intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đầu tư phát triển giáo dục đại học ở thành phố Hồ Chí Minh hướng đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

7
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đầu tư phát triển giáo dục đại học ở thành phố Hồ Chí Minh hướng đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam" nghiên cứu vai trò, thực trạng đầu tư phát triển giáo dục đại học của Thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đầu tư phát triển giáo dục đại học ở thành phố Hồ Chí Minh hướng đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

  1. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HƯỚNG ĐẾN VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM Đỗ Thị Hiện1 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh Abstract Higher education plays a great role in promoting intellectual resources for the cause of industrialization and national development in the context of international integration. Therefore, researching, identifying, evaluating and having realistic solutions for higher education to perform well the role and task of promoting intellectual resources is an urgent requirement. This article studies the role and status of investment in higher education development of Ho Chi Minh City in order to improve the quality of human resources in the southern key economic region today. Keywords: Higher education, human resources, socio-economic development, Ho Chi Minh City, southern key economic region 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) là địa phương đi đầu cả nước trong việc xóa bỏ dần cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, từng bước xác lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành phố (TP) đã trở thành một trung tâm công nghiệp lớn, giữ vai trò hậu thuẫn và thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; là trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch, ngân hàng, tài chính, tiền tệ, bưu chính viễn thông…lớn nhất nước, là đầu mối giao thông vận tải, cửa ngõ giao thương và giao lưu quốc tế của cả nước. Đặc biệt, trong suốt 33 năm đổi mới, TP luôn dẫn đầu trong việc đào tạo NNL phục vụ phát triển kinh tế xã hội cho vùng và cả nước. Có thể khẳng định, là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước, TPHCM có nhiều quan điểm mới trong việc nhìn nhận và đánh giá về vai trò của GD&ĐT. TP đã đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp, toàn diện trong việc phát triển GD&ĐT hướng vào việc thực hiện những mục tiêu chiến lược của TP và cả nước. 37năm qua, cùng với những đóng góp to lớn vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì GD&ĐT TP Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả ấn tượng. Trong đó có GDĐH. Cần đánh giá thực trạng, đưa ra giải pháp để GDĐH của TP tiếp tục phát huy vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đào tạo NNL khi mà cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 hiện nay đang chuyển động với tốc độ nhanh và mạnh mẽ. 2. NỘI DUNG 2.1. Nguồn nhân lực và thực trạng đầu tư phát triển GDĐH ở TPHCM hướng đến đào tạo NNL vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện nay Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực (NNL). Theo Liên Hợp Quốc thì NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước [1]. Tổ chức 1 dothihien82@gmail.com 321
  2. Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…của mỗi cá nhân [2]. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): NNL của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Các nhà kinh tế phát triển cho rằng: NNL là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động [3, tr 28]. Theo đó, NNL được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ, trình độ chuyên môn, kiến thức, trình độ lành nghề của người lao động. Từ quan niệm và cách khai thác trên có thể hiểu NNL là tổng hợp những con người cụ thể với các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực, tiềm năng lao động có khả năng tham gia vào quá trình lao động của tổ chức, địa phương, ở mỗi dân tộc, quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội. Năng lực đó tạo thành kết cấu trong “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2003 đã khẳng định: “Thu nhập bình quân của 20 nước giàu nhất cao gấp 37 lần so với 20 nước nghèo nhất. Tỷ lệ này đã tăng nhanh gấp hai lần trong vòng 40 năm qua. Lý do chủ yếu là do không có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể tại các nước nghèo do thiếu vốn, thiếu các nguồn lực phát triển cần thiết, đặc biệt là tri thức khoa học và công nghệ” [4]. Điều này cho thấy, với một nền giáo dục yếu kém, chắc chắn sẽ mất lợi thế cạnh tranh. Trên thực tế giáo dục - đào tạo (GD&ĐT) là nhân tố quyết định để phát huy tiềm năng trí tuệ, năng lực sáng tạo của con người. Mục tiêu phát triển của Việt Nam đến năm 2030 là, về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu này, cần huy động và sử dụng một cách có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Một trong những yếu tố có ý nghĩa then chốt là chất lượng giáo dục đại học (GDĐH). Bởi trong bất kỳ điều kiện lịch sử nào, trường đại học luôn là môi trường bồi dưỡng, sáng tạo và chuyển giao những thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất, là đầu tàu trong việc tạo ra nguồn lao động chất lượng cao phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển, nâng cao NNL chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [5, tr 41]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 29-NQ/TW) xác định GDĐH có vai trò lớn đối với việc phát huy nguồn lực trí tuệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, phát triển đất nước hiện nay. TPHCM là một trong những trung tâm kinh tế - văn hóa - giáo dục của cả nước, luôn được Đảng quan tâm và có những định hướng phát triển cụ thể. Ngày 18/11/2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 20-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TPHCM đến năm 2010. Tiếp đó, Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 10/8/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TPHCM đến năm 2020 đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, trong đó khẳng định, sau mười năm, tình hình văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo NNL ở TPHCM có bước tiến tích cực. Từ đó, Nghị quyết đưa ra phương hướng, nhiệm vụ trong mười năm tiếp theo cho TP là tiếp tục đầu tư đổi mới, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao; phát triển mạnh khoa học - công nghệ gắn với phát triển kinh tế tri thức, làm nền tảng thúc đẩy TP phát triển nhanh và bền vững. 322
  3. 37 năm qua, cùng với việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý GD&ĐT và tổ chức Đảng trong ngành, TP đã quan tâm thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; chú trọng đầu tư phát triển mạng lưới trường lớp, xây dựng nhiều trường học mới đạt chuẩn quốc gia; có chính sách chăm lo cho đội ngũ giáo viên và học sinh; từng bước thực hiện công bằng trong giáo dục thông qua gia tăng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục ở các huyện, miễn học phí cho học sinh nghèo, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; từ đó, động viên các nguồn lực trong xã hội cùng chăm lo phát triển sự nghiệp GD&ĐT, đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh, bước đầu đạt một số tiến bộ trong thực hiện mục tiêu xóa mù chữ, phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ dân trí; nhiều tập thể, cán bộ, giáo viên nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đóng góp nhiều công sức, trí tuệ cho sự nghiệp GD&ĐT của TP. Ngày 25 tháng 9 năm 2006, Ban Thường vụ Thành ủy đã ra Chỉ thị số 03-CT/TU về chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GD&ĐT của TP, đề ra yêu cầu cho các Quận - Huyện ủy và các tổ chức Đảng trong ngành GD&ĐT, Đảng đoàn Hội đồng Nhân dân TP, Ban cán sự Đảng Ủy ban Nhân dân TP, Đảng đoàn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể nhân dân, Ban Tư tưởng - Văn hóa Thành ủy cùng tập trung thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng GD&ĐT. Ngày 30/11/2007 Ban Thường vụ Thành ủy đề ra Chương trình hành động số 27-CTr/TU về thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, khẳng định trong những năm qua TP đã có nhiều chủ trương, biện pháp chỉ đạo các ngành, các cấp chăm lo phát triển sự nghiệp GD&ĐT, động viên toàn xã hội phát huy truyền thống hiếu học, tích cực tham gia các phong trào khuyến học, khuyến tài, thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục. Trên địa bàn TPHCM, số trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp được mở ra ngày một nhiều với đủ loại hình và ngành nghề đào tạo, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học. Xét về số trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, về số lượng giáo viên hay sinh viên (SV) đều có chiều hướng tăng mạnh. Số SV tốt nghiệp các trường đại học và cao đẳng tăng hàng năm đã và đang đáp ứng yêu cầu chất lượng NNL của TP. Các trường thiên về kỹ thuật, kinh tế, sư phạm, y tế đã cung ứng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) của TP ngày càng nhiều cử nhân trẻ có trình độ. Số lượng SV tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm kỹ thuật năm 2005 là 3.250, đến năm 2015 đã tăng lên 3.486 SV; trường Đại học Kinh tế năm 2005 có số SV tốt nghiệp là 6.848 đã tăng vọt lên 11.278 năm 2015; trường Đại học Sư phạm TP.HCM tăng từ 3.594 SV tốt nghiệp năm 2005 lên 4.359 SV năm 2015; trường Đại học Y Dược có 1.173 SV tốt nghiệp năm 2005 thì đến năm 2015 đã có 1.452 SV tốt nghiệp; [6]… Những số liệu trên cho thấy quy mô phát triển GD&ĐT ngày càng được mở rộng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về NNL cho công cuộc CNH-HĐH của TP. Ngày 4/12/2012, báo cáo tình hình kinh tế - xã hội (KT-XH) năm 2012 tại phiên khai mạc kỳ họp lần thứ 7 Hội đồng nhân dân TP.HCM khóa VIII, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP Hứa Ngọc Thuận cho biết, năm 2012 TP đạt tốc độ tăng trưởng KT-XH 9,2%, gấp 1,77 lần cả nước. Trong năm 2013, phấn đấu đạt mức tăng trưởng 9,5%. Với tư cách là trung tâm lớn, đầu tàu khoa học - công nghệ của đất nước, chiến lược đầu tư phát triển GD&ĐT của TPHCM đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, góp phần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành, vượt 323
  4. mức nhiều chỉ tiêu KT-XH, tạo ảnh hưởng ngày càng mạnh đến các tỉnh thành khu vực phía Nam và cả nước. Việc mở rộng quy mô không chỉ bó hẹp trong các trường công lập mà cả loại hình dân lập và tất cả các tỉnh, TP đều có trường đại học, cao đẳng. Từ quy mô như trên chúng ta có thể khẳng định, công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng được đẩy mạnh, nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục được huy động ngày càng nhiều. Điều này là hết sức quan trọng trong việc đào tạo NNL tại chỗ có chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH của từng TP và cả nước. Tuy nhiên, sự phát triển như trên đang chứa đựng nhiều bất ổn. Mặc dù đầu tư cho GDĐH, cao đẳng ở TPHCM có tăng, nhiều trường đại học, cao đẳng được thành lập với nhiều hình thức đào tạo, nhiều ngành nghề mới được mở, song mức đầu tư còn thấp, chưa thật đồng đều và hiệu quả còn thấp so với yêu cầu phát triển của địa phương. Mặt khác, tính chủ động trong hoạch định chính sách cụ thể, đề ra chiến lược phát huy NNL ở các trường đại học, cao đẳng trong khu vực còn chưa cao, đầu tư về cơ bản vẫn mang tính dàn trải, chưa phân bổ và chú trọng đến yếu tố đầu ra và mang đậm nét quản lý hành chính. Trên địa bàn TP và cả nước các đại học lớn vẫn chưa được đứng trong bảng xếp hạng 200 trường đại học tốp đầu châu Á, trong khi nhiều trường đại học của các nước láng giềng như Philippin, Inđônêsia đã có mặt. Đặc biệt, Trường Đại học Chulalongkorn của Thái Lan còn được xếp trong danh sách 200 đại học hàng đầu thế giới. Hơn nữa, trong số 25 - 30% giáo sư và phó giáo sư trên tổng số đang trực tiếp giảng dạy tại các trường đại học và cao đẳng, thì tập trung chủ yếu vẫn ở một số trường đại học lớn tại Hà Nội và TPHCM [7] nhưng so với số lượng các trường đại học, cao đẳng của TP thì con số ấy chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo NNL. Mặt khác, Chương trình đại học của nước ta còn nặng về lý thuyết. Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế cũng cho rằng, việc thiếu các công nhân và quản lý có kỹ năng là cản trở lớn nhất đối với việc mở rộng sản xuất. Chất lượng nghèo nàn của GDĐH còn có một ngụ ý khác: đối lập với những người cùng thế hệ ở Ấn Độ và Trung Quốc, người Việt Nam thường không thể cạnh tranh được để lọt qua những khe cửa hẹp của các chương trình đại học cao cấp ở Mỹ và châu Âu. Thực tế cho thấy, hiện nay, thanh niên, SV ở nước ta nói chung và TPHCM nói riêng còn trong tình trạng tụt hậu rất xa so với thanh niên các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học,.... Nghiên cứu tìm ra các giải pháp phát huy vai trò GDĐH đối với đào tạo NNL phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội đặt ra chính là một nhiệm vụ để TP thực hiện trọng trách là đầu tàu, là trung tâm kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước. 2.2. Giải pháp đầu tư phát triển GDĐH ở TPHCM nhằm đào tạo NNL vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện nay Ðể GDĐH thực hiện tốt vai trò phát huy nguồn lực trí tuệ phục vụ phát triển KT-XH của khu vực, thiết nghĩ, cần thống nhất thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi đưa ra một số giải pháp về nhận thức và chính sách như sau. Về nhận thức Trước hết, cần nhận thức đúng về vai trò của GDĐH đối với việc đào tạo NNL phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH của khu vực. Để thực hiện được điều này, thứ nhất các 324
  5. trường đại học trong khu vực cần xác định rõ nhiệm vụ tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Vậy thì, bản thân các trường đại học phải chứng minh được giá trị của những người được mình đào tạo thật sự là “mẫu hình người lao động trí thức”- đem cái trí thức đó vào thực tế phục vụ xã hội, đóng góp thiết thực vào sự phát triển KT-XH của địa phương và chính họ là lực lượng mà “cách mạng” cần với một sự ghi nhận xứng đáng: “cách mạng cần lực lượng của trí thức” [8, tr 214]. Thứ hai, với mục tiêu đẩy mạnh CNH-HĐH nước ta hiện nay thì các trường đại học, cao đẳng cần lựa chọn định hướng chiến lược phát triển công nghệ phù hợp đồng thời phải đầu tư cho phát triển công nghệ một cách toàn diện và hợp lý. Hiện nay các chuyên gia xác định có 6 định hướng chiến lược phát triển công nghệ: (1) Dẫn đầu công nghệ (nghiên cứu và phát triển); (2) Đi mua; (3) Theo sát công nghệ bằng cách nghiên cứu và phát triển; (4) Theo sát công nghệ bằng cách đi mua; (5) Tự nghiên cứu và phát triển; (6) Liên tục học tập và sáng tạo công nghệ. Tính toàn diện thể hiện về chất lượng giáo dục toán học, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, các thiết kế nghiên cứu khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa học ứng dụng trong nhà trường. Mặt khác, các trường đại học, cao đẳng cũng cần phát triển các mối quan hệ mở giữa các trường đại học trong khu vực với nhau và với các trường đại học lớn, với các trường đại học ở các nước có thế mạnh về nông nghiệp, thủy sản... GDĐH gắn với thúc đẩy nâng cao trình độ công nghệ một cách hợp lý còn là việc chú ý nghiên cứu, phát triển “công nghệ trung gian”, “công nghệ sạch”, “công nghệ thân thiện với môi trường”, “công nghệ mang bộ mặt nhân bản”…nghĩa là cần suy nghĩ thấu đáo ở tầm triết học để GDĐH đào tạo NNL phát triển công nghệ, phát huy nguồn lực trí tuệ là nhằm mục đích góp phần phát triển KT-XH địa phương, thực hiện chuyển giao công nghệ tăng năng suất lao động vừa bảo vệ môi trường, giảm những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến nước ta hiện nay. Thứ ba, thông qua nhiều kênh khác nhau, quán triệt nhận thức về vai trò của giáo dục đến người dân, đặc biệt là các hộ nông dân để họ và bản thân thanh niên nông thôn ở độ tuổi đi học có nhu cầu và khát khao được đào tạo; mỗi địa phương cũng cần khảo sát đặt ra các yêu cầu cụ thể đối với từng trường về chất lượng - học để làm được việc, trước hết là đáp ứng nhu cầu phát triển của địa phương và về số lượng - học ra là để được làm việc, được lao động và đóng góp trí lực vào sự phát triển. Về chính sách - TP cần làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL. GD&ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và không thể làm được trong ngày một ngày hai. TP cần xây dựng chiến lược NNL theo lĩnh vực và bậc đào tạo gắn với chiến lược phát triển KT-XH, CNH-HĐH đất nước, hội nhập quốc tế. Muốn xây dựng được chiến lược phát triển NNL chính xác, thì cần tiến hành tốt công tác dự báo nhu cầu và thị trường lao động cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trên cơ sở chiến lược tổng thể về phát triển NNL, cần “Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng, dạy nghề trong cả nước cho phù hợp”. Do vậy, triển khai thực hiện đề án Phát triển NNL, thu hút nhân tài theo giai đoạn 2018-2020 và định hướng đến năm 2025 là rất cần thiết. Trên cơ sở đó, tỉnh đề ra các chính sách thiết thực, tạo điều kiện đào tạo NNL dài hạn, trung hạn hay ngắn hạn với các số lượng cụ thể gắn với các lĩnh vực cụ thể. Đồng 325
  6. thời, từng bước xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân tỉnh tham gia vào chiến lược đào tạo NNL cho tỉnh nhà. - Xây dựng các chính sách tuyển dụng và đãi ngộ đội ngũ làm công tác GDĐH. Trong bối cảnh CMCN4.0, nhu cầu NNL chất lượng cao là rất lớn, nhất là ở các TP lớn, các TP công nghiệp. Do vậy, để cạnh tranh và thu hút nhân lực thì việc tuyển dụng và đãi ngộ đội ngũ là công tác GD&ĐT rất quan trọng. Do đó, TP tăng cường tuyển dụng và đãi ngộ cho đội ngũ này thông qua việc khuyến khích ưu tiên và tăng tuyển dụng. Các chính sách thu hút song song với công tác đào tạo phát triển NNL, chính sách thu hút nhân tài trong tất cả các lĩnh vực nhất là khoa học, kỹ thuật cũng hết sức cần thiết, là điểm tựa để phát huy thế mạnh, tạo dựng một đội ngũ khoa học kỹ thuật đủ về số lượng và đảm bảo được chất lượng cao. Mặt khác, TP thu hút được đội ngũ này tham gia vào công tác đào tạo thì cũng cần minh bạch các vị trí tuyển dụng, thu hút ngay từ đầu để họ được bố trí làm việc phù hợp với chuyên môn, năng lực, sở trường tại các đơn vị. Chẳng hạn, đối với SV tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc được ưu tiên bố trí làm việc. Sau 2 năm công tác, nếu có nguyện vọng và đủ điều kiện đi đào tạo ở trình độ cao hơn thì được xem xét cử đi học và được hưởng các chế độ hỗ trợ đi học theo quy định hiện hành. Trường hợp do nhu cầu của đơn vị, có thể cử đi học sớm hơn, xét từng trường hợp cụ thể…. - Tích cực hợp tác quốc tế trong GDĐH. TP cẩn chủ động đề xuất, thực hiện hợp tác quốc tế để nâng cao năng lực đào tạo chuyên môn và chuyển giao công nghệ hiện đại. Tranh thủ sự hỗ trợ đào chuyên sâu ngắn hạn, dài hạn tại các nước phát triển; Ưu tiên hợp tác quốc tế cho đào tạo nhân lực trình độ cao, các chuyên ngành ưu tiên, đào tạo quản lý và NNL đáp ứng yêu cầu tại chỗ. Tạo điều kiện cho các trường đại học trong TP mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong đào tạo NNL. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã, đang và cần xác định TPHCM là nơi cung cấp NNL chất lượng cao cho cả vùng. Do vậy, TP cần coi đầu tư thích đáng cho GDĐH là một nhiệm vụ quan trọng của phát triển KT-XH. Có chính sách công khai việc ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở vật chất, thu hút và đãi ngộ nhân tài ở các trường đại học. Các chính sách phát triển ở các tỉnh cần tăng đầu tư ngân sách cũng như những ưu tiên cho hoạt động nghiên cứu khoa học ứng dụng và thậm chí cần tính toán đến việc phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm cho những nghiên cứu mới. Mặt khác, giữa các tỉnh, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp trong TP cần có sự liên kết chặt chẽ và chủ động tạo mối liên hệ, trao đổi cũng như thu hút đầu tư cho giáo dục. 3. KẾT LUẬN Một thiên niên kỷ mà tri thức trở thành một loại vốn kinh tế mới thì các học viện, các trường đại học chính là những nhà cung cấp tri thức. Đối với Việt Nam hiện nay thì việc thực hiện các mục tiêu giáo dục nói chung đã là một thách thức nên đòi hỏi phải nâng cao tầm quan trọng của GDĐH để thực hiện tốt vai trò phát huy nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế không phải là điều dễ dàng. TPHCM là một trong những đơn vị có thế mạnh về phát triển kinh tế của cả nước, luôn được Đảng quan tâm và có những định hướng phát triển cụ thể. Trong điều kiện CMCN 4.0 và toàn cầu hóa đang diễn ra với quy mô và tốc độ ngày càng nhanh và mạnh, TP tiếp tục đưa ra phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục đầu tư đổi mới, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao; phát triển 326
  7. mạnh khoa học - công nghệ gắn với phát triển kinh tế tri thức, làm nền tảng thúc đẩy TP phát triển nhanh và bền vững. ________________ Tài liệu tham khảo [1] WB. World Development Indicators. - London: Oxford, 2000 [2] www.worldbank.org [3] Nguyễn Tiệp (2008), Giáo trình Nguồn nhân lực, NXB Lao động Xã hội. [4] Ngân hàng thế giới (2003), Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB). [5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd. [6] Cục thống kê Thành phố hồ Chí Minh (2015). [7] http://vietbao.vn/Giao-duc [8] Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập- tập 8, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội [9] Nguyễn Thái An, Nguyễn Văn Kích (2005), 100 năm phát triển công nghiệp Sài Gòn - TPHCM, NXB Tổng hợp, TPHCM. [10] Ban Thường vụ Thành ủy Tp. Hồ Chí Minh (25/9/2006), Chỉ thị số 03-CT/TU về chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GD&ĐT của TP. [11] Ban Thường vụ Thành ủy Tp. Hồ Chí Minh (30/11/2007), Chương trình hành động số 27- CTr/TU về thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. [12] Bộ Chính trị (10/8/2012), Nghị quyết số 16-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TPHCM đến năm 2020. [13] Đảng bộ Tp. Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ TPHCM lần thứ IV, V, VI, VII, VIII, IX, X. [14] Đại học Quốc gia TPHCM (2012), Đối sánh chuẩn đầu ra theo nhu cầu xã hội, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Tp. Hồ Chí Minh. [15] TS Nguyễn Văn Lượng (2017), “Những vấn đề của đổi mới căn bản và toàn diện GD&ĐT nhằm phát triển NNL chất lượng cao”, Tạp chí Lý luận chính trị số 6. [16] Quốc Hội nước Cộng Hòa xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2009), Luật Giáo dục (sửa đổi bổ sung), NXB Lao động, Hà Nội. [17] Quốc Hội nước Cộng Hòa xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2012), Luật GDĐH. [18] PGS, TS. Vũ Văn Phúc và TS. Nguyễn Duy Hùng (đồng chủ biên) (2012), “Phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH và hội nhập quốc tế”, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. [19] Văn Đình Tấn (2012), NNL trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta, http://truongchinhtrina.gov.vn, Truy cập ngày 10/01/2015. [20] Viện Nghiên cứu xã hội Tp. Hồ Chí Minh, Tạp chí Người Đô thị, 2008, Đô thị hóa ở Sài Gòn – TPHCM từ góc nhìn Lịch sử văn hóa. 327
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2