intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm VECM

Chia sẻ: Tùy Tâm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

131
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Yêu cầu tái cấu trúc đang đặt ra cấp thiết trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển 2011-2020, trong đó, một trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công. Bài viết với mục đích nghiên cứu liệu đầu tư công ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến đầu tư tư nhân sẽ đóng góp vào khuyến nghị chính sách một cách thiết thực, đồng thời bổ sung khoảng trống trong nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm VECM

BÀI NGHIÊN CỨU NC-27<br /> <br /> Đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân?<br /> Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm VECM<br /> TS. Tô Trung Thành<br /> Nguyễn Đôn Phước dịch<br /> Nguyễn Đôn Phước dịch<br /> <br /> © 2012 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách<br /> <br /> Tác phẩm dịch NC-27<br /> <br /> Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội<br /> <br /> Đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân?<br /> Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm VECM<br /> TS. Tô Trung Thành1<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Yêu cầu tái cấu trúc đang đặt ra cấp thiết trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát<br /> triển 2011-2020, trong đó, một trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công. Bài viết với mục đích nghiên<br /> cứu liệu đầu tư công ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến đầu tư tư nhân sẽ đóng góp vào khuyến<br /> nghị chính sách một cách thiết thực, đồng thời bổ sung khoảng trống trong nghiên cứu thực<br /> nghiệm ở Việt Nam. Tác giả sử dụng mô hình VECM với số liệu thu thập từ 1986-2010 để ước<br /> lượng các hàm phản ứng và các hệ số co giãn. Theo đó, hiện tượng đầu tư công “lấn át” đầu tư tư<br /> nhân được thể hiện rõ nét. Trung bình sau một thập niên, 1% tăng vốn đầu tư công ban đầu sẽ<br /> khiến đầu tư tư nhân bị thu hẹp 0.48%. Đồng thời, tác động đến GDP của đầu tư công là thấp so<br /> với tác động của đầu tư tư nhân. Bài viết hàm ý trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế, cần<br /> giảm dần tỷ trọng đầu tư công, đồng thời tăng cường mạnh mẽ hiệu quả và chất lượng của đầu tư<br /> khu vực nhà nước.<br /> <br /> Từ khóa: đầu tư công, đầu tư tư nhân, hiệu ứng “lấn át”, tái cơ cấu kinh tế, VECM<br /> 1<br /> <br /> Khoa Kinh tế học, ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội<br /> Email: totrungthanh@gmail.com<br /> Phone: 0942 399 337<br /> <br /> 2<br /> <br /> Mục lục<br /> 1.<br /> <br /> Dẫn nhập..............................................................................................................................4<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Tổng quan về đầu tư công tại Việt Nam ...............................................................................6<br /> <br /> 3.<br /> <br /> Phương pháp nghiên cứu và các kiểm định ...........................................................................9<br /> <br /> 4.<br /> <br /> Kết quả nghiên cứu thực nghiệm ........................................................................................ 10<br /> <br /> 5.<br /> <br /> Kết luận và khuyến nghị chính sách ................................................................................... 14<br /> <br /> Danh mục hình<br /> Hình 1 Tốc độ tăng trưởng GDP và vốn đầu tư của các thành phần .............................................6<br /> Hình 2. Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội.........................................................................................7<br /> Hình 3. Phản ứng của các biến số đối với các cú sốc (thứ tự Choleski PI, Y, GI) ....................... 12<br /> <br /> Danh mục bảng<br /> Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và vốn đầu tư/GDP (1986-2010) ..........................................6<br /> Bảng 2 . Hệ số ICOR thời kỳ 2000-2007 .....................................................................................7<br /> Bảng 3. Kiểm định nghiệm đơn vị (unit root test) .......................................................................9<br /> Bảng 4. Kiểm định nhân quả dựa trên mô hình VECM .............................................................. 11<br /> Bảng 5 Hệ số co giãn của đầu tư tư nhân theo đầu tư công sau 10 năm ...................................... 14<br /> <br /> 3<br /> <br /> 1. Dẫn nhập<br /> Kinh tế Việt Nam đã trải qua năm 2010 với tốc độ tăng trưởng GDP 6.78%, là mức tăng<br /> tương đối khá trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động. Tuy nhiên, nền kinh tế đang<br /> tiếp tục đối mặt với những bất ổn kinh tế vĩ mô đã diễn ra và gia tăng mạnh trong những năm gần<br /> đây, đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu năm 2007, như lạm phát cao, tỷ giá biến<br /> động mạnh và khó lường, thâm hụt thương mại dai dẳng, dự trữ ngoại hối mỏng, thâm hụt ngân<br /> sách tăng cùng với tình trạng nợ công và nợ nước ngoài đang dần đến ngưỡng nguy hiểm, thị<br /> trường tài chính - tiền tệ dễ bị tổn thương với những biến động mạnh về lãi suất, niềm tin vào<br /> điều hành kinh tế vĩ mô bị suy giảm…Một trong những nguyên nhân chính của những bất ổn vĩ<br /> mô thời gian qua là do mô hình tăng trưởng theo chiều ngang, chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, đặc<br /> biệt là đầu tư công nhưng với chất lượng thấp. Mô hình này đã và đang đe dọa khả năng tăng<br /> trưởng bền vững trong dài hạn của nền kinh tế.<br /> Vì vậy, yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế đang đặt ra cấp thiết trong bối cảnh Việt Nam bước<br /> vào giai đoạn phát triển mới 2011-2020, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của<br /> nền kinh tế, tạo nền tảng vững chắc để đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp<br /> theo hướng hiện đại. Một trọng tâm của quá trình tái cấu trúc này là tái cơ cấu đầu tư công theo<br /> hướng nào – nên giảm hay tăng đầu tư công, liệu đầu tư công ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực<br /> đến đầu tư của khu vực tư nhân?<br /> Theo lý thuyết, có hai giả thuyết chính về quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân. Giả<br /> thiết đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân cho rằng, đầu tư công gia tăng sẽ khiến đầu tư khu vực<br /> tư nhân bị thu hẹp lại. Lý do là nhu cầu của chính phủ về hàng hóa dịch vụ có thể khiến lãi suất<br /> gia tăng, nguồn vốn trở nên đắt đỏ hơn, theo đó, tác động tiêu cực đến khu vực tư nhân. Ngoài<br /> ra, việc tài trợ cho chi tiêu đầu tư từ ngân sách nhà nước, thường được thực hiện bởi tăng thuế<br /> hay vay nợ, đã cạnh tranh một cách trực tiếp với khu vực tư nhân trong việc tiếp cận các nguồn<br /> lực tài chính khan hiếm của nền kinh tế. Với quan điểm được đồng thuận là đầu tư công thường<br /> có hiệu quả thấp hơn đầu tư tư nhân, thì giả thiết “lấn át” đưa ra khuyến nghị cắt giảm đầu tư<br /> công để hỗ trợ tăng trưởng.<br /> Giả thuyết ngược lại là đầu tư công thúc đẩy đầu tư tư nhân (xem Bacha (1990), Taylor<br /> (1994) và Agenor (2000)), do đầu tư công có thể tạo ra “ngoại ứng tích cực” cho khu vực tư<br /> nhân. Một số ngoại ứng có thể kể đến như i) việc cung cấp các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như<br /> 4<br /> <br /> giao thông, viễn thông, giáo dục…từ đầu tư công tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn<br /> cũng như giảm được chi phí sản xuất cho khu vực tư nhân để tăng cường đầu tư và ii) nhu cầu<br /> hàng hóa dịch vụ từ chính phủ khiến cầu về sản phẩm của khu vực tư nhân gia tăng, khuyến<br /> khích khu vực này đầu tư nhiều hơn do kỳ vọng về doanh thu và lợi nhuận tốt hơn. Nếu giả<br /> thuyết này được kiểm định đúng, không nhất thiết phải giảm đầu tư công, bởi những ngoại ứng<br /> tích cực là cần thiết cho khu vực tư nhân, và theo đó là cho tăng trưởng.<br /> Để kiểm định các giả thuyết này, đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm ở các nước, sử dụng<br /> các phương pháp và những bộ số liệu khác nhau. Một số nghiên cứu sử dụng mẫu số liệu tổng<br /> hợp (pooled) từ các nước đang phát triển và nhóm một số nước phát triển như Easterly và Rebelo<br /> (1993), Odedokun (1997), Ahmed và Miller (2000), Everhart và Sumlinski (2000) khẳng định<br /> giả thuyết lấn át đầu tư tư nhân của đầu tư công nói chung. Tuy nhiên, một số khác, cũng sử<br /> dụng số liệu tổng hợp các nước đang phát triển lại cho rằng đầu tư công hỗ trợ bổ sung cho đầu<br /> tư tư nhân, như Greene và Villanueva (1991), Hadjimichael và Ghura (1995) và Ghura và<br /> Goodwin (2000). Các công trình khác nghiên cứu các nước đơn lẻ cũng đưa ra những kết quả trái<br /> ngược nhau. Trong khi nghiên cứu của Mallik (2001) và Ramirez (1998) cho thấy đầu tư công<br /> lấn át đầu tư tư nhân ở Ấn Độ và Mexico; thì kết luận ngược lại được tìm thấy ở Sundarajuan và<br /> Thakur (1980) cho Ấn Độ và Hàn Quốc, hay Belloc và Vertova (2004) cho Malawi. Tại Việt<br /> Nam, có khá nhiều nghiên cứu về đầu tư công và hiệu quả của đầu tư công, tuy nhiên còn khuyết<br /> thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân, đặc biệt<br /> là những nghiên cứu thực nghiệm kiểm định hai giả thuyết cơ bản đã nêu ở trên.<br /> Trong bối cảnh đó, bài viết này sẽ kiểm định lại giả thuyết liệu đầu tư công lấn át hay thúc<br /> đẩy đầu tư tư nhân ở Việt Nam, để có cái nhìn toàn diện hơn về vai trò của đầu tư công trong nền<br /> kinh tế, từ đó đóng góp những khuyến nghị chính sách tái cơ cấu đầu tư công trong tiến trình xây<br /> dựng mô hình tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn mới.<br /> Bài viết được chia thành 5 mục chính. Tiếp nối phần dẫn nhập là tổng quan vai trò và hiệu<br /> quả của đầu tư công trong thập niên qua. Phần 3 sẽ mô tả phương pháp nghiên cứu thực nghiệm<br /> và những kiểm định số liệu và mô hình. Kết quả ước lượng và phân tích tính đáng tin cậy của kết<br /> quả nghiên cứu sẽ được trình bày ở phần 4. Phần 5 sẽ tóm tắt lại nội dung bài nghiên cứu và một<br /> số khuyến nghị chính sách.<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0