẩm quyền vệ thực vậtđối với cuộc sống của người nông Một phần vì không có khả năng đọc tiếng dân NESB. Các nhà bán lẻ cung cấp giống, Anh, những người mới di cư NESB thấy khó phân bón, thiết bị, hóa chất và thường cả đặc khăn để nắm bắt luật pháp địa phương, luật dụng, tư vấn về kỹ năng nông học, thủ thuật thương mại và các hoạt động khác. Ở phạm vi chào hàng, bệnh nghề nghiệp và an toàn lao lớn hơn, đôi khi họ phải làm việc với chính động. Các nhà bán lẻ cũng là các nút quan 148
- trọng trong mạng lưới thông tin, đưa nông dân vọng trở thành người lãnh đạo "cộng đồng" sẽ tiếp xúc với các nguồn thông tin như nông học, cảm thấy khó để có thể thiết lập mối quan hệ côn trùng học, nhà hàng, đại lý tiếp thị và giao tiếp với thành viên cộng đồng, cho họ biết tương tự. Nhưng những nhà bán lẻ cũng có lợi thế và lợi ích xã hội hay chính trị của bản nhiều mặt hạn chế, đặc biệt trong tư vấn về thân. dịch hại cây trồng và dịch bệnh. Tại những cộng đồng có nhà lãnh đạonon Một khó khăn nữa là nông dân NESB trẻ mới nổi, có thể xảy ralúng túng khi làm thường trồng các loại cây khác thường ở Úc. việc với các tổ chức chính quyền của nhà Vì vậy không có hướng dẫn kiến thức về cây nước. Nỗ lực bằng cách triển khai rộng rãi việc trồng, các bệnh tiềm năng và sâu bệnh, tư vấn khai thác vai trò của các nhà lãnh đạo cộng về thuốc trừ sâu và cách sử dụng thích hợp đồng cũng thất bại vì các nhà lãnh đạo đã thấy nhất (liều lượng, thời gian, vv) đối với loại cây trong dự án khả năng họ sẽ làm thay mọi việc trồng này. Một khó khăn khác là các nhà bán lẻ cho các thành viên cộng đồng. Những nhà lãnh hiển nhiên có mâu thuẫn về lợi ích - sinh kế đạo đã hình thành một hiệp hội người những của họ phụ thuộc vào khối lượng bán hàng, nhà diễn thuyết Khmer, nhưng trong hơn hai trong khi những lời khuyên nông học tốt năm qua, hiệp hội này cũng chưa đem lại lợi thường là giảm sử dụng thuốc trừ sâu hóa học ích hữu hình gì cho các thành viên cộng đồng . và phân bón. Với nỗ lực đạt được một điều gì đó có giá trị Cán bộ khuyến nông của chính phủ có xu cho các thành viên cộng đồng, những nhà lãnh hướng tiến hành công việc của họ bằng cách đạo đã hăm hở bỏ qua khâu lập kế hoạch thông xác định và tập trung nỗ lực vào những nhà thườngvà giai đoạn chuẩn bị của dự án được lãnh đạo cộng đồng, với niềm tin rằng bằng thiết kế nhằm cải thiện việc sử dụng hóa chất cách thay đổi thực hành trong thành phần này nông nghiệp an toàn, và kêu gọi các tổ chức của cộng đồng nông nghiệp, những nông dân khởi động dự án sớm. Dự án tiến hành, nhưng khác sẽ được khuyến khích áp dụng các thay không có đủ kinh phí, kế hoạch và hướng dẫn đổi theo. Chiến lược như vậy cũng gặp nhiều cho người tham dự [1]. khó khăn trong lưu vực Sydney. Những nông dân NESB đang tìm cơ hội Khó khăn đầu tiên là nông dân NESB trở thành lãnh đạo cộng đồng lại có thể cản trở thường nghi ngờ các quan chức chính phủ. công việc của cán bộ khuyến nông của chính Trong một số trường hợp một mối ngờ vực của phủ theo những cách khác nhau. Để bố trí kinh họ xuất phát sâu xa từ những lý do họ di cư phí, nguồn lực và các yếu tố của một chương đến Úc. Trong trường hợp khác, sự thiếu kinh trình đào tạo, cán bộ khuyến nông cần biết số nghiệm của họ với các phong tục tập quán người tham gia có khả năng, trình độ học vấn, thường đặt họ vào thế sai trong mọi việc, đặc quy mô và tính chất hoạt động canh tác và biệt là trong quan niệm của các cơ quan chính những thông tin đại loại như vậy. Nhưng phủ. Cả hai yếu tố đều hướng họ về cảm giác những nông dân đang cố gắng trở thành lãnh "luôn nằm trong vùng radar" bất cứ khi nào có đạo đại diện cho các nhóm ngôn ngữ của họ lại thể, khiến họ tham gia tối thiểu vào đời sống có thể không muốn tiết lộ những thông tin này xã hội, văn hóa và chính trị của đất nước. vì sợ rằng họ sẽ bị xem là "cộng tác viên" với Ngoài việc cùng chung ngôn ngữ, hầu hết chính phủ để gây thiệt hại cho nông dân. các nhà bình luận đều cho rằng những nhóm Công tác khuyến nông trong nông dân nông dân NESB này không phải là "cộng NESB gặp nhiều khó khăn hơn nữa vì thiếu đồng". Do thực tế rằng giờ làm việc của họ các nguồn tài nguyên phù hợp. Bởi vì số lượng thường dài nên họ có ít cơ hội giao tiếp với các các nhóm ngôn ngữ lớn và số lượng nông dân nông dân khác, và thậm chí với vợ và các con. trong mỗi nhóm ngôn ngữ tương đối nhỏ, chi Trong hoàn cảnh đó, những người có tham phí dịch tài liệu sang các ngôn ngữ khác nhau 149
- là tốn kém. Hơn nữa, thường cũng rất khó để toàn không phải là vấn đề kỹ thuật. Ông cán bộ khuyến nông Anglophone hoặc giảng Hardin đã cho chúng tôi một lời nhắc nhở bổ viên xem liệu dịch có chuẩn với bản tiếng Anh ích rằng không phải tất cả các vấn đề đều tuân ban đầu. Kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy theo giải pháp kỹ thuật, và một số vấn đề bất kỳ hai dịch giả nào cũng có thể có những dường như đòi hỏi một cuộc cách mạng trong bất đồng về tính đầy đủ của các bản dịch từ mô hình văn hóa chi phối. Không thể đơn giản tiếng Anh sang ngôn ngữ khác, và sự không uỷ quyền hoặc áp đặt các giải pháp kỹ thuật thống nhất về cách sử dụng các cụm từ chuyên khuyến nông lên các cộng đồng khi họ chưa ngành an toàn nông nghiệp và phát triển bền sẵn sàng để tiếp nhận những giải pháp đó. Xây vững có thể gây tốn thời gian và tiền của. dựng năng lực cộng đồng chung là bước đầu Cuối cùng, việc tìm người đào tạo hoặc tiên cần hướng tới . cán bộ khuyến nông có thể để giành niềm tin Bài học thứ hai là xây dựng năng lực cộng của các nhóm NESB - thậm chí người thuộc đồng cần có thời gian và phụ thuộc nhiều vào nội bộ các nhóm - là khó khăn. Không phải tất việc duy trì và phát triển các mối quan hệ hiện cả nông dân của một nhóm nói chung 1 thứ có giữa các cộng đồng cô lập và xã hội rộng tiếng sẽ cùng có chung tôn giáo, quan điểm lớn. Các nhà bán lẻ thiết bị nông nghiệp, hóa chính trị, địa vị xã hội, còn người bên ngoài thì chất địa phương, các đại lý tiếp thị và một số ít thường bỏ lỡ các khía cạnh liên quan. các thành viên đáng tin cậy của xã hội Sydney Tóm tắt những khó khăn: rộng lớn đã từng bước xâm nhập vào nhóm Một số khó khăn có thể kể đến là sự thâm ngôn ngữ khác nhau. nhập vào các nhóm xã hội tách biệt, xác định Chính phủ, để thực hiện được theo cách và thuyết phục các nhà lãnh đạo cộng đồng, của mình, đã phải học cách làm việc thông qua chi phí hiệu quả, tài liệu đào tạo dễ hiểu và hữu những người truyền thông tin trung gian không ích, đối phó với những thông tin sai lệch trong chính thức. Chính phủ đã không có quyền lựa các nguồn tài liệu và lựa chọn giảng viên thích chọn người để làm việc với hoặc thông qua. hợp. Chúng tôi cũng đánh giá sự thành công Chính phủ cũng không thể chỉ định các đại lý hay thất bại của các chiến lược khác nhau vào thay đổi mối quan tâm của mình. giải quyết các vấn đề này. Bài học thứ ba là tổ chức đại diện các Đã 15 năm kể từ khi quy định đào tạo bắt nhóm ngôn ngữ mới ra đời không thể đơn giản buộc đối với người sử dụng hóa chất nông là được cộng đồng chọn tham gia đấu thầu của nghiệp có hiệu lực ở bang NSW. Đã có nhiều chính phủ. Các tổ chức đại diện của các nhóm nỗ lực trong việc tiếp cận và đào tạo những ngôn ngữ người nông dân NESB đang trong người làm vườn NESB của lưu vực Sydney, giai đoạn đầu của việc tạo lập sự tín nhiệm và với sự tham gia của một số cơ quan nhà nước, xác định nhiệm vụ của mình. Việc họ đơn chính phủ liên bang, hai trường đại học, một số thuần chấp nhận làm đại diện cho những ước tổ chức phi chính phủ (NGO), và một số công nguyện của xã hội Úc đối với nhóm ngôn ngữ ty đào tạo tư nhân (thương mại), và các nhóm của họ cũng sẽ hủy hoại sự phát triển của bản khác. Chúng tôi cũng đã tiến hành rất nhiều thân họ cũng như khả năng tiếp cận của xã hội cuộc điều tra, báo cáo điều tra có cái đã được với các thành viên trong nhóm. "Sự hỗ trợ" mà công bố, có cái chưa.Vậy những bài học nào có chính phủ cung cấp cho các tổ chức cộng đồng thể rút ra từ tất cả các hoạt động nhằm thay đổi đã lấn lướt và làm tiêu tan năng lực tư duy và thái độ và hành vicủa các nhóm nông dân thiểu chính trị của các tổ chức này nhằm quản lý sự số? hỗ trợ đã nhận được, và điều đó cũng có thể Bài học đầu tiên là việc tiếp cận nhóm dẫn đến mất tính hợp pháp trong con mắt của người dân trí thấp, các nhóm xã hội cô lập những người ủng hộ của họ xưa nay. thiếu cấu trúc quyền hạn nội bộ rõ ràng hoàn 150
- Nếu chính phủ muốn sử dụng các tổ chức biệt quan trọng đối với cán bộ quản lý và thực cộng đồng để đạt được mục đích và mục tiêu thi. Cách thức mà họ thực hiện công việc có của mình, các chính phủ phải cố gắng để đảm thể đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng bảo các tổ chức có khả năng giúp các cử tri của niềm tin trong chính phủ nói chung, trong đó họ đồng ý, ăn nói lưu loát, ưu tiên những vấn có niềm tin vào những cán bộ tớiđể hỗ trợ, đề họ phải đối mặt, và khả năng khuyến khích viện trợ chứ không phải là đảm bảo sự tuân thủ cộng đồng của họ giải quyết các vấn đề đã của các thành viên của nhóm đối tượng. được thống nhất. Chỉ khi đó, giá trị nguồn lực Kết luận: cung cấpcho chính phủ mới được những cộng Trong mười lăm năm qua, rất nhiều các tổ đồng đang hướng tới đó thừa nhận. Chính phủ chức khác nhau đã có nhiều nỗ lực cả về công không thể lập pháp năng lực cho các tổ chức sức và tiền bạc dành cho nông dân trong NESB cộng đồng, nhưng chính phủ có thể kiềm chế ở khu vực lưu vực Sydney, họ cũng đã gặp sự phát triển của nó và có thể tích cực hỗ trợ phải vấn đề và thu được những kết quả tương phát triển của họ bằng các hỗ trợ kịp thời và tự như trên. phù hợp khi cần. Trong nỗ lực cải thiện các vấn đề về sức Chính phủ có thể vô tình ức chế sự phát khỏe, sự an toàn, tính bền vững kinh tế và tập triển năng lực tổ chức cộng đồng nếu các phe quán canh tác của những nhóm người trình độ khác nhau của chính phủ làm việc vì những dân trí thấp, người ta đã rút ra những bài học mục đích trái ngược. Các cấp chính quyền cần kinh nghiệm của các nhóm nông dân bị cô lập phải nhận ra rằng bản thân các nhóm dân , và cách biệt về văn hóa và cho rằng những cưtrình độ thấp, bị cô lập về mặt xã hội cũng bài học này chỉ ra sự kiên nhẫn, nỗ lực phối không phân biệt được rõ ràng vai trò của các hợp giữa các cơ quan chính phủ, và một loạt cơ quan trong chính phủ. Đối với những người các kỹ thuật để áp dụng. không tiếp xúc bao giờ thì "Chính phủ" xuất Tuy nhiên, bài học quan trọng nhất là hiện như một thực thể nguyên khối. Dù có chính phủ cũng phải thay đổi thái độ và hành tranh luận hay nỗ lực quan hệ công chúng đến vi nếu như đó là một cách hiệu quả để thay đổi đâu cũng không thể thay đổi quan niệm này. thái độ và hành vi trong các nhóm thiểu số để Sự thay đổi phải đến từ bên trong các nhóm hướng tới bất kỳ khía cạnh phát triển kinh tế dân tộc thiểu số đó. Chính phủ không thể làm nào. Thay vì áp đặt thay đổi hoặc ra lệnh để sự luật, ra lệnh thay đổi mà chỉ có thể hỗ trợ các thay đổi xảy ra, chính phủ phải áp dụng chiến quá trình diễn ra trong nội bộ cộng đồng dẫn lược dài hạn để khuyến khích xây dựng năng đến sự thay đổi. lực trong các nhóm thiểu số mục tiêu để cho Rõ ràng Bradley đã đúng khi khẳng định phép các nhóm để tham gia tốt hơn với xã hội, rằng không chỉ các nhóm NESB mục tiêu phải bao gồm cả bản thân chính phủ. thay đổi thái độ và hành vi của mình, mà cả Kinh nghiệm của mười lăm năm làm việc chính phủ cũng phải làm như vậy nếu họ muốn ở lưu vực sông Sydney cho thấy rằng cho đến mang lại sự thay đổi mà họ mong muốn trong khi họ phát triển năng lực để tiếp cận với xã các nhóm đối tượng. hội để phát triển kinh tế thì các nhóm dân tộc Khi thành viên của một nhóm đối tượng thiểu số sẽ không dễ dàng chia sẻ trong suốt cần làm thay đổi thái độ hay hành vi lại không quá trìnhnày của nền kinh tế quốc gia và toàn phân biệt được các bộ phận khác nhau của cầu. chính phủ, thì các cán bộ đại diện cho những bộ phận khác nhau ấy phải nhận ra rằng hành động của họ có thể giúp hoặc cản trở khả năng của các bộ phận khác trong chính phủ nhằm đạt mục tiêu chung. Sự nhận thức này là đặc 151
- Tài liệu tham khảo [1] Parker, F. (2000) Phát triển một chiến lược mở rộng hiệu quả cho việc sử dụng an toàn hóa chất nông nghiệp của người làm vườn không nói tiếng Anh trong lưu vực Sydney. Một báo cáo của Tổng công ty nghiên cứu và phát triển các ngành công nghiệp nông thôn (Dự án RIRD: UWS 10A) [2] Parker, F. (2000b) Nâng cao sự hiểu biết về thực hành y tế và an toàn lao động của người làm vườn và người trồng hoa cây cảnh không nói tiếng Anh trong lưu vực Sydney. Dự án tài trợ của Ủy ban Y tế và An toàn nghề nghiệp quốc gia. [3] Sở Giáo dục và Đào tạo và Sở Nông nghiệp bang New South Wales. (2000) Giáo dục và kế hoạch đào tạo cho nông nghiệp bền vững ở khu vực Sydney [4] Mulcahy, R (2009) Chương trình truyền thông LOTE (Ngôn ngữ khác ngoài Anh ngữ) cho ngành công nghiệp thực vật. Ausveg Ltd Dự án VG06066 Vườn Australia Ltd Sydney. [5] Hardin, G. (1968) Bi kịch của chung. Khoa học 162 (3859) 1243-1248 [6] Bradley, M. (2008) Bồi dưỡng một nền văn hóa phát triển bền vững với người trồng rau quả tới từ các nước không nói tiếng Anh (NESB) trong Lãnh thổ phía Bắc. Một báo cáo chuẩn bị cho Northern Territory Hiệp hội Vườn. Các hệ sinh thái bền vững CSIRO, Darwin. NT 152
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình chính trị - Bộ giáo dục và đào tạo
248 p | 2523 | 874
-
Tục bắt vợ - nét độc đáo trong hôn nhân của người Mông
4 p | 111 | 16
-
Nhà ở truyền thống của các dân tộc Việt Nam (Tập 1): Phần 1
153 p | 45 | 15
-
Vấn đề hướng nghiệp cho học sinh dân tộc tại Tây Nguyên - Nguyễn Ngọc Tài
4 p | 96 | 8
-
Truyền thông thay đổi hành vi về nuôi dưỡng trẻ nhỏ tại địa bàn khó khăn - Dự án Alive & Thrive
183 p | 117 | 7
-
Chính sách tôn giáo của các quốc gia Trung Á thời kỳ hậu Xô Viết: Một số vấn đề đặt ra
17 p | 12 | 4
-
Phát triển nguồn nhân lực góp phần nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam
7 p | 75 | 3
-
Một số yếu tố ảnh hưởng đến chính sách hỗ trợ trong giáo dục phổ thông đối với học sinh dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn
5 p | 106 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn