intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đào tạo theo học chế tín chỉ và các đề xuất đối với trường đại học Văn Hiến - ThS. Đỗ Văn Bình

Chia sẻ: Nguyễn Thị Ánh Ngọc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

79
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài viết "Đào tạo theo học chế tín chỉ và các đề xuất đối với trường đại học Văn Hiến" dưới đây để nắm bắt được những nội dung về học chế tín chỉ, lịch sử của tín chỉ, nội dung tín chỉ, lợi ích của học chế tín chỉ,... Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn chuyên ngành Giáo dục học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đào tạo theo học chế tín chỉ và các đề xuất đối với trường đại học Văn Hiến - ThS. Đỗ Văn Bình

ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ<br /> VÀ CÁC ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN<br /> ThS. Đỗ Văn Bình<br /> Khoa Giáo dục đại cương – Trường Đại học Văn Hiến<br /> <br /> <br /> 1. Lịch sử của tín chỉ<br /> Hình thức đào tạo theo tín chỉ (TC) bắt đầu ở Mỹ năm 1872 và được áp dụng đầu<br /> tiên ở các trường phổ thông, lúc bấy giờ tín chỉ ở bậc phổ thông được gọi là giờ tiếp xúc<br /> (Contact-Hour). Sau đó phương thức đào tạo này được Đại học Harvard (Hoa Kỳ) áp dụng.<br /> TC ở đại học được gọi là Giờ tín chỉ (Credit Hour). Năm 1906 Quỹ Carnegie (Carnegie<br /> Foundation – Một quỹ hoạt động về giáo dục của Mỹ) xác lập một cách đánh giá đơn vị<br /> TC khác gọi là TC Carnegie (Carnegie Unit), sau đó Quỹ này lại xây dựng đơn vị Giờ sinh<br /> viên (Student Hour). Nhưng từ sau 1910 đến nay các tên gọi trên được gọi chung là Giờ<br /> tín chỉ (Credit Hour) [3].<br /> Nguyên nhân ra đời của hình thức đào tạo theo TC ở Hoa Kỳ là do cuối thập niên<br /> 60 thế kỷ XIX số lượng học sinh trung học phổ thông ghi danh vào học đại học ngày càng<br /> tăng, gây áp lực cho quá trình xét tuyển của các trường đại học. Năm 1872 học chế TC<br /> được Charles W. Eliot (GS của đại học Harvard) đề xuất nhằm giúp ghi nhận và giải thích<br /> một cách rõ hơn năng lực học tập của học sinh trung học phổ thông thông qua giờ TC và<br /> điểm số để giúp các trường đại học có căn cứ tin cậy tuyển chọn sinh viên có chất lượng<br /> theo nhu cầu của trường [6].<br /> Một số học giả khác nêu ra thêm các nguyên nhân: Sự ra đời của học TC ở Hoa Kỳ<br /> là nhằm cải cách giáo dục đại học thông qua việc thay những chương trình đào tạo truyền<br /> thống “đóng” và “khô cứng” do châu Âu khởi xướng. Theo phương thức truyền thống này<br /> người học vào và ra trường đồng loạt, không có sự lựa chọn nào khác ngoài các môn học<br /> trong chương trình do ngành giáo dục thiết kế.<br /> Với học chế TC, chương trình đào tạo “mở” hơn; chương trình học chú trọng đến<br /> những môn học đáp ứng nhu cầu của xã hội. Chương trình có độ “linh hoạt” nhất định để<br /> người học có thể chọn những môn học mà họ thấy cần thiết cho nghề nghiệp tương lai của<br /> họ [12].<br /> Năm 1960 hệ thống đào tạo này lan ra Tây Âu và sau đó được áp dụng rộng rãi tại<br /> nhiều nước như: các nước ở Bắc Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Philippin, Đài Loan,<br /> Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Ấn Độ, Senegal, Mozambic, Nigeria, Uganda,<br /> Camơrun, Trung Quốc, v.v.[5].<br /> Ở Việt Nam, trước năm 1975 một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại<br /> miền Nam Việt Nam đã áp dụng học chế TC: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Thủ<br /> Đức... Sau 1975, từ khi bắt đầu chủ trương “Đổi mới” giáo dục đại học ở nước ta cũng có<br /> nhiều thay đổi: Năm 1987 Bộ GD&ĐT đã đưa ra chủ trương triển khai qui trình đào tạo 2<br /> giai đoạn và môdun-hoá kiến thức. Năm 1988 học chế “học phần” đã ra đời và được triển<br /> khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng nước ta. Học chế này xuất phát<br /> từ ý tưởng của học chế TC của Mỹ: sinh viên tích lũy dần kiến thức theo các mô-đun trong<br /> quá trình học tập. Tuy nhiên, học chế học phần chưa thật sự “mở’ như học chế TC của Mỹ.<br /> Vì vậy, năm 1993 Bộ GD&ĐT chủ trương thực hiện học chế TC triệt để hơn. Từ năm 1993,<br /> trường Đại học Bách khoa Tp. HCM là nơi đầu tiên áp dụng học chế TC, tiếp theo sau đó<br /> là nhiều đại học khác [7].<br /> Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ban<br /> hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống TC”.Theo chủ<br /> trương này, năm 2011 là hạn cuối cùng để các trường liên quan phải chuyển đổi sang hệ<br /> thống đào tạo tín chỉ [3].<br /> 2. Tín chỉ là gì?<br /> Có nhiều định nghĩa về TC. Trong đó một định nghĩa được Việt Nam biết đến nhiều:<br /> “Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình<br /> thường học một môn học cụ thể, bao gồm: thời gian lên lớp; thời gian thí nghiệm, thực tập<br /> hoặc làm các việc khác (có hướng dẫn của GV); và thời gian dành cho đọc sách, nghiên<br /> cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài,...” [4, 12].<br /> Đối với các môn học lí thuyết một TC là một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị bài)<br /> trong một tuần và kéo dài trong một học kì 15 tuần; đối với các môn học ở studio hay phòng<br /> thí nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1 giờ chuẩn bị); đối với các môn tự học, ít<br /> nhất là 3 giờ làm việc trong một tuần.<br /> Ba hình thức tổ chức dạy - học này tương ứng với ba kiểu giờ TC: giờ tín chỉ lên<br /> lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ TC tự học.<br /> Một giờ TC lên lớp bao gồm: 1 tiết (50 phút) giáo viên giảng bài và 2 tiết sinh viên<br /> tự học, tự nghiên cứu ở nhà.<br /> Một giờ TC thực hành bao gồm: 2 tiết giáo viên hướng dẫn, giúp sinh viên thực<br /> hành thực tập; và 1 tiết sinh viên tự học, tự chuẩn bị.<br /> Một giờ TC tự học bao gồm 3 tiết sinh viên tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành theo<br /> những nội dung giáo viên giao và những gì sinh viên thấy cần phải nghiên cứu hoặc thực<br /> hành thêm (những hoạt động học tập này có thể được thực hiện ở nhà hoặc ở trong phòng<br /> thí nghiệm, trong thư viện, v.v.) [5].<br /> Ở Mỹ một sinh viên được cấp bằng cử nhân khi tích lũy được 120 – 140 TC, được<br /> cấp bằng thạc sĩ khi học viên tích lũy được 30 – 40 TC, và được cấp bằng tiến sĩ khi học<br /> viên tích lũy được 90 – 100 TC [12].<br /> Ở Việt Nam, theo Quy chế 43 của Bộ GDĐT: Một TC được quy định bằng 15 tiết<br /> học lí thuyết; 30-45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-90 giờ thực tập tại cở sở;<br /> 45-60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp.<br /> Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một<br /> TC sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.<br /> Đối với những chương trình, khối lượng của từng học phần đã được tính theo đơn<br /> vị học trình, thì 1,5 đơn vị học trình được quy đổi thành 1 TC. Một tiết học được tính bằng<br /> 50 phút. Quy chế 43 không quy định tổng số TC của đại học và sau đại học [3].<br /> Theo các định nghĩa trên, trong phương thức đào tạo theo TC việc tự học, tự nghiên<br /> cứu của sinh viên được coi trọng và được tính vào nội dung và thời lượng của chương trình.<br /> 3. Lợi ích của học chế tín chỉ<br /> Trong đào tạo theo tín chỉ sinh viên phải là những người biết cách học: học trên lớp,<br /> tự học, tự nghiên cứu. Trong đó việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên được coi trọng,<br /> được tính vào nội dung và thời lượng của chương trình, khác với học theo niên chế. Vì vậy,<br /> đòi hỏi sinh viên phải chủ động xây dựng cho mình một kế hoạch học tập phù hợp với nhu<br /> cầu, động cơ học tập và điều kiện về năng lực, thời gian, chi phí,… Những đặc điểm này<br /> giúp sinh viên phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo; tạo điều kiện cho sinh viên năng<br /> động hơn và có khả năng thích ứng tốt hơn với bối cảnh biến đổi nhanh chóng của xã hội<br /> hiện đại,… [ 5 ].<br /> Học chế TC khuyến khích SV từ nhiều nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học<br /> đại học; ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích luỹ được ngoài trường lớp để có<br /> được văn bằng; vì vậy, trường đại học có tính đại chúng hơn.<br /> Với việc được chủ động ghi tên học các học phần khác nhau, sinh viên dễ dàng thay<br /> đổi chuyên ngành trong tiến trình học tập khi thấy cần thiết mà không phải học lại từ đầu.<br /> Với học chế TC, kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học phần chứ không<br /> phải theo năm học, do đó nếu sinh viên đạt đủ số TC theo quy định sẽ được cấp bằng, quy<br /> chế này giúp sinh viên có thể tốt nghiệp sớm hoặc chậm hơn thời gian quy định theo niên<br /> chế: hệ cao đẳng là 3 năm, cử nhân là 4 năm. Khi sinh viên học không đạt một học phần<br /> nào đó, sinh viên chỉ học lại học phần này mà không bị ở lại lớp như trong đào tạo theo<br /> niên chế. Vì vậy, đào tạo theo học chế TC có chi phí thấp hơn [7].<br /> Trong đào tạo theo học chế TC chương trình học mang tính mềm dẻo, có thể thích<br /> ứng nhanh với nhu cầu xã hội và dễ dàng cho việc liên kết tổ chức những môn học chung<br /> cho sinh viên nhiều ngành hay nhiều trường trong nước. Theo cách này các trường tận<br /> dụng được đội ngũ giảng viên giỏi và phương tiện tốt cho từng môn học. Thậm chí việc<br /> liên kết này còn có thể liên kết nhiều nước. Thí dụ năm 1992 gần 150 trường đại học ở<br /> Châu Âu đã thống nhất hệ thống chuyển đổi tín chỉ ECTS (European Credit Transfer<br /> System) đối với các ngành: quản trị kinh doanh, hóa học, lịch sử, cơ khí, và y học. Đến nay<br /> số trường tham gia vào hệ thống ECTS lên đến hàng nghìn [8], [9].<br /> 4. Bất lợi so với điều kiện Việt Nam<br /> Khi bắt đầu học chế TC ở Mỹ và các nước Châu Âu áp dụng học chế này cho học<br /> sinh trung học phổ thông; vì vậy tính chủ động trong tự học, tự xây dựng kế hoạch học<br /> tập,… học sinh được rèn ở Trung học phổ thông. Do đó khi lên đại học sinh viên đã quen<br /> với cách học này trong bối cảnh các phương tiện hỗ trợ cho tự học như thư viện, máy vi<br /> tính cá nhân, sự tiếp cận internet,… thuận lợi nên tác dụng của việc tự học, tự nghiên cứu<br /> được phát huy tốt, từ đó chất lượng của đào tạo ở các nước này được nâng cao là tất yếu.<br /> Ở Việt Nam, học chế TC mới chính thức bắt đầu bắt đầu từ 1993 và cũng chỉ áp dụng ở<br /> đại học; vì vậy sinh viên chưa quen, chưa có tinh thần, kỹ năng tự học; các phương tiện hỗ<br /> trợ cho tự học, tự nghiên cứu như thư viện, thư quán, máy vi tính cá nhân, sự tiếp cận<br /> internet,… của sinh viên ta còn rất hạn chế. Trong khi đó học theo TC thì thời lượng giảng<br /> viên lên lớp ít hơn so với học theo niên chế; bài dạy giảng viên truyền đạt cô đọng hơn; đội<br /> ngũ cố vấn học tập ít cả số lượng lẫn kinh nghiệm,… vì vậy nhiều giảng viên rất lo ngại về<br /> chất lượng đầu ra của sinh viên khi học theo TC.<br /> Theo học chế TC, sinh viên học theo môn học tự chọn nên các em không có lớp cố<br /> định; do đó việc tổ chức sinh hoạt đoàn thể, đi thực tập, thực tế, việc bù giờ, đổi thời khoá<br /> biểu,… khó khăn vì mỗi sinh viên có thời khoá biểu học tập riêng.<br /> Định nghĩa TC của nhiều tác giả cũng như của Bộ GDĐT của ta cho thấy việc đánh<br /> giá năng lực học tập của người học chỉ thông qua thời lượng và theo số lượng TC được tích<br /> lũy, nó chưa đo được các mục tiêu hay chất lượng đầu ra của quá trình học tập của sinh<br /> viên [1, 2].<br /> 5. Một số điều kiện cần cho việc áp dụng học chế tín chỉ<br /> Khi áp dụng học chế TC cần bảo đảm các yêu cầu sau:<br /> - Với nhà trường<br />  Có các chương trình đào tạo thích ứng với cách dạy và học theo học chế TC: ngoài<br /> những môn học ngành/chuyên ngành bắt buộc cần có nhiều mô-đun cơ sở ngành<br /> cho sinh viên lựa chọn.<br />  Có đội ngũ giảng viên cơ hữu đủ về số lượng và bảo đảm yêu cầu về chất lượng để<br /> giảng dạy và làm cố vấn học tập cho sinh viên.<br />  Có đủ và nhiều kích cở phòng học và trang thiết bị dạy học, thực hành…<br />  Có đủ phương tiện hỗ trợ cho sinh viên tự học như: thư viện, thư quán, hệ thống<br /> internet WIFI, phòng vi tính sử dụng chung (dành cho sinh viên không có điều kiện<br /> có vi tính cá nhân).<br />  Có phần cứng đủ mạnh, phần mềm quản lý học chế TC tốt và có đội ngũ có chuyên<br /> môn để vận hành hệ thống này.<br /> - Với sinh viên<br />  Sinh viên cần hiểu rõ phương pháp học tập theo học chế TC.<br />  Sinh viên cần có kiến thức-kỹ năng: tự học theo cá nhân và nhóm, biết sử dụng vi<br /> tính, biết cách tham khảo tài liệu, làm tiểu luận…<br />  Sinh viên cần có máy vi tính cá nhân...<br /> 6. Nhận xét và đề xuất với trường Đại học Văn Hiến<br /> Việc áp dụng học chế TC là chủ trương của Bộ GDĐT vì mục tiêu đổi mới và nâng<br /> cao chất lượng giáo dục vì vậy Trường Đại học Văn Hiếncần sớm có kế hoạch từng bước<br /> áp dụng học chế này sao cho phù hợp với các điều kiện khá hạn chế của trường hiện nay.<br /> Đối chiếu với các yêu cầu cần có khi áp dụng học chế TC và tham khảo kinh nghiệm từ<br /> các trường đã áp dụng học chế này ở nước ta, tôi có mấy nhận xét và đề xuất sau:<br /> Hạn chế 1: Từ hơn 10 năm qua chương trình đào tạo các ngành của trường thiết kế<br /> theo niên chế và chủ yếu dựa vào chương trình khung của Bộ GDĐT. Năm 2013 cùng với<br /> chủ trương chuyển sang học chế TC, các Khoa, ngành đã chỉnh sửa các chương trình đào<br /> tạo và xây dựng đề cương chi tiết các môn học theo học chế TC; thế nhưng tính cập nhật,<br /> hiện đại, sự liên thông dọc và ngang còn nhiều hạn chế.<br /> Đề xuất: Trường cần tổ chức thiết kế lại hoặc rà soát lại chương trình đào tạo các<br /> ngành học, phân chia và xây dựng lại chương trình chi tiết các học phần theo tinh thần học<br /> chế TC và đáp ứng với nhu cầu của xã hội biến chuyển nhanh chóng.<br /> Hạn chế 2: Số lượng sinh viên của trường hiện nay không nhiều lại có sự phân bố<br /> theo ngành học chênh lệch nhau nhiều. Đối với những ngành có ít sinh viên sẽ rất khó cho<br /> việc để sinh viên tự chọn các môn học một cách tự do (kể cả môn bắt buộc và môn tự chọn).<br /> Đề xuất: Để khắc phục khó khăn này, trong vài năm tới trường chỉ nên công bố số<br /> môn học tự chọn có giới hạn (thí dụ chọn 1 trong 2 môn hoặc 2 trong 3 môn) và nhờ đội<br /> ngũ CVHT tư vấn để sinh viên chọn môn học tập trung hơn.<br /> Hạn chế 3: Số lượng phòng học, giảng đường còn ít so với nhu cầu tổ chức đào tạo<br /> theo TC; do đó khó có thể có đủ phòng để các khoa lên kế hoạch với đầy đủ thông tin: Môn,<br /> giảng viên, giờ học, phòng học, số lượng sinh viên tương ứng với quy mô phòng học để<br /> các sinh viên lựa chọn đăng ký học (trong đó có một số lớp dự phòng).<br /> Đề xuất: Trong khi chưa có cơ sở mới ở xã Phong Phú, huyện Bình Chánh và số<br /> phòng học đang xây thêm ở khu 1004A Âu Cơ, Tân Phú giải pháp có thể giải quyết phần<br /> nào khó khăn trước mắt là trước mỗi học kỳ các khoa cần thăm dò trước nhu cầu chọn môn<br /> học của sinh viên để xác định số lớp cho từng học phần (để sinh viên chọn học) tương đối<br /> chính xác; giảm bớt các trường hợp huỷ lớp vì không có hoặc ít sinh viên đăng ký học. Bên<br /> cạnh đó trường cần tận dụng công năng của cơ sở Quận 12 đã bị khiếm dụng trong vài năm<br /> qua.<br /> Hạn chế 4: Số lượng giảng viên cơ hữu (GVCH) còn thiếu, không cân đối theo<br /> ngành/chuyên ngành, do đó nhiều môn học phải mời giảng viên thỉnh giảng (GVTG). Các<br /> khoa sẽ gặp khó khăn khi huỷ lớp được xếp cho GVTG: gây phiền hà, mất lòng, sau này<br /> khó mời giảng tiếp,… hoặc khi GVTG bận đột suất phải nghỉ dạy (rất dễ xảy ra với GVTG)<br /> trường sẽ khó khăn trong việc sắp xếp dạy bù. Ngoài ra, một số GVCH của trường cũng<br /> chưa có kinh nghiệm giảng dạy theo học chế TC cũng như làm Cố vấn học tập (CVHT)<br /> cho sinh viên.<br /> Đề xuất: Giải pháp căn cơ cho vấn đề thiếu GVCH là tuyển dụng thêm. Trong vài<br /> năm qua nhà trường đã rất tích cực phát triển đội ngũ GVCH; thế nhưng thực tế cho thấy<br /> việc tuyển GV có khó khăn - nhất là GV trẻ có chất lượng vì nhiều nguyên do. Trước tình<br /> hình này, đề nghị nhà trường cần sớm có quy chế hỗ trợ, khuyến khích nguồn nhân lực nội<br /> bộ nâng cao năng lực và tham gia giảng dạy (lực lượng có chuyên môn và khả năng giảng<br /> dạy đang là cán bộ phòng ban – nhất là lực lượng trẻ). Giải pháp này mang tính bền vững<br /> vì ngoài việc vừa góp phần tăng số lượng GVCH cho trường vừa là một hình thức kích<br /> thích động cơ thăng tiến, tạo sự gắn bó của CBNV với trường, trong khi chờ đợi trường có<br /> thêm điều kiện và chính sách tốt hơn để có thể tuyển được GV trẻ có chất lượng. Về phương<br /> pháp giảng dạy và CVHT theo học chế TC trường cần tổ chức bồi dưỡng cho GVCH và<br /> CVHT; đồng thời có văn bản quy định rõ nhiệm vụ, quy trình tổ chức thực hiện việc giảng<br /> dạy của GVCH và kỹ năng, quy trình cố vấn cho CVHT, trong đó quy định cả nhiệm vụ<br /> của sinh viên [11].<br /> Hạn chế 5: Dù trường đã chọn nhà chuyên môn viết phần mềm quản lý học chế TC<br /> khá sớm. Thế nhưng đến nay công việc khá quan trọng này vẫn chưa được đưa vào sử dụng<br /> trong khi đội ngũ cán bộ chuyên môn quản trị và vận hành phần mềm này chưa có nhiều<br /> kinh nghiệm.<br /> Đề xuất: Trường cần quan tâm cho triển khai sớm công việc này để có thể đưa vào<br /> sử dụng sớm nhất.<br /> Hạn chế 6: Tại cơ sở đào tạo 624 và 1004 A Âu Cơ chưa có thư viện. Điều này rất<br /> khó cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu, trong khi hình thức học này là rất quan trọng đối<br /> với dạy và học theo học chế TC.<br /> Đề xuất: Trong khi chờ có cơ sở mới ở Bình Chánh, sinh viên còn học ở cơ sở 624<br /> và 1004A Âu Cơ thêm một thời gian nữa; vì vậy đề nghị trường xem xét bố trí một thư<br /> viện nhỏ ở 2 cơ sở này theo cách chia ½ thư viện ở Quận 12 cho các cơ sở ở Âu Cơ (chia<br /> sách, tài liệu, phương tiện và nhân sự).<br /> Hạn chế 7: Hầu hết sinh viên Đại học Văn Hiến hiện nay chưa hiểu rõ cách học<br /> theo học chế TC<br /> Đề xuất: Trường cần biên soạn “Sổ tay sinh viên” có nội dung hướng dẫn chi tiết<br /> về cách học theo học TC chỉ để cấp cho sinh viên; đồng thời Phòng CTSV và các Khoa/Bộ<br /> môn cần phổ biến thêm các nội dung quan trọng trong ngày sinh hoạt đầu khoá của<br /> trường/khoa/bộ môn.<br /> 7. Kết luận<br /> Học chế TC đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng từ hơn 100 năm qua và nó đã<br /> thể hiện nhiều ưu điểm trong giáo dục từ cấp trung học phổ thông đến đại học và sau đại<br /> học. Từ năm học 1993-1994, Việt Nam đã có chủ trương áp dụng học chế này ở cấp đại<br /> học. Đến nay hầu hết các trường đại học đã áp dụng học chế TC với mức độ “chính quy”<br /> hoàn toàn hay một phần tuỳ theo quy mô sinh viên, điều kiện về cơ sở vật chất - phương<br /> tiện dạy và học, đội ngũ giảng viên,… của từng trường.<br /> Trong xu thế đó, lãnh đạo Trường Đại học Văn Hiến đã quyết định áp dụng học chế<br /> TC từ đầu năm 2013. Đây là chủ trương đúng theo xu thế chung của các trường đại học<br /> trong nước và toàn cầu. Đồng thời còn nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người học,<br /> phát triển và nâng dần chất lượng đào tạo của trường. Thời gian qua là thời gian tái cơ cấu,<br /> ổn định trường nên việc áp dụng học chế TC có chậm. Nay trường đã đi vào ổn định và<br /> phát triển, có được bài học kinh nghiệm từ các trường áp dụng trước… tin rằng học chế<br /> TC được triển khai từng bước theo kế hoạch mà trường đã xây dựng sẽ có kết quả tốt./.<br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Amy Laitinen (2012), Cracking the credit hour. New America Foundation and<br /> Education Sector (educationsector.org/si…the_Credit_Hour_0.pdf).<br /> 2. Barbara Lauren ( 2003 ), The Student Credit Hour: Can’t Live With It, Can’t Live<br /> Without It. aacrao.org/semsource/sem/index0446.html?fa=view&id=2321.<br /> 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy<br /> theo hệ thống TC. (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày<br /> 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).<br /> 4. Carnegie Unit History<br /> (ask.com/wiki/Carnegie_Unit_and_Student_Hour?qsrc=3044&lang=en).<br /> 5. Đào Ngọc Cảnh và Trịnh Duy Oánh (2010), Một số vấn đề về đào tạo theo tín chỉ.<br /> Kì yếu Hội thảo khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp giảng dạy đại học theo<br /> hệ thống TC”, Chuyên san của Tạp chí Đại học Sài Gòn.<br /> 6. International Affairs Office, U.S. Department of Education (2008), Structure of the<br /> U.S. Education System: Credit Systems<br /> (http://www.ed.gov/international/usnei/edlite-index.html).<br /> 7. Lâm Quang Thiệp (2006), Việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và Việt Nam,<br /> Kỷ yếu hội thảo Xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ có sử dụng Internet" do<br /> Viện Nghiên cứu Giáo dục tổ chức ngày 26/05/2006.<br /> 8. Lý Hoàng Ánh, Trần Mai Ước (2013), Một số giải pháp đẩy mạnh E-learning<br /> hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo các ngành kinh tế đáp ứng nhu cầu xã<br /> hội, Báo cáo Khoa học Nâng cao chất lượng đào tạo các ngành kinh tế đáp ứng nhu<br /> cầu xã hội, trường ĐH Vinh<br /> 9. Nguyễn Duy Sự (2011), Đào tạo theo tín chỉ tại Trường đại học Nha Trang: Thuận<br /> lợi và thách thức. Kỷ yếu hội thảo Đổi mới phương pháp giảng dạy theo học chế tín<br /> chỉ.<br /> 10. Đặng Quang Tuyến ( 2013 ), Thực trạng Đào tạo theo tín chỉ ở đại học Luật Hà<br /> Nội. Tạp chí Dạy và học ngày nay. (19/4/2013).<br /> 11. Trường Đại học Tôn Đức Thắng (2009), Hướng dẫn phương pháp dạy học theo học<br /> chế tín chỉ. QĐ 1088/TĐT-ĐT ngày 27/10/2009 (http://khxh-<br /> nv.tdt.edu.vn/index.php/vi/tin-tc-thong-bao/goc-sinh-vien/142-hng-dn-phng-phap-<br /> dy-va-hc-theo-qui-ch-tin-chi).<br /> 12. Hoàng Văn Vân (2011), Phương thức đào tạo theo tín chỉ: Lịch sử, bản chất và<br /> những hàm ý cho phương pháp dạy - học ở bậc đại học. Kỷ yếu hội thảo Đổi mới<br /> phương pháp giảng dạy theo học chế tín chỉ.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2