Đào tạo ngành quan hệ quốc tế cho hội nhập: Thực trạng và giải pháp ở HUFLIT - Việt Nam
lượt xem 2
download
Đất nước ta đang bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn của hội nhập với các nước trên thế giới để nâng cao nền kinh tế, giáo dục, văn hóa, khoa học, xã hội và trình độ của công dân. Bài nghiên cứu nhằm nhận định thực trạng hiện nay trong giáo dục và đào tạo đặc biệt ở phân Khoa Quan hệ quốc tế Trường Đại học Ngoại ngữ và Tin học Thành phố Hồ Chí Minh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đào tạo ngành quan hệ quốc tế cho hội nhập: Thực trạng và giải pháp ở HUFLIT - Việt Nam
- HUFLIT International Conference On Ensuring A High-Quality Human Resource In The Modern Age - Oct 16, 2020 doi: 10.15625/vap.2020.0071 ĐÀO TẠO NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ CHO HỘI NHẬP: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Ở HUFLIT - VIỆT NAM Lý Thị Ngọc Thoa Khoa Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. HCM thoa.ltn@huflit.edu.vn TÓM TẮT: Đất nước ta đang bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn của hội nhập với các nước trên thế giới để nâng cao nền kinh tế, giáo dục, văn hóa, khoa học, xã hội và trình độ của công dân. Bài nghiên cứu nhằm nhận định thực trạng hiện nay trong giáo dục và đào tạo đặc biệt ở phân Khoa Quan hệ quốc tế Trường Đại học Ngoại ngữ và Tin học Thành phố Hồ Chí Minh. Qua phân tích một số tư liệu về hội nhập của các đơn vị ngoài xã hội và một bài thăm dò ý kiến của sinh viên năm đầu và năm cuối tác giả khảo sát được phần nào những điểm mạnh và những thiếu sót cần được chuẩn bị và chỉnh sữa từ khâu tuyển sinh, chương trình đào tạo đến trình độ chuyên môn của giảng viên, giáo trình tài liệu với hy vọng sẽ là những góp ý có ich cho công tác đào tạo nguồn nhân lực sẵn sàng cho xã hội bước vào thời kỳ hội nhập một cách hiệu quả nhất. Từ khóa: Hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế, FTA, AEC. I. HỘI NHẬP: NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆT NAM A. Yêu cầu chung Chủ trương của Đại hội Đảng lần thứ XI đánh dấu giai đoạn mới của hội nhập quốc tế nước ta nhằm phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước, triển khai đường lối đối ngoại. Xuất phát từ xu thế khách quan và nhằm đáp ứng nhu cầu mới của đất nước, hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới đặt ra những yêu cầu hoàn toàn mới đối với các cơ quan, hiệp hội, địa phương và doanh nghiệp nước ta. Do đó, vấn đề cần thiết là nhận thức đầy đủ hơn tính tất yếu của hội nhập, liên kết quốc tế, nội dung hội nhập trong thời kỳ mới, cũng như thời cơ và thách thức. Từ đó, xác định các giải pháp để tham gia, đóng góp đối với tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước. 1. Đặc điểm của hội nhập quốc tế nước ta trong giai đoạn mới Xu hướng hội nhập, liên kết kinh tế đa tầng nấc, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do (FTA), gia tăng mạnh. Nổi bật là các hiệp định FTA thế hệ mới phát triển nhanh hơn, ngày càng sâu rộng, gắn kết với phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức toàn cầu. Châu Á – Thái Bình Dương đóng vai trò đầu tàu trong tăng trưởng và liên kết toàn cầu. Hàng loạt các đàm phán FTA thế hệ mới tạo ra những bước ngoặt trong liên kết kinh tế ở hầu khắp các khu vực, tiêu biểu là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) kết thúc đàm phán 10/2015, Hiệp định đối tác thương mại – đầu tư xuyên Đại Tây Dương Hoa Kỳ – EU (TTIP), Khuôn khổ đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP) đều dự kiến kết thúc vào năm 2016. Hình 1. Đoàn Việt Nam tháp tùng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự HNCC ASEM 10, Milan, Ý, ngày 16 – 17/10/2014
- 122 ĐÀO TẠO NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ CHO HỘI NHẬP: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Ở HUFLIT-VN Khác với các giai đoạn trước, hội nhập quốc tế giai đoạn hiện nay đòi hỏi đổi mới tư duy, chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”. Với tầm và quy mô hội nhập hiện nay, các mối quan hệ kinh tế quốc tế của nước ta không đơn thuần là “hội nhập” mà ở tầm “liên kết”. Cần tăng cường cách tiếp cận đa ngành, liên ngành và đa phương. Đây là xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, các nội hàm liên kết trở nên sâu rộng hơn, với nhiều đối tác hơn, mang tính liên ngành, đa lĩnh vực, đa tầng nấc, ở mọi cấp độ tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Phát triển bền vững, sáng tạo và ứng phó với các thách thức toàn cầu là nội hàm quan trọng của hội nhập quốc tế. Điều này là phù hợp với xu thế chuyển đổi sang mô hình bền vững và sáng tạo, tăng trưởng xanh, từ tư duy kinh tế, tư duy phát triển, cách tiếp cận đến cách thức quản trị kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh trên mọi tầng nấc. Tận dụng cơ hội, tiềm năng của liên kết quốc tế về công nghệ, quản lý, nguồn lực và tham gia vào tầng nấc cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, cần có sự đột phá trong cải cách, đổi mới trong nước, nhất là về thể chế, khuôn khổ pháp lý, năng lực thực thi hội nhập quốc tế, trình độ, kỹ năng, ngoại ngữ của nguồn nhân lực. Cùng với đó là việc hình thành các chính sách tham gia hội nhập, liên kết quốc tế trong từng lĩnh vực và thiết lập các cơ chế chỉ đạo, phối hợp phù hợp với tình hình mới. 2. Thời cơ và thách thức của hội nhập quốc tế giai đoạn mới a) Thời cơ và thuận lợi Với triển vọng hoàn tất đàm phán và triển khai Hiệp định FTA trong giai đoạn đến năm 2020, lần đầu tiên nước ta sẽ trở thành một mắt xích quan trọng của mạng lưới liên kết kinh tế rất rộng lớn với tất cả các trung tâm và các nền kinh tế hàng đầu thế giới. Các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những thuận lợi lớn chưa từng có để mở rộng thị trường xuất khẩu, với tư cách là một đối tác bình đẳng, không bị phân biệt đối xử, theo mức thuế ưu đãi, thậm chí là 0 %, với 56 đối tác mà ta có hiệp định FTA. Ðây là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ của nước ta, tạo thêm việc làm, góp phần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Hội nhập quốc tế sâu rộng, tạo động lực mới để thúc đẩy đổi mới, hoàn thiện môi trường pháp lý, thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước ngày càng minh bạch hơn, làm thông thoáng môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước, thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến. Hội nhập quốc tế sâu rộng tạo thời cơ, thuận lợi mới để triển khai chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, làm sâu sắc và nâng tầm các quan hệ đối tác, tạo thế đan xen lợi ích dài hạn với tất cả các trung tâm kinh tế – chính trị hàng đầu thế giới, đem lại thế và lực mới cho đất nước, củng cố môi trường hòa bình, ổn định. Với chủ trương “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”, nước ta có điều kiện cùng các nước hoạch định các chính sách toàn cầu, nhất là về kinh tế, thương mại, thúc đẩy hình thành một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, trong đó có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp Việt Nam trong tranh chấp thương mại quốc tế. Các hiệp hội và doanh nghiệp trong nước có điều kiện thuận lợi hơn để tiếp cận nguồn nguyên liệu đầu vào với giá cạnh tranh hơn, dịch vụ hỗ trợ tiện lợi hơn, chất lượng cao hơn, tiết kiệm chi phí sản xuất…, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Người dân trong nước có thêm nhiều sự lựa chọn phong phú về hàng hóa, dịch vụ với chất lượng cao và giá cả cạnh tranh. b) Thách thức, khó khăn Thách thức lớn và trực diện nhất là sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của ta sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay trên thị trường nội địa. Chính phủ ta phải cạnh tranh với chính phủ các nước trong cải thiện môi trường thu hút đầu tư, nguồn nhân lực… Các lĩnh vực kinh tế vốn được bảo hộ bị thách thức gay gắt do việc cắt giảm thuế quan, như ngành sản xuất ô-tô, mía đường, gạo, xăng dầu,… Các Bộ, ngành, hiệp hội và doanh nghiệp đứng trước đòi hỏi phải hiểu biết nhiều và vận dụng hiệu quả các luật lệ, quy định kinh tế, thương mại cũng như văn hóa kinh doanh của nhiều nước và nhiều thị trường hơn trước, đặc biệt trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại. Các FTA mới đòi hỏi phải điều chỉnh luật lệ, chính sách không chỉ về kinh tế, thương mại mà cả các vấn đề phi thương mại, như quyền của người lao động, tiêu chuẩn lao động, tự do hiệp hội – công đoàn, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ,…
- Lý Thị Ngọc Thoa 123 Với xu thế chuyển dịch lao động giữa các nước tham gia FTA, thách thức đối với các cơ quan, doanh nghiệp, hiệp hội, người lao động trong nước là sức ép về trình độ, tri thức và tay nghề, nguy cơ tranh chấp quốc tế (các FTA mới có quy định cao về giải quyết tranh chấp)… Trong khi lực lượng lao động nước ta chưa qua đào tạo còn chiếm tỉ trọng lớn, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu; Đội ngũ cán bộ, công chức nước ta thiếu và hạn chế về năng lực hội nhập; thiếu đội ngũ luật sư giỏi để giải quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh nghiệp. Hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế, xung đột, tranh chấp sẽ tác động nhanh hơn, mạnh hơn đến nền kinh tế nước ta, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển bền vững của ta; thách thức về bảo đảm an ninh, giữ gìn bản sắc dân tộc, sự phát triển không đều… Những yếu kém, bất cập trong nước bộc lộ rõ hơn và nếu không được xử lý kịp thời và thỏa đáng thì sẽ làm gia tăng nguy cơ tụt hậu của nước ta. Chuyển biến trong tư duy trong nước chưa kịp với tình hình quốc tế và tốc độ hội nhập quốc tế của nước ta. Khu vực tư nhân còn manh mún, quy mô nhỏ, thiếu nguồn vốn, công nghệ, kỹ năng quản trị… Các hiệp hội, địa phương và doanh nghiệp hiểu và tham gia hội nhập rất hạn chế, thụ động. Cơ chế điều phối còn bất cập. B. Yêu cầu đối với giáo dục Nhiều cơ hội cũng như thách thức từ việc Việt Nam tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đặt ra đòi hỏi năng lực của người lao động cũng cao hơn để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Để nâng cao chất lượng lao động, giáo dục Việt Nam đứng trước những thách thức về hướng phát triển và đào tạo nguồn nhân lực để có thể đáp ứng yêu cầu thời hội nhập. Không nên quá coi trọng bằng cấp. Trong tư tưởng của nhiều gia đình Việt, phải đi học đại học để có một tấm bằng làm “tấm vé” thông hành để xin việc tại các công ty, cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, với việc nước ta gia nhập cộng đồng AEC, lao động Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với lao động các nước trong khu vực ngay chính trên sân nhà thì việc bằng cấp sẽ không còn được coi trọng bằng năng lực thực sự. Để có thể cạnh tranh được với lao động của các nước, người lao động Việt Nam phải trau dồi kiến thức, ngoại ngữ và nâng cao tay nghề... Như vậy, nếu người học vẫn có tư tưởng học để lấy tấm bằng mà không trau dồi kiến thức khi còn ngồi trên nghế nhà trường sẽ không thể đáp ứng yêu cầu thời hội nhập và cũng không thể cạnh tranh với lao động của các nước bạn. Theo bà Phạm Thị Ly, Giám đốc Chương trình nghiên cứu, Viện Đào tạo quốc tế, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh“Thị trường lao động là nơi cuối cùng công nhận sản phẩm đào của các trường nếu người học không có kiến thức, kỹ năng làm việc sẽ không tồn tại. Như vậy, trước sự cạnh tranh của Cộng đồng kinh tế ASEAN tấm bằng sẽ không có giá trị nếu người học không có kiến thức thực sự. Việc cạnh tranh sẽ đưa các trường tiến tới thực học và dạy những kỹ năng cần thiết cho người lao động”. Theo thỏa thuận trong khuôn khổ AEC, 8 lĩnh vực ngành nghề được tự do di chuyển, bao gồm nha khoa, điều dưỡng, kỹ thuật, xây dựng, kế toán, kiến trúc, khảo sát và du lịch. Tuy nhiên, thỏa thuận này cũng kèm theo yêu cầu lao động phải qua đào tạo và nếu thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh sẽ được di chuyển tự do hơn. Khi Việt Nam hội nhập AEC, các trường của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các trường trong khu vực ASEAN. Khi lực lượng lao động của các nước dịch chuyển, lao động của Việt Nam sẽ phải đối diện với việc lao động của các nước ASEAN được đào tạo tốt hơn và họ sẽ kiếm việc làm trên nước Việt Nam. Như vậy, lao động Việt Nam sẽ khó khăn tìm kiếm việc làm ngay trên đất nước mình. II. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ A. Thực trạng giáo dục tại Việt Nam 1. Mục tiêu đào tạo chưa được xác định Hiện nay, nhiều sinh viên vẫn chỉ xác định là đi học để có tấm bằng còn chưa xác định được sẽ làm công việc có đúng với chuyên ngành mình đã học hay không. Theo ông Phạm Quang Trung, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân cho biết: “Để nâng cao chất lượng đào tạo, trong đó nâng cao năng lực ngoại ngữ và kỹ năng mềm cho sinh viên các trường phải thay đổi chương trình và phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, nhiều sinh viên Việt Nam chỉ xác định đi học nhưng chưa biết ra trường sẽ làm việc gì việc này ảnh hưởng đến công tác đào tạo của các trường”. 2. Học không đi đôi với hành Một thực trạng đáng báo động là hiện nay nhiều đại học, cao đẳng của Việt Nam vẫn chỉ chú trọng đến việc giảng dạy kiến thức trong sách vở cho người học mà quên đi đào tạo những kiến thức thực hành. Trong các chương trình đào tạo, thời lượng học lý thuyết chiếm 2/3, còn lại rất ít thực hành. Do vậy, khi ra trường nhiều sinh viên nước ta phải học những kỹ năng rất nhỏ như: Sử dụng máy fax, photo,… mà những kỹ năng này lại rất cần thiết cho công việc.
- 124 ĐÀO TẠO NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ CHO HỘI NHẬP: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Ở HUFLIT-VN 3. Yếu kém ngoại ngữ Đặc biệt, ngoại ngữ chính là khó khăn lớn nhất với lao động trong nước. Nhiều lao động nước ta yếu ngoại ngữ nên rụt rè trong quá trình giao tiếp với người nước ngoài và nhiều khi đã mất cơ hội việc làm tốt, lương cao. Mặc dù, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để nâng cao năng lực ngoại ngữ cho người dân nhưng dường như chưa thực hiệu quả, một phần nguyên nhân thực trạng trên vì người học chưa thực sự quyết tâm và có cách học đúng đắn. Các em học chỉ vì tấm bằng và vì gia đình, nhà trường bắt học còn học, chưa coi đó là mục tiêu thiết thực. Ngoài ra, sinh viên Việt Nam yếu ngoại ngữ cũng khiến cho công tác giảng dạy nâng cao chất lượng của các trường gặp nhiều khó khăn. Ông Trần Văn Tớp, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết: "Phần lớn sinh viên vào trường có năng lực ngoại ngữ ở mức thấp nên cũng khó khăn trong việc đào tạo". Phải nhìn nhận rằng hiện trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam còn quá thấp và rất ít người lao động học ngôn ngữ của các nước ASEAN như Thái Lan, Lào, Campuchia… Ngoài ra, những kỹ năng làm việc theo nhóm, giải quyết vấn đề, đàm phán, kỹ năng mềm… của lao động Việt Nam vẫn kém bạn bè quốc tế. 4. Thiếu đào tạo kỹ năng mềm Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ lao động Việt Nam có thể không thua bất cứ một nước nào nhưng lại yếu về ngoại ngữ và các kỹ năng mềm. Từ đó, tạo ra những rào cản để lao động Việt Nam tiếp cận môi trường làm việc hiện đại của các nước trên thế giới. 5. Đội ngũ giảng viên còn yếu kém Hiện đội ngũ nguồn nhân lực trong đào tạo của Việt Nam còn khoảng cách khá lớn so với các nước ASEAN như: Tỉ lệ giảng viên Việt Nam biết nói tiếng Anh còn ít. Hiện khung chương trình, tư duy, tâm lý giáo dục trong các trường đại học cũng còn khá hạn chế nên khi bước vào ngưỡng cửa hội nhập đây cũng là một thách thức. 6. Đầu tư nguồn lực và tài chính vào giáo dục còn hạn chế Nền kinh tế Việt Nam kém phát triển hơn một số nước ASEAN nên việc đầu tư nguồn lực và tài chính cho các trường còn hạn chế so với các nước như: Thái Lan, Singapore, Malaysia... Đây cũng là rào cản để giáo dục Việt Nam theo kịp nền giáo dục các nước trong ASEAN. Các nước trong khu vực ASEAN đã xây dựng một hệ thống bậc đào tạo tương đồng. Do đó, một người tốt nghiệp trình độ nào đó ở nước này hoàn toàn tương đương với trình độ tham chiếu nước khác. Trong khi đó, bậc học và chương trình đào tạo nghề của Việt Nam khác xa so với các trường trong khu vực ASEAN. Vì thế trước yêu cầu hội nhập, các trường Việt Nam không có tiêu chuẩn kỹ năng chung, nên cũng sẽ gặp khó khăn khi liên kết đào tạo với các nước trong khu vực. B. Thực trạng giáo dục & đào tạo ngành quan hệ quốc tế 1. Tình hình chung Trong vòng 10 năm trở lại đây việc đào tạo ngành quan hệ đã phát triển mạnh sinh viên có thể học ngành Quan hệ quốc tế tại các trường đại học, như: 1/ Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học Hà Nội Khoa Quốc tế học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội 2/ Học viện Ngoại giao Việt Nam, Hà Nội 3/ Khoa Quan hệ quốc tế, Học viện báo chí và tuyên truyền, Hà Nội 4/ Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh 5/ Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học Sài Gòn (Đào tạo cử nhân ngành Quốc tế học - chuyên ngành Quan hệ Quốc tế) 6/ Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm TP. HCM (Đào tạo cử nhân ngành Quốc tế học - chuyên ngành Quan hệ Quốc tế) 7/ Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học Quốc tế Hồng Bàng, TP. HCM 8/ Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học Đông Đô, Hà Nội 9/ Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học Gia Định, TP. HCM 10/ Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học Ngoại ngữ Tin học Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu hết các khoa Quan hệ quốc tế ở các trường này đều từng bước đã xây dựng cho mình một chương trình đào tạo theo khung hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và thu hút một bộ phận người học đáng kể cũng như cung cấp cho xã hội nguồn lao động hữu ích.
- Lý Thị Ngọc Thoa 125 Mặc dù so với nhiều ngành học khác ngành quan hệ quốc tế còn khá mới mẻ nhưng từng bước xây dựng các khoa này cũng dần đi vào ổn định và điều chỉnh phương thức đào tạo để thích nghi với nhu cầu lao động của xã hội. Tuy nhiên nếu đi vào từng cơ sở đào tạo thực trạng mỗi nơi mỗi khác. Vì không có nhiều thời gian phạm vi bài viết này chỉ xin đi vào chi tiết thực trạng đào tạo khoa Quan hệ quốc tế tại Trường HUFLIT mà người viết bài là một thành viên đang trực tiếp giảng dạy tại khoa. 2. Thực trạng đào tạo tại khoa Quan hệ quốc tế Trường Đại học HUFLIT ** Khảo sát sinh viên Để có thể có được một số thông tin khách quan tác giả bài viết đã thực hiện một cuộc khảo sát “mini” trên hai lớp sinh viên tại khoa đang học năm đầu và năm cuối của quá trình đào tạo nhằm tìm hiểu về tâm tư nguyện vọng sự chuẩn bị của sinh viên trước khi vào học cũng như những cảm nhận của các sinh viên đã trãi qua một quá trình được đào tạo và đã có phần nào tham gia vào lao động nghề trong xã hội. Dựa trên những hồi đáp của sinh viên tác giả sẽ đánh giá lại thực trạng đào tạo tại khoa và đưa ra một số ý kiến đóng góp nhằm giúp việc đào có hiệu quả hơn đáp ứng quá trình hội nhập của đất nước Bản khảo sát gồm 10 câu hỏi về sự chuẩn bị của sinh viên trước khi vào trường, định hướng nghề nghiệp, quá trình đào tạo, những điểm mạnh , những bất cập trong đào tạo của khoa và trường, những cảm nhận của sinh viên trong quá trình tiếp thu kiến thức, những góp ý nhằm cải tiến tốt hơn, hiệu quả hơn quá trình đào tạo... *** Kết quả khảo sát về thực trạng đào tạo tại Khoa Quan hệ quốc tế Những giải pháp đề nghị Sinh viên nhận được bản khảo sát và trả lời tại lớp, thông tin cá nhân không được tiết lộ nên sinh viên cảm thấy thoải mái khi trả lời khảo sát và kết quả trả lời đã được thống kê lại đã phát họa một phần nào thực trạng đào tạo tại khoa Quan hệ quốc tế. a) Mục tiêu đào tạo 60 % sinh viên năm thứ nhất khi đưọc hỏi có biết mình sẽ học gì khi chọn vào khoa QHQT không đã trả lời không biết mặc dù đa số chọn ngành vì thích và không nhận được thông tin đầy đủ về quá trình đào tạo, không định hướng được nghề nghiệp khi ra trường. Nhưng 90 % sinh viên năm thứ tư thì đã định hướng được nghề nghiệp tương lai khi tốt nghiệp nhưng hầu như không có khái niệm nào về môi trường làm việc quốc tế thời hội nhập, chưa chuẩn bị kịp với tốc độ và yêu cầu lao động quốc tế trong môi trường cạnh tranh ra khỏi phạm vi đất nước. Nếu nhìn lại phần đánh giá chung cho ngành giáo dục ở trên chúng ta có thể thấy đây là một bằng chứng rất xác thực cho việc còn coi trọng bằng cấp, chưa xác định mục tiêu, động cơ trong sinh viên nói chung và khoa quan hệ quốc tế nói riêng. * Giải pháp đề nghị Hàng năm trong công tác tuyển sinh nhà trường và khoa đều đã có nhiều hình thức để giới thiệu mục tiêu đào tạo của Khoa Quan hệ quốc tế, quyển cẩm nang tuyển sinh, những buổi sinh hoạt đầu khóa học tại hội trường 6 hình như vẫn chưa đủ để sinh viên bước vào khoa xác định được mục tiêu học tập, định hướng nghề nghiệp trong tương lai nhất là thời kỳ hội nhập quốc tế. Vì thế trường và khoa nên suy nghĩ đến một hình thức giúp sinh viên tìm hiểu và xác định rõ ràng mục tiêu học tập của chính bản thân qua những hoạt động đố vui, hái hoa dân chủ, hỏi đáp trong từng đơn vị lớp thay vào hình thức tập trung đại trà và thuyết giảng trong khi sinh viên ngồi thụ động lắng nghe, tổ chức những hoạt động cho tự sinh viên tìm hiểu ,thảo luận, trao đổi để thu thập thông tin một cách tích cực và sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập cho chính bản thân hơn là thông tin một chiều. b) Chương trình đào tạo 80 % Sinh viên được hỏi đều hài lòng với chương trình đào tạo ngoại trừ phần lớn đều cho rằng cần tăng thêm giờ cho chuyên ngành nhất là tăng giờ thực hành. Môn Chính trị, Mác Lê là môn được các em cho là không cần thiết, chiếm nhiều thời gian, khó tiếp thu vì quá nhiều lý thuyết và bài thi lại đòi hỏi sinh viên phải học thuộc lòng (đề đóng). Hơn 50 % sinh viên cho rằng họ cần được đào tạo kỹ năng mềm đơn giản như tin học, sử dụng kỹ thuật số, sử dụng máy móc văn phòng …. Những hoạt động ngoại khóa đều được sinh viên nhận xét là có ích cho quá trình rèn luyện. * Giải pháp Tăng cường giờ thực hành thực tập cho sinh viên, bổ sung giảng dạy thêm một ngoại ngữ vì tác giả viết bài còn thấy sinh viên chưa được học ngoại ngữ đủ để làm những công việc trong ngành Quan hệ quốc tế. Nếu chỉ học tiếng Anh
- 126 ĐÀO TẠO NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ CHO HỘI NHẬP: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Ở HUFLIT-VN thôi thì chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập, tối thiểu sinh viên phải được đào tạo thêm một ngoại ngữ phụ để linh động thích nghi và chiếm ưu thế hơn trong môi trường lao động đa quốc gia. Môn chính trị nên thay đổi cách dạy và đánh giá kết quả học tập, “đề mở” được nhiều sinh viên đề nghị như là một cách giúp sinh viên tư duy tích cực trong tiếp thu kiến thức và giảm gian lận quay cóp trong các kỳ thi. Trang bị thêm kỹ năng mềm cho sinh viên qua các hoạt động ngoại khóa. Liên kết trao đổi sinh viên, đưa sinh viên thực tập ở nước ngoài nên là một phương hướng nội dung đào tạo tất yếu trong chương trình chuẩn bị cho hội nhập quốc tế. c) Đội ngũ giảng viên 100 % sinh viên đều có ý kiến giảng viên dạy tốt là giảng viên nhiệt tình, vận dụng nhiều thực tế vào giảng dạy, những tiết thực hành về lễ tân khánh tiết, tổ chức sự kiện đều có hiệu quả tốt trong tiếp thu kiến thức của sinh viên. Trong khoa Quan hệ quốc tế các giảng viên đều có học vị về chuyên môn, tuy nhiên kinh nghiệm còn rất ít, một số giảng viên còn phải vừa dạy vừa học và vốn ngoại ngữ vẫn còn yếu nên việc giảng dạy bằng tiếng Anh còn hạn chế. * Giải pháp Thời gian có lẽ là yếu tố đầu tiên cần có trong giải pháp vì đa phần các giảng viên trong khoa rất năng nổ và nhiệt tình, chịu khó vươn lên. Tuy nhiên không thể để sinh viên ngồi đó đợi, bản thân giảng viên nỗ lực đã đành, nhà trường cũng nên góp phần về mặt vật chất, có kế hoạch đầu tư bồi dưỡng giảng viên để thúc đẩy quá trình tích lũy kinh nghiệm nhanh hơn ,hiệu quả hơn để giảng viên có đủ năng lực dìu dắt sinh viên trong chuyên môn cụ thể như gửi giảng viên đi học, mở khóa bồi dưỡng v.v. III. KẾT LUẬN Hội nhập là quá trình tất yếu mà đất nước chúng ta phải đi tới với những thuận lợi và thách thức chờ đợi phía trước trong đó ngành giáo dục phải chuẩn bị trước hết cho một độ ngũ lao động có trình độ tay nghề ngang tầm quốc tế để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Trường HUFLIT và khoa Quan hệ quốc tế đã có rất nhiều cố gắng vượt bậc để xây dựng chương trình đào tạo, các giảng viên đã nỗ lực hết mình trong sự nghiệp trồng người và dĩ nhiên chưa thể tự hào là hoàn thiện hoàn hảo. Chúng tôi biết rằng phần khảo sát “mini” của bài viết chưa phản ánh hết được thực trạng đào tạo của khoa Quan hệ quốc tế. Chúng ta cần một cuộc thăm dò có quy mô rộng đến cách đối tượng sinh viên đã ra trường và tham gia lao động ngoài xã hội thì mới thấy được hết những ưu và khuyết điểm thực trạng đào tạo tại khoa nhưng vì hạn chế về thời gian và sức khỏe không cho phép tác giả đi sâu hơn sát thực hơn trong nghiên cứu. Chúng tôi đề nghị sẽ có những bài nghiên cứu khác với quy mô rộng hơn sâu sắc hơn sẽ được thực hiện nhằm có được giải pháp tối ưu cho giáo dục và đào tạo ngành Quan hệ quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập. Những kiến nghị sửa đổi bổ sung tất nhiên không dễ thực hiện vì phải đi qua nhiều cấp trong một hệ thống giáo dục tập trung vào sự quản lý của Bộ. Tuy nhiên những ý kiến đóng góp này cũng sẽ được nêu lên vì lợi ích lâu dài của cả một dân tộc, một thế hệ trẻ chịu khó học tập, vươn lên trên trường quốc tế. IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Chương trình đào tạo ngành Quan hệ quốc tế (áp dụng từ khóa 2015) www.huflit.edu.vn › ... › [2] Trường nào đào tạo ngành quan hệ quốc tế? - HuongNghiep24h.com [3] Giáo dục Việt Nam trước thách thức thời hội nhập - Lao động - Báo mới www.baomoi.com › [4] Thực trạng và yêu cầu ngoại ngữ trong ngành giáo dục - Giáo dục VNwww.baomoi.com/thuc-trang-va-yeu- cau.../c/21444125.epi TRAINING IN INTERNATIONAL RELATIONSHIP FOR INTEGRATION: CURRENT SITUATION AND SOLUTIONS IN HUFLIT - VIETNAM Ly Thi Ngoc Thoa ABSTRACT: Our country is entering a new phase, the stage of integration with other countries in the world to improve the economy, education, culture, science, society and citizenship. This paper aims to identify the current situation in education and training, especially in the Department of International Relations, Ho Chi Minh City University of Foreign Languages and Information Technology. Through analyzing some documents on the integration of social units and a survey of first and final year students, the author partially surveyed the strengths and shortcomings that need to be prepared and corrected from enrollment, training programs to the professional qualifications of teachers, materials with the hope that there will be useful suggestions for the training of human resources to be ready for the society to enter effectively the integration period.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận triết học P14
16 p | 289 | 76
-
Các giải pháp nâng cao kiến thức thực tế nhằm tăng cường hiệu quả đào tạo nghề nghiệp theo hệ thống tín chỉ cho sinh viên ngành du lịch Trường đại học Đà Lạt
3 p | 64 | 7
-
Vai trò của trường đại học trong hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp
3 p | 67 | 5
-
Về đào tạo nguồn nhân lực ngành bảo tàng ở Việt Nam hiện nay
6 p | 65 | 4
-
Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện chính sách pháp luật về giáo dục nghề nghiệp
6 p | 64 | 4
-
Chương trình đào tạo trình độ Thạc Sĩ ngành: Hệ thống thông tin
15 p | 114 | 4
-
Mấy vấn đề về phương pháp luận nghiên cứu, giảng dạy
4 p | 35 | 3
-
Gắn kết đào tạo với thực tiễn trong đào tạo thạc sĩ quản lí giáo dục – kinh nghiệm của một số quốc gia
6 p | 40 | 3
-
Thành quả đào tạo sau đại học giai đoạn 1996-2005 trên các phương diện quy mô - chất lượng - quản lý
11 p | 63 | 3
-
Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ chuyên ngành quan hệ quốc tế về quốc phòng tại Học viện Khoa học Quân sự góp phần thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng
8 p | 83 | 3
-
Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ - Quân sự (Số 15 – 9/2018)
104 p | 54 | 2
-
Biện pháp tăng cường nguồn lực tài chính và quản trị tài chính tại Đại học Quốc gia Hà Nội
7 p | 30 | 2
-
Một số vấn đề về phát triển năng lực tổ chức hoạt động tạo hình cho sinh viên Đại học Sư phạm ngành Giáo dục mầm non trong bối cảnh giáo dục hội nhập quốc tế
8 p | 55 | 2
-
Đề cương chi tiết học phần Lịch sử văn minh thế giới (Mã số học phần: DLLH1131)
11 p | 6 | 2
-
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của doanh nghiệp đối với cử nhân khối ngành kinh tế các trường đại học ngoài công lập trên địa bàn miền Đông Nam Bộ
8 p | 29 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn