VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC YẾN

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM

TỪ SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008 ĐẾN NAY:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2021

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC YẾN

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM

TỪ SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008 ĐẾN NAY:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Ngành: Kinh tế quốc tế

Mã số : 9 31 01 06

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Thanh Đức

2. TS. Trần Thị Hồng Minh

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào

Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay: Thực trạng và

giải pháp" là công trình nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn thành. Các số liệu

được sử dụng trong luận án có nguồn gốc rõ ràng.

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Ngọc Yến

i

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và hoàn thành luận án, tôi đã nhận được rất nhiều sự

quan tâm, giúp đỡ, động viên của gia đình, đồng nghiệp, quý thầy cô.

Tác giả xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn khoa học sâu sắc của hai giáo viên

hướng dẫn là PGS.TS. Nguyễn Thanh Đức và TS. Trần Thị Hồng Minh, xin cảm ơn

các nhà khoa học tại Học viện khoa học xã hội, khoa Quốc tế học đã tạo một môi

trường nghiên cứu đầy tính khoa học và thuận lợi để NCS thực hiện luận án.

Xin cảm ơn sự ủng hộ, giúp đỡ của Ban lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Kỹ

thuật Hưng Yên, các thầy cô khoa Kinh tế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi

thực hiện luận án.

Trong quá trình nghiên cứu và thu thập số liệu, tác giả nhận được sự hỗ trợ rất

nhiều từ Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch đầu tư, các DN FDI Nhật Bản tại

Việt Nam. Để bày tỏ lòng biết ơn, tác giả xin cảm ơn các DN đã tham gia trả lời

phiếu khảo sát và cung cấp các thông tin quí báu giúp tác giả thực hiện luận án.

Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn

bè đã luôn động viên, ủng hộ, chia sẻ khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho

tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, ngày 07 tháng 12 năm 2021

Tác giả

Nguyễn Thị Ngọc Yến

ii

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... vi

DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................... viii

DANH MỤC CÁC HÌNH ....................................................................................... ix

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .....................................10

1.1. Các nghiên cứu về bối cảnh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đối với

FDI ............................................................................................................................10

1.2. Các nghiên cứu về FDI Nhật Bản ra nước ngoài sau khủng hoảng tài chính toàn

cầu năm 2008 ............................................................................................................15

1.3. Các nghiên cứu FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính

toàn cầu năm 2008 ....................................................................................................18

1.3.1. Các nghiên cứu nước ngoài .............................................................................18

1.3.2. Các nghiên cứu trong nước .............................................................................21

1.4. Định hướng nghiên cứu của luận án ..................................................................24

1.4.1. Đánh giá các nghiên cứu trước chỉ ra khoảng trống nghiên cứu ....................24

1.4.2. Định hướng tiếp tục nghiên cứu của luận án ..................................................25

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC

NGOÀI .....................................................................................................................26

2.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ................26

2.1.1. Khái niệm về FDI và thu hút FDI ...................................................................26

2.1.2. Các hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài ....................................29

2.2. Một số lý thuyết về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ....................................30

2.2.1. Lý thuyết về thương mại quốc tế ....................................................................30

2.2.2. Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển ...................................................................31

2.2.3. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh ........................................................................31

2.2.4. Lý thuyết về năng lực cạnh tranh ....................................................................32

2.2.5. Lý thuyết về năng lực hấp thụ .........................................................................33

2.3. Nội dung các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .. 34

iii

2.3.1. Quy mô đầu tư .................................................................................................34

2.3.2. Hình thức đầu tư ..............................................................................................37

2.3.3. Cơ cấu đầu tư ..................................................................................................37

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ........................40

2.4.1. Nhân tố thuộc bối cảnh quốc tế .......................................................................41

2.4.2. Nhân tố thuộc về nước tiếp nhận đầu tư .........................................................44

2.5. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư .........50

2.5.1. Tác động tích cực ............................................................................................50

2.5.2. Tác động tiêu cực ............................................................................................57

Chương 3: THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM TỪ SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

TOÀN CẦU NĂM 2008 ĐẾN NAY .......................................................................62

3.1. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từ sau

khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay ..................................................62

3.1.1. Quy mô vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 2008 đến nay ............62

3.1.2. Hình thức đầu tư FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 2008 đến nay ............69

3.1.3. Cơ cấu đầu tư FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 2008 đến nay ................72

3.2. Các nhân tố tác động đến thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng

hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay .............................................................90

3.2.1. Nhân tố thuộc về bối cảnh quốc tế ..................................................................90

3.2.2. Nhân tố thuộc về nước tiếp nhận đầu tư .........................................................93

3.3. Đánh giá tác động của FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài

chính toàn cầu năm 2008 đến nay .......................................................................... 111

3.3.1. Các kết quả đạt được .................................................................................... 111

3.3.2. Những hạn chế ............................................................................................. 122

3.3.3. Nguyên nhân gây ra những hạn chế ............................................................. 126

Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT HIỆU QUẢ

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM ....... 132

4.1. Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam

iv

đến năm 2030 ......................................................................................................... 132

4.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế .................................................................. 132

4.1.2. Định hướng thu hút FDI nói chung cũng như FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai

đoạn tới (2022 - 2030) .............................................................................................. 134

4.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật

Bản vào Việt Nam .................................................................................................. 136

4.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, chính sách liên quan đến thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam ............................................................. 136

4.2.2. Xây dựng chiến lược phù hợp nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ Nhật

Bản sang Việt Nam đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất. ............................................ 140

4.2.3. Phát triển nguồn nhân lực ............................................................................ 141

4.2.4. Hiện đại hóa và phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng ........................................ 143

4.2.5. Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ............................................................ 144

4.2.6. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản ..... 145

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ..................... 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 152

v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

APEC : Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (Asia

Pacific Economic Cooperation)

Hợp đồng, hợp tác kinh doanh (Business Cooperation BCC :

Contract)

Bảo hiểm xã hội BHXH :

Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao (Build – Operate – BOT :

Transfer)

Xây dựng - Chuyển giao (Build –Transfer) BT :

Xây dựng - Chuyển giao - Vận hành (Build - Transfer – BTO :

Operate)

Cụm công nghiệp CCN :

Công nghiệp hỗ trợ CNHT :

DN DN :

DN liên doanh DNLD :

DN nhà nước DNNN :

DN vừa và nhỏ DNVVN

Đầu tư nước ngoài : ĐTNN

Liên minh Châu Âu (European Union) EU :

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) FDI :

Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) IMF :

Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (Japan International JICA :

Cooperation Agency)

Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (Japan External Trade : JETRO

Organization)

KCN : Khu công nghiệp

vi

KT : Kinh tế

KHĐT : Kế hoạch đầu tư

M&A : Mua lại và sáp nhập (Merger and Acquisition)

MNC : Tập đoàn đa quốc gia (Multinational Corporation)

NICs : Nước mới công nghiệp hóa (Newly Industrialized Countries)

NSNN : Ngân sách nhà nước

ODA : Viện trở phát triển chính thức (Official Development

Assistance)

OECD : Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for

Economic Cooperation and Development)

PPP : Hình thức đối tác công tư (Public private partnership)

RCEP : Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (Regional

Comprehensive Economic Partnership)

R&D : Nghiên cứu và phát triển (Research and Development)

TMDV : Thương mại dịch vụ

TNCs : Công ty xuyên quốc gia (Transational Corporations)

TNHH : Trách nhiệm hựu hạn

TPP : Hiệp đinh đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific

Partnership)

UNCTAD : Tổ chức Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (United

Nations Conference on Trade and Development)

XTĐT : Xúc tiến đầu tư

VCCI : Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (Vietnam

Chamber of Commerce and Industry)

WB : Ngân hàng thế giới (World bank)

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1 : Cơ cấu đầu tư trực tiếp theo hình thức đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam .......70

Bảng 3.2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp theo ngành của Nhật Bản tại Việt Nam (Lũy kế

đến hết tháng 12/2020) ..............................................................................................74

Bảng 3.3: Tỷ trọng vốn đăng ký của 10 địa phương đứng đầu về thu hút FDI Nhật

Bản trong năm 2010, 2015 và 2020 ..........................................................................82

Bảng 3.4. Mười địa phương thu hút nhiều dự án FDI từ Nhật Bản (Lũy kế đến hết

tháng 12/2020) ..........................................................................................................83

Bảng 3.5. Mười địa phương có số vốn FDI Nhật Bản bình quân một dự án cao nhất

cả nước (Lũy kế đến hết tháng 12/2020) ...................................................................84

Bảng 3.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam theo đối tác (Lũy kế các dự án

còn hiệu lực đến hết ngày 20/12/2020) .....................................................................85

Bảng 3.7: So sánh đặc điểm FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn trước và sau

khủng hoảng tài chính toàn cầu .................................................................................87

viii

DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1.1. Quy trình nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của luận án ...........................7

Hình 3.1: Diễn biến nguồn vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2008 -2020.... 62

Hình 3.2: Quy mô vốn dự án FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2008 – 2020.67

Hình 3.3: Hình thức FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2008 - 2020 ...............69

Hình 3.4: Tỷ trọng vốn FDI Nhật Bản theo lĩnh vực đầu tư .....................................72

Hình 3.5: FDI Nhật Bản vào một số nước ASEAN theo lĩnh vực đầu tư .................76

Hình 3.6: Đánh giá của DN Nhật Bản về môi trường đầu tư tại Việt Nam ..............94

Hình 3.7. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 ................ 102

Hình 3.8. Tỷ lệ năng suất lao động quốc gia khác so với Việt Nam năm 2011 và

2019 ........................................................................................................................ 105

Hình 3.9: Tỷ lệ thu mua nội địa tại Việt Nam của các DN FDI Nhật Bản giai đoạn

2008 – 2019 ............................................................................................................ 109

Hình 3.10: Tỷ lệ thu mua từ DN trong nước của các DN Nhật Bản tại Việt Nam giai

đoạn 2008 - 2019 .................................................................................................... 110

Hình 3.11: Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2008 -2020 ...... 111

Hình 3.12: Tỷ trọng của FDI Nhật Bản trong tổng FDI vào Việt Nam giai đoạn

2008 - 2020 ............................................................................................................ 112

Hình 3.13: Lợi nhuận kinh doanh các DN Nhật Bản tại Việt Nam giai đoạn 2013 -

2020 ........................................................................................................................ 114

Hình 3.14: Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam theo ngành (Lũy kế đến hết

năm 2020) ............................................................................................................... 116

Bảng 3.15: Kim ngạch xuất - nhập khẩu và cán cân thương mại giữa Việt Nam -

Nhật Bản giai đoạn 2009 - 2020 ............................................................................ 120

Hình 3.16: Vốn FDI Nhật Bản vào các nước ASEAN giai đoạn 2011 - 2020 ...... 123

ix

DANH MỤC CÁC HỘP

Hộp 3.1. Một ví dụ về đóng góp của FDI Nhật Bản vào tăng trưởng, phát triển kinh

tế tỉnh Bắc Ninh ..................................................................................................... 113

Hộp 3.2. Đóng góp của DN Nhật Bản vào ngân sách nhà nước của tỉnh Vĩnh Phúc. ... 115

Hộp 3.3. Vấn đề về công nghệ sản xuất ô tô tại Việt Nam .................................... 124

Hộp 3.4. Vấn đề chuyển giao công nghệ của DN FDI Nhật Bản cho Việt Nam ... 125

x

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự

phát triển kinh tế đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài đã mang lại nhiều lợi thế quan trọng như chuyển giao công nghệ, bí quyết, cải

thiện khả năng tiếp cận thị trường quốc tế và thúc đẩy cạnh tranh.

Cho đến nay, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước khá thành công

về thu hút FDI. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài được coi là động lực dẫn dắt

tăng trưởng của Việt Nam. Trong đóng góp của FDI đối với kinh tế Việt Nam, có

đóng góp ngày càng quan trọng của FDI của Nhật Bản.

Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, năm 2009 với việc thiết lập quan hệ "Đối

tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở châu Á" và nâng cấp thành quan hệ "Đối tác

chiến lược sâu rộng vì hoà bình và phồn vinh ở châu Á" năm 2014, quan hệ hợp tác

giữa hai nước đã phát triển rất nhanh chóng trên hầu hết các lĩnh vực, trong đó có quan

hệ đầu tư. Hợp tác kinh tế tiếp tục phát triển mạnh mẽ, nhất là trên các lĩnh vực ODA.

Từ năm 2012 đến nay, do căng thẳng chính trị giữa hai quốc gia Nhật - Trung liên tục

tăng lên, Nhật Bản đã xoay trục đầu tư về các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.

Đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại tự do EU - Việt Nam EVFTA được ký

kết (12/2015), và Hiệp định CPTPP được ký kết vào tháng 10/2015, có thể nói rằng

đang xuất hiện một làn sóng mới đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Bởi vì, một

cam kết quan trọng trong các FTA thế hệ mới là thực hiện ngay việc xóa bỏ phần

lớn thuế quan với đa số hàng xuất khẩu. Để tận dụng cơ hội này, nhiều công ty nước

ngoài trong đó các công ty Nhật Bản sẽ đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam.

Trong các năm gần đây, Nhật Bản là một trong hai quốc gia có FDI lớn vào Việt

Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch đầu tư tính đến hết tháng 12/2020, Nhật Bản

là nhà đầu tư đứng thứ 2/139 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với

tổng số vốn đầu tư đạt hơn 62,9 tỷ USD chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư FDI vào Việt

Nam (Bộ kế hoạch đầu tư, 2020).

Như vậy, FDI của Nhật trong giai đoạn vừa qua đã có nhiều đóng góp tích cực

vào phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam: bổ sung nguồn vốn khá lớn; là kênh

chuyển giao công nghệ, góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế; đẩy

1

mạnh xuất khẩu, nhất là thông qua xuất khẩu các mặt hàng điện tử, may mặc, thủy

sản; góp phần tạo việc cho làm người lao động Việt Nam...Tuy nhiên, đối với Việt

Nam, kết quả thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam thời gian qua còn một số bất

cập. Về số vốn, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam vẫn còn ít so với đầu tư của

Nhât Bản vào các nước trong khối ASEAN, vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của

Nhật Bản cũng như yêu cầu của Việt Nam. Về qui mô dự án, đầu tư của Nhật Bản

vào Việt Nam chủ yếu vẫn là các dự án vừa và nhỏ. Về cơ cấu đầu tư theo ngành

còn bất hợp lý như tập trung quá nhiều vào các ngành công nghiệp đặc biệt là công

nghiệp chế biến, chế tạo, trong khi đó đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn ít (mới

bắt đầu được triển khai trong 1,2 năm gần đây); đầu tư của Nhật vào lĩnh vực ngân

hàng tài chính vẫn còn chiếm tỉ lệ thấp. Về hình thức thức đầu tư, chủ yếu vẫn là

DN 100% vốn nước ngoài của Nhật Bản. Về chuyển giao công nghệ, DN Nhật Bản

thường chuyển giao những công nghệ khá tiên tiến vào Việt Nam, nhưng vẫn còn

rất ít DN FDI Nhật Bản thực hiện chuyển giao công nghệ hiện đại và công nghệ

nguồn, việc chuyển giao thực hiện nhỏ giọt từng phần.

Những bất cập này có thể kể đến một số nguyên nhân từ phía Việt Nam như: Hệ

thống chính sách pháp luật, chính sách liên quan đến thu hút đầu tư trực tiếp nước

ngoài còn nhiều bất cập; Cơ sở hạ tầng chưa hiện đại, thiếu đồng bộ; Việt Nam vẫn còn

thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực chất lượng cao, cũng như nhân viên quản lý

cấp trung; Ngành công nghiệp hỗ trợ chưa thực sự phát triển; Hoạt động xúc tiến đầu tư

chưa mạnh mẽ và hiệu quả, chưa tạo được mạng lưới xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản.

Vậy làm thế nào để khắc phục nguyên nhân gây ra những vấn đề bất cập nói trên

trong thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam? Chúng ta cần có những giải pháp gì để

tăng cường thu hút có hiệu quả vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời gian

tới? Để trả lời cho những câu hỏi đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp

nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay: Thực trạng và giải pháp” làm đề tài Luận án tiến sĩ.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án thực hiện nhằm tìm ra giải pháp giúp Việt Nam tăng cường thu hút có

hiệu quả FDI Nhật Bản trong bối cảnh kinh tế quốc tế do khủng hoảng tài chính

toàn cầu 2008 tạo ra.

2

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ

chủ yếu sau:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

vào một nước;

- Phân tích thực trạng thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng

tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay;

- Điều tra, khảo sát, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trực

tiếp của các DN Nhật Bản vào Việt Nam;

- Đánh giá những tác động của FDI (thành tựu và hạn chế) của Nhật Bản đến

nền kinh tế Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay;

- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút hiệu quả vốn FDI của Nhật

Bản vào Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về thu

hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trên địa

bàn cả nước đặc biệt đi sâu vào một số tỉnh có nhiều dự án FDI của Nhật.

Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào

Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến 2020 và đề xuất giải

pháp đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

Về nội dung: Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt

Nam bao gồm: qui mô đầu tư, hình thức đầu tư, cơ cấu đầu tư theo ngành, cơ cấu

đầu tư theo địa phương, vùng lãnh thổ, cơ cấu đầu tư theo đối tác.

Về chủ thể tiếp cận và nghiên cứu: Vĩ mô: Chính phủ, Bộ ngành và chính quyền

các địa phương (Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương)

Về cách tiếp cận: Luận án trình bày FDI Nhật Bản vào Việt Nam dưới góc độ

thu hút FDI chứ không phải quản lý, sử dụng FDI. Vì vậy, tác giả tập trung nhiều

3

vào chính sách và giải pháp thu hút FDI của Chính phủ Việt Nam nhiều hơn là từ

góc độ Chính phủ Nhật Bản.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Phương pháp luận

Hướng tiếp cận mang tính hệ thống: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bao

gồm nhiều yếu tố từ quy mô, cơ cấu, hình thức, những tác động đến nền kinh tế, đến

những nhân tố ảnh hưởng,...Tất cả các vấn đề này sẽ được tác giả nhìn nhận, phân

tích, đánh giá trong một chỉnh thể, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Hướng tiếp cận mang tính thực tiễn: Luận án sử dụng số liệu phản ánh thực

trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (quy mô, cơ cấu, hình thức) của Nhật Bản

vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến 2020.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương

pháp phân tích kinh tế học quốc tế, phương pháp logich-lịch sử, phân tích-tổng hợp,

phương pháp so sánh, thống kê, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.

Các phương pháp cụ thể được sử dụng bao gồm:

- Thu thập dữ liệu: Tác giả thu thập và hệ thống hóa các tài liệu: Thu thập các

công trình nghiên cứu dưới dạng sách tham khảo, bài báo, luận án, luận văn của các

tác giả trong và ngoài nước làm căn cứ cho các vấn đề nghiên cứu. Ngoài ra tác giả

còn hệ thống hóa các văn bản, chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài.

+ Dữ liệu thứ cấp: Đề tài sử dụng những số liệu có tính hệ thống và đáng tin cậy

của các tổ chức chính phủ cũng như các cá nhân có uy tín ở trong nước cũng như

quốc tế. Các tài liệu quốc tế chủ yếu được lấy từ nguồn UNSTAD, WB, WEF,

JICA, JETRO.... Các ấn phẩm trong nước chủ yếu là những số liệu chính thức của

các cơ quan có uy tín như Viện kinh tế và Chính trị thế giới, Bộ Kế hoạch và đầu tư,

Bộ ngoại giao, Tổng cục thống kê, VCCI, VNBA…

+ Dữ liệu sơ cấp: Dữ liệu được tác giả tập hợp từ bảng khảo sát các DN Nhật

Bản tại Việt Nam trong năm 2020 (Phụ lục 03)

- Phương pháp so sánh: bao gồm cả so sánh theo chuỗi và so sánh chéo, được sử

dụng để tính toán một số chỉ tiêu phản ánh sự biến động của dòng vốn FDI Nhật

Bản từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến 2020. Phương pháp này

4

cũng được sử dụng để phân tích thực trạng FDI Nhật Bản vào Việt Nam trong thời

gian qua và trong mối tương quan với các nước khác trong khu vực.

- Phương pháp thống kê: Từ những báo cáo, tài liệu thu thập được xây dựng các

danh mục số liệu được biểu diễn dưới dạng bảng, sơ đồ, biểu đồ qua các năm nhằm

minh họa và giúp cho các kết quả nghiên cứu được phản ánh rõ nét, hiệu quả hơn.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dựa trên những dữ liệu thu thập được tác giả

phân tích và tổng hợp lại theo từng nội dung của luận án.

- Phương pháp chuyên gia: Theo phương pháp lấy ý kiến chuyên gia (Delpin) thì mẫu

tối thiểu là 10, nên tác giả chọn 10 cá nhân bao gồm: một chuyên gia của Viện Thương

mại và quốc tế - trường Đại học Kinh tế Quốc dân, một chuyên gia của Tạp chí Ngân hàng

- Ngân hàng Trung ương, một chuyên gia của Viện Kinh tế Chính trị thế giới và một

chuyên gia Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học và Xã hội, hai

chuyên gia thuộc Viện quản lý kinh tế Trung Ương. Ý kiến từ các chuyên gia này được lấy

thông qua các cuộc sinh hoạt chuyên môn tại Khoa; Kết hợp phỏng vấn trực tiếp lấy ý kiến

của hai chuyên gia quản lý đầu tư tại Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch đầu tư; một

chuyên gia quản lý đầu tư tại Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Hải Dương; và một chuyên gia thuộc

Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) Văn phòng Hà Nội. (Phụ lục 01)

- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng

tới thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam, bao gồm 2 bước:

Bước 1: Xây dựng bảng hỏi khảo sát

+ Dựa vào cơ sở lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI thuộc về nước

tiếp nhận đầu tư được xây dựng ở chương 2 bao gồm 4 nhân tố: Nhân tố thể chế,

chính sách quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài; Nhân tố thị trường;

Nhân tố nguồn lực; Nhân tố cơ sở hạ tầng.

+ Phỏng vẫn các chuyên gia để xác định chính xác bản chất vấn đề cần khảo sát,

xác định thang đo rõ ràng, đặt câu hỏi dễ hiểu dễ trả lời với người được phỏng vấn.

+ Bảng câu hỏi khảo sát được thiết kế gồm 2 phần: Phần A liên quan đến thông

tin chung về nhà đầu tư/DN Nhật Bản; Phần B liên quan đến các nhân tố tại Việt

Nam hiện nay ảnh hưởng tới thu hút FDI từ các nhà đầu tư Nhật Bản. (Phụ lục 02)

Bước 2: Thực hiện khảo sát đối với các nhà đầu tư, DN Nhật Bản tại Việt Nam

5

Mục tiêu khảo sát là để xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân

tố thuộc môi trường đầu tư tại Việt Nam tới FDI Nhật Bản.

Mẫu nghiên cứu: Trong luận án này, NCS áp dụng công thức tính mẫu dựa theo

nghiên cứu của Hair, Anderson, Tatham và Black (1998) về kích thước mẫu dự

kiến, kích thước mẫu tối thiểu gấp 5 lần tổng số biến quan sát. Theo đó cỡ mẫu phù

hợp sử dụng phân tích nhân tố là:

N = 5*M

Trong đó: N là số mẫu được chọn; M là số câu hỏi có trong bảng hỏi.

Với việc xây dựng bảng hỏi với 23 câu hỏi khảo sát, áp dụng ta có:

N = 5*23 = 115

Số mẫu khảo sát ít nhất sẽ là 115. Vì vậy tác giả chọn mẫu là 200 DN Nhật Bản

có vốn FDI tại Việt Nam để thực hiện khảo sát.

Phương pháp khảo sát

Tác giả thực hiện khảo sát 200 DN Nhật Bản có vốn FDI tại các địa phương như

Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An,

Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh (Danh sách các

DN khảo sát tại Phụ lục 03)

Tác giả thực hiện khảo sát trực tiếp tại các DN FDI Nhật Bản các tỉnh Hải

Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thành phố Hà Nội và thành phố Hải Phòng; và thực

hiện khảo sát online nhờ sự hỗ trợ của bộ phận hành chính – nhân sự của các DN tại

các địa phương Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Dương,

Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian 6 tháng bắt đầu từ tháng 08 năm

2019 đến tháng 01 năm 2020. Tác giả thực hiện khảo sát 200 DN FDI của Nhật Bản

tại 11 tỉnh, thành để thu thập ý kiến đánh giá của các DN này khi quyết định đầu tư

vào Việt Nam. Kết quả khảo sát tại Phụ lục 04, 05 cho thấy có 193 DN trả lời hợp lệ

và 7 DN trả lời chưa đầy đủ thông tin.

Thước đo: Sử dụng thang đo Likert 5 cấp độ để quy ước giá trị biến quan sát:

1 Very low Rất thấp 2 Low Thấp 3 Normal Bình thường 4 High Cao 5 Very high Rất cao

Phương pháp thống kê dữ liệu: Thu thập các phiếu khảo sát từ các DN, sử dụng

công cụ Excel tập hợp thống kê kết quả theo từng nhân tố ảnh hưởng. (Phụ lục 06 đến 10)

6

4.3. Câu hỏi nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, Luận án cần trả lời các câu hỏi sau:

Câu hỏi 1. Những nhân tố nào ảnh hưởng đến quá trình thu hút FDI của Nhật

Bản vào Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008?

Câu hỏi 2. Những vấn đề tồn tại trong thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam

sau 2008 đến nay là gì?

Câu hỏi 3. Cần có các giải pháp gì để tăng cường thu hút hiệu quả vốn FDI của

Nhật Bản vào Việt Nam trong thời gian tới?

4.4. Quy trình nghiên cứu giải quyết các vấn đề của luận án

Phương pháp điều tra, khảo sát Tổng quan tài liệu nghiên cứu Nghiên cứu lý luận về thu hút FDI vào một quốc gia Thu thập tài liệu, số liệu

Phương pháp thống kê, phân tích

Khoảng trống nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

Phân tích thực trạng thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay

Đề xuất định hướng và giải pháp tăng cường thu hút có hiệu quả FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời gian tới

Nguồn: Tác giả đề xuất

Hình 1.1. Quy trình nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của luận án

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

- Luận án hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về thu hút đầu tư trực tiếp nước

ngoài bao gồm khái niệm về thu hút FDI, một số lý thuyết về thu hút FDI, nội dung

các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thu hút FDI, các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư

7

trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia, và tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài

tới nước tiếp nhận đầu tư;

- Phân tích thực trạng thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng

hoảng tài chính toàn cầu 2008 đến nay trên các góc độ: quy mô đầu tư, hình thức

đầu tư, cơ cấu đầu tư..;

- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến dòng vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam bao

gồm: 1) Nhóm nhân tố về bối cảnh quốc tế; (2) Nhóm nhân tố thuộc về nước thu hút

đầu tư bao gồm: Nhân tố thể chế, chính sách quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp

nước ngoài; Nhân tố thị trường; Nhân tố nguồn lực; Nhân tố cơ sở hạ tầng.

- Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản đến nền kinh tế

Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Về mặt lý luận, luận án đã hệ thống và bổ sung một số luận cứ khoa học về thu

hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ; Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm

2008.

- Về mặt thực tiễn :

Thông qua điều tra, khảo sát thực tế các DN FDI Nhật Bản ở một số địa phương,

luận án đã làm rõ hơn một số vấn đề như những nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI

của DN Nhật Bản vào Việt Nam và những tác động tích cực cụ thể của FDI Nhật

Bản đến nền kinh tế Việt Nam như thế nào, những hạn chế trong thu hút FDI của

Nhật Bản tại các địa phương Việt Nam.

Từ kết quả phân tích thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật

Bản tại một số địa phương khảo sát, tác giả đã đề xuất về một số giải pháp nhằm

tăng cường thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt

Nam trong thời gian tới (2022 - 2030). Đây là cơ sở giúp cơ quan quản lý Nhà nước

và các địa phương có cái nhìn toàn diện và thực tiễn nhằm đề ra hướng phát triển

chiến lược trong giai đoạn tiếp theo để tăng cường và phát huy làn sóng đầu tư quan

trọng từ Nhật Bản vào Việt Nam và các địa phương trong thời gian tới.

8

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các bảng biểu, Danh mục các chữ viết

tắt, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2: Cơ sở lý luận về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Chương 3: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào

Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay

Chương 4: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút hiệu quả đầu tư trực tiếp

nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời gian tới.

9

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Các nghiên cứu về bối cảnh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đối

với FDI

Cuộc khủng hoảng nổ ra vào năm 2008 là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất kể

từ cuộc Đại suy thoái năm 1930, đã làm sự sụp đổ dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Nó được đặc trưng bởi sự lây lan sang tất cả các nước trên thế giới, tốc độ cao mà

nó xảy ra, khác nhau cường độ theo thời gian, cũng như trên các thành phần khác

nhau hoặc các vùng khác nhau (Milesi-Ferretti và Tille, 2010). Cuộc khủng hoảng

tài chính toàn cầu dẫn đến sự sụp đổ của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên

toàn thế giới. Sau khi đạt kỷ lục lịch sử mới vào năm 2007, 2 nghìn tỷ đô la sau 4

năm tăng trưởng liên tục, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giảm 14% trong năm 2008

(UNCTAD, 2009). Năm 2008, các nước đang phát triển tiếp tục thu hút FDI, cao

hơn 17% so với năm 2007. FDI tiếp tục giảm, mức giảm 30% trên toàn cầu trong

năm 2009 so với năm 2008, trong khi các nước phát triển ghi nhận mức giảm

44%. Mặc dù trong năm trước 2008, FDI vào các nước đang phát triển dường như

không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng toàn cầu, năm 2009, danh mục này giảm

24% (UNCTAD 2010: 3). Tất cả các thành phần FDI đã bị ảnh hưởng bất lợi bởi

cuộc khủng hoảng.

FDI toàn cầu giảm kể từ năm 2008 là kết quả của nhiều yếu tố, bao gồm khủng

hoảng tài chính toàn cầu làm giảm nhu cầu đầu tư trên toàn cầu; giảm nguồn vốn có

khả năng đầu tư, … (UNCTAD, 2009,2010).

Hui và shangYJin (2009) kiểm tra xem liệu dòng vốn có ảnh hưởng đến mức độ

tín dụng hay không trong giai đoạn khủng hoảng mà các công ty sản xuất của một quốc

gia phải đối mặt trong cuộc khủng hoảng. Nghiên cứu 3823 công ty ở 24 quốc gia mới

nổi, họ nhận thấy rằng sự sụt giảm giá cổ phiếu nhiều hơn đặc biệt nghiêm trọng đối

với các công ty phụ thuộc nhiều hơn vào tài chính bên ngoài. Khối lượng dòng vốn

không có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ nghiêm trọng của thiếu hụt tín dụng.

Thangavelu và cộng sự (2009) nghiên cứu xu hướng dòng vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) vào các nền kinh tế Đông Á và Đông Nam Á sau cuộc khủng

hoảng châu Á. Nhóm tác giả chỉ ra rằng các nền kinh tế Đông Nam Á và Đông Á

10

đang phục hồi từ cuộc khủng hoảng châu Á với tăng trưởng sản lượng mạnh mẽ

được thúc đẩy chủ yếu bởi tăng trưởng xuất khẩu.

Họ cũng gợi ý rằng có thể đã có những thay đổi về cơ cấu trong các nền kinh tế

khu vực có thể dẫn đến sự dịch chuyển giảm tốc độ tăng trưởng sản lượng của các

nền kinh tế châu Á trong thời kỳ hậu khủng hoảng. Điều này đặt ra vấn đề về tính

bền vững của tăng trưởng sản lượng của họ trong thời kỳ hậu khủng hoảng.

Nghiên cứu của Meltem Ucal và cộng sự

Nhóm tác giả đã sử dụng mô hình tham số và phi tham số trong việc đánh giá

mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và khủng hoảng tài chính vào các nước đang

phát triển. Tác giả sử dụng dữ liệu sẵn có của 148 quốc gia từ ngân hàng thế giới,

phân loại khủng hoảng thành 2 nhóm trước khủng hoảng và sau khủng hoảng; sử

dụng mô hình:

Trong đó: E (Y/X, T) là giá trị kỳ vọng của biến phụ thuộc Y cho trước X, T là

các véc tơ biến giải thích;

XTβ + m(T): Giá trị liên kết với biến phụ thuộc Y thông qua hàm số G

Mô hình tác giả sử dụng dùng để kiểm chứng tác động tích cực và tiêu cực của

khủng hoảng tài chính đến dòng vốn FDI. Kết quả kiểm định cho thấy rằng khủng

hoảng tài chính gây ra hiệu ứng suy thoái và có tác động đến dòng vốn FDI đặc biệt

là dòng vốn vào các nước đang phát triển [100].

Nghiên cứu của Maggie Chen và Laura Alfaro (2010)

Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã nghiên cứu phản ứng khác nhau của các

nước đối với khủng hoảng tài chính toàn cầu, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của

đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong việc xác định hiệu quả kinh tế vi mô. Tác

giả đã khám phá ba kênh riêng biệt qua đó FDI ảnh hưởng đến hoạt động của các

quốc gia, (i) liên kết sản xuất, (ii) liên kết tài chính, và (iii) mạng lưới đa quốc gia.

Tác giả đánh giá có hệ thống vai trò FDI trong việc xác định hiệu quả hoạt động của

các DN do khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra. Mô hình đánh giá hiệu quả mà

nhóm tác giả đưa ra như sau:

11

Bên cạnh đó, nhóm tác giả đã đánh giá ba giả thuyết cần thiết tác động đến FDI

giữa các quốc gia, các ngành và DN.

Thứ nhất, do liên kết sản xuất và tài chính giữa các công ty con và công ty mẹ,

các cơ sở thuộc sở hữu đa quốc gia có lợi thế hơn so với các công ty địa phương khi

tỷ lệ xảy ra khủng hoảng lớn ở các nước chủ nhà.

Giả thuyết này áp dụng cho tỷ lệ xảy ra khủng hoảng trong cả nhu cầu và điều

kiện tài chính. Khi nước sở tại giảm nhu cầu, các DN đa quốc gia sở hữu các cơ sở

ít bị ảnh hưởng hơn khi họ chia sẻ các liên kết sản xuất theo chiều dọc với trụ sở

chính của đất nước. Tương tự, khi hợp đồng cung ứng vốn của nước chủ nhà, các

công ty con dự kiến sẽ ít bị ảnh hưởng hơn vì mối liên hệ tài chính của họ với các

công ty mẹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng trong các cuộc khủng hoảng kinh tế,

các hoạt động của MNC có thể đóng vai trò như một mắt xích truyền những cú sốc

từ nước nhà sang nước sở tại.

Thứ hai, đánh giá vai trò của liên kết sản xuất và tài chính bằng cách khám phá

các thuộc tính của hoạt động MNC. Cả liên kết theo chiều ngang và liên kết sản

xuất đều một hiệu ứng tích cực lớn hơn khi các nước sở tại thể hiện phản ứng tốt

hơn với cuộc khủng hoảng. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng thay đổi

theo liên kết sản xuất giữa các cơ sở và trụ sở nước ngoài và mức độ hạn chế tài

chính. Các cơ sở đã chia sẻ các liên kết sản xuất theo ngành dọc với công ty mẹ và

các công ty đa quốc gia thể hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh. Các công ty đa

quốc gia tham gia vào các hoạt động có tài chính mạnh hơn những hạn chế cho thấy

lợi thế lớn hơn so với các DN địa phương.

Thứ ba, mạng lưới đa quốc gia lớn hơn sẽ ảnh hưởng đến liên kết sản xuất và tài

chính, và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của cơ sở trong thời kỳ khủng hoảng

[99].

Nghiên cứu của L. Poulsen và G. Hufbauer (2011)

Trong nghiên cứu này nhóm tác giả so sánh sự sụt giảm của FDI hiện tại và FDI

từ các cuộc khủng hoảng kinh tế. Sự sụt giảm này có thể do 3 nguyên nhân:

12

Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã dẫn đến hạn chế thanh khoản

đối với các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) trên toàn thế giới, vì khả năng tiếp cận

tín dụng đã thắt chặt và bảng cân đối kế toán của công ty đã xấu đi.

Thứ hai, mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và dòng vốn FDI trên thế giới có

sự chậm lại - đặc biệt là ở các nước phát triển, các tập đoàn đa quốc gia đã giảm đầu

tư ra nước ngoài.

Cuối cùng, cuộc khủng hoảng đã khiến các nhà quản lý thận trọng hơn trong

việc đưa ra các chính sách thu hút FDI, do đó có sự di chuyển từ các dự án có rủi ro

cao (chẳng hạn như cơ sở hạ tầng chính) sang tài sản an toàn hơn (ví dụ là trái phiếu

chính phủ).

Sự suy giảm FDI giai đoạn này lớn hơn vào đầu những năm 2000, do sự suy

giảm của việc đầu tư vào các khoản cổ phiếu. Thứ hai, dòng chảy thương mại đã

giảm nhiều hơn trong thời gian hiện tại so với các cuộc khủng hoảng toàn cầu trước

đó (Baldwin, 2010). Thứ ba, chính sách thắt chặt an ninh của các quốc gia. Thứ tư,

triển vọng đầu tư vào thị trường của các nước mới nổi chiếm khoảng ¼ dòng vốn

FDI thế giới. Thứ năm, sự lao dốc của thị trường chứng khoán ảnh hưởng trực tiếp

đến nguồn vốn FDI vào các nước.

Theo quan điểm của các tác giả, phạm vi và thời gian của suy thoái FDI phụ

thuộc chủ yếu vào cách chính phủ của các quốc gia giải quyết những rủi ro kinh tế

vĩ mô cơ bản để hòa nhập cùng với nền kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó là sự nỗ lực

của các Chính phủ trong việc cải cách về kinh tế, chính trị, các chính sách và môi

trường để thu hút FDI.

Nghiên cứu của Adina Dorneana và cộng sự (2012)

Nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu “Tác động của khủng hoảng tài chính toàn

cầu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước Trung và Đông Âu” để xem xét

mối quan hệ giữa khủng hoảng tài chính và FDI giữa các quốc gia thông qua mô

hình hồi quy và phương pháp dữ liệu bảng.

Nhóm tác giả đã sử dụng mô hình

Để mô tả tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đối với FDI của các quốc gia.

Kết quả phân tích cho thấy, tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ

13

thu hút FDI và biến giả trong mô hình nắm băt hiệu ứng khủng hoảng tài chính có

tác động đáng kể đến FDI vào các nước Trung và Đông Âu. Kết quả phân tích cuả

mô hình cũng cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến mức

vốn FDI của các quốc gia [72].

Nghiên cứu của Ramona Jimborean1 & Anna Kelber

Nghiên cứu của các tác giả cung cấp những hiểu biết mới về sự phát triển và

động lực của đầu tư nước ngoài vào các nước Trung và Đông Âu qua các thời kỳ

1993- 2014 trong đó có tính đến ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm

2007 và 2011.

Tác giả tiến hành nghiên cứu sự kiện về động lực FDI xung quanh

FDIi; t: là tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của dòng vốn FDI ròng vào quốc gia i tại

thời điểm t

Crisisi; tþk: Khủng hoảng i; t þ k liên quan đến các cuộc khủng hoảng năm 2007

và 2011

FDI được coi là một nhóm tổng hợp các nguồn vốn, bí quyết và công nghệ, do

đó tác động của nó đối với tăng trưởng dự kiến sẽ rất đa dạng và khác nhau rất

nhiều giữa các nước có nền công nghệ tiên tiến và đang phát triển.

Tác động cuối cùng của FDI đối với tăng trưởng sản lượng ở nền kinh tế tiếp

nhận phụ thuộc về phạm vi lan tỏa hiệu quả đến các DN trong nước, mà theo đó

FDI dẫn đến tăng lợi nhuận trong sản xuất trong nước và tăng giá trị gia tăng nội

dung của sản xuất liên quan đến FDI [108].

Ở trong nước, sau khủng hoảng có rất nhiều công trình nghiên cứu về FDI,

trong đó điển hình là cuốn sách “FDI ở Việt Nam: thực trạng, hiệu quả, và hướng điều chỉnh chính sách” (Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2015) [4]. Đây là một công trình

nghiên cứu hệ thống và bài bản về FDI vào Việt Nam. Tác giả đã phân tích cơ sở lý

luận và thực tiễn của FDI. Đặc biệt trong cuốn sách này, tác giả Nguyễn Thị Tuệ

Anh tập trung nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng chính sách FDI của Việt Nam

giai đoạn 1988-2013, trong đó tác giả đề cập đến chính sách thu hút FDI của Việt

Nam; đề cập không chỉ những mặt tích cực của chính sách, mà quan trọng hơn còn

14

chỉ ra được những mặt còn tồn tại hạn chế của chính sách FDI của Việt Nam như

môi trường đầu tư, chính sách thu hút đầu tư, các thủ tục pháp lý.... Từ đó, tác giả

đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chính sách FDI của Việt Nam

trong thời gian tới.

Như vậy, có thể thấy rằng qua cuộc khủng hoảng tài chính dòng vốn FDI của các

nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển vẫn được duy trì nhưng tốc độ có xu

hướng giảm xuống. Các công trình nghiên cứu và xem xét, đánh giá bằng các mô

hình hồi quy về mối quan hệ giữa khủng hoảng tài chính và FDI tới các quốc gia.

1.2. Các nghiên cứu về FDI Nhật Bản ra nước ngoài sau khủng hoảng tài chính

toàn cầu năm 2008

Trong những năm 90, nền kinh tế Nhật Bản đã giảm tốc độ tăng trưởng và phải

đối mặt với tình trạng cơ cấu nghiêm trọng các vấn đề đặc trưng bởi cơ cấu chi phí

cao đã cản trở khả năng cạnh tranh của quốc gia. Các lĩnh vực truyền thống được

bảo vệ, chẳng hạn như nông nghiệp, phân phối và tài chính, bắt đầu trở thành gánh

nặng cho nền kinh tế. Điều này được phản ánh trong thực phẩm cao, nhà ở, năng

lượng và giá cả giao thông, khiến Nhật Bản trở thành một trong những quốc gia có

chi phí sinh hoạt cao nhất giữa các quốc gia công nghiệp hóa.

Trong số các yếu tố giải thích sự gia tăng dòng chảy của các quỹ đầu tư Nhật

Bản là đồng yên tăng giá kể từ giữa những năm tám mươi, chi phí sản xuất cao mà

Nhật Bản phải đối mặt ở thị trường nội địa đã khiến họ tìm kiếm các địa điểm có chi

phí thấp hơn (Saxon-House & Stern 2004; Okina, et al, 2001; Bailey 2003), mở cửa

đầu tư ra nước ngoài là chế độ ở Nhật Bản vào cuối những năm 90. Cùng với sự

phát triển của công nghệ mới điều đó cho phép các công ty phân mảnh quy trình sản

xuất của họ ở các địa điểm khác nhau. Ngoài ra đây là những xích mích thương mại

của Nhật Bản do thặng dư thương mại cao, đặc biệt là với Hoa Kỳ, đã kích thích các

tập đoàn đa quốc gia Nhật Bản chuyển giao sản xuất của họ để tránh nhữngcác rào

cản thương mại trong những năm tám mươi (Koido 2003).

Kinh tế Nhật Bản sau 2 thập kỷ tăng trưởng trì trệ, đặc biệt càng chậm phát triển

hơn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Giải pháp duy nhất để vượt qua giai

đoạn trì trệ kéo dài này là thực hiện tái cấu trúc cơ bản nền kinh tế. Quá trình tái cấu

trúc sản xuất của Nhật Bản cũng đồng thời thực hiện theo hai quá trình: một mặt

15

nhanh chóng ứng dụng những thành tựu mới của KH - CN vào sản xuất - kinh

doanh, mặt khác nhanh chóng di chuyển những qui trình công nghệ cũ đã lạc hậu

tương đối so với điều kiện trong nước ra nước ngoài nhằm tiếp tục khai thác chúng.

Do đó, thúc đẩy đầu tư tư nhân của Nhật Bản ra nước ngoài, đẩy mạnh xuất

khẩu các công nghệ nền tảng quan trọng và tăng cường ký kết các Hiệp định thương

mại tự do trong khu vực là những điểm then chốt mới trong chiến lược tăng trưởng

mới gồm 21 điểm của Thủ tướng Naoto Kan.

Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, hoạt động đầu tư nước ngoài của Nhật

Bản đối mặt với sự cạnh tranh đầu tư gay gắt đến từ không những các nước phát

triển, mà cả các nước mới nổi như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Brazin, Trung Đông…

Để đối phó với sức ép cạnh tranh này, các công ty Nhật Bản phải nâng cấp hoạt

động đầu tư ra nước ngoài.

Về cơ cấu địa lý, nếu như trước đây, FDI của Nhật Bản tập trung chủ yếu vào 3 khu

vực trên thế giới là Bắc Mỹ, châu Âu, và châu Á. Thì kể từ sau khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2008, FDI của Nhật Bản đã có sự chuyển hướng: giảm FDI vào Bắc

Mỹ và Tây Âu, và tăng mạnh FDI vào các thị trường mới nổi châu Á. Ngô Thị Lan

Anh (2013) [3] làm rõ vai trò kinh tế, chính trị của Nhật Bản ở Châu Á sau khủng

hoảng tài chính toàn cầu 2008. Phân tích vai trò của Nhật Bản trong chiến lược

quay lại Châu Á của Mỹ sau khủng hoảng, cho thấy: Nhật Bản với tư cách đồng

minh chiến lược của Mỹ ở Châu Á, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Mỹ, kiềm chế

ảnh hưởng của Trung Quốc ở Châu Á...

Cùng với xu hướng hội nhập khu vực Đông Nam Á ngày càng sâu rộng đến từ

việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN năm 2015 và việc thực hiện ngày càng

đầy đủ AFTA của các nước… càng thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển hướng đầu tư của

Nhật Bản sang các nước ASEAN. Các công ty Nhật Bản muốn tập trung vào các

phân đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị của các sản phẩm toàn cầu,

chuyển giao các công đoạn có giá trị thấp sang các quốc gia đang phát triển như

khối ASEAN.

Nghiên cứu của houdhury và cộng sự (2009)

Nhóm tác giả nghiên cứu đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Ấn Độ,

kết quả khảo sát cho thấy Các công ty Nhật Bản được định hướng lâu dài với cam

16

kết mạnh mẽ về 'chất lượng' và 'khách hàng' và họ cố gắng thực hiện cam kết này

bằng cách đưa phong cách quản lý Nhật Bản vào hoạt động của họ. Trong số các

yếu tố khác, Các công ty Nhật Bản tìm kiếm sự tin tưởng ở đối tác của họ và từng

công ty có liên doanh ở Ấn Độ đã dành một thời gian dài để quyết định về quan hệ

đối tác. Sự tham gia của Nhật Bản vào FDI ở Ấn Độ được điều chỉnh bởi chính sách

đầu tư nước ngoài của Ấn Độ như cũng như chính sách công nghiệp của nó. Khi Ấn

Độ nổi lên như một thị trường có tiềm năng phát triển mạnh mẽ, một số công ty

Nhật Bản đã chủ động đầu tư vào Ấn Độ. Các chính sách của chính phủ trung ương

và tiểu bang đã khuyến khích đủ để biến Ấn Độ trở thành sự lựa chọn đầu tư đối với

họ. Các công ty Nhật Bản rất quan tâm đến chất lượng sản phẩm của họ và khách

hàng. Họ tin rằng những mối quan tâm này được đưa vào thực tiễn quản lý của

họ. Do đó, có một ảnh hưởng của các tư tưởng quản lý của Nhật Bản không chỉ

trong các công ty con mà còn trong các công ty liên doanh. Tất cả các đơn vị sản

xuất được bố trí theo cách tương tự như các đối tác Nhật Bản của họ. Các vòng tròn

chất lượng, các đề án gợi ý, một hệ thống bình đẳng và ra quyết định đồng thuận là

tất cả các hoạt động của Ấn Độ tại các công ty đã được đến thăm. Các nhân viên Ấn

Độ tất cả các công ty đều trải qua quá trình đào tạo thường xuyên để giúp họ thấm

nhuần cách làm của người Nhật. Do đó, các đối tác Nhật Bản thích sự tham gia đầy

đủ của công nhân ở cấp nhà máy. Họ cũng yêu cầu các nhà quản lý Ấn Độ để mang

lại cảm giác cam kết mạnh mẽ cho nơi làm việc [11].

Ivan Deseatnicov (2011), xây dựng mô hình ước lượng dựa trên mô hình OLI

và các mô hình lý thuyết cân bằng tổng thể với bảng dữ liệu trong giai đoạn từ 1995

đến 2009 của dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của Nhật đến Châu Âu và Châu Á, cho

rằng ngoài tiềm năng thị trường, tiền lương, nguồn lực lao động có tay nghề cao, chi

phí đầu tư, sự cởi mở và vị trí, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tác động của tỷ giá

hối đoái và các yếu tố chính trị đến dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản.

Phát hiện này có ý nghĩa quan trọng các quốc gia cần quan tâm để định hướng chính

sách thu hút đầu tư từ Nhật.

Nghiên cứu của Falck Reyes (2012)

Tác giả nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Mexico sau

cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng do các chính sách

17

thương mại tự do của Mexico đã tạo điều kiện thuận lợi để các tập đoàn đa quốc gia

của Nhật Bản đầu tư vào đây. Lý thuyết kinh tế truyền thống đã chỉ ra rằng, sự di

chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác do chênh lệch về lợi nhuận thu được

trong quá trình sản xuất kinh doanh. Khoảng cách địa lý đóng vai trò quan trọng,

cùng với quy mô mạng lưới sản xuất, môi trường đầu tư, trình độ của lực lượng lao

động, khả năng tiếp thu công nghệ và các chi phí của các yếu tố sản xuất (Helpman

2006; Kimura & Ando 2005; Jones, et. al. Năm 2005; Navareti & Venables 2004).

Nghiên cứu của Lê Hoàng Anh (2015) [2] về chuyển hướng đầu tư của DN

Nhật Bản tại các nước ASEAN từ sau khủng hoảng tài chính Châu á đến nay. Tác

giả đã đề cập đến bối cảnh và các yếu tố ảnh hưởng đến sự quan tâm của các DN

Nhật Bản đến các nước ASEAN. Phân tích xu hướng đầu tư của DN Nhật Bản tại

các nước ASEAN từ 2008 đến nay, qua xem xét thực tiễn tại Thái Lan, Indonesia,

Việt Nam, Philippines và Malaysia. Từ đó tác giả đã đưa ra những đánh giá về quá

trình chuyển hướng và những tác động đối với Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy rằng các tập đoàn đa quốc gia của Nhật Bản khi tiến hành

đầu tư ra nước ngoài họ đã tìm hiểu rất kỹ những lợi thế của nước họ sẽ đầu tư về

yếu tố địa lý, đội ngũ lao động, các chính sách và môi trường đầu tư.

1.3. Các nghiên cứu FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài

chính toàn cầu năm 2008

1.3.1. Các nghiên cứu nước ngoài

Chủ đề FDI của Nhật vào Việt Nam giai đoạn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu

2008 đã được phản ánh một cách gián tiếp trong nhiều nghiên cứu nước ngoài khi nói

về FDI nói chung trên thế giới và ở Đông Nam Á. UNSTAD là tổ chức uy tín trên thế

giới nghiên cứu về đầu tư nước ngoài thông qua Báo cáo đầu tư (World Investment

Report) và Đánh giá chính sách đầu tư hàng năm (Invesment Policies Review) cho

các nền kinh tế được lựa chọn. Trong các báo cáo này thường có một phần nhỏ phân

tích về FDI của Nhật vào Việt Nam từng năm, kể cả từ 2009 đến nay.

Tổ chức JICA (Nhật Bản) thường xuyên có những nghiên cứu về môi trường đầu

tư ở Việt Nam cũng như chiến lược xúc tiến đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam.

Cơ quan Xúc tiến thương mại và đầu tư Nhật bản (JETRO) có những nghiên cứu

thường niên về hoạt động của các DN FDI của Nhật tại Việt Nam. Những nghiên cứu

18

này không những đánh giá thực trạng mà còn có những dự báo về xu hướng, và triển

vọng hoạt động của các DN FDI của Nhật tại Việt Nam.

Đáng chú ý là có một số nghiên cứu của các chuyên gia nước ngoài về FDI của

Nhật tại Việt Nam. Giáo sư Trần Văn Thọ, giáo sư tại trường đại học Waseda,

Tokyo, thành viên của Ủy ban cố vấn kinh tế của Chính phủ Nhật, đã có nhiều công

trình nghiên cứu xuất sắc về quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản nói chung cũng

như FDI của Nhật tại Viêt Nam nói riêng. Trong bài viết “Giai đoạn mới của quan

hệ Việt Nhật: chuyển từ ODA sang FDI”, đăng trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn số

ra ngày 18/9/2003, GS Trần Văn Thọ đã bàn luận về vấn đề: liệu quan hệ hai nước

có chuyển dịch được trọng tâm từ ODA sang FDI hay không (Trần văn Thọ, 2003).

Đây là vấn đề mà chính phủ Việt Nam rất quan tâm. Cho tới 2003, Nhật vẫn giữ vị

trí chủ chốt trong những nước cung cấp ODA cho Việt Nam, còn FDI của Nhật tại

Việt Nam còn ít. Nếu Việt Nam có thể thu hút FDI mạnh mẽ từ Nhật thì kinh tế

Việt Nam mới có thể có sự bứt phá. Bởi vì đối với Việt Nam, một nước đang đặt

vấn đề công nghiệp hoá làm chiến lược hàng đầu, FDI của Nhật có một ý nghĩa đặc

biệt quan trọng. Thứ nhất, Nhật đã xác lập được thế mạnh trong ngành công nghiệp,

hàng công nghiệp của Nhật đã và đang đi đầu thế giới. FDI của Nhật do đó có tác

dụng đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá tại những nước họ đầu tư nhiều. Thứ hai,

Nhật có đặc tính là trước khi quyết định các dự án FDI, họ điều tra và tính toán kỹ

nhưng khi đã quyết định và được cấp giấy phép, họ triển khai nhanh và đặt kế hoạch

bén rễ lâu dài tại nơi họ đầu tư. Thứ ba, hầu hết các công ty đa quốc gia của Nhật

đều có mạng lưới tiếp thị và thu tập thông tin rộng khắp thế giới. Các công ty chế

tạo lại có quan hệ hợp tác có hiệu quả với những công ty thuơng mại tổng hợp

(general trading companies) như Mitsui, Mitsubishi, C. Ito, Marubeni, v.v.., những

văn phòng đại diện của Nhật có năng lực phát hiện lợi thế so sánh của các nước,

năng lực huy động vốn, tiếp thị, thu tập thông tin và tổ chức sản xuất, lưu thông

phân phối qui mô toàn cầu. Do đó, FDI từ Nhật có khuynh huớng tăng sức cạnh

tranh quốc tế, tăng năng lực hội nhập của nước sở tại. Theo giáo sư Thọ, nếu như

Việt Nam có thể thu hút mạnh mẽ FDI của Nhật trong thời gian tới thì kinh tế Việt

Nam mới có thể có phát triển đột phá.

19

Ông Shojiro Tokugana, trong sách “Đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản và sự

phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ở châu Á” (Shojiro Tokugana, 1996) đã phân tích sự

chuyển hướng đầu tư của Nhật sang châu Á từ đầu những năm 1990, do châu Á

đang nổi lên như một khu vực phát triển năng động và giàu tiềm năng, do sự phụ

thuộc của các nước châu Á vào Nhật với tư cách là nhà cung cấp lớn về tài chính,

công nghệ, và Nhật đứng ở trung tâm của mạng sản xuất châu Á... Trong châu Á,

Nhật chủ yếu đầu tư vào Trung Quốc do những lợi thế của nước này về thị trường

tiêu thụ lớn, chi phí nhân công giá rẻ, môi trường đầu tư khá tốt.

Ông Hirotaka Yasuzumi, Trưởng đại diện Tổ chức JETRO tại TP HCM, trong

bài trả lời phỏng vấn của phóng viên báo “Tin Mới” ngày 17/09/2015 cho rằng: Việt

Nam đang ngày càng hấp dẫn DN FDI Nhật Bản (Hirotaka Yasuzumi, 2015). Điều

đó là do hai nhân tố, thứ nhất nếu Hiệp định TPP được ký kết, các DN xuất khẩu

Nhật sẽ đầu tư vào Việt Nam mạnh hơn, nhằm sử dụng lợi thế là thuế xuất khẩu

ngay lập tức bằng 0, nhất là đối với các ngành dệt da, may mặc; thứ hai là qui mô

thực tế của thị trường Việt Nam ngày càng tăng lên do thu nhập đầu người của Việt

Nam tăng lên làm cho sức mua của thị trường Việt Nam ngày càng lớn. Hơn thế

nữa, khi thu nhập của người dân Việt Nam tăng lên, các DN Nhật chuyển hướng

đầu tư vào những lĩnh vực cao hơn như công nghiệp bán lẻ, thậm chí cả công

nghiệp chăm sóc sắc đẹp ...

Ông Atsusuke Kawada, Trưởng Văn phòng đại diện JETRO tại Hà Nội, cho

biết, với xu hướng già hóa dân số tại Nhật Bản hiện nay, những năm tới đây, sẽ có

nhiều DN nhỏ và vừa Nhật Bản lựa chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư (Atsusuke

Kawada, 2015). Ông cho rằng Việt Nam có nhiều điểm hấp dẫn đầu tư như: chi phí

nhân công tại Việt Nam rẻ, tình hình chính trị - xã hội khá ổn định, đa số các DN

Nhật kinh doanh ở Việt nam có lãi, môi trường sống cho nhân viên thường trú tốt…

Tuy nhiên, khi đánh giá mức độ rủi ro đầu tư tại Việt Nam, ông cho biết, có tới

63,3% DN Nhật cho rằng rủi ro lớn nhất là hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vận

hành thiếu minh bạch; 61,1% DN gặp rủi ro với thủ tục hành chính, cấp phép phức

tạp; 53,9% DN gặp rủi ro với cơ chế, thủ tục thuế phức tạp.

20

1.3.2. Các nghiên cứu trong nước

Ở trong nước, giới nghiên cứu kinh tế nước ta đã bắt đầu quan tâm đến chủ đề

FDI của Nhật vào Việt Nam, tuy nhiên vẫn còn ít công trình nghiên cứu sâu về vấn

đề FDI của Nhật vào Việt Nam giai đoạn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.

Luận án tiến sĩ “Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản ở

Việt Nam” của tác giả Đinh Trung Thành (2009) [50] đã làm rõ đặc điểm hình thành

và đầu tư sản xuất kinh doanh của TNCs Nhật Bản, sự chuyển hướng chiến lược

hướng về Châu Á, đặc thù trong hoạt động đầu tư của TNCs Nhật Bản so với đầu tư

của TNCs các nền kinh tế khác. Đặc biệt, Luận án phân tích đặc thù đầu tư vào Việt

Nam, chỉ ra sự khác biệt trong FDI của TNCs Nhật Bản ở Việt Nam thể hiện ở tỷ lệ

vốn thực hiện cao,vai trò hỗ trợ đắc lực của nguồn vốn ODA, của quan hệ thương

mại và sự kết hợp đồng thời sản xuất cho thị trường nội địa với sản xuất cho nước

thứ ba, tích cực tạo dựng hình ảnh của mình thông qua việc tham gia các hoạt động

văn hóa, khoa học, giáo dục. Đưa ra những dự báo khoa học về “làn sóng đầu tư thứ

hai” của TNCs Nhật Bản vào Việt Nam trên cơ sở đánh giá sự chuyển hướng FDI

của TNCs Nhật Bản và những tiến triển mới trong quan hệ hợp tác đầu tư thương

mại Việt Nam - Nhật Bản. Quá trình TNCs Nhật Bản tăng cường FDI ra nước ngoài

từ những năm 1980 thế kỷ XX chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, đối với Việt Nam

TNCs Nhật Bản gia tăng đầu tư do đổi mới, mở cửa và hội nhập nền kinh tế của

Việt Nam; Vị trí chiến lược của Việt Nam ở Đông Nam Á trong quá trình điều

chỉnh chiến lược “hướng về Châu Á của TNCs Nhật Bản”; Việt Nam là một nền

kinh tế lớn còn chưa được khai thác trong ASEAN và có vị thế chính trị và địa kinh

tế quan trọng cầu nối Đông Nam Á với Đông Bắc Á.

Trong luận án tiến sĩ “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam”

của Phan Văn Tâm (2011) [49], tác giả đã trình bày tổng quan thực trạng FDI vào

Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO, các tác động hai chiều của FDI đến phát

triển kinh tế Việt Nam. Sau khi gia nhập WTO vốn FDI đăng ký đã có sự tăng

trưởng đột biến và đạt mức kỷ lục kể từ năm 1987. Năm 2009, do tác động của cuộc

khủng hoảng kinh tế thế giới FDI vào Việt Nam có sự suy giảm đáng kể. Đối với

Việt Nam, FDI đã góp phần tăng trưởng GDP và tăng cường nguồn vốn đầu tư cho

nền kinh tế, tạo việc làm nâng cao thu nhập và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực.

21

Đồng thời FDI góp phần chuyển giao công nghệ, bổ sung ngoại hối, đẩy mạnh xuất

khẩu và đóng góp vào nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó luận án cũng chỉ ra những

tác động tiêu cực của FDI đối với Việt Nam như: FDI tạo ra áp lực cạnh tranh lớn lên

các DN trong nước; FDI dẫn đến nguy cơ nhập khẩu công nghệ lạc hậu và ô nhiễm

môi trường. Tác giả đã đánh giá khái quát tình hình FDI của Nhật Bản trên thế giới,

bắt đầu tư những năm 50 Nhật Bản tiến hành đầu tư ra nước ngoài, trải qua nhiều giai

đoạn phát triển của nền kinh tế Nhật Bản và thế giới dòng FDI Nhật Bản ra nước

ngoài cũng có những biến động đáng kể theo từng thời kỳ khác nhau. Trong 10 năm

đầu thế kỷ XXI sự bùng nổ FDI Nhật Bản vào năm 2008 đạt 130,8 tỷ USD trên toàn

thế giới. Luận án đi sâu phân tích xu hướng, cơ cấu FDI của Nhật Bản tại Việt Nam

giai đoạn 1989 đến 2009 phân theo địa phương vùng lãnh thổ và phân theo lĩnh vực

đầu tư. Tác giả áp dụng phân tích thực nghiệm mô hình lực hấp dẫn trong thu hút FDI

của Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2007-2009 đã đóng góp về mặt phương pháp

định lượng để phân tích các hiện thực khách quan. Có thể thấy rằng dòng FDI Nhật

Bản vào Việt Nam vận động theo những xu hướng nhất định, chịu tác động của nhiều

yếu tố xuất phát từ nền kinh tế Việt Nam, Nhật Bản và thế giới.

Vũ Văn Hà (2013), trong bài viết “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản

vào Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu” [9] đã phân tích thực trạng FDI

của Nhật vào Việt Nam giai đoạn 2011-2013. Trong vòng 3 năm (2011-2013), đầu

tư của Nhật Bản vào Việt Nam liên tục tăng nhanh. Tác giả đã nêu lên những ưu thế

hấp dẫn của Việt Nam đối với FDI của Nhật: môi trường chính trị-xã hội ổn định so

với các nước trong khu vực; Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, trẻ, chăm chỉ,

cần cù; với số dân đông thứ 2 trong ASEAN (chỉ sau In-đô-nê-xi-a) và thu nhập đầu

người đang tăng lên, Việt Nam được đánh giá là có một thị trường nội địa có tiềm

năng lớn; môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng được cải thiện về mọi mặt (về

môi trường pháp lý, cơ sở hạ tầng, các chính sách thu hút cũng như sử dụng FDI).

Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra một số vấn đề tồn tại gây khó khăn trong việc thu

hút FDI của Nhật vào Việt Nam giai đoạn 2011-2013: kinh tế vĩ mô còn nhiều bất

ổn với những khó khăn kinh tế đặc biệt ở Việt Nam những năm 2011-2012 và việc

VNĐ giảm giá, sự thiếu hụt về công nghiệp hỗ trợ cũng là một trở ngại lớn để chinh

phục các nhà đầu tư Nhật; hệ thống pháp luật của Việt Nam đang trong quá trình

22

hoàn thiện, vì thế nên thường xuyên sửa đổi, thiếu tính thống nhất và mức độ thực

thi còn thấp. Điều quan trọng ở đây là tác giả đã phân tích sự chuyển hướng đầu tư

của các DN Nhật Bản vào Việt Nam trong giai đoạn 2011-2013. Lúc đầu, xu hướng

đầu tư chính của DN Nhật Bản vẫn là mang nguyên liệu thô từ ngoài đến Việt Nam

và xây dựng nhà máy lớn để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Càng về sau này, xu

hướng chính sẽ là xây dựng cửa hàng bán lẻ nhằm đưa các loại sản phẩm được sản

xuất tại Nhật hoặc ở các nước khác đến tiêu thụ tại thị trường Việt Nam.

Nghiên cứu của Tạ Lợi và Phan Thúy Thảo (2018) [52] đã thực hiện ước lượng

và kiểm định các nhân tố hấp dẫn của Việt Nam ảnh hưởng đến dòng vốn FDI của

Nhật Bản giai đoạn 1995 - 2016. Với dữ liệu chuỗi thời gian sau khi chạy mô hình

ARDL, nghiên cứu đã chỉ ra rằng những tác động của yếu tố này ảnh hưởng như thế

nào đến khả năng hấp thụ thể hiện thông qua lượng FDI của Nhật Bản đăng ký vào

Việt Nam. Mô hình có hệ số xác định bội điều chỉnh là 0.8972 cho thấy các nhân tố

giải thích được 89,72% sự thay đổi của lượng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam. Kết

quả nghiên cứu cho thấy quy mô thị trường càng lớn, chi phí lao động rẻ, chi phí

vốn, xuất khẩu ảnh hưởng thuận chiều đến dòng vốn FDI, tỷ giá hối đoái có ảnh

hưởng ngược chiều.

Vũ Anh Dũng và cộng sự (2019) [112] có bài viết “Factors affecting the FDI

attraction associated with R&D from Japanese companies to Vietnam” đã hệ thống

hóa các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI gắn với nghiên cứu và phát triển

(R&D) của các công ty Nhật Bản vào Việt Nam, đề xuất mô hình nghiên cứu các yếu

tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI gắn với R&D của các công ty Nhật Bản vào Việt

Nam... bao gồm các nhóm yếu tố từ phía Việt Nam: năng lực đổi mới quốc gia, kinh

tế - xã hội, khuôn khổ thể chế, khuyến khích; các nhóm yếu tố từ các MNC Nhật Bản:

khả năng tuyển dụng, năng lực của công ty con Việt Nam, đặc điểm của dự án R&D.

Mô hình này sẽ là nền tảng để đánh giá định lượng thêm các yếu tố ảnh hưởng đến

việc thu hút FDI liên quan đến R&D của các MNC Nhật Bản vào Việt Nam, đồng

thời là cơ sở để đề xuất các hàm ý chính sách trong lĩnh vực này.

Nghiên cứu của Đỗ Thu Trang (2020) [62] qua nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật

Bản về giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hút đầu tư FDI vào phát

triển công nghiệp, tác giả đã rút ra một số bài học cho tỉnh Thái Nguyên như sau:

23

Một là, phát huy tính chủ động và đề cao hút quan điểm đối thoại của hệ thống

tổ chức nhằm đảm bảo lợi ích của các chủ thể trong thu FDI vào phát triển công

nghiệp trên địa bàn tỉnh. Đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế giữa chủ sử dụng

lao động và người lao động: Ở Nhật Bản khi người chủ lao động và người lao động

có mâu thuẫn lợi ích với nhau, việc xử lý những mâu thuẫn này thường chỉ diễn ra ở

phạm vi DN với sự tham gia của công đoàn DN.

Hai là, đổi mới phương thức hoạt động để phát huy vai trò của tổ chức công

đoàn cơ sở. Cần tăng cường tiếng nói cho các tổ chức công đoàn cấp DN, coi trọng

vị trí và vai trò của tổ chức công đoàn các cấp. Tổ chức công đoàn phải là tổ chức

thường xuyên quan sát và hiểu rõ tình hình thực tế của mối quan hệ giữa người chủ

DN và người lao động để tìm giải pháp phù hợp hài hòa lợi ích cho đôi bên.

Ba là, tập trung giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các chủ thể khi thu hồi đất là

điểm nóng nhất của quan hệ lợi ích kinh tế trong thực hiện FDI để phát triển công

nghiệp tại địa bàn cấp tỉnh.

1.4. Định hướng nghiên cứu của luận án

1.4.1. Đánh giá các nghiên cứu trước chỉ ra khoảng trống nghiên cứu

Đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu về FDI của Nhật Bản tại

Việt Nam giai đoạn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhìn chung các công trình

trên đã có những cách tiếp cận khác nhau, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp về vấn việc

thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam sau năm 2008. Đó thực sự là những tài liệu

có giá trị. Những nghiên cứu này đã đạt được những kết quả nhất định như: Thứ

nhất, các công trình này đều hệ thống hóa bài bản cơ sở lý luận của FDI, xây dựng

khung lý luận rõ ràng cho sự phân tích thực tiễn FDI. Thứ hai, đa số các học giả đều

phân tích sâu sắc thực trạng thu hút FDI của Nhật tại Việt Nam từ những năm 1990

đến nay: cả thành công và hạn chế, cũng như nguyên nhân.

Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu trên đây vẫn còn thiếu vắng các vấn

đề như: Thứ nhất, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về thu hút

FDI của Nhật vào Việt Nam trong giai đoạn cập nhật từ 2009 đến nay với những xu

hướng mới và đặc điểm mới; Thứ hai, chưa có công trình nào phân tích các nhân tố

ảnh hưởng tới quá trình thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam trong bối sau khủng

hoảng tài chính toàn cầu năm 2008; Thứ ba, các công trình trước đây chủ yếu vẫn

24

đề cập đến các mặt tích cực FDI của Nhật Bản tại Việt Nam, mà ít công trình đề cập

tới vấn đề còn tồn tại trong thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam sau 2008 đến

nay; Thứ tư, có ít công trình đề cập đến các giải pháp thu hút mạnh mẽ và hiệu quả

hơn FDI của Nhật Bản trong giai đoạn tới, với bối cảnh đại dịch Covid - 19 và

CMCN 4.0. Sự thiếu hụt của các công trình nghiên cứu chính là những khoảng

trống nghiên cứu mà Luận án này sẽ cố gắng làm sáng tỏ.

1.4.2. Định hướng tiếp tục nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở những khoảng trống từ các nghiên cứu trước và mục tiêu nghiên

cứu, luận án tập trung làm rõ một số vấn đề sau:

Một là, hệ thống hóa cơ sở lý luận về thu hút FDI vào một quốc gia.

Hai là, phân tích làm rõ thực trạng thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ sau

khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay.

Ba là, phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình thu hút FDI Nhật Bản vào

Việt Nam trong bối sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.

Bốn là, từ quá trình phân tích thực trạng thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ

sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay tác giả đánh giá những thành

tựu, hạn chế và đưa ra nguyên nhân của những hạn chế trong thu hút FDI của Nhật

Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay.

Năm là, đề xuất một số quan điểm, định hướng giải pháp tăng cường thu hút

hiệu quả hơn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong giai đoạn tới, với bối cảnh đại

dịch Covid - 19 và CMCN 4.0.

25

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

2.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

2.1.1. Khái niệm về FDI và thu hút FDI

Trên thực tế còn nhiều quan niệm khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), có

thể xem xét một số khái niệm FDI như sau:

Dunning (1970), một học giả nghiên cứu nổi tiếng nhất về FDI, sử dụng một

định nghĩa ngắn cho các công ty đa quốc gia (MNEs) là: “MNE là bất cứ công ty

thực hiện hoạt động sản xuất tại nhiều hơn một quốc gia”. Sau đó, Vernon (1971) đã

nhấn mạnh thêm vấn đề quy mô và cơ cấu tổ chức của các MNEs. Cụ thể, “Các tập

đoàn đa quốc gia là các công ty lớn tổ chức các hoạt động của họ ở nước ngoài

thông qua một bộ phận tổ chức tích hợp, được lan truyền quốc tế và việc đầu tư của

họ được dựa trên các sản phẩm và thị trường tiêu thụ” [51].

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, 1993): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là

hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với

một DN hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu

tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự DN” [87].

Thống nhất quan điểm về quyền quản lý DN FDI của IMF, Tổ chức Hợp tác

và Phát triển Kinh tế (OECD, 1996) cho rằng: “FDI phản ánh việc đạt được mục

tiêu về lợi ích lâu dài của một thực thể trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp -

direct investor) qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc

nước của nhà đầu tư (DN đầu tư trực tiếp – enterprise direct investor). Lợi ích lâu

dài là mối quan hệ giữa nhà đầu tư với DN đầu tư trực tiếp, trong đó nhà đầu tư

giành được sự ảnh hưởng quan trọng và có hiệu quả trong quản lý DN. FDI liên

quan đến giao dịch đầu tiên giữa hai thực thể và sau đó là giao dịch về vốn giữa họ

được liên kết chặt chẽ Trong đó, nhà đầu tư trực tiếp được hiểu là người nắm quyền

kiểm soát từ 10% trở lên vốn của một DN [106].

Theo luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam "Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư

nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến

hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật nhà nước (Mục 12 – Điều 3)”. FDI bao

giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của

26

FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế; và chủ đầu tư (pháp nhân,

thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.

Lý thuyết đã chỉ ra rằng FDI thường được hình thành và sinh ra từ sự tương

tác giữa lực lượng của nước chủ đầu tư và nước thu hút (ví dụ, Dunning, 1981,

1988; UNCTAD, 2006). Dòng vốn FDI sẽ chảy từ nước này sang nước khác do ảnh

hưởng của các yếu tố đẩy từ nước chủ đầu tư và yếu tố kéo của nước thu hút.

Từ các góc nhìn khác nhau về khái niệm FDI, có thể thây “FDI là hình thức đầu tư

do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt

Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở

nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Từ những khái niệm trên có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm 3 đặc

điểm chính: (i) là hoạt động đầu tư mang tính lâu dài; (ii) chủ thể đầu tư có thể là chính

phủ, các TNCs hoặc cá nhân từ nước ngoài; và (iii) nhà đầu tư tham gia trực tiếp quản

lý, điều hành hoạt động của DN (đây là điểm phân biệt FDI với đầu tư gián tiếp).

Từ những quan niệm khác nhau về FDI ở trên có thể thấy FDI có những đặc

điểm cơ bản sau:

- FDI là loại hình đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia điều

hành DN tiếp nhận vốn. Quyền điều hành phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà đầu

tư vào vốn pháp định. Nếu nhà đầu tư góp 100% vốn pháp định thì họ có toàn

quyền quyết định hoạt động kinh doanh của DN.

- FDI là loại hình đầu tư dài hạn. Do đó, FDI là một nguồn vốn dài hạn và tương

đối ổn định bổ sung cho đầu tư trong nước.

- So với các hình thức chu chuyển vốn quốc tế khác, FDI có thế mạnh riêng.

Trong khi ODA thường mang tính chính trị và chịu sự chi phối của Chính phủ hai

bên, hơn nữa chi phí ODA thường khá đắt cho nước nhận viện trợ vì buộc phải chịu

các qui định khác về giải ngân và triển khai dự án thì FDI là kênh đầu tư tương đối

an toàn, do nhà ĐTNN tự chịu trách nhiệm về chi phí và hiệu quả đầu tư, chịu trách

nhiệm vay và trả nợ; không để lại gánh nặng nợ nần cho ngân sách nhà nước như

vay thương mại, không phải chịu sức ép ràng buộc các điều kiện kinh tế, chính trị,

đồng thời tránh cho nước chủ nhà những biến động đầy rủi ro từ những thăng trầm

trên thị trường chứng khoán.

27

- Các lĩnh vực mà FDI hướng tới phần lớn là những lĩnh vực có thể mang lại lợi

nhuận cao.

- Quá trình hình thành DN FDI có thể diễn ra theo các phương thức như bỏ vốn

thành lập DN mới ở nước ngoài hoặc mua lại một phần hay toàn bộ các DN có sẵn

hoặc mua cổ phiếu tiến tới thôn tính, sát nhập.

Nếu FDI là một hình thức đầu tư quốc tế thì thu hút FDI là hoạt động thu hút nguồn

vốn đầu tư từ bên ngoài vào một quốc gia. Muốn thu hút được nguồn vốn này thì nước

sở tại phải tạo ra sự hấp dẫn của môi trường đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Để có được môi trường đầu tư hấp dẫn đòi hỏi nước tiếp nhận đầu tư phải tạo ra năng

lực hấp thụ đủ mạnh. Thu hút ở đây còn được hiểu là “mời gọi, mở đường” tạo điều kiện

thuận lợi cho các nhà đầu tư, trên cơ sở đó có thể nhận thấy như sau:

- Khi nghiên cứu về thu hút FDI chúng ta nghiên cứu dưới góc độ nước tiếp

nhận đầu tư sử dụng các biện pháp, công cụ, chính sách của mình để lượng vốn FDI

ngày càng tăng về cả số lượng và chất lượng dự án. Nếu một quốc gia nhận được

lượng vốn FDI đúng hoặc vượt quá mục tiêu đề ra với những dự án công nghệ hiện

đại, thân thiện với môi trường thì quốc gia đó được xem là thành công trong việc

thu hút FDI.

- Thu hút FDI có hình thái chủ động và hình thái bị động. Hình thái chủ động là khi

các chủ thể ở nước sở tại tích cực, chủ động tìm kiếm các đối tác, thuyết phục họ đầu tư

vào nước mình; tạo dựng hành lang pháp lý khuyến khích FDI vào những ngành,

những lĩnh vực và những thành phần kinh tế cần thu hút đầu tư. Hình thái bị động là

hình thái chờ các đối tác nước ngoài đến sẽ giới thiệu và đề xuất với nhà đầu tư nước

ngoài những lợi thế và địa điểm để họ đi đến quyết định đầu tư vào đất nước mình.

- Thu hút FDI bao gồm: thu hút vốn (ngoại tệ), tư liệu sản xuất (công nghệ, máy

móc, trang thiết bị), kinh nghiệm quản lý và thương hiệu của nhà đầu tư.

- Hiện nay, xuất hiện rất nhiều phương thức cạnh tranh gay gắt trong việc thu

hút FDI. Do vậy, đòi hỏi nước sở tại phải phân tích đúng tình hình để xây dựng

chính sách (đặc biệt chính sách ưu đãi hỗ trợ cho nhà đầu tư) phù hợp; đưa ra những

biện pháp sáng tạo, toàn diện, dài hạn, có những đổi mới trong xúc tiến đầu tư, cải

tiến môi trường đầu tư; đồng thời phải chủ động trong thu hút FDI thì mới có thể

thu hút được FDI một cách chất lượng và hiệu quả.

28

- Cả lý thuyết và thực tiễn đều chỉ ra FDI được coi là sự thay thế tốt hơn đối với

thương mại quốc tế. Hơn nữa, trong điều kiện tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa

kinh tế, các quốc gia đều có xu hướng giảm thiểm các rào cản FDI, tăng cường cạnh

tranh để thu hút FDI [30].

Như vậy, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là việc quốc gia tiếp nhận đầu

tư áp dụng các biện pháp, chính sách để các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn, công

nghệ, kinh nghiệm quản lý...đến đầu tư trực tiếp bằng các hình thức khác nhau phù

hợp với lợi ích chung của cả nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.

2.1.2. Các hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài

2.1.2.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)

Đây là hình thức liên kết kinh doanh giữa đối tác trong nước với các nhà đầu tư

nước ngoài trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi

bên bằng việc ký kết hợp đồng, trong đó các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân

riêng mà không tạo nên một pháp nhân mới. Đây là một hình thức đơn giản, dễ thực

hiện, do đó thường thích hợp với giai đoạn đầu mở cửa cho đầu tư FDI. Hình thức

này được thực hiện rất đa dạng và được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực thăm dò,

khai thác dầu khí và một số tài nguyên khác dưới hình thức hợp đồng phân chia sản

phẩm được thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư và pháp luật có liên quan.

2.1.2.2. DN liên doanh (Joint Ventures Company – JVC)

Đây là hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch

khác nhau, trên cơ sở cùng vốn góp, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận, cùng

chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo các điều khoản

cam kết trong hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên tham gia, phù hợp với quy

định Luật pháp của nước nhận đầu tư.

2.1.2.3. DN 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Owned Enterprises FOE)

DN 100% vốn nước ngoài là một hình thức DN do các nhà đầu tư nước ngoài

đầu tư thành lập với 100% vốn của họ, do đó hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của các

nhà đầu tư nước ngoài, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Mặc

dù sở hữu điều hành và quản lý DN 100% vốn nước ngoài hoàn toàn nằm trong tay

chủ đầu tư nước ngoài, nhưng DN đó vẫn chịu sự kiểm soát của Luật pháp nước

nhận đầu tư và phải thực hiện đúng cam kết trong điều lệ DN cũng như pháp luật

29

liên quan khác. DN 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới dạng Công ty

TNHH hoặc Công ty Cổ phần.

2.1.2.4. Các hình thức BOT, BTO, BT

- Hình thức BOT là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan

có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể

cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong một thời gian

nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn

toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.

- Hình thức BTO (xây dựng – chuyển giao – kinh doanh) được hình thành tương tự

như hợp đồng BOT nhưng sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước ngoài

chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được Chính phủ nước chủ nhà dành cho quyền

kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn

bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về công trình đã xây dựng và chuyển giao.

- Hình thức BT (xây dựng – chuyển giao). Được hình thành tương tự như hợp đồng

BOT nhưng sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại

cho nước chủ nhà và được Chính phủ nước chủ nhà thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài

sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đã bỏ ra và một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý.

2.1.2.5. Mua lại và sáp nhập

Mua lại và sáp nhập là hình thức đầu tư thông qua việc mua lại hoặc sáp nhập

các DN đang tồn tại ở nước ngoài hoặc mua cổ phần ở nước ngoài. Ở nhiều nước,

M&A là một hình thức đầu tư rất quan trọng của FDI. Với chính sách đổi mới và

hội nhập quốc tế của Việt Nam, trong tương lai M&A chắc chắn sẽ là một hình thức

quan trọng của FDI ở nước ta. Kênh đầu tư này chủ yếu được thực hiện ở các nước

phát triển, mới công nghiệp hóa, trong những lĩnh vực công nghệ cao, vẫn là xu

hướng đầu tư quốc tế chủ yếu hiện nay.

2.2. Một số lý thuyết về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

2.2.1. Lý thuyết về thương mại quốc tế

Khởi đầu là Eli Heckscher (1919) và Bertil Ohlin (1933), lý thuyết giải thích hiện

tượng đầu tư quốc tế dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư (vốn,

lao động) giữa các quốc gia [70].

Phát triển lý thuyết trên, năm 1960 Mc. Dougall đã đề xuất một mô hình lý thuyết

30

về sự vận động của vốn. Tác giả cho rằng luồng vốn đầu tư sẽ chuyển từ nước có lãi

suất thấp sang nước có lãi suất cao cho đến khi đạt được trạng thái cân bằng (lãi suất

hai nước bằng nhau). Sau đầu tư, cả hai nước trên đều thu được lợi nhuận và làm cho

sản lượng chung tăng lên so với trước khi đầu tư. Cuối cùng Ông cũng khẳng định

FDI vừa tạo ra thu nhập cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, vừa tạo ra công ăn

việc làm tăng thu nhập cho người lao động tại nước tiếp nhận đầu tư.

2.2.2. Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển

Mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế được xác định bởi các mô hình

tăng trưởng tân cổ điển. Mô hình này cho rằng vốn là động lực của tăng trưởng. Do

đó khi các nước đang thiếu vốn thì việc mở cửa nền kinh tế đi kèm theo những

chính sách hấp dẫn sẽ có thể thu hút được dòng vốn FDI và qua đó đóng góp vào

tăng trưởng. Borensztein et al. (1998) và Balasubramanyam et al. (1996) cho rằng

các nước đang phát triển mong muốn thu hút FDI là do: Nhu cầu vốn đầu tư; mong

muốn được tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn từ các MNC có năng lực công nghệ, kỳ

vọng sự chuyển giao công nghệ từ các MNC; đẩy mạnh sản xuất và mở rộng thị

trường xuất khẩu; chuyển giao kỹ năng và đào tạo nhân lực qua kênh học hỏi; tạo

việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động. Thông qua thu hút FDI nước tiếp nhận

đầu tư kỳ vọng đạt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực cạnh tranh... [4]

2.2.3. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh

Lý thuyết tăng trưởng nội sinh đưa ra cách nhìn rộng hơn, không chỉ thu hút FDI

cho tăng trưởng về số lượng, mà nhấn mạnh sử dụng FDI tạo ra tác động lan tỏa năng

suất của FDI với nước tiếp nhận đầu tư. Chính sự tự nguyện hoặc không tự nguyện tạo

ra tính lan tỏa về tri thức công nghệ giúp các DN nội địa cải thiện năng suất [75].

Caves (1974), Globerman (1979), Barrell and Te Velde (1999) đã chỉ ra các nước

nhận đầu tư có thể thu được tác động lan tỏa cho cả nền kinh tế và cấp độ ngành. Theo

lý thuyết này các nước đang phải triển cố gắng thu hút FDI nhằm thu được tác động lan

tỏa năng suất của FDI, nghĩa là khi có sự xuất hiện của DN FDI sẽ tác động kéo theo sự

cải thiện năng suất cho khu vực trong nước. Lý thuyết chỉ ra thông qua cơ chế: Liên kết

dọc, cạnh tranh, mô phỏng, hình thành vốn con người và sự dịch chuyển lao động

(Gorg và Greenway, 2004; Berger và Diez, 2008), FDI có tác động tích cực lên đổi mới

31

sáng tạo hay làm lan tỏa năng suất của FDI. Trong bốn kênh này, tác động lan tỏa nhờ

kênh liên kết xuôi và ngược rất được kỳ vọng, bởi nhờ liên kết sản xuất với DN ngoại,

các DN nội mới có thể học hỏi và thu được lợi ích [4].

Lý thuyết chỉ ra thông qua cơ chế: liên kết dọc, cạnh tranh, mô phỏng (bắt chước),

hình thành vốn con người và sự dịch chuyển lao động (Gorg và Greenway, 2004;

Berger và Diez, 2008), FDI có tác động tích cực lên đổi mới sáng tạo tại quốc gia nhận.

Ngoài ra, thông qua khếch tán tri thức qua hiệu ứng mô phỏng, sự dịch chuyển

lao động (Gorg và Greenway 2004), các DN nội địa tại nước tiếp nhận có thể đổi

mới quy trình quản lý, sản xuất, tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy xuất khẩu.

Do đó, tác động lan tỏa được coi là một tiêu chí thể hiện mặt chất của FDI, qua

đó đánh giá hiệu quả của FDI chảy vào một quốc gia.

2.2.4. Lý thuyết về năng lực cạnh tranh

Sự gia tăng của các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong vài thập

kỷ qua là một trong những hệ quả quan trọng nhất của tiến trình toàn cầu hóa

(Chauvin, 2013). Các dòng vốn FDI mang lại rất nhiều lợi ích cho nước sở tại, một

phần do tác động trực tiếp của nó đến tăng trưởng kinh tế, một phần do các tác động

gián tiếp như chuyển giao bí quyết công nghệ và kỹ năng quản lý kinh doanh

(Massoud, 2008). Chính vì vậy, ngày càng có nhiều quốc gia nỗ lực thu hút các

nguồn vốn FDI dẫn đến việc cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng trở nên khốc

liệt hơn (El Banna và cs., 2017) [34].

Trong khi đó các nhà đầu tư với mục đích phải tìm kiếm lĩnh vực, khu vực đầu

tư có các yếu tố thuận lợi để hạn chế các rủi ro nhằm đạt được mục tiêu cao nhất.

Cùng với quá trình đạt được mục tiêu của nhà đầu tư thì các lĩnh vực, khu vực này

lại được phát triển. Từ mối quan hệ trên, cạnh tranh có tác dụng làm đổi mới các

yếu tố của môi trường đầu tư của các lĩnh vực, khu vực để tăng cường thu hút đầu

tư. Cũng chính từ những hệ quả này mà đưa đến sự phát triển chung của xã hội và

nền kinh tế.

Vì vậy, để có thể cạnh tranh thu hút được dòng FDI từ các nhà đầu tư nước

ngoài, các quốc gia phải tìm mọi cách nâng cao năng lực cạnh tranh.

Năng lực cạnh tranh là khả năng thu hút đầu tư, tạo lập môi trường thuận lợi,

thông thoáng, lành mạnh trong phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố trực thuộc

32

trung ương. Nâng cao năng lực cạnh tranh là yêu cầu tất yếu đặt ra trong công cuộc

đổi mới hiện nay. Điều này cũng trả lời cho câu hỏi tại sao có những tỉnh, thành phố

luôn có sức hút đầu tư mạnh, ngược lại, có những tỉnh vẫn chưa có sức hấp dẫn đối

với các nhà đầu tư [64].

Nâng cao năng lực cạnh tranh là một quá trình đổi mới liên tục nhằm phát huy

các thế mạnh sẵn có, trên cơ sở kết hợp giữa các lợi thế của nước sở tại với nhau để

xây dựng một môi trường thu hút đầu tư hiệu quả.

2.2.5. Lý thuyết về năng lực hấp thụ

Thu hút FDI góp phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để

có được lợi ích này đòi hỏi nước sở tại cần tạo ra một năng lực hấp thụ đủ mạnh.

Năng lực hấp thụ của quốc gia là khả năng học hỏi, tiếp nhận, bổ sung các công

nghệ và kỹ năng phù hợp từ các quốc gia phát triển. Lumbila (2005) [97] cho rằng

năng lực hấp thụ FDI là những yếu tố điều kiện mà nước tiếp nhận đầu tư cần có để

hấp thụ lợi ích từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, yếu tố nguồn nhân lực là

quan trọng nhất (Dahlman & Nelson, 1995).

Tiếp đó, Bengoa và cộng sự (2003) [74] đã bổ sung thêm vào năng lực hấp thụ

nước sở tại bao gồm nguồn vốn nhân lực, sự ổn định về kinh tế vi mô và độ mở

thương mại là điều kiện cần thiết cho các nước tiếp nhận hưởng lợi từ dòng vốn

FDI. Các tác giả đã lập luận rằng vốn nhân lực cao sẽ có khả năng thích hợp với sự

lan tỏa công nghệ của FDI, do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, độ mở

thương mại và môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có tác động đến thu hút dòng vốn

FDI và cũng là điều kiện để FDI tác động lan tỏa góp phần tăng trưởng kinh tế.

Theo quy trình hấp thụ của Hoang và các cộng sự (2009) [84], lợi ích mà FDI

mang lại cho nước chủ nhà hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực hấp thụ của địa

phương tiếp nhận đầu tư. Trong đó, năng lực hấp thụ liên quan đến vốn nhân lực,

chất lượng thể chế, hệ thống tài chính và trình độ công nghệ.

Còn theo Mohammed Ameen Fadhila và cộng sự (2015) [102] thì cho rằng các

nhà đầu tư nước ngoài sẽ quyết định đầu tư ra nước ngoài khi cơ sở hạ tầng ở địa

phương tiếp nhận đồng bộ hóa và thỏa mãn được các điều kiện của nhà đầu tư. Lúc

đó, nguồn vốn FDI sẽ bổ sung vào nền kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế nước

nhận đầu tư [56].

33

Qua nghiên cứu các lý thuyết trên có thể thấy các nhà đầu tư nước ngoài luôn

tìm tới những địa điểm tiếp nhận đầu tư có tiềm năng phát triển; có chính sách thu

hút FDI phù hợp; và có lợi thế về môi trường đầu tư bao gồm: cơ sở hạ tầng, nguồn

nhân lực, sự ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định về chế độ chính trị ...Đây cũng là những

yếu tố quan trọng để nước sở tại thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên đây lại là

điểm yếu của các nước đang phát triển, nhất là các nước có thu nhập thấp hoặc

trung bình thấp. Ở các nước này có thể có các yếu tố thu hút FDI nhưng chưa đủ

hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.

Trên đây là những luận điểm quan trọng để một quốc gia xây dựng chính sách

thu hút FDI nhằm tối đa hóa lợi ích của dòng vốn này.

2.3. Nội dung các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp

nước ngoài

Hoạt động thu hút FDI có thể được phân tích, đánh giá trên nhiều góc độ khác

nhau. Trong phạm vi luận án này tác giả phân tích, đánh giá hiệu quả thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài trên các nội dung: quy mô vốn FDI, hình thức đầu tư FDI, cơ

cấu vốn FDI. Hệ thống chỉ tiêu này cho phép đánh giá trực tiếp kết quả thu hút FDI

tại nước tiếp nhận đầu tư. Đây là nhóm chỉ tiêu truyền thống với các tiêu chí đánh

giá bao gồm:

2.3.1. Quy mô đầu tư

Quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện ở quy mô vốn FDI cụ thể là

quy mô vốn FDI đăng ký và quy mô FDI thực hiện hàng năm. Theo lý thuyết IDP thì

lượng vốn FDI vào một quốc gia thường trải qua 5 giai đoạn chính. Giai đoạn đầu

lượng vốn FDI vào rất thấp do môi trường đầu tư kém hấp dẫn bởi sự hạn chế về cơ

sở hạ tầng, yếu kém về giáo dục và kỹ năng của lao động còn thấp. Giai đoạn tiếp

theo lượng vốn FDI vào bắt đầu tăng do lợi thế về địa điểm và môi trường đầu tư dần

được cải thiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Khi nước tiếp nhận vốn FDI có

trình độ công nghệ - kỹ thuật sản xuất cao, sản xuất sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế,

lúc này lượng vốn FDI chảy vào có xu hướng giảm. Sau đó lượng này sẽ tiếp tục tăng

lại khi quốc gia tham gia vào hệ thống tổ chức sản xuất trên phạm vi quốc tế [82].

Quy mô vốn FDI đăng ký là tổng số vốn góp bằng tiền hoặc tài sản hợp pháp, lợi

nhuận để lại và các hình thức vốn khác do nhà đầu tư nước ngoài cam kết đưa vào

34

nước chủ nhà để tiến hành các hoạt động đầu tư trực tiếp (World Bank, 2016). Vốn

đăng ký theo giấy phép là số vốn tương ứng với số dự án mà các nhà đầu tư nước

ngoài đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước và đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư.

Vốn đăng ký gồm vốn cam kết của nhà đầu tư nước ngoài theo giấy phép cấp

mới (đối với các dự án thực hiện lần đầu hoặc dự án độc lập với các dự án đang hoạt

động mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư trong kỳ); và cấp bổ sung (đối với các

dự án đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực sản xuất kinh doanh,

đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường của

dự án đầu tư hiện có đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư trong các năm trước) [55].

Quy mô vốn đăng ký cho thấy sức hấp dẫn của môi trường đầu tư cũng như

mức độ tin cậy của nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư nước sở tại.

Quy mô vốn FDI thực hiện là số vốn đầu tư thực tế do các nhà đầu tư nước ngoài đã

chi ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước sở tại, bao gồm chi phí xây dựng các

công trình, nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị… Đây mới là dòng vốn thực sự đầu

tư từ nước ngoài vào một quốc gia và thể hiện trên cán cân thanh toán quốc tế.

Quy mô vốn thực hiện thể hiện hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư, cơ chế

quản lý nhà nước, cũng như hiệu lực thực thi của các văn bản pháp luật. Vốn giải

ngân tăng lên thể hiện tín hiệu đáng mừng về môi trường đầu tư và kinh doanh của

nước chủ nhà, khi đó các nhà đầu tư rất nhanh đi vào thực hiện dự án ngay sau khi

nhận được giấy phép đầu tư.

Khi xem xét khoảng cách giữa quy mô vốn đăng ký và vốn thực hiện có thể đánh

giá được mức độ thực hiện của hoạt động đầu tư trong một năm. Khoảng cách đó

được thể hiện thông qua tỷ lệ giải ngân. Tỷ lệ giải ngân là tỷ lệ phần trăm của vốn

FDI thực hiện trên tổng vốn FDI đăng ký theo thời gian, được tính bằng công thức:

Tỷ lệ giải ngân càng lớn thể hiện sự thống nhất giữa cam kết và thực hiện của

hoạt động đầu tư. Nếu tỷ lệ giải ngân nhỏ có thể xuất hiện những vấn đề nảy sinh

trong quá trình giải ngân vốn như thủ tục hành chính, sự lưỡng lự của nhà đầu tư

khi bắt tay vào hoạt động đầu tư, hay điều kiện toàn cầu và khu vực có biến động…

35

Về mặt lý thuyết, vốn FDI thực hiện thường nhỏ hơn vốn FDI đăng ký của dự

án. Nguyên nhân là do:

Thứ nhất, có những dự án quy mô nhỏ thực hiện trong thời gian ngắn thì rủi ro ít

và việc giải ngân vốn cũng dễ dàng, song cũng có những dự án quy mô lớn, thực

hiện trong nhiều năm cho nên lượng vốn giải ngân phải mất vài năm đồng thời tiềm

ẩn khá nhiều rủi ro trong quá trình thực hiện. Những rủi ro này cũng có thể từ phía

chủ đầu tư nước ngoài cũng có thể từ phía nước tiếp nhận đầu tư.

Thứ hai, nhiều dự án chưa, thậm chí là khó có khả năng triển khai, song chưa bị

thu hồi giấy chứng nhận đầu tư, nên vẫn đang nằm trong số liệu tổng hợp về thu hút

FDI, vì thế, thường gây “ảo tưởng” với số liệu thống kê “vốn đăng ký” lũy kế, vì

không phù hợp với tình hình thực tế. Theo GS.TSKH Nguyễn Mại, nguyên Phó chủ

nhiệm Ủy ban nhà nước về Hợp tác và đầu tư Việt Nam: “Thu hút FDI sẽ không có

ý nghĩa đối với nền kinh tế nếu các nhà đầu tư nước ngoài cam kết đầu tư xong rồi

để đó, các con số về lượng vốn FDI đăng ký chỉ nằm trên giấy..”.

Tuy nhiên các quốc gia phải duy trì thống kê lượng vốn đăng ký hàng năm vì:

- Vốn FDI đăng kí là số vốn gối đầu cho các năm sau, không phải là số ảo. Từ

trước đến nay thống kê các con số này là để biết xu thế FDI vào một quốc gia hàng

năm và từng giai đoạn, chứ không sử dụng vào cân đối các nguồn vốn cho đầu tư

phát triển hàng năm.

- Sau khi hoàn thành việc xây dựng, mua sắm trang thiết bị liên quan để đưa

công trình, nhà máy dự án vào hoạt động ổn định, nhà đầu tư còn phải quyết toán

vốn thực hiện (vốn thực tế đã giải ngân), từ đó đem so sánh với số vốn đã đăng kí

xem thực tế thấp hơn, bằng hay vượt vốn đã đăng kí bao nhiêu phần trăm.

- Việc duy trì vốn đăng ký có thể giám sát, nắm bắt, đánh giá được tiến độ và

tình hình thực hiện của các dự án thực hiện trong nhiều năm. Tuy nhiên cần thường

xuyên tổng rà soát tất cả các dự án FDI đã được cấp phép, để từ đó phân loai, quản

lý theo những phương án phù hợp với từng loại dự án.

Như vậy, quy mô vốn FDI đăng ký và thực hiện càng lớn càng thể hiện quốc gia

đó thành công trong công cuộc thu hút vốn FDI.

36

Quy mô vốn dự án FDI: quy mô vốn trên một dự án được sử dụng để đánh giá độ

lớn của các dự án FDI tại nước tiếp nhận vốn. Quy mô vôn dự án bao gồm: Quy mô

vốn dự án FDI đăng ký và quy mô vốn dự án thực hiện được tính theo công thức:

Quy mô vốn dự án FDI cho biết phản ứng của nhà đầu tư nước ngoài (tăng

cường đầu tư, bổ sung vốn, hoặc thoái vốn) trước những thay đổi về chính sách,

môi trường đầu tư của nước sở tại.

2.3.2. Hình thức đầu tư

Hình thức đầu tư là tỷ lệ vốn FDI phân bổ vào các loại hình DN khác nhau trong

nền kinh tế. Theo hình thức sở hữu vốn FDI tác giả đã trình bày cụ thể ở phần trên

bao gồm các loại hình: Hợp đồng hợp tác kinh doanh; DN liên doanh; DN 100%

vốn nước ngoài; Các hình thức BOT, BTO, BT; Mua lại và sát nhập.

2.3.3. Cơ cấu đầu tư

Cơ cấu đầu tư là chỉ tiêu thể hiện sự cân bằng hay mất cân bằng trong xu thế

phát triển của dòng vốn FDI. Cơ cấu FDI có thể được phân theo các tiêu chí khác

nhau: ngành kinh tế; địa phương, vùng kinh tế; đối tác đầu tư

2.3.3.1. Cơ cấu vốn FDI theo ngành

Cơ cấu vốn FDI theo ngành là tỷ lệ vốn FDI đầu tư cho từng ngành kinh tế quốc

dân cũng như trong từng tiểu ngành của nước nhận đầu tư. Cơ cấu FDI theo ngành

của mỗi quốc gia là khác nhau tùy thuộc vào thế mạnh của nước đi đầu tư và lợi thế

của nước nhận đầu tư ở mỗi thời kỳ nhất định.

Trong bối cảnh điều kiện kinh tế quốc tế hiện đại thì trong quá trình công nghiệp

hóa của các nước đang phát triển, muốn đạt tăng trưởng cao và cơ cấu kinh tế tiến bộ,

phù hợp thì phải phát triển cân đối các ngành trong nền kinh tế quốc dân, bao gồm

công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Chính vì vậy các quốc gia đều tăng cường thu

hút FDI vào cả ba nhóm ngành chính với 21 tiểu ngành nhỏ. Tuy nhiên, tùy vào điều

kiện thực tế của từng quốc gia ở những thời kỳ khác nhau mà ưu tiên thu hút FDI

phát triển các ngành, những lĩnh vực khác nhau. Giai đoạn đầu thu hút FDI các nước

37

có chính sách ưu tiên các ngành có tác dụng như “đầu tàu” lôi kéo toàn bộ nền kinh tế

phát triển. Trong những thời điểm nhất định, các lĩnh vực phải được chọn lọc để tập

trung nguồn lực còn khan hiếm của quốc gia cho việc sử dụng có hiệu quả. Trong

hiện tại và trong tương lai các ngành này có tác động thúc đẩy các ngành khác tạo đà

cho tăng trưởng chung, tạo sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực.

Đối với các nhà đầu tư nước ngoài việc vốn đầu tư vào ngành nào phụ thuộc

chính và năng lực và thế mạnh của nhà đầu tư, cũng như tận dụng những lợi thế về

nguồn lực của nước tiếp nhận đầu tư như: địa điểm, tài nguyên tự nhiên, nguồn lao

động, thị trường tiêu thụ….

2.3.3.2. Cơ cấu vốn FDI theo địa phương, vùng lãnh thổ

Cơ cấu đầu tư vốn FDI theo địa phương, vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư vốn theo

địa điểm, không gian. Nó phản ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và việc

phát huy lợi thế cạnh tranh của từng vùng.

Theo học thuyết chiết trung của Dunning Jonh H. (1977) [77], một DN dự định

tham gia vào hoạt động FDI cần có 3 lợi thế: về sở hữu, về địa điểm, và về nội bộ

hóa. Trong đó lợi thế về địa điểm là một trong những yếu tố quan trọng được các

nhà đầu tư đặc biệt quan tâm.

Khi đầu tư FDI vào một vùng kinh tế các nhà đầu tư nước ngoài thường xem xét

các đặc điểm xã hội, các điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên của vùng đó nhằm mục

đích phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng, mang lại lợi ích lớn nhất trong quá

trình đầu tư cũng như phù hợp với yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của

nước nhận đầu tư: đảm bảo sự chuyển dịch đồng bộ, cân đối giữa các vùng. Theo

Dunning, một địa điểm thuận lợi cho đầu tư bao gồm các khía cạnh như: tài nguyên

tự nhiên, sức mạnh về vốn, quy mô và sự tăng trưởng của thị trường, trình độ phát

triển cơ sở hạ tầng, sự sẵn có của lực lượng lao động với giá rẻ, mức độ mở cửa của

nền kinh tế, chính sách của Chính phủ, sự ổn định về chính trị, vị trí địa lý.

Trên thực tế quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài

phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó tùy theo ngành nghề và chiến lược kinh doanh

của DN nước ngoài cũng ảnh hưởng đến cơ cấu FDI của nước tiếp nhận đầu tư.

2.3.3.3. Cơ cấu vốn FDI theo đối tác đầu tư

38

Cơ cấu vốn FDI theo đối tác là tỷ lệ vốn FDI thu hút từ các tập đoàn xuyên quốc

gia hay từ các DN vừa và nhỏ của các nhà nhà đầu tư nước ngoài trong tổng vốn

FDI vào nước tiếp nhận đầu tư. Tập đoàn xuyên quốc gia là các tập đoàn kinh tế

quy mô lớn thuộc các nước phát triển mở rộng mạng lưới hoạt bằng bằng cách đầu

tư sang các nước khác dưới hình thức thành lập các công ty con dưới sự quản lý,

kiểm soát của công ty mẹ ở nước chủ đầu tư. DN FDI vừa và nhỏ là những DN

nước ngoài có quy mô nhỏ về mặt vốn, lao động hay doanh thu được các nhà đầu tư

nước ngoài đầu tư tại nước khác.

Với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ cơ hội thu hút FDI

đang mở rộng đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Các công ty

đa quốc gia (TNC), đặc biệt là các công ty trong Top 500 DN hàng đầu thế giới là

những DN dẫn đầu trong các chuỗi giá trị, nhờ những ưu thế vượt trội về công

nghệ, trình độ quản lý, nghiên cứu và phát triển (R&D), nếu thu hút được tốt luồng

vốn đầu tư từ TNC sẽ giúp tạo sức lan tỏa năng lực sản xuất tới các DN trong nước,

giúp tạo ra lợi thế cạnh tranh cho quốc gia.

Thế giới ngày nay đã khác, xu hướng sản xuất theo chuỗi giá trị toàn cầu ngày

càng phổ biến. Mỗi chuỗi ấy thường có sự tham gia của một hoặc vài tập đoàn, có

vai trò quyết định sự tham gia của những công ty khác. Vì thế, nếu các nước muốn

được vào chuỗi giá trị đó, phải thu hút đầu tư từ các tập đoàn lớn, đồng thời tăng

cường kết nối các DN FDI với DN trong nước.

Trên thực tế, trong chiến lược thu hút FDI, một trong những cái đích mà các nước

hướng tới là các tập đoàn đa quốc gia. Sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc gia

mang lại rất nhiều lợi ích cho nền kinh tế nước nhận đầu tư như: Các dự án lớn được

đầu tư nhanh mang lại hiệu quả cao thúc đẩy các dự án, công ty vừa và nhỏ trong

nước phát triển; chính các dự án này sẽ lôi kéo thu hút FDI vào nhiều ngành nghề và

lĩnh vực khác liên quan tạo thành tổ hợp liên ngành. Chính vì vậy, để thu hút được dự

án FDI của từ các tập đoàn xuyên quốc gia, Chính phủ các nước có nhiều cơ chế

chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài là các tập đoàn kinh tế lớn.

Theo GS TSKH. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN FDI Việt Nam “Một quốc

gia muốn phát triển thì phải có chiến lược dài hạn, trong đó có thu hút FDI. Chính

phủ cần phải có các cơ chế, chính sách đủ mạnh để thu hút đầu tư của các tập đoàn

39

xuyên quốc gia. Mỗi lĩnh vực muốn phát triển, như điện tử, hóa dầu… thu hút một

tập đoàn lớn, để tạo xương sống cho nền kinh tế, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tạo

liên kết với các DN trong nước, thì sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế.

Thông qua các tập đoàn xuyên quốc gia, nước tiếp nhận đầu tư cũng có thể thu hút

được thêm nhiều nhà đầu tư vệ tinh đến Việt Nam và từ đó tạo nên một vòng xoáy

đầu tư theo nghĩa tích cực.”

Như vậy, giai đoạn phát triển kinh tế trước đây, các quốc gia đang phát triển tìm

mọi cách để thu hút vốn FDI càng nhiều càng tốt, thu hút bằng mọi giá và như vậy

mục tiêu thu hút chỉ nhấn mạnh đến sự gia tăng về số lượng các dự án, về vốn đăng

ký, vốn thực hiện, đối tác đầu tư... mà chưa chú trọng đến chất lượng, hiệu quả thu

hút vốn FDI. Bước sang giai đoạn mới, việc tiếp tục tìm các biện pháp thu hút vốn

FDI để phát triển vẫn là điều tất yếu và đóng vai trò hết sức quan trọng trong tổng

vốn cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, việc thu hút vốn FDI cần có cách tiếp cận

mới, phù hợp với sự phát triển kinh tế, quan trọng về số lượng nhưng phải chú trọng

đến chất lượng, hiệu quả sử dụng vốn FDI. Tăng cường thu hút vốn FDI phù hợp

với mục tiêu của chiến lược kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành, vùng lãnh

thổ và từng địa phương cụ thể [15].

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tập hợp theo từng

cách tiếp cận. Dòng vốn FDI chảy từ nước chủ đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư

ngoài bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thuộc về bối cảnh quốc tế nói chung, còn chịu ảnh

hưởng bởi các yếu tố thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài từ phía nước chủ đầu tư và các

yếu tố thu hút FDI của nước tiếp nhận đầu tư.

Theo Dunning (1993), dòng vốn FDI phụ thuộc vào ba yếu tố cơ bản: (1) lợi thế

về sở hữu (Ownership advantage - O); (2) lợi thế về địa điểm (Location advantage -

L); (3) lợi thế về nội bộ hóa (Internationalization advantage - I). Lợi thế về sở hữu

và lợi thế về nội bộ hóa là những yếu tố do phía bên nhà đầu tư nước ngoài quyết

định, còn lợi thế địa điểm là yếu tố phụ thuộc vào nước chủ nhà [55].

Tuy nhiên, tiếp cận dưới góc độ nước tiếp nhận đầu tư lợi thế về địa điểm (L) là

nhân tố mà nước chủ nhà có thể điều chỉnh, định hứớng để đạt được hiệu quả về thu

40

hút FDI tại quốc gia mình. Tùy theo mục đích nghiên cứu, lợi thế địa điểm có thể

được xem xét theo các góc độ khác nhau.

Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án này, tác giả tập trung nghiên

cứu và làm rõ (1) Nhóm nhân tố về bối cảnh quốc tế; (2) Nhóm nhân tố thuộc về nước

thu hút đầu tư bao gồm: Nhân tố thể chế, chính sách quản lý Nhà nước về đầu tư trực

tiếp nước ngoài; Nhân tố thị trường; Nhân tố nguồn lực; Nhân tố cơ sở hạ tầng.

2.4.1. Nhân tố thuộc bối cảnh quốc tế

Môi trường kinh tế thế giới ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng thu hút FDI của

một quốc gia. Các yếu tố như các cuộc khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng kinh

tế, khủng hoảng tài chính - tiền tệ, khủng hoảng chính trị- xã hội, dịch bệnh,... đều

tác động tiêu cực tới quyết định đầu tư và thu hút đầu tư của một quốc gia. Sự tác

động có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.

Cụ thể, từ 2008 đến nay, có một số nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến môi trường

Kinh tế thế giới và FDI thế giới:

2.4.1.1. Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập Kinh tế quốc tế

Trong giai đoạn 2009 đến nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã có những động thái mới.

Thứ nhất, sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, toàn cầu hóa - một trong

những động lực chính phát triển nền Kinh tế thế giới có dấu hiệu giảm tốc. Có một

số nguyên nhân dẫn đến xu hướng tăng cường bảo hộ trong nền kinh tế thế giới sau

khủng hoảng:

(i) Sự suy yếu của các nước phát triển sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008

và cùng với nó là quá trình toàn cầu hóa hướng tâm vào khu vực này.

(ii) Sau khủng hoảng 2008, kỷ nguyên của thị trường tự do dường như đã kết

thúc. Sự thất bại của mô hình thị trường tự do đòi hỏi sự gia tăng trở lại vai trò điều

tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Sự gia tăng vai trò điều tiết của Nhà nước, dù

dưới bất kỳ hình thức nào, cũng sẽ tạo ra những cản trở đáng kế đối với xu hướng tự

do hóa và toàn cầu hóa kinh tế.

(iii) Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm cho cầu nước ngoài sụt giảm, nhiều

nước áp dụng chính sách bảo hộ, kích thích nội nhu, kích thích sản xuất trong nước

để bù đắp lại những mất mát về cầu nước ngoài do khủng hoảng xảy ra. Kể từ tháng

41

9 năm 2008, thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu lộ rõ, nhiều

quốc gia đã đưa ra những chính sách bảo hộ thương mại.

(iv) Một trở ngại lớn khác đến từ nội bộ các quốc gia. Các nước phát triển như

Mỹ và châu Âu đều đang đối mặt với làn sóng phản đối toàn cầu hóa ở trong nước.

Từ đó đang nổi lên xu thế thay đổi chính sách theo hướng chủ nghĩa bảo hộ, chủ

nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc, chính sách chống nhập cư…, nhất là ở Mỹ, Anh.

Thứ hai, tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là một xu hướng phát triển

khách quan mà hầu hết các nước trên thế giới đều đang theo đuổi

Mặc dù có những biểu hiện của chủ nghĩa bảo hộ, toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế vẫn là xu thế nổi bật của thế kỷ XXI; Mức độ mở cửa thị trường hàng hóa

và thị trường tài chính của các nền kinh tế thế giới vẫn tăng lên trong giai đoạn

2011 - 2019.

Có nhiều nhân tố qui định thực tế này:

(i) Với sự khởi đầu phát triển cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là từ năm 2011,

cùng với nó, các tiến bộ vượt bậc về thông tin liên lạc, giao thông vận tải và công

nghệ sản xuất đã khiến cho dòng vốn đầu tư, hàng hóa, công nghệ và lực lượng lao

động di chuyển dễ dàng hơn trên khắp thế giới, thúc đẩy toàn cầu hóa diễn ra với tốc

độ nhanh hơn.

(ii) Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng phát triển khách quan. Nó được

xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội bên trong mỗi nước trong bối cảnh

các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn do sự phát triển của

phân công lao động quốc tế.

Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế còn là một trong những cách thức đảm

bảo ổn định chính trị, hòa bình giữa các thành viên tham gia.

(iii) Các nước đều mong muốn tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đáp ứng

nhu cầu phát triển trong nước. Trong giai đoạn vừa qua, làn sóng hội nhập trên thế

giới vẫn tiếp tục được tăng cường nhằm nắm bắt được những cơ hội phát triển mới

của tất cả các khu vực khác nhau trên thế giới, đặc biệt là các thị trường đang lên.

2.4.1.2. Xu hướng mới trong hợp tác liên kết kinh tế khu vực

Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, hội nhập Đông Á, mặc dù có khó

khăn, nhưng vẫn tiếp tục là điểm sáng, đi đầu trong tiến trình hội nhập khu vực nói

42

chung. Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và suy thoái kinh tế cùng với nó chính

là những cú huých quan trọng đối với tiến trình hội nhập khu vực Đông Á. Hầu hết

các nền kinh tế Đông Á đều phát triển theo mô hình hướng về xuất khẩu, biến động

khủng hoảng đã làm giảm sức cầu từ các thị trường nước ngoài, nhất là từ Mỹ và

EU, nhanh chóng làm suy yếu động lực tăng trưởng của các nền kinh tế Đông Á. Vì

vậy, đẩy mạnh hội nhập khu vực là sự cần thiết cấp bách đối với các nước Đông Á

sau khủng hoảng 2008 để phục hồi kinh tế.

Năm 2015, ASEAN đã trở thành Cộng đồng (AC), đây là một bước ngoặt quan

trọng đánh dấu sự hòa nhập toàn diện của các nước ASEAN.

Sự ra đời và bùng nổ của hàng loạt các FTA song phương và đa phương trong

khu vực. Đến 2015, khu vực đã có 261 FTA. Thêm vào đó, với vai trò trung tâm

của kinh tế thế giới, các FTA khu vực ngày càng thu hút sự quan tâm của các nước

lớn trong và ngoài khu vực. Các nước lớn sử dụng các FTA như một công cụ để

tranh giành ảnh hưởng. Chẳng hạn như Trung Quốc sử dụng RCEP, Mỹ sau đó là

Nhật Bản sử dụng CPTPP. Hai FTA toàn cầu nổi trội hiện nay là CPTPP, RCEP,

cùng với BRI - "đại dự án" địa kinh tế - chiến lược của Trung Quốc - đều thuộc về

khu vực. Cũng có thể nói, những chuyển động mạnh mẽ trong liên kết khu vực đặc

biệt liên quan đến các cơ chế hợp tác hàng đầu là CPTPP, RCEP, BRI.

Hội nhập khu vực mạnh mẽ là một nhân tố quan trọng phát triển dòng FDI trong

khu vực.

2.4.1.3. Cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cách mạng công nghiệp 4.0

Hiện nay, thế giới đang đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 diễn

ra mạnh mẽ đặc biệt ở một số quốc gia phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản,

Singapore,... Sức nóng của nó đã lan tới các nước đang phát triển, trong đó có Việt

Nam. Theo Klaus Schwab, người sáng lập và Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới:

“CMCN 4.0 sẽ là sự kết hợp và phát triển lý tưởng cuộc cách mạng công nghiệp lần

thứ ba và những tiến bộ của khoa học công nghệ trước nó, đưa lên những bước

phát triển nhảy vọt không phải theo tốc độ tuyến tính như trước đây mà là tốc độ

của hàm số mũ. CMCN 4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Kỹ thuật số, Vật lý

và Công nghệ sinh học. Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là

trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big

43

Data). Trên lĩnh vực vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu

mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano” [29].

Cuộc CMCN 4.0 sẽ tác động đến hầu hết các lĩnh vực, các ngành kinh tế, các dân

tộc, các quốc gia theo chiều rộng và chiều sâu, những thay đổi này báo trước sự chuyển

đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Sự chuyển đổi này đã làm bùng

nổ đầu tư trực tiếp nước ngoài và nhiều nước đang phát triển đã lợi dụng sự bùng nổ

này để thực hiện chiến lược mở cửa nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn, tham gia vào

cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.

Như vậy, bất cứ một nước nào muốn phát triển đều phải tăng cường giao lưu

quốc tế, tích cực tiếp thu những kinh nghiệm, khoa học kỹ thuật tiên tiến và vốn của

các nước phát triển thì mới có thể phát triển được.

2.4.1.4. Đại dịch Covid - 19

Đại dịch Covid-19 xảy ra đã tạo ra một khủng hoảng nghiêm trọng chưa từng có,

ảnh hưởng tiêu cực đến rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế thế giới, trong đó phải kể

đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước. Theo báo cáo của UNCTAD, năm 2020, dòng

vốn FDI toàn cầu sụt giảm tới 42% so với năm 2019 và dự báo sẽ tiếp tục sụt giảm

5-10% trong năm 2021 [111]. Đây là mức thấp nhất kể từ những năm 1990, thấp

hơn tới 30% so với giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009. Tuy

nhiên, sự giảm sút này không đồng đều giữa các quốc gia, khu vực, nhóm nền kinh

tế. Nếu FDI toàn cầu bị thu hẹp trong một thời gian dài, hậu quả đối với các nước

đang phát triển sẽ hết sức nặng nề và nghiêm trọng. Bởi với các nước này vốn

FDI không chỉ thúc đẩy doanh thu xuất khẩu mà còn tạo ra nhiều việc làm, tác động

tích cực hơn đến phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong

lĩnh vực sản xuất.

2.4.2. Nhân tố thuộc về nước tiếp nhận đầu tư

2.4.2.1. Nhân tố thể chế, chính sách quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Nhân tố này bao gồm: Thể chế; Hệ thống chính sách nói chung và FDI nói riêng.

Nhân tố thể chế chính sách có liên quan mật thiết đến sự ổn định của môi trường kinh

tế - chính trị - xã hội. Một cấu trúc thể chế chính sách tốt có thể thu hút sự quan tâm

của các nhà đầu tư nước ngoài bởi họ thấy an tâm về khoản đầu tư của mình, đồng

thời giảm chi phí hoạt động đầu tư (chi phí tham nhũng, hành chính) [55].

44

Sự ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội: Tính ổn định của nền kinh tế, những

nước có nền kinh tế phát triển, ổn định, bền vững, với tốc độ tăng trưởng cao

thường là những đối tượng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Đồng thời,

cán cân thương mại và cán cân thanh toán ổn định, chỉ số lạm phát thấp, cơ cấu kinh

tế hợp lý thì khả năng thu hút vốn đầu tư sẽ cao.

Nhân tố chính trị là vấn đề được quan tâm đầu tiên khi đầu tư, bởi nếu nước sở

tại mà bất ổn về chính trị thì vốn và cơ sở đầu tư của họ sẽ không an toàn, hoặc họ

phải rút đầu tư sớm, hoặc nhiều trường hợp họ còn bị tổn thất lớn về vốn đầu tư.

Chỉ có một đất nước với sự ổn định và nhất quán về chính trị mới tạo ra được tâm lý

yên tâm tìm kiếm cơ hội đầu tư lâu dài.

Môi trường văn hóa - xã hội ở nước nhận đầu tư cũng là một vấn đề được các

nhà đầu tư chú ý. Hiểu được phong tục tập quán, thói quen, sở thích tiêu dùng của

người dân nước nhận đầu tư sẽ giúp cho nhà đầu tư thuận lợi trong việc triển khai

và thực hiện một dự án đầu tư.

Môi trường thể chế bao gồm luật pháp, các quy định dưới luật, thể chế nhận

thức và thực thi. Hệ thống pháp luật của Chính phủ được đánh giá qua công tác xây

dựng và hiệu lực thực thi. Chính sách Nhà nước đối với FDI thể hiện rõ nhất trong

Luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Đồng thời cũng cần quan tâm đến các văn

bản dưới Luật Đầu tư.

Hệ thống pháp luật có liên quan đến FDI là Luật thương mại, Luật DN, Luật sở

hữu trí thuệ, Luật Bảo vệ môi trường, … và các văn bản hướng dẫn luật. Khi nhiều

nước tham gia sâu rộng vào hội nhập kinh tế quốc tế, Luật đầu tư nước ngoài và các

luật có liên quan cần phải phù hợp với thông lệ quốc tế, tức là Luật Đầu tư nước

ngoài của nước sở tại và các Luật liên quan cần được xây dựng phù hợp với các

cam kết của các tổ chức hợp tác quốc tế mà nước sở tại tham gia.

Nếu hệ thống pháp luật được xây dựng theo hướng thống nhất, minh bạch, khả

thi, thông thoáng, là cơ sở tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Nếu ngược lại, thì môi

trường đầu tư sẽ khó khăn, và khó hấp dẫn đối với FDI.

Mặt khác, hệ thống pháp luật không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu

tư nước ngoài mà còn có chức năng ngăn cản những tác động tiêu cực mà các nhà

45

đầu tư cố tình vi phạm ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng, an ninh quốc gia và tạo ra

sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư.

Chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đó là những chính sách vĩ mô của

quốc gia như: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách đối ngoại, chính

sách về cán cân thanh toán quốc tế, chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Mục tiêu cuối cùng của nhà đầu tư nước ngoài là tối đa hóa lợi nhuận khi giảm thiểu

được các chi phí, mở rộng được quy mô thị trường, dễ tiếp cận nguồn cung ứng….

Các vấn đề mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm là: tài sản của họ có được đảm

bảo không, các quy định chuyển phần lợi nhuận về nước họ ra sao, nước sở tại có

chính sách khuyến khích đầu tư không (về thuế, phí, thuê đất, quản lý ngoại tệ…).

Nếu khung chính sách của nước sở tại tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư sẽ

hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài.

Tư duy, nhận thức, quan điểm thu hút FDI của quốc gia, đặc biệt là tư duy,

nhận thức, quan điểm của những nhà làm luật, ban hành chính sách và tổ chức thực

hiện luật pháp chính sách đã ban hành. Đây là nhân tố quan trọng tạo ra các rào cản

đối với thu hút và thực hiện FDI của quốc gia.

Như vậy, nếu thể chế và chính sách thu hút FDI của nước sở tại tạo điều kiện

thuận lợi cho FDI, thông thoáng, cởi mở và phù hợp với thông lệ quốc tế, sẽ tạo nên

một môi trường đầu tư có sức hấp dẫn và có khả năng thu hút mạnh đối với các nhà

đầu tư nước ngoài.

2.4.2.2 Nhân tố thị trường

Nhân tố thị trường của nước nhận đầu tư sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu,

chi phí và mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của nhà đầu tư, do đó sẽ ảnh hưởng tới kết

quả thu hút FDI. Nhóm nhân tố này bào gồm tất cả các yếu tố về kinh tế có liên

quan đến thị trường trong nước bao gồm:

Quy mô và tiềm năng tăng trưởng thị trường nội địa của nước sở tại là một yếu

tố quan trọng đối với thu hút FDI. Đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn tìm tới các thị

trường có nhu cầu lớn về loại sản phẩm mà nhà đầu tư muốn cung cấp. Các nhà

nghiên cứu thường căn cứ vào quy mô dân số, thu nhập bình quân đầu người làm

thước đo quy mô thị trường nội địa. Trong các nghiên cứu hiện đại, biến số về GDP

46

hay tổng sản phẩm quốc dân của quốc gia cũng được sử dụng phụ thêm là thước đo

quy mô thị trường.

Thước đo phổ biến nhất được sử dụng trong các nghiên cứu thực hiện là tăng

trưởng kinh tế GDP hoặc thu nhập bình quân đầu người (GDP bình quân đầu người).

Nhân tố này xuất hiện ở hầu hết các nghiên cứu, và được xem là yếu tố tác động lên

FDI nhiều nhất trong các nghiên cứu định lượng (Artige & Nicolini, 2005). Trong

nghiên cứu của Jordan (2004) cho thấy FDI là có xu hướng di chuyển tới các quốc gia

có thị trường mở rộng hơn và sức mua lớn hơn, ở đó các công ty có thể thu được lợi

nhuận cao hơn từ khoản đầu tư của họ. Có cùng quan điểm, Charkrabarti (2001) cho

rằng quy mô thị trường lớn là điều kiện cần thiết để sử dụng hiệu quả các nguồn lực và

khai thác được lợi thế kinh tế theo quy mô, vì khi quy mô nền kinh tế phát triển tới một

giá trị tới hạn, FDI sẽ bắt đầu tăng lên sau đó được mở rộng ra. Nghiên cứu của

Schneider & Frey (1985), Tsai (1994), và Asiedu (2002) cũng cho thấy quan hệ thuận

chiều giữa hai biến số này. Họ đưa ra kết luận tương đối thống nhất cho rằng GDP bình

quân đầu người cao cho thấy triển vọng tốt hơn đối với khả năng thu hút FDI tại nước

chủ nhà. Parletun (2008), Ang (2008) cũng tìm thấy tác động tích cực của GDP đối với

FDI. Nghiên cứu cho thấy quy mô thị trường mở rộng có xu hướng kích thích việc

thu hút FDI vào nền kinh tế [55].

Tuy nhiên, đối với một nhà đầu tư FDI có mục tiêu xuất khẩu thì kích thước của

thị trường trong nước sẽ không còn là một yếu tố mang tính quyết định đối với các nhà

đầu tư nước ngoài (Root và Ahmed, 1979). Đối với nhà đầu tư có mục đích xuất khẩu

thì họ quan tâm đến những mối quan hệ hợp tác và liên kết của nước chủ nhà.

Quy mô thương mại

Lý thuyết thương mại cho thấy quy mô thương mại là một trong những nhân tố

hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào một quốc gia. Quy mô thương mại biểu hiện

ở mức độ mở cửa thị trường chính là mức độ mở của nền kinh tế, chỉ quy mô tương

đối của khu vực ngoại thương trong một nền kinh tế, được đo lường bằng tiêu chí

tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP. Amal và cs. (2010) nghiên cứu tại 8 quốc gia

Mỹ Latinh đã cho thấy FDI có quan hệ dương với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu

[34].

47

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Balasubramanyam et al. (1996) cho thấy

mở cửa nền kinh tế với chính sách khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu sẽ thu hút

nhiều hơn dòng vốn FDI [51].

2.4.2.3. Nhân tố nguồn lực

Nhân tố nguồn lực của nước tiếp nhận đầu tư bao gồm: Nguồn nhân lực, vị trí

địa lý, tài nguyên.

- Nguồn nhân lực của nước tiếp nhận đầu tư

Quy mô và chất lượng nguồn lao động của nước sở tại ảnh hưởng lớn đến hoạt

động thu hút FDI. Chất lượng lao động, sự dồi dào và chi phí lao động sẽ luôn là

yếu tố quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư. Chất lượng lao động là một lợi thế

cạnh tranh đối với các nhà đầu tư vào lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao hay sử

dụng nhiều công nghệ hiện đại. Chất lượng lao động được đánh giá thông qua nhiều

thước đo khác nhau như trình độ người lao động, ngôn ngữ và tác phong làm việc

của người lao động. Ngoài ra, yếu tố văn hóa cũng ảnh hưởng tới chất lượng lao

động như sự cần cù, tính kỷ luật, ý thức trong lao động…Với mỗi thước đo, tác

động của chất lượng lao động đến FDI cũng không giống nhau. Nghiên cứu của

Nguyen & Hans Rimbert (2002) sử dụng thước đo “phần trăm công nhân có bằng

cấp trên tổng số lao động” tìm ra tác động dương của chất lượng lao động đến FDI.

Mayer & Nguyen (2005) sử dụng thước đo là “số giảng viên đại học trên 1000

dân”; và Nguyen & Nguyen (2007) với “sự sẵn sàng của lao động” cũng đưa ra kết

luận tương tự. Ngược lại, nghiên cứu của Le Viet Anh (2004), Nguyen Phi Lan

(2006) sử dụng thước đo “lương hàng tháng của lao động nhà nước do địa phương

quản lý” lại cho thấy tác động ngược chiều [55].

Phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng lao động là nhiệm vụ quan

trọng, đảm bảo tính bền vững của tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng tạo điều kiện

để cải thiện môi trường đầu tư, tăng tính hấp dẫn đối với việc thu hút FDI của các

nước phát triển. Một đội ngũ công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật, các nhà

quản lý DN có năng lực sẽ là điều kiện rất thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài

triển khai các dự án đầu tư một cách có hiệu quả.

Nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo cho việc tiếp thu công nghệ mới, công

nghệ nguồn, làm chủ kỹ thuật và quy trình công nghệ sẽ đảm bảo cho các công ty

48

nước ngoài có thể sử dụng tại chỗ và thực hiện triển khai công nghệ tiên tiến. Mặt khác,

với một quốc gia, để tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh trong

điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá như hiện nay, trước hết phải dựa trên cơ sở chất

lượng và công nghệ tiên tiến chứ không chỉ cạnh tranh trên cơ sở các nguồn tài nguyên

hay giá nhân công rẻ. Ông Wilfried Lutkenhort, chuyên gia của tổ chức phát triển công

nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO) cho rằng, “trong tương lai việc thu hút đầu tư trực

tiếp nước ngoài của các nước đang phát triển sẽ tùy thuộc rất nhiều vào mức độ thành

công trong việc nâng cao trình độ nghề nghiệp hiện có” [58].

Vì vậy, nâng cao chất lượng đào tạo để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng

cao là việc làm có ý nghĩa rất lớn cho cả trước mắt và lâu dài, đặc biệt trong việc

tiếp thu có hiệu quả nguồn vốn FDI vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

- Vị trí địa lý

Quốc gia tiếp nhận đầu tư có vị trí địa lý thuận lợi như: nằm trong khu vực kinh

tế phát triển năng động, có các tuyến giao thông quốc tế, dễ dàng tham gia vào

chuỗi cung ứng toàn cầu...sẽ hưởng lợi từ các dòng thông tin, các trào lưu phát triển

mới, thuận lợi cho hoạt động logistics. Hay quốc gia nhận và đi đầu tư trong cùng

một khu vực, có khoảng cách gần nhau, có nhiều nét tương đồng sẽ tạo điều kiện

thuận lợi hơn trong thu hút FDI.

Nhân tố vị trí địa lý thường được xác định bởi khoảng cách, thời gian di chuyển,

chi phí vận chuyển. Theo nghiên cứu của Kang và Jiang (2012) đã xác định lợi thế

về vị trí địa lý giúp tiết kiệm đáng kể chi phí vận chuyển, dễ dàng mở rộng ra các

thị trường xung quanh, khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực và thúc đẩy các DN

tập trung hóa [51].

- Tài nguyên thiên nhiên của nước tiếp nhận đầu tư

Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố chính cấu thành nguồn nguyên vật liệu phục vụ

hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo Campos and Kinoshita (2003), một quốc gia

có nguồn tài nguyên phong phú sẽ giúp cho DN trong việc cắt giảm chi phí nguyên

vật liệu và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nên sẽ có tác động tích cực trong

việc thu hút dòng vốn FDI.

Tài nguyên thiên nhiên là một trong những lợi thế cạnh tranh của vùng/quốc gia,

là cơ sở để xây dựng định hướng phát triển ngành tại vùng/quốc gia đó.

49

2.4.2.4. Nhân tố cơ sở hạ tầng

Sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại nước tiếp nhận đầu tư là một điều kiện

vật chất quan trọng hàng đầu để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn FDI.

Cơ sở hạ tầng bao gồm: cơ sở hạ tầng kỹ thuật cứng và mềm.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (cứng) bao gồm mạng lưới giao thông vận tải, điện, khí

nước, mạng lưới thông tin liên lạc, các công trình phục vụ sản xuất kinh doanh như

cảng biển, sân bay, hạ tầng các khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghiệp… Cơ sở

hạ tầng tốt là một trong các yếu tố quan trọng giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm

các chi phí gián tiếp trong sản xuất kinh doanh và có thể triển khai tốt các hoạt động

đầu tư. Thực tế thu hút FDI cho thấy các dòng vốn chỉ đổ vào nơi nào có hạ tầng

phát triển, đủ khả năng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu

tư. Mạng lưới giao thông đóng góp một phần quan trọng vào thu hút vốn FDI, là cơ

sở để vận chuyển vật liệu, đi tiêu thụ sản phẩm và quan trọng nhất là các đầu mối

giao thông tiếp giáp với thế giới như cảng biển, cảng hàng không,… Một mạng lưới

giao thông đa phương tiện và hiện đại sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí vận

chuyển không cần thiết.

Hệ thống thông tin liên lạc là nhân tố quan trọng trong bối cảnh bùng nổ thông

tin như hiện nay, khi mà thông tin về tất cả các biến động trên thị trường ở mọi nơi được

truyền tải liên tục trên thế giới. Chậm trễ trong thông tin liên lạc sẽ đánh mất cơ hội kinh

doanh. Môi trường đầu tư hấp dẫn dưới nhà đầu tư là một hệ thống thông tin liên lạc rộng

lớn và cước phí rẻ.

Cơ sở hạ tầng mềm gồm: hệ thống ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, công nghiệp phụ

trợ, dịch vụ logistic… phục vụ cho FDI. Hệ thống các ngành dịch vụ như: tài chính ngân

hàng, bưu chính viễn thông, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ logistic, … đảm bảo cho việc

sản xuất quy mô lớn và liên tục, các dịch vụ này nếu không đáp ứng được nhu cầu sản

xuất thì sẽ gây rất nhiều trở ngại cho nhà đầu tư.

2.5. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư

2.5.1. Tác động tích cực

FDI có rất nhiều tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội của nước tiếp nhận

đầu tư. Những tác động đó không chỉ là những tác động về mặt ngoại giao, về mặt

50

kinh tế, mà nó có thể có tác động làm đổi mới sáng tạo tại quốc gia nhận đầu tư. Cụ

thể những tác động đó bao gồm:

- FDI bổ sung một lượng vốn dồi dào, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho nước

sở tại trong công cuộc phát triển và xây dựng đất nước.

Trong công cuộc xây dựng và phát triển đều bị thiếu vốn đầu tư do tích lũy nội

bộ thấp hoặc không có tích lũy nên rất cần nguồn vốn từ bên ngoài bổ sung cho vốn

đầu tư phát triển. Từ thế kỷ trước, nhà kinh tế học Paul Samuelson đã đưa ra lý

thuyết “Vòng luẩn quẩn của sự phát triển”. Theo ông, đa số các nước đang phát

triển đều thiếu vốn, do khả năng tích lũy hạn chế. Theo lý thuyết này, khả năng tiết

kiệm và đầu tư thấp là do mức độ thấp của thu nhập thực tế, thu nhập thực tế thấp là

do năng suất lao động thấp và năng suất lao động thấp phần lớn là do tình trạng

thiếu tư bản hoặc tích lũy thấp. Samuelson cũng cho rằng, các nước đang phát triển để

phát triển kinh tế phải có cú huých từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái “vòng luẩn quẩn” đó,

một trong các yếu tố đó chính là nguồn đầu tư từ các nước khác. Vì vậy, nếu có quá

nhiều trở ngại đối với việc đi tìm nguồn tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao

không dựa vào các nguồn bên ngoài [96]; [19, tr.654-655].

Đối với các nước đang phát triển, FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát

triển mà còn là một luồng vốn ổn định hơn so với các luồng vốn đầu tư quốc tế

khác, bởi FDI dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng tăng trưởng

và không tạo ra nợ cho Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, do đó, ít có khuynh hướng

thay đổi khi có tình huống bất lợi. Nguồn vốn FDI hoạt động trong nhiều lĩnh vực

khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội và thường là vốn đầu tư dài hạn, góp phần để

tăng trưởng kinh tế bền vững. Hơn nữa, dòng ngoại tệ và các nguồn lực từ bên ngoài

đưa vào, cũng như sự gia tăng sản xuất hàng hoá - dịch vụ trong nước khi các dự án

FDI được triển khai,... đã tạo ra cơ sở kinh tế để củng cố sức mạnh đồng nội tệ [42].

Cùng với việc bổ sung thêm nguồn vốn từ bên ngoài, vốn FDI còn có tác động

tích cực đến sự phát triển của thị trường tài chính ở nước nhận đầu tư. Sự hoạt động

của vốn FDI là một trong những động lực gia tăng huy động vốn và thúc đẩy đầu tư

từ nguồn vốn trong nước, cũng như thúc đẩy và trợ giúp sự hình thành các thể chế

tài chính như hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán,... Đồng thời, FDI còn

góp phần làm gia tăng tiết kiệm cho nước nhận đầu tư thông qua thu nhập cao cho

51

người lao động làm việc khu vực có vốn FDI. Vốn FDI cũng giúp cân bằng cán cân

thanh toán quốc tế của nước nhận đầu tư.

- FDI có thể làm tăng đóng góp vào thu ngân sách Nhà nước.

Đối với đa số các nước đang phát triển, hàng năm khu vực có vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài đã đóng góp một tỷ lệ đáng kể vào ngân sách nhà nước thông qua

các khoản thuế như: thuế thu nhập DN, thuế giá trị gia tăng, thuế tài nguyên, thuế

tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu và các khoản thuế khác. Với các khoản đóng

góp vào ngân sách nhà nước từ khu vực FDI, chính phủ nước tiếp nhận đầu tư có thể

thực hiện các chính sách xã hội, các chương trình tiêu dùng nhằm cải thiện đời sống

những người nghèo và chính những lao động đang làm việc trong khu vực có đầu tư

trực tiếp nước ngoài. FDI có thể góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo tại các

nước đang phát triển là nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, mức độ tác động tích cực này tại các

nước và các khu vực là khác nhau.

Ví dụ tại Việt Nam, cùng với sự phát triển số lượng và quy mô của các DN FDI,

mức đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách nhà nước cũng tăng lên liên tục qua

các năm. So với năm 2000, thu ngân sách từ khu vực FDI năm 2015 đã tăng hơn 35

lần. Trong 6 năm 2005 - 2010, thu ngân sách từ khu vực FDI đạt xấp xỉ 216,9 tỷ

VND, tăng gần 4 lần so với giai đoạn trước. Giai đoạn 2011- 2015, thu ngân sách từ

khu vực này tăng hơn 2 lần, đạt tổng giá trị xấp xỉ 579 tỷ VND [55].

- FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại cho

nước chủ nhà.

Ở các nước đang phát triển, do còn hạn chế về trình độ phát triển kinh tế xã hội,

giáo dục, khoa học cũng như thiếu ngoại tệ nên công nghệ ở trong nước thường là

công nghệ lâu đời lạc hậu, năng suất lao động thấp, vì vậy vốn FDI được coi là

nguồn quan trọng để thúc đẩy phát triển công nghệ của nước tiếp nhận vốn FDI.

Công nghệ mới được các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào qua các con đường như:

thông qua việc mua bằng phát minh sáng chế và cải tiến công nghệ nhập khẩu trở

thành công nghệ phù hợp cho mình (như các quốc gia đã từng làm là Hàn Quốc và

Nhật Bản). Khi triển khai dự án đầu tư vào một nước, chủ đầu tư nước ngoài không

chỉ chuyển vào nước đó vốn bằng tiền, mà còn chuyển cả vốn vật tư hàng hoá như:

máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu,… và cả những giá trị vô hình như: công

52

nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng tiếp cận thị trường,… cũng như

đưa chuyên gia nước ngoài vào hoặc đào tạo các chuyên gia bản xứ về các lĩnh vực

cần thiết phục vụ hoạt động của dự án. Điều này cho phép các nước nhận đầu tư

không chỉ nhập khẩu công nghệ đơn thuần, mà còn nắm vững cả kỹ năng quản lý

vận hành, sửa chữa, mô phỏng và phát triển nó, nhanh chóng tiếp cận được với công

nghệ hiện đại ngay cả khi nền tảng công nghệ quốc gia chưa được tạo lập đầy đủ.

Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua vốn FDI đặc biệt là thông

qua các công ty xuyên quốc gia còn góp phần tích cực đối với tăng cường năng lực

nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Các kết quả cho thấy phần

lớn các hoạt động R&D của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia ở nước ngoài là

cải tiến công nghệ cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương. Dù vậy, các

hoạt động cải tiến công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều mối

quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng

trong nước. Nhờ đó mà gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa

phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài, nhà đầu tư và

phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, sáng tạo…công nghệ

nguồn, sau đó cải tiến cho phù hợp với điều kiện của địa phương và biến chúng

thành công nghệ của mình. Nhờ có các tác động tích cực trên mà khả năng công

nghệ của nước chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao được năng suất từ đó thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế [103].

- FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nước chủ nhà theo hướng

hiện đại hóa, công nghiệp hóa.

Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát

triển nội tại nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế

đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh

tế đối ngọai, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình

liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu kinh tế

trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu

kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới. Chính

FDI đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước chủ

nhà, vì nó làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh tế mới và góp phần

53

nâng cao nhanh chóng trình độ kỹ thuật và công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, phát

triển năng suất lao động của các ngành này. Mặt khác, dưới tác động của FDI, một

số ngành nghề được kích thích phát triển, nhưng cũng có một số ngành nghề bị mai

một và dần bị xoá bỏ.

Các nước đang phát triển trên thế giới thường là những nước có nền kinh tế lạc

hậu. Trước khi thực hiện công nghiệp hoá, ngành nông nghiệp là chủ yếu nhưng khi

tiến hành công nghiệp hoá, thu hút FDI để bổ sung cho nguồn vốn trong nước thì

các ngành nghề mới cũng được phát triển. Điều này đã góp phần làm chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện

đại hoá của các nước.

- FDI tạo việc làm mới và phát triển nguồn nhân lực cho địa phương.

FDI sẽ tạo ra các DN mới hoặc làm tăng quy mô các đơn vị hiện có từ đó tạo ra

công ăn việc làm cho rất nhiều lao động, đặc biệt là các nước đang phát triển có

luôn có nguồn lao động dồi dào, nhưng thiếu vốn để khai thác và sử dụng, sự xuất

hiện của hàng loạt các DN FDI, lao động làm việc trong khu vực FDI cũng sẽ tiếp

thu được nhiều kỹ năng chuyên môn và quản lý. Đội ngũ lao động quản lý sẽ tiếp

thu được kỹ thuật quản lý tiên tiến, hiện đại ở các nước khác nhau trên thế giới,

cách tiếp cận thị trường, khả năng đàm phán, xúc tiến thương mại, quản trị nhân

lực,… còn người lao động trong các DN sẽ tiếp thu được kỷ luật lao động, tác

phong làm việc, cách thức sắp xếp và tổ chức công việc để hoàn thành sản xuất

đúng thời gian và số lượng.

Ngoài ra, FDI còn làm tăng thu nhập cho người lao động bởi tiền lương trả từ các

DN có vốn FDI thường lớn hơn các DN trong nước, từ đó cải thiện được đời sống của

người lao động. Hơn nữa, các dự án FDI thường tổ chức các khóa đào tạo cho người

lao động của dự án, trong đó có nhiều người được cử đi lao động của nước ngoài từ

đó sẽ hình thành ở nước nhận đầu tư một lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề.

Đối với những cán bộ quản lý, khi được tham gia các dự án, do yêu cầu của công việc

sẽ trưởng thành hơn về năng lực quản lý để phù hợp với nền sản xuất hiện đại. Như

vậy, việc tham gia vào các dự án có vốn FDI sẽ tạo cho địa phương phát triển được

nguồn nhân lực. Đây là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bởi

vì trình độ nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất, các vấn đề

54

xã hội. Và phản ứng dây chuyền tự nhiên, sự cạnh tranh giữa các DN có vốn FDI với

các DN trong nước trên thị trường lao động là nhân tố thúc đẩy lực lượng lao động tự

nâng cao trình độ một cách tích cực và có hiệu quả hơn, góp phần hình thành nhanh

hơn một đội ngũ lao động có trình độ, có thói quen tuân thủ nề nếp làm việc theo tác

phong công nghiệp hiện đại. Tất cả những điều đó sẽ góp phần thúc đẩy tăng năng

suất lao động của các nhà đầu tư trong nền kinh tế đồng thời tạo ra môi trường cạnh

tranh mạnh mẽ luôn buộc các nhà đầu tư phải đổi mới để nâng cao năng suất lao

động, đứng vững trong thị trường cạnh tranh.

- FDI góp phần phát triển kết cấu hạ tầng giao thông của nước tiếp nhận đầu tư.

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để xây dựng phát triển kinh tế là yêu cầu cấp

thiết của các nước đang phát triển. Các dự án xây dựng hạ tầng thường đòi hỏi

lượng vốn lớn, nguồn vốn trong nước còn hạn chế, không thể đảm đương được. Vì

vậy, Chính phủ các nước này thường kêu gọi nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Vốn

đầu tư nước ngoài bao gồm vốn đầu tư viện trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Nguồn vốn ODA có những nhược điểm đó là: hay có tính ràng buộc về chính trị

và thường gây nợ cho nước tiếp nhận đầu tư. Nên nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài là một giải pháp mới một hướng đi mới cho các nước tiếp cận với những nền

khoa học mới trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng. Thông qua đầu tư trực tiếp nước

ngoài nước chủ nhà tiếp nhận được công nghệ tiên tiến từ các nước giúp cho hệ

thống kết cấu hạ tầng của phát triển hơn và hiện đại hơn. Từ đó thúc đẩy các ngành

kinh tế khác phát triển bởi kết cấu hạ tầng luôn phải đi trước một bước để tạo tiền

đề cho các nước phát triển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, đồng thời FDI

đã thúc đẩy hình thành hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, góp phần công

nghiệp hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư hợp lý.

Nguồn vốn FDI là nguồn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn trong nước để xây

dựng kết cấu hạ tầng. Nguồn vốn FDI cùng với nguồn vốn trong nước góp phần xây

dựng cơ sở hạ tầng ngày một hoàn thiện và hiện đại hơn. Các nước đang phát triển,

kinh tế còn nhiều thấp kém và lạc hậu nguồn dự trữ và tiết kiệm từ dân cư cũng như

các DN còn rất hạn chế. Vì vậy nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài đóng vai trò rất quan

trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng. Do đặc điểm của

55

đầu tư kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi khối lượng vốn lớn nên việc huy động nguồn

vốn nước ngoài trong đó có FDI vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng là vô cùng quan

trọng. Vẫn biết rằng nguồn vốn trong nước là quyết định nhưng nguồn vốn nước

ngoài nói chung và nguồn vốn FDI nói riêng là một trong những nguồn vốn quan

trọng giúp nước tiếp nhận phát triển hơn nữa hệ thống lĩnh vực kết cấu hạ tầng.

- FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu và giúp nước chủ nhà mở rộng quan hệ

kinh tế quốc tế, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu,

những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai thác có hiệu quả

hơn trong phân công lao động quốc tế. Các nước đang phát triển nhu cầu thâm nhập

và mở rộng thị trường nước ngoài là rất lớn, tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí

có thể cạnh tranh được nhưng do sự hạn chế về năng lực tiếp thị, hạn chế về trình độ

công nghệ và quản lý nên rất khó khăn trong việc giải quyết yêu cầu này. Trong khi

đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được đưa vào nước chủ nhà với công nghệ cao,

phương thức quản lý hiện đại, thương hiệu nổi tiếng và mạng lưới phân phối trên toàn

thế giới, góp phần tăng năng lực sản xuất, mở rộng xuất khẩu, từ đó tăng kim ngạch

xuất khẩu, khai thác thị trường nước ngoài và tạo lợi thế kinh tế theo quy mô. Vì vậy,

thông qua FDI các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới, vì

hầu hết các hoạt động FDI đều do các TNC thực hiện. Các TNC đều đóng vai trò

quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu do vị thế và uy tín của chúng trong hệ thống

sản xuất và thương mại quốc tế. Sự xuất hiện của các DN FDI không những là mắt

xích quan trọng mà còn tạo đòn bẩy để nước tiếp nhận đầu tư tham gia sâu vào chuỗi

giá trị toàn cầu, đặc biệt là những đóng góp lớn trong xuất khẩu.

Mức độ cạnh tranh trong thu hút FDI ngày càng gay gắt, để cạnh tranh thu hút

đầu tư, các nước chủ động tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc tế, các nước

phải tìm hiểu thể chế, luật pháp quốc tế và thực hiện các cam kết tự do thương mại

và đầu tư. Hợp tác và cạnh tranh để phát triển vừa là yêu cầu, vừa là điều kiện để

các nước hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng hơn.

Như vậy, đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo điều

kiện để nước tiếp nhận chủ động hội nhập sâu rộng hơn nữa vào nền kinh tế khu vực

56

và thế giới. Các DN FDI tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng

đa phương hoá và đa dạng hoá, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư.

2.5.2. Tác động tiêu cực

- Hiện tượng “chuyển giá” khá phổ biến trong đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hành vi chuyển giá khi hoạt động kinh

doanh tại nước sở tại có những thay đổi mà điều kiện khó rút vốn hoặc việc chuyển

lợi nhuận ra khỏi lãnh thổ do điều kiện ràng buộc khó khăn hay thâu tóm, trốn thuế

tại nước sở tại. Những hành vi chuyển giá đã tác động xấu đến nền kinh tế, gây thất

thu lớn cho Nhà nước, bóp méo môi trường kinh doanh, tạo sức ép bất bình đẳng,

gây phương hại đối với những nhà đầu tư chấp hành tốt đúng như trong cam kết,

làm suy giảm hiệu lực quản lý Nhà nước trong việc thực hiện các chủ trương kêu gọi

đầu tư để phát triển kinh tế – xã hội. Các dấu hiệu của hiện tượng chuyển giá thông

thường diễn ra thuộc các dạng:

Các nhà đầu tư nước ngoài hạ thấp mức giá đầu ra thông qua các hợp đồng xuất

khẩu do các công ty mẹ hoặc các đối tác liên kết với công ty mẹ. Hay đẩy giá thông

qua các yếu tố đầu vào (tăng chi phí nguyên vật liệu đầu vào bằng cách tương tự với

việc định giá tài sản cố định; tăng chi phí quản lý, bán hàng,… ) đây là chi phí liên

quan đến việc vận hành DN, mà các DN có thể nâng lên cao để bóp méo giá thành,

làm giảm lợi nhuận hoặc lỗ để tránh nghĩa vụ nộp thuế. Một thủ thuật để nâng chi

phí đầu vào để “được” lỗ nhằm lách thuế nữa là dù có vốn nhưng DN vẫn không

đưa vào sản xuất mà đi vay vốn bên ngoài với lãi suất cao để đưa vào chi phí, làm

tăng giá trị đầu vào.

Thông qua việc nâng giá trị vốn góp và chuyển giao công nghệ. Việc nâng giá

thiết bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các DN chuyển một lượng tiền đi

ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư. Ngoài hình thức nâng giá trị tài sản

góp vốn, các nhà đầu tư nước ngoài còn thực hiện việc chuyển giá thông qua việc

chuyển giao công nghệ, thu phí bản quyền làm tăng chi phí khấu hao tài sản vô hình

làm cho tổng chi phí của DN tăng lên từ đó thuế thu nhập DN sẽ phải nộp ít hơn.

Cơ chế giá nội bộ trong các giao dịch giữa các DN trong cùng một tập đoàn kinh

tế hoặc nhóm các công ty trong nước, nhiều DN được lập ra chỉ nhằm thực hiện sân

57

sau của các DN nhằm khai thác quyền chủ động kinh doanh do pháp luật quy định,

với các hợp đồng mua thì cao nhưng bán lại thấp, chia thầu,…

Điều chỉnh cơ cấu trị giá hàng hoá nhập khẩu và dịch vụ đi kèm để giảm thiểu

tổng số thuế phải nộp cả ở khâu nhập khẩu và kinh doanh nội địa. Quy định hiện hành

về thuế nhập khẩu đối với hàng hoá (tồn tại dưới dạng vật chất, hữu hình), các dịch

vụ đi kèm với hàng hoá nhập khẩu được loại trừ ra khỏi giá tính thuế nhập khẩu

nhưng phải nộp thuế nhà thầu, trong trường hợp không tách riêng thì các loại thuế

đều được tính trên tổng giá trị. Thực hiện cam kết gia nhập WTO, hàng năm chúng ta

điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu, giữ nguyên thuế nhà thầu, thực tế đang xảy ra thiên

hướng giảm trị giá dịch vụ đi kèm hàng nhập khẩu trong khi xu hướng là tăng giá trị

tài sản trí tuệ, do đó không ngoại trừ việc chuyển giá mang tính chất cơ cấu, việc này

có thể không làm tăng lợi ích của nhà cung cấp nước ngoài nhưng để bán được hàng,

họ sẵn sàng ký phụ lục hợp đồng theo yêu cầu của nhà nhập khẩu Việt Nam.

- FDI có thể dẫn đến mất cân đối trong cơ cấu ngành, cơ cấu nền kinh tế của

nước chủ nhà.

Các nhà đầu tư nước ngoài vì chạy theo mục tiêu của mình nên họ thường đầu tư

vào các ngành, các lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao, nhiều khi không trùng khớp với

mong muốn của nước nhận đầu tư làm cho mục tiêu thu hút bị ảnh hưởng nếu

không có cơ chế và những quy hoạch hữu hiệu sẽ dễ dẫn đến tình trạng đầu tư tràn

lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên sẽ bị khai thác quá mức, các nhà đầu tư

nước ngoài còn làm cho cơ cấu kinh tế bị méo mó, chậm được cải thiện và tích tụ

nguy cơ mất ổn định chung của đời sống kinh tế xã hội quốc gia như khi dòng vốn

FDI rút ra đột ngột, sa thải công nhân hàng loạt.

- Nhiều DN FDI làm mất đi nhiều việc làm truyền thống và chưa coi trọng

đúng mức về đào tạo cho người lao động.

Các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều công ăn việc làm cho nước nhận đầu

tư, nhất là các nước đang phát triển như nước ta, nơi mà dân số trẻ lực lượng lao

động dồi dào thì việc tạo cho người lao động một nơi làm việc có thu nhập ổn định

lại vô cùng tốt. Trên thực tế, trong nhiều năm qua khu vực FDI đã tạo ra nhiều triệu

lao động trực tiếp và gián tiếp. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động của khu vực FDI

58

cũng đã làm mất đi nhiều đất nông nghiệp từ đó đã làm mất đi nhiều việc làm trong

các lĩnh vực truyền thống.

Với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu những chi phí, các nhà đầu tư

nước ngoài còn thiên về khai thác và sử dụng những nguồn lao động có nhân công

giá rẻ, ít qua đào tạo, mang tính mùa vụ mà ít chú trọng đến việc đào tạo chất lượng

và sử dụng nhân lực có tay nghề cao vào làm việc lâu dài cho các nhà đầu tư.

- Thu hút FDI du nhập những công nghệ lạc hậu, khai thác và sử dụng quá

mức nguồn tài nguyên tự nhiên gây ô nhiễm môi trường.

Các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sự yếu kém trong kiểm định và quản lý

công nghệ của nước sở tại để du nhập các công nghệ lạc hậu nhưng với giá đắt đỏ

gây ra sự lãng phí lớn cho sự dỡ bỏ, thay thế hoặc khắc phục những hậu quả về sau.

Khi nhà đầu tư nước ngoài đưa vào những công nghệ lạc hậu thì họ vẫn thu được lợi

nhuận trong khi đó nước tiếp nhận không những chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế mà

còn ảnh hưởng đến môi trường và các lợi ích khác trong tương lai.

Có thể nói một trong những tác động tiêu cực nhất của khu vực FDI đối với

nước nhận đầu tư là những ảnh hưởng về môi trường. Đặc biệt là tình hình “xuất

khẩu” ô nhiễm từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua FDI

ngày càng gia tăng. Các nước đang phát triển có nguy cơ trở thành những nước có

mức “nhập khẩu” ô nhiễm cao, nhiều nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam,…

FDI ảnh hưởng tới đa dạng sinh thái: Bên cạnh những đóng góp quan trọng cho

ngành du lịch thì sự đầu tư quá lớn và liên tục gia tăng trong những năm gần đây đã đặt

môi trường tự nhiên Việt Nam trước những thách thức lớn. Nguy cơ ảnh hưởng xấu

đến đa dạng sinh học, tài nguyên nước, thuỷ sản, khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu

vực sông, gây tàn phá môi trường tự nhiên chú trọng đến việc khai thác tài nguyên

thiên nhiên đặc biệt là các tài nguyên không tái tạo được như khoáng sản, khai thác

mỏ,… Các khu công nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư

trú của các động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy. Trong khi đó, vấn đề

bảo vệ môi trường vẫn đang là thách thức lớn đối với Việt Nam hiện nay.

- Thu hút FDI xuất hiện nguy cơ rửa tiền.

Theo cảnh báo của WB thì Việt Nam sẽ bị các tổ chức rửa tiền quốc tế chọn làm

mục tiêu vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng ở

59

nước ta còn kém phát triển, mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền

không chính thức còn cao. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trên con đường mở cửa

kinh tế và được đánh giá là nền kinh tế có tính chất mở hàng đầu thế giới. Việc

kiểm soát lỏng lẻo các dòng tiền vào ra đã tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm thực

hiện hoạt động rửa tiền. Nguồn vốn FDI có thể là một kênh thuận lợi cho việc tổ

chức hoạt động rửa tiền. Các tổ chức phi pháp có thể tiến hành đầu tư vào nước ta

với hình thức DN 100% vốn nước ngoài nhưng thực chất không phải để hoạt động

mà nhằm hợp pháp hóa các khoản tiền bất hợp pháp.

Như vậy, FDI có tác động hai mặt đối với nước tiếp nhận đầu tư, tuy nhiên nhìn vào

lợi ích kinh tế mà FDI mang lại cho các nước phát triển thời gian qua thì chính sách tăng

cường thu hút có hiệu quả dòng vốn FDI luôn là vấn đề mà các nước này quan tâm.

60

Tiểu kết chương 2

Qua nghiên cứu nội dung chương 2, các nội dung được rút ra như sau:

Thứ nhất, tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm của FDI và thu hút FDI.

Thứ hai, NCS đã phân tích các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, ưu nhược

điểm của từng hình thức.

Thứ ba, luận án đã trình bày một số lý thuyết cơ bản về thu hút đầu tư trực tiếp

nước ngoài như: Lý thuyết thương mại quốc tế, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển, lý

thuyết tăng trưởng nội sinh, lý thuyết về năng lực cạnh tranh, lý thuyết về năng lực

hấp thụ.

Thứ tư, để đo lường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tác giả đưa ra nội dung

và các tiêu chí đánh giá kết quả thu hút trên các khía cạnh như quy mô vốn đầu tư,

cơ cấu đầu tư, các hình thức vốn đầu tư, lĩnh vực thu hút đầu tư...

Thứ năm, luận án phân tích các nhân tố thuộc bối cảnh quốc tế, nhân tố thuộc về

nước tiếp nhận đầu tư có ảnh hưởng tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Cuối cùng, NCS đã luận giải những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối

với các nước tiếp nhận đầu tư: cả tác động tích cực và tiêu cực.

61

Chương 3

THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA

NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM TỪ SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

TOÀN CẦU NĂM 2008 ĐẾN NAY

3.1. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam

từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay

3.1.1. Quy mô vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 2008 đến nay

3.1.1.1. Quy mô vốn FDI đăng ký

Kể từ khi xuất hiện ở Việt Nam, Nhật Bản luôn là một trong những đối tác đầu

tư quan trọng đối với Việt Nam với quy mô vốn ngày càng được mở rộng. Hiện

nay, Nhật Bản đang là một trong ba nhà đầu tư lớn nhất của Việt Nam, đóng góp to

lớn vào sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam những năm qua.

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư, 2020

Hình 3.1: Diễn biến nguồn vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam

giai đoạn 2008 -2020

Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, dòng FDI Nhật Bản vào Việt

Nam ngoài bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra trên toàn thế giới

còn chịu tác động bởi điều kiện quốc tế, sự thay đổi của khu vực, việc điều chỉnh

chiến lược của các công ty mẹ tại Nhật Bản, cùng với đó là những lần điều chỉnh

62

chỉnh sách và quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là sự nâng tầm quan

hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Theo số liệu từ Cục đầu tư nước ngoài (2020), tính lũy kế đến hết tháng

12/2020, Việt Nam đã thu hút được 4.680 dự án FDI của Nhật Bản với tổng số vốn

đăng ký đạt hơn 62,9 tỷ USD. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn biến dòng

vốn FDI đăng ký của Nhật Bản vào Việt Nam được thể hiện qua 3 giai đoạn chính:

- Giai đoạn 2008 - 2013:

Đây là giai đoạn FDI Nhật Bản vào Việt Nam có nhiều biến động đảo chiều.

Năm 2008, vốn FDI đăng ký của Nhật Bản vào Việt Nam bùng nổ với mức tăng kỷ

lục kể từ khi Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam, với 212 dự án đạt gần 9,2 tỷ USD. Tuy

nhiên, ngay sau đó cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra đã tác động làm suy

giảm kinh tế toàn cầu năm 2009, theo đó dòng FDI Nhật Bản vào Việt Nam sụt

giảm đột ngột, chỉ đạt 531,8 triệu USD với 110 dự án. Theo kết quả khảo sát năm

2010 của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) đối với các DN Nhật Bản

ở Châu Á và Châu Đại Dương: “Trong số 140 công ty trả lời, có gần 80,7% cho

rằng cuộc khủng hoảng đã để lại tác động tiêu cực đáng kể, đặc biệt trong các ngành

sản xuất công nghiệp như linh kiện và phụ tùng điện tử (84,6%), linh kiện phụ tùng

xe gắn máy (83,3%) [93].

Từ năm 2010 cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng, là

sự đảo chiều của vốn đầu tư trên thế giới tập trung vào thị trường các nước châu Á

mới nổi, theo đó FDI Nhật Bản cũng nhanh chóng gia tăng trở lại, mở ra nhiều triển

vọng mới trong thu hút đầu tư tại Việt Nam. Do đó, vốn FDI đăng ký của Nhật Bản

vào Việt Nam năm 2010 cao gấp hơn 6 lần so với năm trước đó đạt hơn 3,2 tỷ USD

với 167 dự án.

Đặc biệt năm 2012, do mâu thuẫn chính trị giữa Nhật Bản – Trung Quốc trở nên

đỉnh điểm, cùng với những bất lợi trong môi trường đầu tư tại Trung Quốc, các nhà

đầu tư Nhật Bản đã đồng loạt rút khỏi Trung Quốc xoay trục đầu tư sang các nước

Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, năm 2012, vốn FDI đăng ký của Nhật

Bản vào Việt Nam chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với

4,38 tỷ USD và 333 dự án được cấp phép (chiếm 25% tổng số dự án mới) (FIA-

Cổng thông tin quốc gia về ĐTNN, tháng 12/2012).

63

Như vậy sau nhịp sụt giảm năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tài

cầu, FDI Nhật Bản tiếp tục gia tăng trở lại vào Việt Nam, trong vòng 4 năm (2010 –

2013), vốn FDI đăng ký Nhật Bản vào Việt Nam đã tăng nhanh từ 532 triệu USD năm

2010 lên gấp gần 10 lần vào năm 2013 đạt gần 5,3 tỷ USD tăng thêm 352 dự án mới,

chiếm tỷ trọng gần 30% tổng vốn FDI. (Cục đầu tư nước ngoài, tháng 12/2013).

- Giai đoạn 2014 – 2018

Từ năm 2014 những khó khăn kinh tế tại Nhật, sự mất giá của đồng Yên cùng với

sự suy thoái kinh tế toàn cầu khiến Chính phủ Nhật Bản tăng chi tiêu công và mở ra

nhiều cơ hội cho nhà đầu tư ngay ở thị trường nội địa đã tác động làm hoạt động đầu

tư của Nhật Bản tại Việt Nam đã suy giảm, vốn FDI của Nhật giảm hơn 65% từ mức

5,3 tỷ USD năm 2013 xuống còn 2,3 tỷ USD. Xét về đối tác đầu tư năm 2014, Nhật

Bản tụt xuống vị trí thứ 4 (sau Hàn Quốc, Hồng Kông và Singapore). Đây là vị trí

thấp nhất sau nhiều năm chiếm vị trí quán quân và á quân [23].

Tuy nhiên, theo giới quan sát thì việc giảm đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam

bên cạnh vấn đề nội tại của nước nhận đầu tư thì các nhà đầu tư Nhật Bản cũng

đang gặp nhiều khó khăn, do phải cạnh tranh từ các nhà đầu tư khác trong đó có

Hàn Quốc, EU, Mỹ,...

Với việc Việt Nam cùng một số các quốc gia ASEAN sẽ mở cửa đầu tư rất rộng

thông qua việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AC) vào cuối năm 2015,

đồng thời triển vọng của việc hoàn tất ký kết hiệp định thương mại Đối tác Xuyên

Thái Bình Dương (CPTPP) đã mở ra cơ hội đầu tư lớn cho các DN Nhật Bản tại

Việt Nam. Giai đoạn 2015 – 2018 đánh dấu sự gia tăng nhanh của FDI Nhật Bản

vào Việt Nam. Năm 2017, FDI Nhật Bản vào Việt Nam đã tăng mạnh với tổng số

vốn FDI đăng ký từ Nhật Bản đạt 8,72 tỷ USD, mức cao nhất kể từ năm 2008, tăng

gấp hơn 3,5 lần so với năm 2016, chiếm 25,4% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào

Việt Nam trong năm 2017. Trong đó số dự án đầu tư mới cũng đạt mức tăng cao với

367 dự án. Nhật Bản vươn lên giữ vị trí số một trong 115 quốc gia và vùng lãnh thổ

đầu tư vào Việt Nam năm 2017. Sự gia tăng nguồn vốn đầu tư từ Nhật Bản năm

2017 chủ yếu từ 3 dự án về cơ sở hạ tầng xây dựng nhà máy phát điện: Dự án khí Ô

Môn “Lô B” (1,278 triệu USD); Nhà máy nhiệt điện Vân Phong 2 (2,581 tỷ USD);

Nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn 2 (2,793 tỷ USD). Bên cạnh đó còn có một số dự án

64

đầu tư khác như các dự án về điện tử, bất động sản, sản xuất sợi. Ngoài 3 dự án đầu

tư lớn có số vốn cấp phép trên 1 tỷ USD, các dự án đầu tư mới chủ yếu là các dự án

có quy mô vừa và nhỏ [88]. Năm 2018 ngoại trừ những dự án lớn vượt quá 1 tỷ

USD thì số vốn FDI cấp phép mới từ Nhật Bản vào Việt Nam khoảng 2,45 tỷ USD,

cao gấp hơn 2 lần năm 2017 (tăng 112%) [89].

Thực tế trên chứng tỏ Việt Nam tiếp tục là địa điểm đầu tư quan trọng đối với

Nhật Bản (Theo ông Ông Takimoto Koji Trưởng đại diện JETRO tại TP.HCM).

- Giai đoạn 2019 – 2020.

Đây là giai đoạn tất cả các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19

diễn ra trên phạm vi toàn cầu, nhiều hoạt động tìm hiểu cơ hội đầu tư (hội thảo, diễn

đàn DN, diễn đàn xúc tiến đầu tư…) của các nhà đầu tư nước ngoài bị trì hoãn. Nhu

cầu tiêu dùng, đặc biệt đối với các mặt hàng không thiết yếu giảm mạnh, làm cho

sản xuất bị đình trệ, hàng tồn kho lớn. Các nhà đầu tư mới do dự đưa ra các quyết

định đầu tư ở thời điểm này. Đối với các dự án đã đầu tư, các nhà đầu tư đã hoãn lại

việc tăng vốn đầu tư. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới dòng FDI trên toàn thế giới

trong đó có FDI của Nhật Bản vào Việt Nam.

Năm 2019 mặc dù sụt giảm về vốn đăng ký xuống gần 3 lần từ 8,3 tỷ USD năm

2018 xuống còn 2,93 tỷ USD nhưng vốn FDI bổ sung và số dự án mới do phía Nhật

Bản đầu tư vẫn tăng trưởng ấn tượng so với những năm trước, số dự án được cấp

phép là 435, cao nhất từ trước đến nay. Nguyên nhân của sự sụt giảm trên là do kinh

tế thế giới năm 2019 chững lại. Khi thị trường bị suy yếu, hoạt động của các DN

chế xuất của Nhật Bản tại Việt Nam cũng sụt giảm theo. (Báo cáo JETRO, 2019)

Mặc dù Việt Nam bị đánh giá là một trong những nước dễ bị tổn thương, chịu

nhiều rủi ro lây lan dịch bệnh Covid-19, nhưng quốc tế đánh giá cao sự chủ động và

quyết liệt của Việt Nam trong phòng, chống dịch này, cũng như việc Chính phủ tiếp

tục quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh. Do đó, so với các quốc gia khác

trong cùng khu vực, năm 2019, với việc kiểm soát tốt dịch bệnh, nền kinh tế Việt

Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, từ đó đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của

dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong đó có Nhật Bản.

Năm 2020 so với các năm trước thì dòng FDI Nhật Bản vào Việt Nam vẫn bị

ảnh hưởng đại dịch Covid – 19 tiếp tục lan rộng. Tuy nhiên, sau khi làn sóng bùng

65

phát thứ 2 của dịch COVID-19 được kiểm soát tốt, FDI Nhật Bản vào Việt Nam đã

bắt đầu có xu hướng gia tăng trở lại. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu

tư cho thấy vốn FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam năm 2020 đạt trên 2,3 tỷ USD với

272 dự án. Đáng chú ý, có tới 15 trong tổng số 30 DN nhận trợ cấp từ Chính phủ

Nhật Bản để chuyển dịch cơ sở sản xuất sang Đông Nam Á đã lựa chọn Việt Nam

làm điểm đến. Điều đó cho thấy các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng và nước ngoài

nói chung có niềm tin rất lớn về triển vọng của nền kinh tế Việt Nam.

Sự biến động đảo chiều liên tục của dòng vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ

sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 cho thấy, mặc dù chịu nhiều sự tác

động từ bên ngoài lẫn bên trong nền kinh tế, đặc biệt là đại dịch Covid 19 song Việt

Nam vẫn được đánh giá là thị trường tiềm năng hấp dẫn các nhà đầu tư Nhật Bản.

Theo kết quả khảo sát thực trạng của các DN Nhật Bản đầu tư tại Châu Á, Châu Đại

Dương năm tài chính 2020 của JETRO “Trong số 905 DN trả lời có 46,8%, tương

ứng khoảng 400 DN, có ý định tiếp tục chọn Việt Nam đầu tư mở rộng các chức năng

như sản xuất hàng hóa thông dụng, hàng hóa có giá trị cao, bán hàng, kho vận và

nghiên cứu”. So với mọi năm, tỉ lệ này thấp hơn nhưng vẫn đạt hạng cao trong khu

vực châu Á - châu Đại Dương [93].

Như vậy, lượng vốn FDI đăng ký Nhật Bản chảy vào Việt Nam từ sau khủng hoảng

tài chính toàn cầu cho thấy những cải thiện về kinh tế vĩ mô và tiềm năng tăng trưởng

của Việt Nam được các nhà đầu tư Nhật Bản rất kỳ vọng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại

những vấn đề về hình thức, cơ cấu đầu tư… được phân tích ở các mục tiếp theo.

3.1.1.2. Quy mô vốn FDI thực hiện

Cùng với Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản luôn là một trong ba nhà đầu tư nước

ngoài có vốn đầu tư lớn tại Việt Nam trong những năm qua. Nếu xét về quy mô vốn

đăng ký, thì vốn đầu tư FDI Nhật Bản đứng thứ 2 trong nhiều năm qua nhưng xét về tỉ

lệ giải ngân thì các nhà đầu tư Nhật Bản luôn đứng đầu. (Theo ông Đỗ Nhất Hoàng,

Cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài, 2020)

Theo đánh giá, nhà đầu tư Nhật Bản có thái độ đầu tư nghiêm túc, chấp hành

đúng các quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư về vốn đầu tư, tiến độ góp vốn và

tiến độ thực hiện dự án. Do vậy, thông thường các nhà đầu đăng ký và triển khai dự

án ngay sau đó, dẫn đến vốn thực hiện/vốn đăng ký của khối các DN Nhật Bản

66

chiếm tỷ lệ cao. Các DN chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, do vậy các hoạt

động đầu tư sau cấp phép như: xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị,

tuyển dụng lao động...đều chiếm tỷ lệ vốn lớn trong tổng vốn đầu tư.

3.1.1.3. Quy mô vốn dự án FDI

Sự biến đổi quy mô vốn dự án FDI Nhật Bản qua các giai đoạn một mặt thể hiện

phản ứng của các nhà đầu tư nước ngoài trước những thay đổi về điều kiện quốc tế,

khu vực cũng như những thay đổi về chiến lược của công ty mẹ ở nước ngoài. Mặt

khác, cho thấy phản ứng của họ trước những thay đổi về chính sách, môi trường đầu

tư và kinh doanh tại Việt Nam.

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư, 2020)

Hình 3.2: Quy mô vốn dự án FDI Nhật Bản vào Việt Nam

giai đoạn 2008 – 2020

Giai đoạn 2008 - 2013, quy mô vốn dự án FDI Nhật Bản vào Việt Nam có xu

hướng đảo chiều liên tục, trung bình giai đoạn này là 16,9 triệu USD/dự án. Chủ

yếu là do quy mô vốn dự án đăng ký năm 2008 cao, kéo trung bình giai đoạn ở mức

cao (năm 2008 quy mô vốn FDI Nhật Bản đăng ký đạt mức kỷ lục 43,18 tỷ USD/dự

án). Trong giai đoạn này, mặc dù chủ yếu là các dự án FDI Nhật Bản quy mô vừa

và nhỏ nhưng cũng đã bắt đầu có những tập đoàn lớn của Nhật Bản xuất hiện tại

Việt Nam với các sản phẩm có uy tín, có sức cạnh tranh và hàm lượng kỹ thuật cao,

trong đó, có nhiều sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu và tham gia tích cực vào xuất

67

khẩu. Năm 2013 trong lĩnh vực hóa dầu có dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn tại Thanh

Hóa, liên doanh giữa các đối tác Idemitsu Kosan Co., Ltd; Mitsui Chemicals, Inc

của Nhật Bản; Kuwait Petroleum Europe B.V của Cô Oét và Tập đoàn dầu khí của

Việt Nam; tổng vốn đầu tư ban đầu là 6,2 tỷ USD và đến nay dự án đã điều chỉnh

tăng vốn lên 9 tỷ USD [13].

Giai đoạn 2014 - 2018, quy mô vốn dự án FDI Nhật Bản đăng ký có xu hướng

tăng lên, nhưng trunh bình cả giai đoạn chỉ đạt 12,45 triệu USD/dự án, thấp hơn so

với giai đoạn 2008 -2013. Tuy nhiên, giai đoạn này xuất hiện nhiều dự án quy mô

lớn trên 1 tỷ USD từ các nhà đầu tư Nhật Bản. Riêng năm 2017 FDI Nhật Bản đã có

tới 3 dự án quy mô lớn bao gồm: Dự án khí Ô Môn “Lô B” (1,278 triệu USD); Nhà

máy nhiệt điện Vân Phong 2 (2,581 tỷ USD); Nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn 2

(2,793 tỷ USD). Tiếp theo đó năm 2018 dự án Smart city (Dự án thành phố thông

minh tại Đông Anh, Hà Nội của Sumitomo Coporation với tổng vốn 4,136 tỷ USD),

chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư từ các nước đối tác CPTPP. (VCCI, 2019) Nhờ sự

có mặt của các dự án quy mô lớn nên quy mô vốn dự án hai năm 2017, 2018 tăng

lên đáng kể lần lượt là 22,7 triệu USD/dự án và 18,8 triệu USD/dự án.

Giai đoạn 2019 - 2020, dưới ảnh hưởng của dịch Covid -19 nên số dự án đầu tư

cũng như quy mô dự án FDI từ Nhật Bản giảm nhiều so với năm 2017 - 2018 chỉ

còn 6-7 triệu USD/dự án, và không có dự án quy mô lớn nào được đầu tư trong giai

đoạn này.

Tính lũy kế đến tháng 12/2020, tuy đa số các DN Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam

là DN vừa và nhỏ, nhưng quy mô vốn bình quân 1 dự án của Nhật Bản là 13 triệu

USD/dự án, vẫn cao hơn so với bình quân đầu tư 1 dự án nước ngoài đầu tư tại Việt

Nam là 11,6 triệu USD/dự án. (Tính toán từ số liệu của Cục đầu tư nước ngoài,

2020).

Như vậy, từ sau năm 2008, mặc dù đã có những dự án quy mô trên 1 tỷ USD

nhưng đa số các dự án FDI Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam vẫn là dự án vừa và nhỏ.

Do chuỗi cung ứng của các DN Nhật Bản lớn ở Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện, khi

các DN lớn vào mà không đủ nguồn cung cấp nguyên phụ liệu sẽ không tạo điều

kiện cho họ sản xuất, và lợi thế đầu tư của các DN Nhật Bản lớn vào Việt Nam sẽ bị

mất dần đi. Vì vậy, việc các DNNVV Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam là cần thiết

68

nhằm cung cấp những nguyên phụ liệu cần thiết cho các tập đoàn quy mô lớn, các

DNNVV Nhật Bản sẽ đi theo và làm vệ tinh cho DN lớn, tạo thành chuỗi cung cấp

để tăng tỉ lệ hóa nội địa cho các DN này. Ngoài ra, bên cạnh các chính sách hợp tác

ở tầm quốc gia, những năm gần đây việc xúc tiến đầu tư thương mại giữa các địa

phương của Nhật Bản và Việt Nam liên tục gia tăng, tạo thêm những cơ hội thu hút

các nhà đầu tư vừa và nhỏ vào Việt Nam.

3.1.2. Hình thức đầu tư FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 2008 đến nay

Luật đầu tư năm 2005 mở ra nhiều hình thức đầu tư, cho phép nhà đầu tư góp

vốn mua cổ phần, mua lại hoặc sáp nhập DN, tham gia quản lý theo luật của DN.

Tuy nhiên, tại Việt Nam hình thức 100% vốn nước ngoài vẫn luôn có xu hướng áp

đảo, luôn chiếm tỷ trọng trên 60%, và đối với Nhật Bản cũng không ngoại lệ.

Nếu như trong những giai đoạn đầu, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam chủ yếu thực

hiện dưới hình thức liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh, thì càng về sau đầu tư

dưới hình thức công ty 100% vốn nước ngoài càng ngày càng chiếm tỉ trọng cao.

Hình 3.3: Hình thức FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2008 - 2020

Năm 2009 các dự án của Nhật Bản tại Việt Nam theo hình thức 100% vốn nước

ngoài có 86 dự án chiếm 73,7% tổng số dự án, thì đến năm 2020 hình thức này đã

chiếm tới hơn 90% tổng vốn đâu từ từ Nhật Bản.

Theo số liệu thống kê của Cục đầu tư nước ngoài năm 2020, tính lũy kế đến hết

năm 2020, hình thức 100% vốn nước ngoài từ Nhật Bản lên tới 3.916 dự án, tổng

vốn đầu tư đạt gần 35,84 tỷ USD chiếm 83,67% tổng số dự án và 56,98% tổng vốn

đầu tư. Hình thức này chiếm tỉ lệ khá cao vì ít đem lại rủi ro cho nhà đầu tư nếu DN

69

hoạt động không hiệu quả. Ngoài ra, hình thức này sẽ giúp nhà đầu tư Nhật Bản làm

chủ được công nghệ, tự chủ trong sản xuất kinh doanh mà không lệ thuộc vào đối

tác liên doanh.

Đứng thứ hai là hình thức liên doanh với 735 dự án, tổng vốn đầu tư là gần 22 tỷ

USD chiếm 15,7% tổng số dự án và 34,97% tổng vốn đầu tư. Hình thức hợp tác liên

doanh là hình thức DN Nhật Bản và Việt Nam hợp tác liên doanh theo phương thức

cùng khai thác sản phẩm và dịch vụ dựa trên nguyên tắc luân phiên sử dụng nhãn

hiệu hay thương hiệu của các bên, và lợi nhuận chia theo thỏa thuận. Có thể kể đến

các dự án như Mekong Auto - Công ty Liên doanh ô tô đầu tiên chuyên sản xuất và

lắp ráp ô tô tại Việt Nam bao gồm các bên liên doanh Saeilo Machinery Japan Inc

(Nhật Bản) - Young International Inc (Nhật Bản) - Veam (Việt Nam) - Sakyno (Việt

Nam); Công viên tri thức Việt - Nhật (Vija Brain Park) do Công ty Cổ phần phát triển

nguồn lực Việt - Nhật làm chủ đầu tư với tổng số vốn 610 triệu USD... Ngoài ra, Nhật

Bản còn liên doanh với các công ty nước ngoài khác đang hoạt động ở Việt Nam như

Nhật Bản - Singapore, Nhật Bản - Mĩ, Nhật Bản - Hồng Kông [53]. Các hình thức đầu

tư còn lại chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng vốn FDI từ Nhật Bản.

Bảng 3.1 : Cơ cấu đầu tư trực tiếp theo hình thức đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam

(Tính lũy kế đến hết tháng 12 năm 2020)

Đơn vị: Triệu USD

STT Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư

1 100% vốn nước ngoài 3.916 35.841,62

2 Liên doanh 735 21.996,73

3 Hợp đồng BOT, BT, BTO 3 3.374,25

4 Hợp đồng hợp tác KD 26 1.693,55

Tổng 4.680 62.906,16

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch đầu tư, 2020)

Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, nhiều DN Nhật Bản đã từng bước thâm

nhập vào thị trường Việt Nam thông qua M&A. Số lượng giao dịch giữa DN Nhật

Bản vào Việt Nam về mua bán, sáp nhập, đầu tư vốn cổ phần đã đạt kỷ lục trong 2

năm gầy đây. Nếu như 4 năm: 2015-2018 có khoảng 20 - 25 giao dịch, thì từ đầu

năm 2019 đến tháng 12/2020 đã có 26 giao dịch. Các công ty Nhật Bản càng quan

70

tâm đến Việt Nam, đặc biệt là sản xuất và dịch vụ. Các giao dịch đáng chú ý như:

Công ty CP chế tạo thuốc Taisho mua cổ phần của Công ty dược Hậu Giang; Công

ty Misui Corp mua cổ phần của Công ty thuỷ sản Minh Phú; Sumitomo Corp mua

cổ phần của Gemadept… (VCCI - 2020)

Một số DN Nhật Bản đã thành công trong việc hợp nhất thương hiệu sản phẩm

hoặc dịch vụ của mình với các thương hiệu của các DN địa phương tại Việt Nam mà

họ đã mua để cả hai công ty có thể tăng sự hấp dẫn thương hiệu của mình tại thị

trường Việt Nam. Điển hình như trong các lĩnh vực phát triển bất động sản, tài chính.

Với sự hấp dẫn của một thị trường mới nổi, Việt Nam đang là điểm đến hàng đầu

của các nhà đầu tư Nhật Bản trong hoạt động mua bán, sáp nhập DN (M&A), nhưng

thực tế số lượng giao dịch vẫn còn rất ít, giá trị giao dịch chưa lớn. Thêm vào đó,

nhiều DN Việt Nam không trả lời rõ ràng được các câu hỏi của nhà đầu tư Nhật Bản

về M&A, không nhìn ra bức tranh sau M&A sẽ là như thế nào. Do đó, việc đầu tiên

các DN Việt Nam cần phải hiểu cách tiếp cận của các nhà đầu tư Nhật Bản qua hình

thức M&A, nắm chắc số liệu và những diễn biến trong DN của mình. Tiếp nữa, các

DN Việt Nam cần phải cải thiện giá trị thương hiệu bằng cách quảng bá các công

nghệ và bí quyết từ các đối tác nước ngoài khi tham gia vào các hoạt động đầu tư cổ

phần hoặc thành lập liên doanh.

Như vậy, với xu hướng cơ cấu đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài từ

Nhật Bản vào Việt Nam chiếm tỷ trọng cao, điều này thể hiện sự tin tưởng hơn của

nhà đầu tư Nhật Bản vào môi trường đầu tư tại Việt Nam, họ có xu hướng hoạt

động độc lập mà không phải dựa vào đối tác trong nước để khai thác các yếu tố

thuận lợi như giai đoạn trước khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đây có thể là sự phát

triển ở mức cao hơn của FDI Nhật Bản tại Việt Nam.

Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài từ

Nhật Bản sẽ tạo ra nhiều áp lực lấn át các DN trong nước, đồng thời cản trở tác động

lan tỏa của FDI từ Nhật Bản về công nghệ, khả năng chuyển giao kinh nghiệm quản

lý. Thực tế cho thấy, Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong việc thúc đẩy chuyển

giao công nghệ, học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng và bí kíp kinh doanh từ Nhật Bản.

Thông qua hình thức liên doanh, Việt Nam có thể đạt được các mục tiêu này. Còn với

71

hình thức 100% vốn Nhật Bản, kỹ sư, nhà quản lý Việt Nam rất hạn chế trong việc

chuyển giao công nghệ cũng như học hỏi những kinh nghiệm quản lý.

3.1.3. Cơ cấu đầu tư FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 2008 đến nay

3.1.3.1. Cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực

Các yếu tố đặc trưng của điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế Nhật Bản cũng

như các yếu tố môi trường đầu tư của Việt Nam trong từng giai đoạn ảnh hưởng sâu

sắc tới tỷ lệ phân bổ vốn FDI Nhật Bản vào các ngành tại Việt Nam. Nhật Bản là một

quốc gia khan hiếm tài nguyên thiên nhiên, nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào sự

phát triển của công nghệ và các lĩnh vực công nghiệp. Do đó, FDI Nhật Bản chủ yếu

tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng, tiếp đến kinh

doanh bất động sản, dịch vụ. Đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp không đáng kể.

Lúc đầu các DN Nhật Bản đầu tư chủ yếu vào các ngành khai thác tài nguyên,

sau đó chuyển dần đầu tư vào các ngành chế tạo (như điện tử, tin học, sản xuất ô tô,

xe máy và các linh kiện phụ tùng khác), gần đây các DN Nhật Bản có xu hướng

chuyển sang đầu tư nhiều hơn vào các ngành dịch vụ, xây dựng (như phân phối, bán

lẻ, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…) và nông nghiệp.

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, 2020

Hình 3.4: Tỷ trọng vốn FDI Nhật Bản theo lĩnh vực đầu tư

giai đoạn 2008 – 2020

Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, cùng với việc thay đổi các yếu tố

môi trường đầu tư, Việt Nam đã có những điều chỉnh chính sách nhằm thu hút FDI

vào các ngành mục tiêu, từ đó các nhà đầu tư Nhật Bản cũng đã đa dạng hóa lĩnh

72

vực đầu tư hơn tại Việt Nam song cơ cấu vốn FDI của Nhật Bản vẫn còn nhiều bất

hợp lý, vẫn còn có sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư theo ngành. Trong cả giai

đoạn 2008 - 2020, ngành công nghiệp và xây dựng vẫn là lĩnh vực thu hút được

nhiều vốn FDI Nhật Bản nhất trung bình trên 84,4%/năm, sau đó đến ngành dịch vụ

chiếm trung bình 33%/năm, cuối cùng là ngành nông nghiệp dịch vụ vẫn chiếm tỷ

trọng đầu tư thấp nhất với trên 17%/năm. Vốn FDI quá tập trung trong ngành công

nghiệp, xây dựng, bất động sản trong khi đầu tư vào các lĩnh vực nông lâm nghiệp

thủy sản còn quá nhỏ bé so với nhu cầu và tiềm năng phát triển. Tỷ trọng vốn đầu tư

tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, bất động sản đã phần nào góp phần

cải thiện cơ sở hạ tầng của Việt Nam, tuy nhiên những ngành dịch vụ như tài chính,

ngân hàng, tín dụng, tư vấn về kỹ thuật ... đang là mục tiêu phát triển thì lại chưa

được quan tâm đúng mức [65].

Theo cục đầu tư nước ngoài, tính đến nay (hết năm 2020), các dự án FDI của

Nhật Bản được triển khai trên 19 ngành, lĩnh vực, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực

Nhật Bản có thế mạnh và đang tăng cường tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài

như: công nghiệp chế biến, chế tạo được đầu tư nhiều nhất với 1.830 dự án (chiếm

33,55% tổng số dự án) với tổng vốn đầu tư 40,62 tỷ USD (chiếm 59,5% tổng vốn

đầu tư); đứng thứ hai là lĩnh vực hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ có

697 dự án chiếm 14,89% tổng số dự án với tổng vốn đầu tư là 738,04 triệu USD

chiếm hơn 1,17% tổng vốn đầu tư; thứ ba là bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô

xe máy có 692 dự án chiếm 14,79% tổng số dự án với tổng số vốn hơn 1,9 tỷ USD

chiếm 3,03% tổng vốn đầu tư.

73

Bảng 3.2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp theo ngành của Nhật Bản tại Việt Nam

(Lũy kế đến hết tháng 12/2020)

Đơn vị: Triệu USD

Tổng số dự án Tỷ trọng dự án (%) Tỷ trọng vốn đăng ký (%) Các ngành đầu tư

TT 1 Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 2 Xây dựng 3 Vận tải kho bãi 4 Thông tin và truyền thông 22 174 120 641 Tổng vốn đăng ký 46,49 1.392,52 556,91 515,47 0,47 3,72 2,56 13,70 0,07 2,21 0,89 0,82

5 19 0,41 7.403,05 11,77

Sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa Nông nghiêp, lâm nghiệp và thủy sản

6 7 Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 8 Khai khoáng 44 23 9 0,94 0,49 0,28 240,71 55,60 1.398,51 0,38 0,09 2,22

9 13 0,28 117,30 0,19

10 1 0,02 3,00 0,00

11 98 2,09 7.025,16 11,17

Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Hoạt đông làm thuê các công việc trong các hộ gia đình Hoạt động kinh doanh bất động sản Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ

12 13 Hoạt động dịch vụ khác 72 20 1,54 0,43 84,17 37,54 0,13 0,06

Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ

14,89 1,88 2,09

14 15 Giáo dục và đào tạo 16 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 17 Công nghiệp chế biến, chế tạo 18 Cấp nước và xử lý chất thải 697 88 98 1.830 19 738,04 78,58 416,58 39,10 40.621,38 268,37 0,41 1,17 0,12 0,66 64,57 0,43

19 14,79

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Tổng số 3,03 100 692 4,680 1.906,78 100 62.906,16

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư, 2020)

74

Những ngành có số dự án đăng ký ít nhưng tổng lượng vốn đăng ký nhiều như

hoạt động kinh doanh bất động sản có 98 dự án, với tổng số vốn đăng ký là hơn 7 tỷ

USD; sản xuất phân phối điện, khí nước, điều hòa có 19 dự án với tổng số vốn đăng

ký là 7,4 tỷ USD. Có thể nói xu hướng chủ đạo dòng FDI Nhật Bản vẫn là đầu tư

vào các ngành sản xuất và xây dựng, ngành mà quốc gia này có thế mạnh, chiếm

đến hơn 80% tổng dòng vốn. Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản tập trung quá nhiều vào

lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là do thế mạnh của các nhà đầu tư Nhật Bản

chính là lĩnh vực công nghiệp.

Các lĩnh vực mà DN Nhật có xu hướng quan tâm đầu tư lâu dài vào Việt Nam:

Ngành Công nghiệp - xây dựng:

Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, đây là một trong 6 lĩnh vực được Việt

Nam ưu tiên kêu gọi đầu tư nước ngoài, nhất là các nhà đầu tư Nhật Bản. Trong số

các lĩnh vực đầu tư, lĩnh vực chế biến, chế tạo được các DN Nhật Bản quan tâm

nhiều nhất. Cho đến nay, nhiều tập đoàn lớn của Nhật Bản đã có mặt tại Việt Nam

với các sản phẩm có uy tín, có sức cạnh tranh và hàm lượng kỹ thuật cao, trong đó,

có nhiều sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu và tăng cường vào xuất khẩu và góp

phần thúc đẩy tăng trưởng ở Việt Nam như: trong sản xuất lắp ráp điện tử có các

hãng như Cannon; Panasonic, Sanyo…; trong công nghiệp ô tô và xe máy, Nhật

Bản là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia nhiều vào ngành công nghiệp

sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy ở Việt Nam với nhiều DN có vốn đầu tư của Nhật

đang dẫn đầu thị trường tiêu thụ tại Việt Nam, như Toyota Việt Nam; Honda Việt

Nam; Yamaha Việt Nam; Suzuki Việt Nam…; trong lĩnh vực hóa dầu có dự án Lọc

hóa dầu Nghi Sơn tại Thanh Hóa, liên doanh giữa các đối tác Idemitsu Kosan Co.,

Ltd; Mitsui Chemicals, Inc của Nhật Bản; Kuwait Petroleum Europe B.V của Cô

Oét và Tập đoàn dầu khí của Việt Nam. Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng cũng

đã thu hút được các dự án lớn của Nhật Bản như Công ty xi măng Nghi sơn tại

Thanh Hóa do Tập đoàn NM Cement liên doanh với Tổng Công ty xi măng Việt

Nam, dự án sản xuất kính nổi tại Bắc Ninh của Tập đoàn Nippon Sheet Glass và

Toyota Tsusho liên doanh với Công ty Viglacera.

Đến nay, hầu hết các tập đoàn sản xuất lớn của Nhật Bản đã có mặt ở Việt Nam

và dòng vốn FDI chảy thêm vào lĩnh vực sản xuất chế tạo ở Việt Nam sẽ đến từ các

75

dự án đầu tư mở rộng. (Theo Ông Takeo Nakajima Trưởng đại diện Cơ quan Hợp

tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam)

So với các nước trong khu vực thì xu hướng đầu tư của Nhật Bản theo lĩnh vực

vào các nước Đông Nam Á tương đồng như Việt Nam. FDI Nhật vào các ngành

công nghiệp chế biến, chế tạo cũng giống như Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng cao

nhất, ngoại trừ Singapore còn lại đều đạt trên 60% trong tổng vốn FDI Nhật Bản

vào nước đó.

Nguồn: Ngân hàng Trung ương Nhật Bản – BOJ

Hình 3.5: FDI Nhật Bản vào một số nước ASEAN theo lĩnh vực đầu tư

Lĩnh vực công nghệ thông tin - điện tử mặc dù tỷ trọng vốn FDI Nhật Bản đầu tư

chưa nhiều lũy kế đến hết năm 2020 mới có 1.050,4 tỷ USD chiếm gần 1,7% tổng vốn

đầu tư, nhưng năm 2020, vốn đầu tư từ Nhật Bản đã được cải thiện, chảy mạnh vào lĩnh

vực công nghệ thông tin, điện tử, công nghệ số. Đến nay có thể kể đến các dự án Hợp

doanh giữa Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam với Tập đoàn NTT, Công ty

sản xuất máy tính Fujitsu và các công ty Canon, Sony, Matsushita, Sumitomo, Sanyo.

Lĩnh vực xây dựng FDI từ Nhật Bản đã đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ

tầng các khu công nghiệp tại Việt Nam như: Khu công nghiệp Nomura (Hải phòng),

Khu công nghiệp Thăng Long (Hà Nội), Khu công nghiệp Thăng Long II (Hưng

Yên), Khu công nghiệp Thăng Long (Vĩnh Phúc) và Khu công nghiệp Long Bình

(Đồng Nai). Đáng chú ý trong đó Tập đoàn Sumitomo đã đầu tư xây dựng ba khu

76

công nghiệp Thăng Long với gần 200 DN hoạt động sản xuất, trong đó 90% là các

DN đến từ Nhật Bản [39].

Tuy nhiên, nhìn tổng thể có thể thấy, nếu trước đây FDI của Nhật Bản thường

tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thì giai đoạn gần đây đã hướng

dần sang các lĩnh vực dịch vụ (bán lẻ, phi ngân hàng như công ty tài chính, công ty

cho thuê tài chính và tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác), và có lẽ đây chính là xu

hướng đầu tư chính của các nhà đầu tư Nhật Bản trong tương lai.

Ngành dịch vụ:

Thời gian qua dòng vốn FDI từ Nhật Bản vào hoạt động sản xuất phục vụ thị

trường Việt Nam tăng lên, hiện tại có rất nhiều DN Nhật Bản đầu tư vào lĩnh vực

dịch vụ tại Việt Nam. Thị trường bán lẻ Việt Nam trước khi xảy ra dịch Covid-19

luôn có mức tăng trưởng hai con số. Cụ thể mức tăng của những năm 2019 trở về

trước là trên 10%/năm. Đáng chú ý, năm 2020 dù bị ảnh hưởng của đại dịch nhưng

doanh số đạt hơn 172 tỉ đô la, tăng 6,8% so với năm 2019. Nếu duy trì được tốc độ

tăng trưởng cao như những năm qua thì chỉ trong hai năm nữa, thị trường bán lẻ

Việt Nam có thể cán mốc 200 tỉ đô la. (JETRO, 20220)

Lĩnh vực bán lẻ Việt Nam hiện là một thị trường đang thu hút sự quan tâm lớn

nhất của giới DN Nhật Bản. Trong mục tiêu chinh phục thị trường tiêu dùng Việt

Nam gần 100 triệu dân, tư duy kinh doanh của các DN Nhật Bản có khuynh hướng

thúc đẩy bán lẻ nhiều hơn, thay vì tập trung đầu tư sản xuất. Trong lĩnh vực bán lẻ

hiện có rất nhiều tập đoàn nổi tiếng của Nhật Bản đã có mặt ở Việt Nam như:

AEON, Uniqlo, Muji, Miki House…

Xu hướng FDI Nhật Bản đổ vào thị trường bán lẻ tại Việt Nam những năm gần

đây là do:

Thứ nhất, điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam đang dần thay đổi theo hướng tích

cực, tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm liền khiến tầng lớp trung lưu của

Việt Nam tăng nhanh chóng, nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng tăng mạnh và dự

báo tiếp tục có sự tăng trưởng vượt bậc so với các quốc gia trong khu vực và thế giới

thời gian tới. Theo Báo cáo Việt Nam 2035 của Ngân hàng Thế giới, nền kinh tế Việt

Nam với quy mô 200 tỷ USD hiện nay sẽ đạt khoảng gần 1.000 tỷ USD vào năm

77

2035 và trên nửa số dân dự kiến sẽ gia nhập tầng lớp trung lưu toàn cầu. Điều đó tạo

ra sức hút rất lớn đối với nhà đầu tư Nhật Bản vào lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam.

Thứ hai, Việt Nam có lợi thế nhờ thị trường lớn với quy mô dân số hơn 96 triệu

người, quy mô dân số dự kiến là 100 triệu người vào 2025 với thu nhập trung bình

của người dân tăng nhanh, diện tích bán lẻ hiện đại bình quân đầu người thấp hơn

các nước khác...nên sức hút đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ là rất lớn. Đó cũng là lý do

Uniqlo, Aeon và nhiều tập đoàn nổi tiếng khác của Nhật Bản tập trung vào thị

trường Việt Nam.

Thứ ba, theo thông tin từ Bộ Nội vụ & Truyền thông Nhật Bản năm 2020, dân

số Nhật Bản đã giảm năm thứ 11 liên tiếp, tỷ lệ giảm lớn nhất trong lịch sử thống

kê. Áp lực này là một trong những nguyên nhân khiến nhiều nhà bán lẻ Nhật phải

mở rộng sang những quốc gia có quy mô lớn, dân số trẻ như Việt Nam.

Lĩnh vực logistics Việt Nam ngày càng trở nên sôi động hơn từ những thương vụ

có vốn đầu tư lớn giữa DN Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có

Nhật Bản. Hiện nay ở Việt Nam có hơn 1.300 DN logistics, DN nước ngoài chỉ

chiếm tỷ lệ rất nhỏ, từ 2 - 3% tổng số DN logistics, nhưng lại nắm giữ 70 - 80% thị

phần của ngành, trong đó các DN Nhật Bản chiếm gần 40%. (Jcch - 2020)

Lĩnh vực kinh doanh bất động sản tại Việt Nam là lĩnh vực mà nhà đầu tư Nhật Bản

rót vốn vào thị trường này đã từ rất sớm nhưng chỉ thực sự ồ ạt và tăng mạnh trong

những năm gần đây. Đến nay các nhà đầu tư Nhật Bản liên tục đầu tư vào nhiều dự án

lớn trong lĩnh vực bất động sản trong cả nước để phát triển nhiều dự án khu dân cư hiện

đại như Nam Long, An Gia, Tiến Phát, Hòa Bình, Phúc Khang, BRG... Không dừng lại

ở đó, các nhà đầu tư Nhật Bản hiện nay đang dành nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển

các dự án khách sạn, nghỉ dưỡng tại Đà Nẵng và Phú Quốc. VCBS (2020)

Vốn FDI Nhật Bản đầu tư vào thị trường bất động sản ngày càng tăng mạnh là

do các thành phối lớn như Hà Nội hay TP.HCM đều có quy mô dân số và quy mô

kinh tế khá lớn. Với sự tăng trưởng kinh tế ổn định dẫn đến việc mở rộng tầng lớp

trung lưu và thúc đẩy nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, tiếp tục gia tăng nhu cầu về

nhà ở và bất động sản khác. Thêm nữa, trước đây Trung Quốc là điểm đến ưa thích

của nhà đầu từ Nhật Bản, nhưng khi giá nhân công và căng thẳng với Trung Quốc

lên cao, từ năm 2013 các công ty Nhật Bản chuyển hướng đầu tư sang khu vực

78

Đông Nam Á. Trong xu thế này, thị trường bất động sản Việt Nam hấp dẫn nhà đầu

tư Nhật Bản không chỉ bởi yếu tố dân số trẻ mà còn ở tốc độ đô thị hóa. Tốc độ đô

thị hóa tại Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015 đạt 3%, ngang với Thái Lan và cao hơn

Indonesia, Singapore và Philippines, giai đoạn 2015-2020 là 2,6% và giai đoanh

2020 - 2025 dự kiến là 2,2%, cao nhất trong khu vực. VCBS (2020)

Chính sự hợp tác giữa DN trong nước với các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ tạo động

lực để phát triển, tạo sự bùng nổ cho thị trường bất động sản trong thời gian tới.

Không xuất hiện các ông lớn như trong lĩnh vực bán lẻ, nhưng đến nay FDI Nhật

Bản cũng thâm nhập vào các lĩnh vực dịch vụ khác như thực phẩm, du lịch, tài

chính - ngân hàng.

Lĩnh vực tài chính ngân hàng, đến nay Nhật Bản có 15 chi nhánh và văn phòng đại

diện các ngân hàng tại Việt Nam. Sự xuất hiện các Tập đoàn Tài chính - Ngân hàng

của Nhật Bản tại Việt Nam góp phần thu hút các nhà đầu tư của Nhật Bản, đang là các

khách hàng của Ngân hàng mẹ tại chính quốc đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam, cung

cấp thông tin thị trường và môi trường đầu tư, tư vấn, tài trợ vốn theo dự án, tài trợ

thương mại, … cho các nhà đầu tư Nhật Bản triển khai dự án tại Việt Nam.

Lĩnh vực du lịch cũng là lĩnh vực rất triển vọng để thu hút nguồn vốn đầu tư

Nhật Bản. Song, từ năm 2019 do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên thu hút FDI

vào du lịch ở Việt Nam có độ trễ hơn so với các lĩnh vực khác.

Ngành nông lâm thủy sản:

Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nhật Bản và Việt Nam có

nhiều điểm tương đồng. Do đó, cùng với lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực nông nghiệp của

Việt Nam cũng bắt đầu được các nhà đầu tư Nhật Bản chú ý. Tuy nhiên, theo thống

kê của Cục đầu tư nước ngoài, tính đến hết năm 2020, hiện nay mới có 44 DN Nhật

Bản đầu tư vào lĩnh vực nông lâm thủy sản của Việt Nam với tổng giá trị đầu tư là

240 triệu USD, chiếm có 0,38% tổng vốn đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam. Như

vậy, số dự án, số vốn đầu tư trên thực tế được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm

năng mong đợi, quy mô đầu tư chưa lớn, đặc biệt là còn thiếu các dự án nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam ngày càng nhận được sự quan tâm lớn của

các nhà đầu tư Nhật Bản là do nhu cầu sử dụng nông sản sạch, nông sản chất lượng

79

cao của người dân Việt Nam hiện đang rất lớn. Nhật Bản vốn là một nước có nền

nông nghiệp phát triển, vì thế nhà đầu tư Nhật Bản có nhiều lợi thế về phát triển nông

nghiệp. Đồng thời, những năm gần đây Nhật Bản có xu hướng mở cửa cho hàng nông

sản vào thị trường Nhật Bản, mà một trong những kênh cung cấp đáng tin cậy là các

cơ sở nông sản nước ngoài có vốn đầu tư của Nhật Bản. Đây là một tín hiệu tốt, tạo

cơ hội để Việt Nam phát triển ngành dịch vụ và nông nghiệp chất lượng cao.

Hiện Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới về xuất khẩu nông sản, trong đó Nhật Bản

nhập khẩu khoảng 3,5 tỷ USD nông sản của Việt Nam. Con số này còn quá khiêm tốn so

với tiềm năng phát triển của hai nước. Nếu hai nước có sự hợp tác chặt chẽ trong lĩnh

vực khoa học công nghệ, đặc biệt với những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của

Nhật Bản, Việt Nam và Nhật Bản sẽ tạo nên chuỗi giá trị lớn trong nông nghiệp [12].

Có thể kể đến một số dự án FDI Nhật Bản vào lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam

như Tập đoàn Kato đang hợp tác với tỉnh Bình Định trong việc thực hiện dự án trị giá

771.000 USD về đánh bắt cá ngừ, đến năm 2020. Hay Công ty Shudensha với dự án trị

giá 820.000 USD, nhằm cải thiện chất lượng nước nuôi trồng thủy sản, được thực hiện

từ năm 2015 và kéo dài đến 2020. Còn tại Lâm Đồng, Công ty Nikko Foods đang thực

hiện dự án trị giá 820.000 USD về phát triển cà chua chất lượng cao… Ngoài ra, một

số DN Nhật Bản đang đầu tư vào nông nghiệp ở Đà Lạt, trồng chè ở Mộc Châu, trồng

rau ở khu vực phía Bắc, và trồng giống lúa Japonica.

Thêm vào đó, do sức ép của CPTPP Nhật Bản tiếp tục tích cực mở rộng các dự án

đầu tư vào nông nghiệp tại Việt Nam. Cụ thể, khi tham gia CPTPP, Nhật Bản phải

mở cửa hầu như hoàn toàn ngành nông nghiệp cho các nước thành viên CPTPP, xóa

bỏ bảo hộ nông nghiệp. Do vậy, các sản phẩm nông nghiệp của Nhật Bản sẽ phải

cạnh tranh khốc liệt về giá với các sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ các nước TPP

khác. Trong khi đó, khả năng sản xuất nông nghiệp của Nhật Bản lại khá hạn chế.

Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, nông nghiệp Nhật Bản sẽ không sống nổi. Trong

bối cảnh đó, Nhật Bản đã quyết định đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam,

sau đó sẽ xuất sản phẩm nông nghiệp vào chính thị trường Nhật Bản. Vì Việt Nam

cũng là nước thành viên, lại có tiềm năng sản xuất nông nghiệp rất lớn: khi sản xuất

tại Việt Nam, DN Nhật Bản sẽ được phép xuất khẩu nông sản ngược lại Nhật Bản để

hưởng mức thuế nhập khẩu 0%; đồng thời, các DN Nhật Bản có thể đáp ứng được

80

điều kiện quy định trong CPTPP là các sản phẩm xuất khẩu phải có 70% hàm lượng

nguyên liệu xuất xứ từ nội khối CPTPP. Bên cạnh đó, Nhật Bản và Việt Nam có

những điều kiện bổ sung lý tưởng cho nhau trong phát triển nông nghiệp. Lực lượng

lao động Nhật Bản trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 3-4% dân số, lại đa

số là người cao tuổi. Điều kiện tự nhiên, khí hậu của Nhật Bản rất khắc nghiệt, không

thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhưng Nhật Bản có thế mạnh về phát triển nông

nghiệp công nghệ cao. Trong khi đó, Việt Nam có tới 70% dân số sống ở vùng nông

thôn, đa số là lao động trẻ. Việt Nam có điều kiện tự nhiên, khí hậu rất thuận lợi cho

phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, Việt Nam còn đang gặp nhiều khó khăn trong phát

triển nông nghiệp: thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu kinh nghiệm, trình độ của người

lao động còn thấp kém. Trong tình hình đó, Việt Nam là một trong những lựa chọn lý

tưởng để DN Nhật Bản hợp tác phát triển nông nghiệp.

Như vậy, mặc dù quy mô trung bình của các dự án FDI Nhật Bản vào các ngành

còn nhỏ, vẫn còn sự mất cân đối trong phân bổ lượng vốn giữa các lĩnh vực, song

cho đến nay đã có nhiều tập đoàn lớn của Nhật Bản đã có mặt tại Việt Nam với các

sản phẩm có uy tín, có sức cạnh tranh và hàm lượng kỹ thuật cao, trong đó có nhiều

sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu và tham gia tích cực vào xuất khẩu.

3.1.3.2. Cơ cấu đầu tư theo địa phương, vùng kinh tế

Thời gian đầu khi vào Việt Nam các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu quan tâm đến

khu vực đồng bằng, nơi tập trung nhiều dân cư và nhu cầu tiêu dùng cao, lúc này

dòng vốn cũng chỉ chú trọng vào những đô thị lớn và vùng lân cận như thành phố

Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai, nơi có cơ sở hạ tầng

thuận lợi và nguồn nhân lực có trình độ. Sau đó, phạm vi đầu tư được mở rộng dần

ra các tỉnh thành khác.

Trước khủng hoảng tài chính toàn cầu, năm 2007 và 2008 DN Nhật Bản chỉ đầu

tư sản xuất ở 27 tỉnh, thành phố thì sau khủng hoảng tài chính, năm 2009 con số này

đã tăng lên thành 39 tỉnh, thành phố. Tuy vậy, lúc này vẫn có sự phân hóa khá mạnh

về mức đầu tư giữa các khu vực. Các DN Nhật vẫn có xu hướng đầu tư mạnh vào

một số khu vực trung tâm và những địa bàn có cơ sở hạ tầng tốt, năm 2009 trong số

39 tỉnh đầu tư có tới 12 tỉnh chỉ có duy nhất một DN Nhật Bản, 26 tỉnh có dưới năm

DN Nhật hiện diện. Trong khi đó chỉ tính riêng ba địa phương Hà Nội, thành phố

81

Hồ Chí Minh và Bình Dương đã có tới 619 DN Nhật, chiếm gần 70% tổng số DN

Nhật Bản ở Việt Nam thời điểm đó [49].

Sau năm 2008, dòng FDI Nhật Bản có xu hướng dịch chuyển mạnh ra miền Bắc do

sự hình thành và phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp, khu chế xuất trong khu vực

này như: Khu công nghiệp Thăng Long, Khu công nghiệp Sài Đồng - Gia Lâm, Khu

công nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội), Khu công nghiệp Nomura (Hải Phòng).

Tính đến hết tháng 12 năm 2020, FDI Nhật Bản đã có mặt ở 57/63 tỉnh, thành phố

trong cả nước. Các dự án đầu tư của Nhật Bản vào ngành công nghiệp nặng có mặt ở

hầu hết các tỉnh thành và tập trung ở các khu công nghiệp như: Hải Phòng, Đồng Nai,

Vĩnh Phúc, Hải Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu…Trong khi ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ

tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Bảng 3.3: Tỷ trọng vốn đăng ký của 10 địa phương đứng đầu về thu hút FDI

Nhật Bản trong năm 2010, 2015 và 2020

Đơn vị: %

Năm 2010

Năm 2015

Năm 2020

Địa phương

Tỷ trọng vốn ĐK

Tỷ trọng vốn ĐK

Địa phương

Tỷ trọng vốn ĐK

ST T 1 Nghệ An

17,68 Hà Nội

21,70

2 Cà Mau

Địa phương 40,54 Quảng Ninh T.P Hồ Chí Minh

22,68

17,49

T.P Hồ Chí Minh

3

11,43 Hưng Yên T.P Hồ Chí Minh

9,85

16,87

5,10 Hà Nội Bà Rịa - Vũng Tàu

5,03 4,39 Bình Dương 4,19 Hưng Yên 3,22 Hải Phòng

8,74 Hà Nam 8,42 Vĩnh Long 7,71 Đồng Nai 6,18 Long An

11,80 6,07 3,70 3,60

4 Hưng Yên 5 Hà Nội 6 Bắc Ninh 7 Long An Bà Rịa - 8 Vũng Tàu 9 Đồng Nai

2,78 Long An 2,26 Đồng Nai

3,22 2,75

10 Đăk Lăk

2,01 Yên Bái 92,21

4,49 Hải Phòng 4,34 Bắc Ninh Bà Rịa - Vũng Tàu

4,04 82,87

2,73 89,93

Tổng 10 tỉnh Còn lại các tỉnh

10,7

7,19

17,13

(Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu Cục Đầu tư nước ngoài, 2020)

82

Tỷ trọng trọng vốn đăng ký ở 10 tỉnh thu hút FDI Nhật Bản lớn nhất cả nước có

xu hướng giảm qua các năm từ 92,2% năm 2010 xuống còn 82,87% năm 2015, và

ổn định quanh mức này cho các năm sau. Đến năm 2020, tỷ trọng này là 89,93%.

Điều này cho thấy sự tập trung vốn FDI Nhật Bản ở các địa phương đã có xu hướng

giảm, tuy nhiên vẫn ở mức cao.

Nếu xét theo số lượng dự án đầu tư thì tổng số lượng dự án FDI Nhật Bản phân

bổ nhiều ở các tỉnh, thành phố trung tâm, thuận tiện về giao thông.

Bảng 3.4. Mười địa phương thu hút nhiều dự án FDI từ Nhật Bản

(Lũy kế đến hết tháng 12/2020)

Dự án Vốn

TT Địa phương Tỷ lệ Tỷ lệ Số dự án Vốn đăng ký (Triệu USD) % %

TP. Hồ Chí Minh 1.448 30,94 1 5.126,56 8,15

1.340 28,63 2 Hà Nội 10.545,65 16,76

3 Bình Dương 6,92 324 5.767,13 9,17

4 Đồng Nai 5,71 267 4.063,38 6,46

5 Đà Nẵng 4,51 211 793,41 6,46

6 Hưng Yên 3,50 164 2.953,09 4,69

7 Hải Phòng 3,25 152 3.629,92 5,77

8 Long An 3,03 142 849,90 1,35

9 Bắc Ninh 2,07 97 1.501,49 1,35

10 Hà Nam 1,92 90 997,41 1,59

Tổng số 4.145 88,57 35.230,53 56,00

Cả nước 100 4.680 62.906,16 100

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư, 2020

Số liệu ở bảng 3.5 cho thấy, tính lũy kế đến hết năm 2020, 10 tỉnh/thành phố

thu hút số dự án FDI Nhật Bản nhiều nhất với 4.145 dự án chiếm 88,57% tổng số

dự án của Nhật Bản vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 35,23 tỷ USD chiếm

56% tổng lượng vốn. Trong số đó, đầu tiên là Thành phố Hồ Chí Minh có 1.448 dự

án, chiếm 30,94%; tiếp đó là Hà Nội với 1.340 dự án chiếm 28,63% tổng số dự án

vào Việt Nam.

83

Nếu xét theo lượng vốn đầu tư, có một số địa phương mặc dù không nằm trong

Top tỉnh thành thu hút FDI Nhật Bản nhưng lại có một số dự án quy mô vốn bình

quân lớn như: Khánh Hòa, Nghệ An, Bà Rịa - Vũng Tàu, Yên Bái.

Bảng 3.5. Mười địa phương có số vốn FDI Nhật Bản bình quân một dự án

cao nhất cả nước (Lũy kế đến hết tháng 12/2020)

Đơn vị: Triệu USD

Địa phương

TT 1 Thanh Hóa 2 Khánh Hòa 3 Kiên Giang 4 Cần Thơ 5 Quảng Trị 6 Nghệ An 7 Bà Rịa - Vũng Tàu 8 Bạc Liêu 9 Quảng Ninh 10 Đăk Nông Số vốn 12.527,80 2.646,28 1.288,80 1.345,44 88,26 1.131,78 2.372,03 121,96 441,67 48,75 Số dự án 16 8 6 7 1 13 38 2 9 1

Số vốn bình quân 1 dự án 782,99 330,79 214,80 192,21 88,26 87,06 62,42 60,98 49,07 48,75 (Nguồn: Tác giả xử lý từ số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài năm 2020)

Số liệu ở bảng 3.5 cho thấy, vốn đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản bình quân 1 dự án

tại Thanh Hóa lớn nhất cả nước với hơn 782,99 triệu USD, sau đó là Khánh Hòa với

330,79 triệu USD, Kiên Giang với 214,8 triệu USD, Cần Thơ là 192,21 triệu USD.

Một số địa phương mới thu hút FDI của Nhật Bản nhưng số vốn đầu tư tương đối

lớn như Bạc Liêu, Đăk Nông.

Vốn đầu tư của Nhật Bản có sự chuyển hướng từ chỗ trước đây chủ yếu tập

trung vào các thành phố lớn thì đến nay lại tập trung vào một số địa phương như

Thanh Hóa, Khánh Hòa, Kiên Giang... hoặc vào các khu công nghiệp, do ở các

thành phố lớn đang xuất hiện những nút thắt ảnh hưởng đến tăng trưởng như chi phí

sản xuất ngày càng tăng (vận tải, lưu kho), thời gian giao hàng, thực hiện hợp đồng

thường không đúng hạn,…

So với các nhà đầu tư lớn tại Việt Nam, trong khi vốn FDI Hàn Quốc tập trung

lớn nhất tại Bắc Ninh, Thái Nguyên và Hải Phòng, nhà đầu tư Singapore tập trung

tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Quảng Nam thì vốn FDI Nhật Bản tập trung

lớn tại Thanh Hóa (với 12.5 tỷ USD đăng ký còn hiệu lực), Hà Nội (10.9 tỷ USD),

và Bình Dương (5.1 tỷ USD). (Cục đầu tư nước ngoài, 2020)

84

Mặc dù đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thành, nhưng FDI Nhật Bản vẫn phân bố

không đồng đều giữa các khu vực, tỉnh, thành phố trong cả nước. Việc chênh lệch

vốn đầu tư giữa các vùng sẽ tạo nên sự phát triển không đồng đều giữa các vùng,

gia tăng khoảng cách về mức sống, văn hóa giữa các thành phố với nông thôn. Tuy

nhiên việc phân bổ này còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng hấp thụ FDI của nền

kinh tế cũng như đòi hỏi sự hội tụ của các nhân tố về nguồn nhân lực, công nghệ,

nghiên cứu và phát triển với các thị trường vốn, lao động của từng địa phương.

3.1.3.3. Cơ cấu đầu tư theo đối tác đầu tư

Tính lũy kế đến ngày 20/12/2020, Việt Nam hiện đang tiếp nhận vốn FDI từ 139

quốc gia và vùng lãnh thổ, với 33.707 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn

384 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước

đạt 225,8 tỷ USD, bằng 59,1% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực (Cục đầu tư

nước ngoài, 2020). Đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng đa

dạng. Tuy nhiên, chủ yếu là các nhà đầu từ đến từ các quốc gia thuộc khu vực Châu

Á, các nước có quan hệ lâu dài với Việt Nam như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc,

Singapore, Hồng Kông chiếm đến hơn 70% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.

Bảng 3.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam theo đối tác

(Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến hết ngày 20/12/2020)

Đơn vị: Triệu USD

Tổng vốn đầu tư đăng ký STT Đối tác

1 Hàn Quốc 2 Nhật Bản 3 Singapore 4 Đài Loan 5 Hồng Kông 6 BritishVirginIslands 7 Trung Quốc 8 Malaysia 9 Thái Lan 10 Hà Lan 11 Các quốc gia khác

Tổng Số dự án 8.983 4.632 2.629 2.792 1.944 869 3.123 644 603 374 6.477 33.070 70.645,07 60.257,61 56.551,43 33.707,22 25.661,86 22.255,21 18.459,74 12.900,50 12.873,88 10.418,10 60.313,57 384.044,21

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, 2020)

85

Với quan hệ hữu nghị lâu dài hơn 47 năm, Nhật Bản luôn là một trong ba nhà

đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Theo thống kê của cục đầu tư nước ngoài, tính đến

hết tháng 20/12/2020, Nhật Bản là quốc gia đứng thứ 2 trên tổng số 139 quốc gia và

vùng lãnh thổ được cấp phép đầu tư vào Việt Nam với tổng số dự án đăng ký là

4.632 dự án, tổng số vốn đăng ký là gần 60,3 tỷ USD chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư

FDI vào Việt Nam. Hàn Quốc là quốc gia có số lượng dự án lũy kế lớn nhất với

8.983 dự án, tổng số vốn đăng ký là hơn 70,1 tỷ USD; Singapore là quốc gia đứng

thứ 3. Như vậy, cùng với Hàn Quốc, Singapore thì Nhật Bản luôn là một trong ba

đối tác quan trọng của Việt Nam, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam

những năm qua.

3.1.4. So sánh FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn trước khủng hoảng tài chính

(1997 - 2008) với giai đoạn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu (2009 - 2020)

Sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (12-1987), Việt Nam đã đón

nhận những dự án đầu tư từ Nhật Bản, trong giai đoạn đầu số dự án và lượng vốn

đầu tư còn rất thấp. Trong phạm vi của luận văn này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu

FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm

2008 cho tới nay. Để thấy được toàn cảnh bức tranh sự thay đổi dòng vốn FDI từ

Nhật Bản vào Việt Nam, tác giả thực hiện so sánh với giai đoạn trước khủng hoảng

chọn giai đoạn từ 1997 - 2008 cho tương thích về khoảng thời gian, đặc điểm

nghiên cứu, còn giai đoạn từ năm 1987 cho tới trước năm 1997, tác giả chỉ xin được

điểm qua vài nét tóm tắt.

86

Bảng 3.7: So sánh đặc điểm FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn trước và sau khủng hoảng tài chính toàn cầu

STT Tiêu Giai đoạn trước khủng hoảng 1997-2008 Giai đoạn sau khủng hoảng 2009 – 2020

chí

1 Diễn

biến

FDI

Nhật

Bản

2 - Năm 1987 Luật đầu tư nước ngoài được ban hành Bối - Năm 2009 chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính

- Năm 1992 Nhật Bản nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam toàn cầu cảnh

quốc tế - Năm 1994 Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam - Năm 2012 mâu thuẫn chính trị Nhật Bản – Trung Quốc

và trong - Năm 1997 khủng hoảng tài chính khu vực căng thẳng

nước - Năm 2000 Luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi - Năm 2015 kỹ kết hiệp định Thương mại tự do EU – Việt

tác - Năm 2003 kế hoạch thực hiện “Sáng kiến chung Việt Nam – Nam EVFTA

động Nhật Bản”. - Năm 2019 đại dịch Covid – 19 xảy ra trên phạm vi toàn

87

tới FDI - Năm 2005 Luật đầu tư được Quốc hội thông qua cầu

Nhật - Năm 2006 Nhật Bản khởi động tiến trình đàm phán về Hiệp

Bản vào định Thương Mại tự do

Việt - Năm 2007 Việt Nam gia nhập WTO

Nam

3 Quy mô - Số dự án và vốn đầu tư còn thấp, trong 11 năm (1997 – 2008) - Số dự án và vốn đầu tư tăng cao, trong 11 năm (2009 –

đầu tư thu hút 1.110 dự án với 18.715,8 triệu USD. 2020) thu hút 3.895 dự án với 44.816 triệu USD.

FDI - Số dự án thu hút trunh bình mỗi năm là 100 dự án - Số dự án thu hút trung bình mỗi năm là 354 dự án.

Nhật - Số vốn FDI thu hút trung bình mỗi năm là 1.704,2 triệu USD - Số vốn thu hút trung bình mỗi năm là 4.074,2 triệu USD

Bản - Số vốn bình quân 1 dự án: 16,9 triệu USD/dự án - Số vốn bình quân 1 dự án: 11,5 triệu USD/dự án

- Các dự án chủ yếu tập trung vào các ngành sản xuất quy mô - Chủ yếu vẫn là các dự án quy mô vừa và nhỏ.

nhỏ

Hình 4 Giai đoạn đầu, liên doanh là hình thức được các DN Nhật Bản Các dự án chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài.

thức sử dụng nhiều hơn cả, sau đó giảm dần.

đầu tư

5 Cơ cấu - Chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp, gia - Có mặt trong mọi lĩnh vực mà Việt Nam kêu gọi đầu tư,

đầu tư công lắp ráp để xuất khẩu nhằm tận dụng nguồn lao động trẻ, chuyển hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào ngành công nghiệp

theo dồi dào, giá rẻ. phụ trợ, dịch vụ. Đặc biệt khuynh hướng mới của DN Nhật

ngành - Mục tiêu nghiêng về gia công để xuất khẩu. Bản vào Việt Nam là thúc đẩy bán lẻ nhiều hơn thay vì tập

trung vào sản xuất.

88

- Mục tiêu có khuynh hướng đầu tư để đáp ứng nhu cầu của

thị trường Việt Nam.

6 Cơ cấu - Giai đoạn đầu Nhật Bản đầu tư chủ yếu ở khu vực đồng bằng, - FDI Nhật Bản đã có mặt ở 53/63 tỉnh, thành phố trong cả

đầu tư nơi tập trung nhiều dân cư và nhu cầu tiêu dùng cao; cũng chỉ nước.

theo địa chú trọng vào những đô thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh và - FDI Nhật Bản vẫn có sự phân bố không đều giữa các địa

phương, Hà Nội, nơi có môi trường, hạ tầng thuận lợi và nguồn nhân lực phương trong cả nước. FDI Nhật Bản tập trung nhiều nhất:

vùng có trình độ. Thanh Hóa, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương.

lãnh thổ - Giai đoạn sau phạm vi đầu tư được mở rộng, dòng FDI Nhật

Bản có xu hướng dịch chuyển ra miền Bắc do sự hình thành và

phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp, khu chế xuất, đến hết

năm 2008 FDI của Nhật Bản đã có mặt ở 33 tỉnh, thành phố

trong cả nước, nhưng tỷ trọng phân bố không đều.

7 Cơ cấu Nhật Bản vươn lên giữ vị trí số 3 trong số các nhà đầu tư nước Nhật Bản luôn là một trong 3 nhà đầu tư đứng đầu về số vốn

đầu tư ngoài đầu tư vào Việt Nam vào năm 2002. FDI đăng ký vào Việt Nam

theo đối

tác

(Nguồn: Tác giả phân tích và tổng hợp)

89

3.2. Các nhân tố tác động đến thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ sau

khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay

3.2.1. Nhân tố thuộc về bối cảnh quốc tế

Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nhất là từ 2010, nền kinh tế thế

giới đã bắt đầu phục hồi. Cùng với đó, dòng FDI thế giới cũng có xu hướng tăng trở

lại. Tuy nhiên, đã có sự chuyển dịch mới về cơ cấu FDI trên thế giới: nếu như trước

đây FDI thường chủ yếu đổ vào các nước phát triển, thì nay FDI lại được đổ chủ

yếu vào các quốc gia mới nổi và đang phát triển, nhất là các quốc gia mới nổi châu

Á do những thành tích phục hồi kinh tế ấn tượng ở các nước này sau khủng hoảng.

Trong các thị trường mới nổi, các thị trường mới nổi châu Á vẫn là thỏi nam

châm thu hút vốn FDI mạnh mẽ nhất, các thị trường châu Âu, châu Phi và Trung

Đông lại tỏ ra đuối sức khi chứng kiến sự tháo chạy của dòng vốn ra khỏi thị

trường. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng vốn đầu tư đảo chiều quay trở lại

các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển châu Á.

Thứ nhất, sau khủng hoảng 2008, các nền kinh tế phát triển tăng trưởng trì trệ và

lãi suất thấp (thậm chí lãi suất âm kéo dài), vì vậy nhà đầu tư rút chạy khỏi đây để

tìm kiếm những kênh đầu tư khác hiệu quả hơn. Trong cả một thời gian dài sau

khủng hoảng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định giữ nguyên mức lãi suất

cơ bản bằng 0, cả Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung

ương Nhật Bản (BOJ) đều duy trì mức lãi suất âm. Thực tế này buộc các nhà đầu tư

phải tìm đến những thị trường mới nổi năng động hơn để kiếm lời.

Thứ hai, bất ổn mới nảy sinh ở các nền kinh tế phát triển đã khiến những thị

trường này trở nên kém hấp dẫn hơn đối với nhiều nhà đầu tư. Brexit, làn sóng nhập

cư và các vụ khủng bố liên hoàn ở châu Âu, cùng những diễn biến khó lường trên

trường chính trị Mỹ, quá trình chuyển giao quyền lực – bầu cử tổng thống ở Đức, Ý

và Pháp đã và đang đe dọa tới mức độ an toàn và ổn định của các quốc gia này.

Trong khi đó, các thị trường mới nổi có môi trường an ninh chính trị ổn định hơn,

nên trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn, an toàn, và ít rủi ro hơn.

Thứ ba, tín hiệu lạc quan về sự khởi sắc của các nền kinh tế mới nổi, nhất là các nền

kinh tế mới nổi và đang phát triển châu Á. Sau khủng hoảng, các quốc gia mới nổi châu

Á đã đạt được những thành tích phục hồi kinh tế ấn tượng. Quá trình tái cơ cấu và

90

chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở một số quốc gia châu Á sau thời kỳ suy thoái đã mang

lại nhiều kết quả tích cực, như Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia,...

Thứ tư, FDI của Nhật Bản đã có sự biến động mạnh theo hướng tăng nhanh

trong giai đoạn 1980-1990, xu hướng giảm dần trong giai đoạn 1991-1999, rồi đảo

chiều tăng dần trong giai đoạn từ đầu thế kỷ 21.

FDI của Nhật Bản tăng mạnh từ đầu thế kỷ 21 do một số nguyên nhân:

- Kinh tế Nhật Bản Bản sau 2 thập kỷ tăng trưởng trì trệ, đặc biệt càng chậm phát

triển hơn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Giải pháp duy nhất để vượt qua

giai đoạn trì trệ kéo dài này là thực hiện tái cấu trúc cơ bản nền kinh tế. Quá trình tái

cấu trúc sản xuất của Nhật Bản cũng đồng thời thực hiện theo hai quá trình: một mặt

nhanh chóng ứng dụng những thành tựu mới của KH - CN vào sản xuất - kinh doanh,

mặt khác nhanh chóng di chuyển những qui trình công nghệ cũ đã lạc hậu tương đối

so với điều kiện trong nước ra nước ngoài nhằm tiếp tục khai thác chúng.

- Trong chương trình tái cấu trúc kinh tế Nhật Bản, việc tái cấu trúc mạng sản

xuất và các chuỗi cung ứng của Nhật ở nước ngoài để gia tăng vai trò “nền kinh tế

thứ hai” ở hải ngoại là một trụ cột không thể thiếu. Chính vì thế, Nhật Bản có nhu

cầu lớn trong việc tham dự và khai thác tối đa lợi ích từ việc tham gia sâu vào tiến

trình phát triển của các nền kinh tế đang phát triển nhanh Đông Á. Khác với các

chiến lược tăng trưởng trước đây, chiến lược tăng trưởng mới của Nhật Bản lấy sự

phát triển của các nước châu Á làm đòn bẩy cho sự phát triển của chính mình, trong

đó Nhật Bản định vị mình như một quốc gia có vai trò khu vực và toàn cầu. Do đó,

thúc đẩy đầu tư tư nhân của Nhật Bản ra nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu các công

nghệ nền tảng quan trọng và tăng cường ký kết các Hiệp định thương mại tự do

trong khu vực là những điểm then chốt mới trong chiến lược tăng trưởng mới gồm

21 điểm của Thủ tướng Naoto Kan đã đưa ra.

- Về cơ cấu địa lý, nếu như trước đây, FDI của Nhật Bản tập trung chủ yếu vào 3

khu vực trên thế giới là Bắc Mỹ, châu Âu, và châu Á. Thì kể từ sau khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2008, FDI của Nhật Bản đã có sự chuyển hướng: giảm FDI vào Bắc

Mỹ và Tây Âu, và tăng mạnh FDI vào các thị trường mới nổi châu Á.

- Trong châu Á, qui mô FDI của Nhật Bản cũng có sự phân bố linh hoạt tùy theo

từng thời kỳ. Đầu thập niên 2000, FDI của Nhật Bản có mức độ tập trung cao nhằm

91

vào một số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Hồng Kông, Singapore. Từ

giữa thập niên 2000, các nhà đầu tư Nhật Bản lại có xu hướng chuyển tiêu điểm

sang các nước Đông Nam Á. Đặc biệt từ năm 2012, dòng FDI của Nhật Bản đã rút

mạnh khỏi Trung Quốc, xoay trục mạnh sang các nước ASEAN, do chi phí nhân

công của Trung Quốc đang tăng lên, do quan hệ chính trị Nhật Bản - Trung đang

xấu đi, do những mặt tiêu cực của hiện trạng đầu tư tại Trung Quốc ngày càng hiện

rõ (phía Trung Quốc không tuân thủ nghiêm túc hợp đồng, ăn cắp công nghệ... ).

FDI của Nhật Bản ngày càng có xu hướng chuyển mạnh sang các nước có lao động

giá rẻ hơn, nhưng năng suất lao động lại tương đương. Thêm vào đó, xu hướng hội

nhập khu vực Đông Nam Á ngày càng sâu rộng đến từ việc hình thành Cộng đồng

kinh tế ASEAN (AC) năm 2015 và việc thực hiện ngày càng đầy đủ AFTA của các

nước, khả năng thực hiện CPTPP đang tới gần…, càng thúc đẩy mạnh mẽ sự

chuyển hướng đầu tư của Nhật Bản sang các nước ASEAN.

- Trong ASEAN, các nhà đầu tư Nhật Bản lúc đầu chủ yếu quan tâm đến đầu tư

vào Singpore, Myamar, Thái Lan. Nhưng từ những năm gần đây, các nhà đầu tư Nhật

Bản ngày càng chuyển trọng tâm đầu tư sang Việt Nam, do những ưu thế của Việt

Nam ngày càng nổi bật: môi trường chính trị - xã hội khá ổn định, chi phí nhân công

còn khá rẻ, thị trường nội địa khá lớn với dân số hơn 95 triệu người và thu nhập đầu

người đang tăng lên, Việt Nam đã và đang thực hiện tái cơ cấu và chuyển đổi mô

hình kinh tế mạnh mẽ, môi trường đầu tư của Việt Nam liên tục được cải thiện…

Thứ năm, đại dịch Covid -19 từ năm 2019 đã tác động tiêu cực đến khu vực

FDI, trong đó có việc thu hút vốn FDI. Dịch bệnh Covid - 19 bùng phát mạnh ở cả

hai nước đã tác động đến dòng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam, nhất là trong

năm 2021. Dịch bệnh khiến cho hầu hết các nhà đầu tư Nhật Bản phải trì hoãn việc

qua Việt Nam thực địa, khá nhiều doanh nghiệp Nhật Bản rục rịch rút bớt đơn hàng

ra khỏi Việt Nam, vì chuỗi cung ứng hàng hóa của họ cho thị trường thế giới bị đứt

gãy. Tác động của dịch Covid - 19, việc đầu tư của DN Nhật Bản vào Việt Nam gần

đây có nhiều rủi ro hơn. Tuy nhiên làn sóng này chỉ diễn ra trong thời gian ngắn.

Hơn nữa, ảnh hưởng của dịch Covid - 19 không chỉ ở Việt Nam mà ở cả khu vực

Đông Nam Á. Dù xu hướng đầu tư vào các ngành của Việt Nam có chậm lại, tuy

nhiên, trong suốt năm 2020 và 2021, số lượng liên hệ từ các khách hàng Nhật Bản

tìm đất, nhà xưởng…vẫn không hề giảm sút so với các năm trước đó, vẫn có DN

92

Nhật Bản đăng ký online, thị sát từ xa để đăng ký đầu tư, nhưng số lượng không

nhiều. Bởi với tính cách thận trọng cố hữu, các nhà đầu tư Nhật Bản không thể dựa

vào khảo sát online để đưa ra quyết định, mà họ cần tới tận nơi, xem cụ thể. Dưới

sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, đồng lòng của các địa phương, nhân dân và

cộng đồng doanh nghiệp, Việt Nam đã và đang kiểm soát khá tốt dịch bệnh, với đề

án “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid - 19”, nguồn vốn

FDI Nhật Bản vào Việt Nam sẽ được khôi phục mạnh mẽ trong thời gian tới.

Những phân tích về bối cảnh quốc tế, khu vực sau khủng hoảng tài chính toàn

cầu cho thấy: xu hướng vận động của dòng FDI của Nhật Bản có nhiều thuận lợi

cho Việt Nam. Việt Nam tiếp tục nằm trong khu vực hấp dẫn FDI toàn cầu và khu

vực, đồng nghĩa với việc Việt Nam có nhiều cơ hội để thu hút FDI từ Nhật Bản.

3.2.2. Nhân tố thuộc về nước tiếp nhận đầu tư

3.2.2.1. Nhân tố thể chế, chính sách quản lý Nhà nước của Việt Nam về đầu tư

trực tiếp nước ngoài

Ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội

Sự ổn định chính trị - xã hội luôn là một thế mạnh khi tham gia hội nhập kinh tế

quốc tế và thu hút FDI trên thế giới của Việt Nam. Từ sau khi thống nhất đất nước

dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt Nam luôn duy trì được nền hòa bình,

ổn định chính trị vững vàng, các dân tộc luôn đoàn kết, nhất trí với các chủ trương,

chính sách được đưa ra. Công cuộc đổi mới đã thu hút được thành tựu ngày càng

lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại đưa Việt Nam trở thách đối tác quan trọng

trong khu vực và trên thế giới. Các DN luôn được tạo một môi trường an ninh tốt để

kinh doanh. Chính vì vậy, nếu xét riêng các yếu tố tác động tới việc thu hút FDI

Nhật Bản vào nước ta, yếu tố ổn định kinh tế - chính trị - xã hội có một vai trò

không nhỏ đối với quyết định của nhà đầu tư.

Theo kết quả khảo sát của JETRO năm 2019, trong các nhân tố ảnh hưởng tới

quyết định đầu tư của các DN Nhật Bản thì 59,5% DN Nhật Bản được khảo sát cho

rằng “Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ổn định”. Theo kết quả khảo sát của tác

giả với các DN Nhật Bản tại Việt Nam: Về tình chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội có

106/193 DN chiếm 54,92% các DN Nhật Bản được khảo sát đánh giá “cao” sự ổn

định chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam, còn lại các DN đánh giá ở

mức “bình thường”; (Phụ lục 06)

93

Hệ thống pháp luật liên quan đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của

Việt Nam:

Pháp luật là yếu tố tiên quyết cho mọi hành vi của nhà đầu tư nước ngoài và là

nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hoạt động thu hút FDI của nước chủ nhà.

Việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài được cụ thể hóa qua các quy định tại các văn

bản pháp luật. Có thể kể đến như: Luật Đầu tư năm 2014, Luật DN 2020, Luật Thuế

thu nhập DN 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2013, Luật thuế xuất nhập khẩu 2016…

Những năm gần đây hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng được cải thiện, phù

hợp với thông lệ quốc tế, tuy nhiên với các nhà đầu tư Nhật Bản hệ thống pháp luật

vẫn là một yếu tố rủi ro trong môi trường đầu tư tại Việt Nam bởi:

- Hệ thống pháp luật của Việt Nam chính là vấn đề làm cho các nhà đầu tư Nhật

Bản băn khoăn nhất khi đầu tư vào Việt Nam. Theo báo cáo kết quả “Khảo sát thực

trạng các DN Nhật Bản đầu tư tại Châu Á, Châu Đại Dương năm tài chính 2019” của

JETRO vẫn trên 40% DN Nhật Bản tại Việt Nam đánh giá “Hệ thống pháp luật chưa

hoàn thiện, vận hành thiếu minh bạch”. Theo kết quả khảo sát của tác giả về tính chặt

chẽ và minh bạch của hệ thống pháp luật có 15/193 DN và 81/193 DN đánh giá ở mức

“rất thấp” và “thấp” chiếm tới gần 42%% tổng số DN khảo sát, 85 DN đánh giá ở mức

“bình thường” chiếm 44,04%, còn lại chỉ có 12 DN đánh giá ở mức cao. (Phụ lục 06)

Theo các nhà đầu tư Nhật Bản đây vẫn là một yếu tố rủi ro trong môi trường đầu

tư tại Việt Nam.

Nguồn: Kết quả “Khảo sát thực trạng các DN Nhật Bản đầu tư tại Châu Á,

Châu Đại Dương năm tài chính 2019” của JETRO

Hình 3.6: Đánh giá của DN Nhật Bản về môi trường đầu tư tại Việt Nam

94

Việt Nam có hầu hết các luật trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, tuy nhiên,

nội dung các luật đó còn chồng chéo nhau, không thống nhất. Đồng thời, nhiều luật

nội dung còn không rõ ràng, chưa phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Theo

kết quả khảo sát của tác giả: Về yếu tố tuân thủ, đồng bộ của hệ thống pháp luật từ

trung ương tới địa phương: Có 8/193 DN chiếm 4,15% trả lời “rất thấp”, 23/193

chiếm 11,92% trả lời “thấp”. Bên cạnh đó có 128 DN trả lời “bình thường” và 34

DN chiếm 17,62% trả lời hệ thống pháp luật có tính đồng bộ “cao” từ trung ương

tới địa phương; Về sự phù hợp với thông lệ quốc tế của hệ thống pháp luật: Có 55

DN, chiếm 30% trả lời “cao” và “rất cao”, 44,04% DN khảo sát trả lời là “bình

thường”; có tới gần 20% các DN trả lời “thấp” và “rất thấp”. (Phụ lục 06). Đây

chính là những ý kiến mà cơ quan quản lý nhà nước cũng cần phải xem xét bởi

những thông lệ quốc tế có vai trò rất quan trọng đối với các DN trong quá trình hội

nhập hiện nay.

Đặc biệt là tính thực thi của các luật ở Việt Nam còn rất thấp. Chúng ta đã có

hầu hết các luật, song việc thực hiện chúng trên thực tế chưa nghiêm minh, chưa

chứng tỏ tính “thượng tôn của pháp luật”. Theo kết quả khảo sát của tác giả có đến

trên 35% DN Nhật Bản cho rằng tính thực thi của hệ thống pháp luật ở Việt Nam

“thấp”, 8,8% cho là “rất thấp”, còn lại là bình thường. (Phụ lục 06).

- Các thủ tục hành chính ở Việt Nam còn nhiều rắc rối phức tạp gây nên tình

trạng mất thời gian, tốn nhiều chi phí cho các nhà đầu tư, làm nản lòng các nhà đầu

tư, thậm chí làm mất cơ hội kinh doanh và tăng chi phí đầu tư. Tình trạng tham

nhũng, bôi trơn cho cán bộ công chức nhà nước vẫn còn. Do vậy đã không tạo động

lực cho các nhà đầu tư sẵn sàng tham gia đầu tư tại Việt Nam.

Mặc dù Việt Nam cũng đã cắt giảm nhiều thủ tục kinh doanh, tăng cường cải

cách thủ tục hành chính, nhưng theo báo cáo kết quả “Khảo sát thực trạng các DN

Nhật Bản đầu tư tại Châu Á, Châu Đại Dương năm tài chính 2019” của JETRO, vẫn

còn 32,9% DN Nhật Bản được khảo sát cho rằng “Thủ tục hành chính phức tạp”.

Hệ thống hành chính quan liêu, kém hiệu quả và nhũng nhiễu. Nhiều nhà đầu tư

than phiền Việt Nam có quá nhiều thủ tục, DN không hiểu, gặp vướng mắc và phải

"bôi trơn"…Các DN cảm thấy rất khó khăn khi muốn tiếp cận những tài liệu liên

quan đến các kế hoạch sử dụng đất đai, kế hoạch phát triển hạ tầng hoặc các dự án

95

đầu tư lớn. Để có thể có được những tài liệu này họ cần phải có mối quan hệ tốt với

cơ quan nhà nước có liên quan và phải sử dụng một phần nguồn lực của mình để trả

cho những chi phí không chính thức hoặc mất thời gian để gầy dựng mối quan hệ

với công chức nhà nước, do đó việc kinh doanh của họ sẽ đội thêm chi phí, đồng

thời, tính bất ổn và những nguy cơ trong công việc kinh doanh tại Việt Nam cũng

tăng lên…[36].

- Thủ tục thuế, hải quan, nạn hối lộ...cũng đang là những vấn đề làm cho các nhà

đầu tư Nhật Bản chưa hài lòng. Luật thuế TNDN năm 2013 và Luật đầu tư năm

2014 đã áp dụng mức thuế TNDN ưu đãi thống nhất cho DN nước ngoài và DN

trong nước, bãi bỏ các qui định về thuế TNDN bổ sung và thuế chuyển lợi nhuận ra

nước ngoài đối với DN nước ngoài. Tuy nhiên chính sách thuế nhiều mức, hay thay

đổi và khó tiên đoán cũng làm cho nhiều nhà ĐTNN cũng như các nhà đầu tư Nhật

Bản phải đau đầu. Trên thực tế, DN Nhật Bản phải thực hiện nhiều loại thuế, ngoài

thuế TNDN còn có thuế giá trị gia tăng, thuế hải quan, thuế thu nhập cá nhân, thuế

trước bạ, thuế môn bài…Bên cạnh đó, thủ tục nộp thuế ở Việt Nam còn tốn nhiều

thời gian… Theo báo cáo kết quả “Khảo sát thực trạng các DN Nhật Bản đầu tư tại

Châu Á, Châu Đại Dương năm tài chính 2019” của JETRO, có tới 33,4% DN Nhật

Bản được khảo sát cho rằng “Hệ thống thuế và thủ tục thuế phức tạp”. Theo kết quả

khảo sát của tác giả có 74/193 và 28/193 DN Nhật chiếm 38,34% và 14,51% đánh

giá “Tính phức tạp của hệ thống thuế” là “cao” và “rất cao”. (Phụ lục 06).

Thủ tục hải quan: kể từ khi Việt Nam tham gia WTO cũng như thực hiện Hiệp

định thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA), các thủ tục hải quan đã được cải

cách mạnh mẽ theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc

tế. Tuy nhiên vẫn tồn tại một số bất cập trong lĩnh vực này như: thủ tục giám sát vẫn

theo lô hàng, cơ quan quản lý chuyên ngành vẫn tham gia quá nhiều trong thủ tục

thông quan (vẫn có đến 30-35% lô hàng phải kiểm tra chuyên ngành, đây là một tỉ

lệ cao trong khu vực), thời gian kiểm tra chuyên ngành chiếm 72% thời gian thông

quan, có quá nhiều văn bản qui định về quản lý chuyên ngành và có sự chồng chéo

giữa các Bộ về vấn đề này… Tất cả những vấn đề này đang là những rào cản trực

tiếp trong thu hút và sử dụng FDI của Nhật Bản. Trong thời gian tới, những tồn tại

hạn chế này cần phải được gấp rút giải quyết.

96

Chính sách liên quan đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam

Chính sách tiền tệ và lãi suất: Trong giai đoạn 2007 - 2020, nền kinh tế Việt

Nam đã trải qua nhiều biến động, đòi hỏi Chính phủ phải thực thi chính sách tiền tệ

kịp thời, linh hoạt và hiệu quả gồm: kiểm soát lạm phát (2007 - 2008), gói cứu trợ

kinh tế (2009-2011), chính sách tiền tệ thắt chặt (2012-2015) và ổn định kinh tế

cũng như hỗ trợ doanh nghiệp (từ năm 2016 đến 2021). Với những ứng biến linh

hoạt trong việc sử dụng công cụ trần lãi suất, chủ động dẫn dắt thị trường trên cơ sở

bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ trong từng thời kỳ. Điều này đã góp phần

giảm mặt bằng lãi suất để tháo gỡ khó khăn về chi phí vay vốn cho các nhà đầu tư

Nhật Bản muốn tiếp cận vốn vay tại Việt Nam, mà vẫn kiểm soát được lạm phát, ổn

định thị trường tiền tệ.

Giai đoạn sau 2008, từ 2011 - 2015, tỷ lệ lạm phát đã được kiềm chế, giảm đều

qua các năm, từ 18,58% năm 2011 xuống còn 0,63% năm 2015. Trong giai đoạn từ

năm 2016 - 2020 tỷ lệ lạm phát của Việt Nam luôn được giữ ổn định ở mức 4%.

Tuy nhiên, theo quỹ tiền tệ quốc tế tỷ lệ vốn vay của Nhật Bản luôn thấp hơn so

với Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2020 dẫn đến chi phí vay của các nhà đầu tư

Nhật Bản tại Việt Nam sẽ lớn hơn, điều nay gây cản trở trong việc thu hút FDI từ

Nhật Bản vào nước ta.

Chính sách ngoại tệ và tỷ giá hối đoái: Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm

2008 đã tác động tiêu cực tới tình hình kinh tế trong nước và gây áp lực tỷ giá hối

đoái. Giai đoạn 2011- 2016, Chính phủ đã đưa ra các chính sách nhằm ổn định tỷ

giá và thị trường ngoại tệ. Năm 2011, ngân hàng nhà nước (NHNN) đã thay đổi cơ

chế điều hành tỷ giá theo hướng chủ động linh hoạt kết hợp với các chính sách tiền

tệ, duy trì chênh lệch lãi suất giữa VND và USD, phát hành tín phiếu NHNN. Tăng

cường các biện quản lý, kiểm soát trên thị trường ngoại hối, thị trường vàng hạn chế

tác động lên tỷ giá. Với những biện pháp quyết liệt, thị trường ngoại tệ dần ổn định,

giảm căng thẳng tỷ giá.

Năm 2012, Chính phủ đã đưa ra chủ trương về hạn chế đô la hóa, kiểm soát tăng

trưởng tín dụng, ổn định thị trường ngoại hối. Đồng thời, NHNN đã ban hành thông

tư về thu hẹp các trường hợp được vay vốn ngoại tệ. Năm 2013, NHNN duy trì tỷ

giá trong biên độ từ 2-3%, năm 2014 không quá 2%, kết hợp chặt chẽ giữa chính

97

sách tỷ giá và chính sách lãi suất nhằm kiểm soát sự mất giá của VND, tạo điều kiện

cho các DN chủ động trong kế hoạch sản xuất kinh doanh. Tỷ giá ổn định đã góp

phần ổn định lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, tăng dự trưc ngoại hối.

Giai đoạn 2015 - 2017, NHNN đã chủ động và linh hoạt điều hành trong việc

giữ tỷ giá và ổn định thị trường ngoại hối trong bối cảnh đồng đô la Mỹ liên tục

tăng giá do kỳ vọng Fed điều chỉnh lãi suất tăng và Trung Quốc điều chỉnh mạnh tỷ

giá đồng nhân dân tệ tác động làm giảm giá đồng tiền của các đối tác thương mại

chính của Việt Nam.

Như vậy, từ sau khủng hoảng năm 2008 đến 2020, các chính sách ngoại tệ và tỷ

giá của Việt Nam linh hoạt, chủ động đối phó với biến động của tỷ giá trên thị

trường quốc tế, đảm bảo ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu

ngoại tệ của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, trong đó có Nhật Bản. Tỷ giá hối

đoái giữa đồng Yen/VND cho thấy tiền Việt Nam Đồng còn yếu so với tiền Yên của

Nhật, nên khi đầu tư vào Việt Nam sẽ giảm thiểu được chi phí, làm tăng lợi nhuận

của các nhà đầu tư, điều đó làm tăng khả năng thu hút FDI từ Nhật Bản.

Chính sách kinh tế đối ngoại: Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào

nền kinh tế toàn cầu và khu vực và đang tích cực thực hiện các cam kết hội nhập

quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của các thể chế toàn

cầu như WTO, WB, WEF và thể chế khu vực như ASEAN, APEC, ADB, AIIB…

Gần đây, nước ta đã thực hiện 11 FTA, trong đó có 2 FTA thế hệ mới là CPTPP (ký

kết chính thức tháng 12/2018) và EVFTA (ký kết chính thức cuối tháng 6/2019).

Hơn thế nữa, thị trường Việt Nam sẽ trở thành một thị trường rộng lớn hơn rất

nhiều trong sự liên kết với thị trường ASEAN/AFTA, với thị trường EU, và với thị

trường các nước CPTPP. Viễn cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền

kinh tế khu vực và thế giới là lý do quan trọng khiến các nhà đầu tư Nhật Bản, nhất là

các công ty nước ngoài định hướng xuất khẩu, muốn đầu tư mạnh hơn vào Việt Nam.

Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã được nâng lên tầm cao mới - đó là quan hệ đối

tác chiến lược. Điều này sẽ đặt nền tảng cho xây dựng quan hệ đối tác chiến lược về

đầu tư. Chủ trương xây dựng quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam - Nhật Bản

đã được đặt ra ngay từ những năm đầu thế kỷ 21. Tiến trình này đã trải qua 5 bước:

bắt đầu từ việc “xây dựng đối tác tin cậy”, đến “vươn tới tầm cao của đối tác bền

98

vững”, tiếp theo là “hướng tới đối tác chiến lược” và cuối cùng là “xây dựng quan

hệ đối tác chiến lược”. Trong quá trình đi tới việc ra tuyên bố chung khẳng định

quan hệ đối tác chiến lược nói trên, chính sách của Nhật Bản đối với Việt Nam đã

có những điều chỉnh quan trọng theo hướng “xây dựng quan hệ đối tác chiến lược

ổn định, lâu dài, vì hòa bình và sự phồn vinh ở châu Á”. Nhật Bản đã trở thành đối

tác chiến lược của Việt Nam vì quyền lợi của hai quốc gia và vì sự phát triển, ổn

định của cả khu vực.

Quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam - Nhật Bản được dựa trên những cơ

sở vững chắc. Đó là sự tin cậy chính trị được củng cố và tăng cường mạnh mẽ

thông qua sự thống nhất cao về quan điểm giữa lãnh đạo hai nước về những vấn đề

song phương và quốc tế (tại UNO, WTO, APEC, ASEM, EAS, ASEAN + Nhật Bản

,ASEAN + 3, GMS…; thông qua hoạt động giao lưu và tiếp xúc cấp cao thường

xuyên cũng như thông qua các cơ chế đối thoại giữa hai nước như Ủy ban Hợp tác

Việt - Nhật do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch từ năm 2007, đối thoại

Đối tác chiến lược Việt - Nhật về ngoại giao - an ninh - quốc phòng cấp Thứ trưởng

Ngoại giao từ năm 2010, đối thoại Chính sách quốc phòng Việt - Nhật cấp Thứ

trưởng từ năm 2012, đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng từ năm 2013...). Thêm vào

đó, hai nước có lợi ích tương đồng trong hàng loạt các vấn đề then chốt như kinh tế,

chính trị, an ninh, văn hóa, xã hội. Về kinh tế, Việt Nam muốn thu hút đầu tư trong

các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ nguồn, công nghiệp chế tạo,

công nghiệp hỗ trợ và nông nghiệp công nghệ cao, đó cũng là những lĩnh vực mà

Nhật Bản cũng có thế mạnh…

Chính sách ưu đãi đầu tư: Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách

hấp dẫn nhằm thu hút FDI. Có ba nhóm chính sách chính gồm: Ưu đãi thuế thu

nhập DN (DN được miễn giảm tối đa trong vòng 4 năm và giảm 50% trong 9 năm

tiếp theo); miễn giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạ tài sản cố

định, vật liệu để sản xuất; miễn giảm tiền thuê đất (việc miễn cho cả thời gian thuê

và miễn có thời hạn tùy theo từng lĩnh vực, địa bàn thực hiện dự án.

Ngoài ra để thu hút các nhà đầu tư nức ngoài nhà nước ta còn đưa nhiều chính

sách hỗ trợ như hiện đại hóa hệ thông giao thông vận tải, nâng cấp hệ thống công

99

nghệ, tạo ra nguồn lao động có trình độ kỹ thuật cao, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ

tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao [33].

Theo đó, để xác định chế độ ưu đãi đầu tư với từng dự án thì dựa vào những tiêu

chí sau: địa điểm đầu tư, lĩnh vực đầu tư, số lượng việc làm tạo ra, tổng mức đầu tư.

- Về đối tượng ưu đãi đầu tư: trong Luật đầu tư 2014 đã qui định: những ngành

nghề được ưu đãi đầu tư nhưng phạm vi ưu đãi đầu tư vẫn còn dàn trải về bề rộng

(bao gồm 13 ngành được ưu đãi), mà chưa đi vào chiều sâu (chú trọng các ngành

như công nghệ cao, công nghệ xanh, công nghiệp hỗ trợ và các ngành tỉ suất lợi

nhuận lớn). Điều đó làm cho việc áp dụng các loại thuế ưu đãi (như thuế thu nhập

DN, thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu, thuế sử dụng đất…) rất phức tạp,

khó khăn. Thêm vào đó, với nguồn lực có hạn, đầu tư quá dàn trải sẽ dẫn đến đầu tư

không hiệu quả.

- Về địa bàn ưu đãi đầu tư: Luật Đầu tư 2014 đã qui định rõ các địa bàn được ưu

đãi đầu tư gồm: (i) địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó

khăn; (ii) khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Như vậy,

chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam đã có định hướng giãn đầu tư khỏi các thành

phố và các trung tâm công nghiệp, khuyến khích đầu tư ở những vùng có điều kiện

kinh tế - xã hội khó khăn và các KCN, KKT. Các biện pháp ưu đãi đầu tư khá đặc

biệt, bao gồm miễn giảm tiền thuê đất, miễn thuế lợi tức… Tuy nhiên, trên thực tế,

FDI vẫn còn tập trung vào các thành phố lớn, trung tâm công nghiệp, vùng kinh tế

trọng điểm, KCN, KKT. Các vùng sâu, vùng xa, vùng không lân cận với các trung

tâm công nghiệp và thành phố lớn, vùng thiếu tài nguyên thiên nhiên vẫn không tiếp

cận được với nguồn vốn FDI, bởi vì ở những vùng này cơ sở hạ tầng còn lạc hậu,

nguồn lao động chất lượng thấp. Điều đó chứng tỏ, các chính sách ưu đãi tài chính

có thể còn chưa đủ, bên cạnh đó, còn cần những ưu đãi phi tài chính như cơ sở hạ

tầng hiện đại, nguồn nhân lực được đào tạo tốt…

- Luật đầu tư 2014 vẫn tập trung nhiều vào các ưu đãi tài chính (thuế), mà còn ít

chú ý đến những ưu đãi phi tài chính. Trong giai đoạn đầu tiên thu hút FDI, các

nước đều ưu tiên sử dụng các chính sách ưu đãi tài chính, tuy nhiên cùng với thời

gian, các ưu đãi này ngày càng giảm dần. Bởi vì, thứ nhất, các ưu đãi tài chính là

không phù hợp với các qui định của WTO và các cam kết hội nhập mà Việt Nam đã

100

tham gia với nhiều đối tác trên thế giới, vì các qui định của WTO và các cam kết

quốc tế đều hạn chế bóp méo thương mại và cạnh tranh không lành mạnh. Thứ hai,

những biện pháp tài chính chỉ là những giải pháp cấp thấp, không thực sự thu hút

được FDI. Các ưu đãi phi tài chính đó có thể là: đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, đảm

bảo quyền thực thi hợp đồng, thuận lợi hóa thủ tục cấp phép, giải quyết nhanh thủ

tục cấp phép cho lao động quản lý cấp cao và lao động kỹ thuật cao đi liền với các

dự án FDI, cơ sở hạ tầng hiện đại, nguồn lao động có chất lượng cao... Kinh nghiệm

của nhiều nước cho thấy các biện pháp “phi thuế” có vai trò quan trọng hơn các

biện pháp ưu đãi thuế trong thu hút đầu tư nước ngoài, và mang tính cạnh tranh cao.

Có thể nói, chỉ có những biện pháp ưu đãi phi tài chính này mới thu hút được những

nhà đầu tư chiến lược, những công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia có qui mô vốn

lớn và năng lực công nghệ cao.

Theo kết quả khảo sát của tác giả, có đến 46,11% DN Nhật Bản được khảo sát

cho rằng “Mức độ hấp dẫn của các chính sách ưu đãi đầu tư tại Việt Nam” là “bình

thường”, chỉ có 9,84% đánh giá là “cao”, còn lại 44,04% cho là “thấp”. (Phụ lục

06). Điều đó chứng tỏ các DN Nhật Bản chưa thấy hấp dẫn bởi ưu đãi đầu tư của

Việt Nam.

Tóm lại, các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực khuyến khích đầu tư,

các hình thức đầu tư nước ngoài và các biện pháp đảm bảo đầu tư được xem là

thông thoáng. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ở tầm vĩ mô được xem là hấp

dẫn các nhà đầu tư nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành luật và các nghị định

triển khai ban hành quá chậm và thiếu chi tiết khiến các cấp thừa hành hiểu khác

nhau gay khó khăn cho hoạt động của nhà đầu tư.

3.2.2.2. Nhân tố thị trường của Việt Nam

Quy mô và tiềm năng tăng trưởng thị trường nội địa

Quy mô thị trường nội địa của từng quốc gia có thể giúp cho quốc gia đó có lợi

thế rất lớn trong việc thu hút loại FDI tìm kiếm thị trường.

Thị trường tiêu thụ Việt Nam đang bước vào giai đoạn bùng nổ do qui mô dân

số lớn (trên 95 triệu dân) và thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng (hiện đạt

mức 1000 USD/năm và trong 5 năm tới có thể đạt mức 1700-1800 USD/năm); số

lượng và mức sống của tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh. Bất chấp hạ tầng bán lẻ

101

yếu kém, theo đánh giá gần đây của A.T. Kearney’s Global Retail Development

Index, Việt Nam là một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn đầu tư nhất thế giới,

xếp thứ 6 trong top 10 sau Ấn Độ, Trung Quốc, Nga và Saudi Arabia.

Hai năm gần đây, kinh tế thế giới suy thoái nghiêm trọng, tăng trưởng của các

nền kinh tế lớn đều giảm sâu do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19. Tuy nhiên,

theo dữ liệu của Worldbank (2021), kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng với

tốc độ tăng trưởng hàng năm giai đoạn (2011 -2020) vẫn đạt gần 6%. Với quy mô

lớn về dân cư và mức tăng trưởng ổn định sẽ tạo ra sức hút lớn đối với các nhà đầu

tư Nhật Bản.

Nguồn: Ngân hàng thế giới, 2021

Hình 3.7. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020

Nhờ có sức cầu mạnh trong nước nên so với các quốc gia khác trong cùng khu

vực thì Việt Nam vẫn có lợi thế về quy mô và tiềm năng tăng trưởng của thị trường.

Theo kết quả khảo sát của JETRO năm 2019, trong các nhân tố ảnh hưởng tới quyết

định đầu tư của các DN Nhật Bản thì 66,8% DN trả lời “Quy mô và tính tăng

trưởng của thị trường cao. Theo kết quả khảo sát của tác giả với các DN Nhật Bản

tại Việt Nam: Về yếu tố quy mô và tính tăng trưởng của thị trường: Có 8/193 ý kiến

đánh giá “thấp”, 121 ý kiến là “bình thưởng” và 64 ý kiến đánh giá “cao”. Sức tiêu

thụ của thị trường Việt Nam với quy mô dân số lớn nên có tới 68,5% DN đánh giá

cao. Chi phí sản xuất của các DN, ảnh hưởng tới việc quyết định tới giá thành của

sản phẩm, có 17/193 ý kiến trả lời chi phí sản xuất “thấp”, 137 DN trả lời chi phí sản xuất “bình thường”, còn lại các DN trả lời “cao”. (Phụ lục 07)

102

Như vậy các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá cao lợi thế của thị trường Việt Nam,

với trên 63,9% DN phản hồi là “Có định hướng mở rộng kinh doanh” tại Việt Nam

(đứng đầu trong ASEAN).

Quy mô thương mại: Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, giai

đoạn sau đó từ 2008 - 2011 cán cân thương mại của Việt Nam luôn rơi vào tình

trạng thâm hụt, nguyên nhân không phải do sự giảm sút trong xuất khẩu mà do nhập

khẩu tăng quá nhanh. Giai đoạn từ 2011 đến 2020, Việt Nam đã thực hiện các chính

sách hợp tác, hội nhập, và thực hiện các đa phương hóa và đa dạng hóa, đã giúp cho

con đường xuất khẩu của Việt Nam có nhiều khởi sắc và biến cán cân thương mại

Việt Nam có các thông số dương.

Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa của

Việt Nam đã đạt mức 3.995 tỷ USD và lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam từ

năm 2015 đến năm 2019 đã có thể vượt mức 2000 tỷ USD, mức này cao hơn so với

lượng hàng hóa xuất khẩu trong 15 năm trước đó cộng lại. Năm 2020 mặc dù bị ảnh

hưởng nặng nề của Đại dịch Covid - 19, nhưng cán cân thương mại hàng hóa của

Việt Nam vẫn thặng dư. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là quốc gia có chuỗi cung ứng

chưa phát triển, còn phụ thuộc vào nguyên liệu thô, nhập khẩu thiếu các ngành công

nghiệp phụ trợ. Đó cũng là vấn đề gây cản trở với các nhà đầu tư Nhật Bản.

3.2.2.3. Nhân tố nguồn lực của Việt Nam

Nguồn nhân lực của Việt Nam

Theo thống kê năm 2019, dân số Việt Nam có hơn 95 triệu người; độ tuổi bình

quân là 27 và dân số ở độ tuổi dưới 30 chiếm 60% tổng dân số. Nguồn nhân lực hiện

tại của Việt Nam đang có lợi thế là nằm trong thời kỳ dân số vàng với giá nhân công

rẻ so với các quốc gia trong cùng khu vực và trên thế giới. Vì vậy, Việt Nam luôn

được đánh giá cao về đội ngũ lao động phổ thông lớn, cần cù chăm chỉ và chi phí

thấp, việc tìm kiếm lao động cũng tương đối dễ dàng. Hiện nay, Việt Nam xếp hạng

thứ 4 trong số 15 quốc gia có nguồn lao động dễ tuyển dụng. Tuy nhiên, nguồn lao

động dồi dào, giá rẻ không phải là lợi thế lâu dài để thu hút FDI từ Nhật Bản.

Báo cáo từ cuộc khảo sát của JETRO cho thấy, có tới 60% DN Nhật Bản cho

rằng họ thường gặp khó khăn trong việc “đảm bảo và đào tạo nguồn nhân lực” trong

khai thác mở rộng thị trường ở Việt Nam. Đây chính là hạn chế lớn, gây khó khăn

103

cho Việt Nam trong thu hút và lựa chọn công nghệ cao, đồng thời làm tăng chi phí

đào tạo của DN Nhật Bản.

Các dự án FDI Nhật Bản tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến,

chế tạo, những ngành hiện đại đòi hỏi nguồn nhân lực trình độ cao. Do đó, bên cạnh

nguồn lao động dồi dào và giá rẻ, chất lượng lao động cũng trở thành một trong

những yếu tố ảnh hưởng mạnh đến quyết định đầu tư vào Việt Nam của các DN FDI

Nhật Bản. Kết quả khảo sát ở phụ lục 09 cho thấy, có tới hơn 36% các DN Nhật

Bản được khảo sát đánh giá ở mức “thấp” và “rất thấp” về chất lượng lao động.

Nhìn vào con số thống kê của cơ quan chức năng về chất lượng nguồn nhân lực tại

các DN FDI, thì có tới 37% lao động được tuyển dụng không đáp ứng được công

việc; 39,86% DN FDI đang thiếu hụt lao động, nhiều công ty phải mất 1-2 năm đào

tạo lại lực lượng lao động…[45]. Đây cùng là những lo ngại của các nhà đầu tư nói

chung và Nhật Bản nói riêng.

Đối với ngôn ngữ và tác phong làm việc của người lao động Việt Nam trong các

DN Nhật Bản: 34 DN khảo sát đánh giá ở mức thấp và 87 DN ở mức bình thường.

Theo các nhà đầu tư Nhật Bản, khi họ tuyển người lao động vào làm việc hầu hết họ

phải đào tạo ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Nhật cho người lao động ngoài giờ làm việc.

Bên cạnh đó cũng có 72 DN đánh giá cao về ngôn ngữ và tác phong làm việc, chủ yếu

đối với các DN thuộc lĩnh vực dịch vụ, người động đã tự trang bị cho mình những kiến

thức về ngoại ngữ để có thể tham gia ứng tuyển vào các DN FDI. (Phụ lục 09)

Về mức độ gắn bó của người lao động Việt Nam đối với các DN của Nhật Bản,

theo kết quả khảo sát của JETRO năm 2019, vẫn có 29,9% DN Nhật Bản được khảo

sát cho rằng “Tỷ lệ nghỉ việc của nhân viên cao”. Cho nên, với các nhà đầu tư Nhật

đây vẫn là một trong những yếu tố rủi ro trong môi trường đầu tư tại Việt Nam.

Như vậy, trình độ cán bộ nghiên cứu và đội ngũ kỹ sư của Việt Nam hiện nay

chưa đồng đều, cán bộ quản lý không những hạn chế về chuyên môn mà còn hạn

chế về ý thức khi không nhận thức được trách nhiệm của mình, kém phẩm chất,

thoái hóa, ngoại ngữ không tốt gây bất tiện trong việc giao tiếp. Công tác đào tạo

cán bộ quản lý FDI từ trung ương đến địa phương còn kém. Công tác đào tạo công

nhân kỹ thuật chưa được quan tâm đúng mức, trình độ chuyên môn kỹ thuật không

tương thích với bằng cấp [65]. Điều này thể hiện rõ nét khi doanh nghiệp FDI tại

104

Việt Nam cho biết gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng lao động cho các vị trí

cán bộ kỹ thuật, quản lý. Năm 2018, kết quả điều tra PCI – FDI cho thấy bức tranh

không mấy tích cực khi DN FDI tại Việt Nam muốn tìm kiếm lao động lành nghề,

có kỹ năng cao như cán bộ kỹ thuật, giám sát và quản lý. Có đến 74% DN FDI cho

biết gặp khó khăn khi tuyển dụng vị trí cán bộ kỹ thuật. Số DN FDI cho biết khó

tuyển được các vị trí giám sát và quản lý là rất cao, lần lượt là 84% và 91% [40].

Tính theo sức mua tương đương (PPP 2011), NSLĐ của Việt Nam giai đoạn

2011-2019 tăng bình quân 4,87%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Singapore

(1,4%/năm); Malaysia (2%/năm); Thái Lan (3,2%/năm); Indonesia (3,6%/năm);

Philippines (4,3%/năm). Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các

nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn [63].

Nguồn: Tổng cục thống kê, 2019

Hình 3.8. Tỷ lệ năng suất lao động quốc gia khác so với Việt Nam

năm 2011 và 2019

Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, năng suất lao động của

Việt Nam vẫn được cho là thấp. Theo số liệu tổng cục thống kê, NSLĐ của Việt Nam

năm 2019 vẫn chỉ bằng 7,6%, trong khi năng suất của Singapore; 19,5% của Malaysia;

37,9% của Thái Lan; 45,6% của Indonesia; 56,9% NSLĐ của Philippines và 6,89% của

Brunei. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn

trong thời gian tới để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước ASEAN-6.

Vị trí địa lý

Việt Nam nằm ở vị trí thuận lợi giữa trung tâm khu vực Đông Á với nhiều nền kinh

tế lớn, năng động như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Thái Lan, Trung Quốc, có

105

tiềm năng lớn để trở thành nút giao thông chu chuyển quan trọng của toàn khu vực

Đông Á, trung tâm kết nối của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và kết nối khu vực

này với các nền kinh tế ở khu vực Tây bán đảo Đông Dương. Bên cạnh đó Việt Nam

có nhiều thuận lợi trong việc xây dựng và phát triển các cảng nước sâu như Cam Ranh,

Văn Phong hàng đầu thế giới và rất gần đường hàng hải quốc tế, sắp tới nếu Kênh Kra 1 ở Nam Thái Lan được đào, thì vị thế địa chiến lược của Việt Nam càng được gia tăng,

vì cảng Văn Phong có nhiều tiềm năng trở thành cảng trung chuyển quốc tế thay cho

Singapore. Với việc sở hữu 3000 km bở biền và nằm ngay cửa ngõ của khu vực tạo

điều kiện giao thương toàn cầu. Với vị thế địa chiến lược quan trọng của mình, Việt

Nam luôn là đối tượng nhòm ngó và tranh chấp của các nước lớn.

Việt Nam và Nhật Bản cách nhau 4.330km, thuận tiện cho việc đi lại thông qua

đường biển và đường hàng không, đặc biệt nếu đi bằng đường hàng không chỉ mất 5

giờ bay thẳng. Theo kết quả khảo sát các DN Nhật Bản, có 117/193 DN được khảo

sát chiếm 60,62% cho rằng, “Mức độ thuận lợi về vị trí địa lý của Việt Nam” là

“Cao”, số còn lại cho là “bình thường”. (Phụ lục 09).

Việt Nam có khí hậu nhiệt đới với hai miền khí hậu khác nhau tạo ra lợi thế

trong phát triển nông nghiệp, trở thành một nguồn cung cấp nông - lâm - thủy hải

sản trong khu vực và thế giới. Mặc dù số dự án nông nghiệp của Nhật Bản vào Việt

Nam vẫn còn ít, song đây sẽ là một nhân tố hấp dẫn của Việt Nam trong thu hút FDI

từ Nhật Bản.

Như vậy, vị trí địa lý của Viêt Nam là một trong những yếu tố thuận lợi trong

thu hút FDI từ Nhật Bản.

Tài nguyên tự nhiên

Nhật Bản vốn là một quốc gia có ngành công nghiệp phát triển sớm nhưng lại

nghèo nàn về tài nguyên tự nhiên. Do đó, một trong các lí do quan trọng đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản sang các nước đang phát triển đó chính là hướng

tới nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguồn khoáng sản, mối quan tâm hàng

đầu của ngành công nghiệp khai khoáng.

Việt Nam, mặc dù là nước có diện tích không lớn nhưng có nguồn tài nguyên

khoáng sản đa dạng và phong phú với gần 40 chủng loại từ khoáng sản năng lượng

(dầu khí, than, urani, địa nhiệt), khoáng sản không kim loại, vật liệu xây dựng đến

106

khoáng sản kim loại. (Theo Tổng hội địa chất, hội Khoáng sản Việt Nam). Tuy

nhiên hầu hết các khoáng sản ở Việt Nam có trữ lượng không lớn, phân bố tản mạn

không tập trung. Ngoài ra, Việt Nam còn giàu tài nguyên rừng và tài nguyên biển.

Do đó, trước đây, tài nguyên tự nhiên là một lợi thế lớn cho Việt Nam thu hút

FDI từ Nhật Bản. Tuy nhiên, đến nay, do quản lý thiếu đồng bộ, công nghệ khai

thác lạc hậu, nhất là việc khai thác sử dụng nhiều nhóm tài nguyên chưa hợp lý dẫn

đến lãng phí nguồn lực quốc gia, tài nguyên bị suy thoái, cạn kiệt, đe dọa sự phát

triển bền vững của đất nước. Theo kết quả khảo sát của tác giả, 56,48% DN tham

gia khảo sát đánh giá “Mức độ phong phú tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam” là

“bình thường”, chỉ có 7,7% đánh giá là “cao”, còn lại số DN cho là “thấp”. (Phụ lục

09). Như vậy, tài nguyên tự nhiên không còn là nhân tố quan trọng trong thu hút

FDI từ Nhật Bản như trước.

Trong bối cảnh các nguồn tài nguyên ngày càng bị khai thác cạn kiệt cộng với

những ngoại ứng tiêu cực về môi trường liên quan đến ngành công nghiệp khai thác,

do đó nước ta đang hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, từ đó hạn chế luồng

FDI vào công nghiệp khai thác đồng thời đẩy mạnh FDI vào công nghiệp chế biến

nhằm tăng cường giá trị gia tăng cho sản phẩm.

3.2.2.4. Nhân tố cơ sở hạ tầng của Việt Nam

Theo ngân hàng quốc tế Nhật bản (JBIC) kết quả khảo sát 600 DN Nhật Bản

năm 2009, cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn là trở ngại hàng đầu đối với họ. Những

năm gần đây, các DN Nhật Bản không hài lòng với cơ sở hạ tầng của Việt Nam đã

giảm xuống so với năm 2009, theo kết quả khảo sát khảo sát thực trạng các DN

Nhật Bản đầu tư tại Châu Á, Châu Đại Dương năm tài chính 2019 của JETRO có

34,6% DN Nhật Bản tại Việt Nam được khảo sát cho rằng “Cơ sở hạ tầng tại Việt

Nam chưa hoàn thiện”. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều DN Nhật Bản kêu ca về tình trạng

thiếu điện năng, cảng biển và cảng hàng không chưa vận hành thuận lợi, hệ thống

cấp thoát nước cũng còn có vấn đề, các dự án cơ sở hạ tầng chậm trễ. Đặc biệt tình

trạng tắc nghẽn trong kết cấu hạ tầng hiện được xem là nguyên nhân lớn cản trở môi

trường kinh doanh của Việt Nam.

Về hệ thống hạ tầng giao thông vận tải tại Việt Nam hiện nay còn chưa có

nhiều đường cao tốc theo đúng tiêu chuẩn, thiếu cảng nước sâu; mạng đường đô thị

107

ở các thành phố lớn, các khu vực phát triển chưa được quy hoạch kết nối với mạng

giao thông chung của quốc gia. Chất lượng đường giao thông gần một số khu công

nghiệp chưa được tốt, các công trình nhà ở, khách sạn và dịch vụ bên cạnh các khu

công nghiệp chưa phát triển. Theo kết quả khảo sát của tác giả, có 115 DN Nhật

chiếm gần 60% đánh giá “Độ thuận tiện, chất lượng hệ thống hạ tầng giao thông

Việt Nam” là “bình thường”; còn lại 40% DN đánh giá “thấp” hệ thống hạ tầng giao

thông của Việt Nam. (Phụ lục 08)

Về hệ thống cơ sở hạ tầng năng lượng và các dịch vụ công nghệ thông tin,

bưu chính viễn thông tại Việt Nam đã phát triển, nhưng chưa hiện đại. Điện năng

có thời điểm chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất trong các trung tâm công nghiệp,

nguồn cung cấp điện không ổn định, chất lượng điện thấp. Theo khảo sát của IPC

đối với các DN Nhật hoạt động tại Việt Nam thì 25% DN nêu ý kiến quan tâm đến

nguồn điện không ổn định. Còn theo kết quả khảo sát thực trạng các DN Nhật Bản

đầu tư tại Châu Á, Châu Đại Dương năm tài chính 2019 của JETRO thì các DN

Nhật tại Việt Nam cho rằng: Chính sách năng lượng không rõ ràng, tình trạng thiếu

điện năng đặc biệt là ở miền Nam. DN lo ngại về việc hạn chế cung cấp điện.

Theo kết quả khảo sát của tác giả, về yếu tố chất lượng hệ thống thông tin, viễn

thông, năng lượng có trên 61% số DN của Nhật Bản được khảo sát đánh giá “bình

thường” gần 20% cho là “cao”, còn lại là “thấp”. (Phụ lục 08)

Mặc dù, Việt Nam đã dành riêng nhiều khu vực cho nhà đầu tư Nhật Bản tại các

khu công nghiệp và các địa phương được Nhật Bản quan tâm như Hồ Chí Minh đã

dành riêng 100 ha cho nhà đầu tư Nhật tại khu công nghiệp Hiệp Phước, các tỉnh

Hải Phòng, Thanh Hóa, Bà Rịa - Vũng Tàu … cũng có khu công nghiệp chuyên

sâu cho DN Nhật Bản. Tuy nhiên, mức độ hiện đại và đồng bộ của hạ tầng khu kinh

tế, khu công nghiệp này vẫn còn yếu kém và thiếu các giải pháp hợp lý về cơ sở hạ

tầng và các dịch vụ đi kèm theo đúng yêu cầu của nhà đầu tư Nhật, đó là một hạ

tầng công nghiệp với đầy đủ cơ sở vật chất đi kèm tiện nghi “Khu công nghiệp

không chỉ là khu công nghiệp mà còn phải kết hợp thành khu đô thị”[26]. Kết quả

khảo sát cho thấy có 18/193 DN đánh giá hạ tầng của Việt Nam vẫn còn ở mức

thấp; cơ sở hạ tầng vẫn chưa được hoàn thiện; 135 DN trả lời “bình thường” chiếm

gần 70% số DN khảo sát; còn lại các DN đánh giá ở mức “cao”. (Phụ lục 08)

108

Hoạt động logistic

Theo Ngân hàng Thế giới, hiệu quả logistics là một trong những nhân tố ảnh

hưởng tới hiệu quả đầu tư và kinh doanh cũng như cạnh tranh thương mại của các

quốc gia. Báo cáo năm 2020 của tổ chức này cho thấy với tốc độ phát triển hàng

năm đạt từ 14-16%, đây là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh và ổn

định nhất của Việt Nam trong thời gian qua, nhưng hiện Việt Nam vẫn đứng thứ

64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN

sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Mặc dù gần đây các DN Nhật Bản đã quan

tâm đầu tư vào lĩnh vực logistics tại Việt Nam nhưng số lượng còn ít, chủ yếu là

DN quy mô nhỏ. Kết quả khảo sát DN Nhật Bản cho thấy, gần 50% DN Nhật Bản

cho rằng "Mức độ phát triển hệ thống logistics của Việt Nam còn “thấp”, số DN còn

lại đánh giá là “bình thường”. (Phụ lục 08)

Công nghiệp hỗ trợ

Một trong những nút thắt khiến nhiều nhà đầu tư Nhật Bản quan ngại khi đầu tư

vào Việt Nam là tỷ lệ cung ứng nội địa ở mức thấp so với các nước trong khu vực,

và vài năm gần đây luôn ở ngưỡng 30%. Các DN Nhật Bản thường gặp khó khăn

trong việc tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu, linh kiện tại Việt Nam. Điều đó làm

cho chuỗi cung ứng sản phẩm hàng hóa chưa được hoàn thiện dẫn đến chi phí sản

xuất cao.

Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát của JETRO năm 2019 Hình 3.9: Tỷ lệ thu mua nội địa tại Việt Nam của các DN FDI Nhật Bản giai

đoạn 2008 – 2019

109

Theo “Điều tra thực trạng hoạt động của các doanh nghiêp Nhật Bản tại Châu Á,

châu Đại Dương của JETRO” năm 2019, tỉ lệ nội địa hóa tại Việt Nam của các

doanh nghiêp Nhật Bản dừng lại ở 36,6%, còn thấp so với các nước khác ở châu Á.

Từ sau năm 2010 tỷ lệ này dần có sự gia tăng, tuy nhiên so với các nước như Trung

Quốc, Thái Lan, Indonesia thì khoảng cách chưa được rút ngắn.

Tỷ lệ thu mua từ DN trong nước của Việt Nam rất thấp.

Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát của JETRO năm 2019 Hình 3.10: Tỷ lệ thu mua từ DN trong nước của các DN Nhật Bản tại Việt Nam

giai đoạn 2008 – 2019

Báo cáo của JETRO năm 2019 cho thấy chỉ có 13,6% DN bản địa cung cấp được

nguyên phụ liệu cho DN Nhật Bản (còn lại là DN có vốn đầu tư nước ngoài), trong

khi tỉ lệ này ở Trung Quốc là 43,9%, Thái Lan 24,9% và Malaysia 20,9%. Theo kết

quả khảo sát các DN Nhật Bản của JETRO năm 2019, có đến 56,2% DN Nhật Bản

được khảo sát cho rằng “Việc thu mua linh kiện, vật liệu nội địa tại Việt Nam” là

khó khăn. Có thể nói công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam đang ở trong tình trạng vừa

thiếu, vừa yếu kém. Chẳng hạn như trong ngành ô tô, số DN sản xuất linh kiện, phụ

tùng trong nước có khoảng 200 đơn vị, nhưng các linh kiện đó chủ yếu là đơn giản,

hàm lượng công nghệ thấp như các chi tiết cấu thành khung gầm xe, thùng xe, xăm

lốp, bộ tản nhiệt; các DN Nhật Bản phải nhập khẩu hơn 90% linh kiện, phụ tùng.

Ngành điện tử cũng ở trong tình trạng tương tự. Linh kiện, phụ tùng điện tử mới

được sản xuất trong những năm gần đây và tỉ lệ nội địa hóa mới được khoảng 20-

30%. Các linh kiện sản xuất trong nước chủ yếu là vỏ cac-ton, xốp chèn, vỏ nhựa,

110

sách hướng dẫn…, còn các linh kiện điện tử quan trọng khác chủ yếu là nhập khẩu.

Theo kết quả khảo sát của tác giả, có 113/193 DN Nhật Bản chiếm 58,55% đánh giá

“Mức độ phát triển công nghiệp phụ trợ của Việt Nam” còn thấp, số còn lại cho là

“bình thường”. (Phụ lục 08)

Một số ngành công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam như điện tử, dệt may, da

giày, lắp ráp ô tô, xe máy… hầu như chưa có công nghiệp hỗ trợ đi kèm, nên phải

phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, khiến sản xuất nhiều khi còn manh

mún, bị động, chi phí sản xuất cao.

3.3. Đánh giá tác động của FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài

chính toàn cầu năm 2008 đến nay

3.3.1. Các kết quả đạt được

Thứ nhất, FDI Nhật Bản đóng góp vào tổng vốn đầu tư xã hội và góp phần

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

Đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho tổng vốn đầu tư xã hội,

góp phần hình thành tài sản vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển toàn xã hội và tăng

trưởng kinh tế của Việt Nam trong hơn 30 năm qua. Sau năm 2008, theo báo cáo Đầu

tư Toàn Cầu của UNCTAD xếp hạng của Việt Nam về thu hút FDI liên tục có những

cải thiện. Điều này được thể hiện qua tỷ trọng của FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội

và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam có xu hướng gia tăng.

Nguồn: Tổng cục thống kê, 2020

Hình 3.11: Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội

giai đoạn 2008 -2020

111

Trong tổng tỷ trọng đóng góp của FDI vào tổng vốn đầu tư xã hội tại Việt Nam

từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, không thể không kể đến sự đóng góp đáng

kể vốn FDI của Nhật Bản. Luôn là một trong ba nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam,

mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu

nhưng sau nhịp sụt giảm năm 2009, từ năm 2010 đến nay FDI Nhật Bản vào Việt

Nam liên tục gia tăng.

Nguồn: Báo cáo JETRO, 2020 Hình 3.12: Tỷ trọng của FDI Nhật Bản trong tổng FDI vào Việt Nam giai

đoạn 2008 - 2020

Nếu như năm 2009 bị ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, tỷ trọng

vốn FDI Nhật Bản trong tổng FDI vào Việt Nam chỉ có 2,43% thì đến năm 2012 tỷ

trọng này đạt 26,79% và đạt mức đóng góp cao nhất là 28,33% vào năm 2017.

Trung bình cả giai đoạn 2008 – 2020, mức độ đóng góp vón FDI Nhật Bản vào tổng

vốn FDI cả nước là 16,28%. Và tính lũy kế đến hết năm 2020, lượng vốn FDI của

Nhật Bản cũng đã đóng góp trên 15,7% vào tổng vốn FDI tại Việt Nam đứng ở vị

trí thứ hai sau Hàn Quốc. (Cục đầu tư nước ngoài, 2020)

Như vậy, vốn đầu tư của Nhật Bản là nguồn bổ sung quan trọng cho tổng vốn

đầu tư xã hội của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam phát triển và xây

dựng nền kinh tế.

Sự tăng trưởng dòng vốn FDI đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Điều

này thể hiện qua tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP luôn ở mức trên 15%.

112

Giai đoạn 2011-2019, khu vực FDI đóng góp khoảng 25,7% cho tăng trưởng kinh tế

Việt Nam, chiếm khoảng 15% GDP năm 2010 và 19,6% GDP năm 2019 [19].

Hộp 3.1. Một ví dụ về đóng góp của FDI Nhật Bản vào tăng trưởng,

phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh

Một ví dụ về tỉnh Bắc Ninh, mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu năm 2008, nhưng đến năm 2011 tỷ trọng trong GDP của khu vực FDI chiếm 33,9%,

trong đó riêng đầu tư FDI của Nhật Bản chiếm khoảng 6,3%. Đầu tư trực tiếp của Nhật

Bản đóng góp ngày càng lớn vào nguồn thu ngân sách của tỉnh: năm 2005 chiếm 1,05%

tổng thu ngân sách toàn tỉnh, tới năm 2011 chiếm 2,14% tổng thu ngân sách toàn tỉnh (theo

số liệu của Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Bắc Ninh). Giá trị xuất khẩu của khu vực 47 FDI

trong đó có FDI của Nhật Bản cũng gia tăng nhanh và đóng vai trò quan trọng thúc đẩy gia

tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu đạt 2.761 triệu

USD (chủ yếu trong lĩnh vực điện tử), chiếm 97,53% tổng kim ngạch xuất khẩu cả tỉnh;

riêng của các DN có vốn FDI từ Nhật Bản là 382 triệu USD, chiếm 13,49% tổng kim

ngạch xuất khẩu của tỉnh. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994)

của 15 năm vừa qua là 38,0%, khu vực FDI là 133,8%, FDI của Nhật Bản là 106%. Năm

2011, giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định năm 1994) trên địa bàn Bắc Ninh ước gấp

110 lần so với năm 1997, đưa công nghiệp Bắc Ninh lên đứng thứ 6/63 tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương. Để có được kết quả đó, có một phần đóng góp không nhỏ của các DN

FDI từ Nhật Bản.

Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Bắc Ninh (2011)

Thứ hai, FDI Nhật Bản tăng đóng góp vào thu ngân sách Nhà nước

DN có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng tỷ lệ đóng góp vào thu ngân sách

nhà nước trong những năm gần đây (tỷ lệ 10,8% năm 2010 tăng lên khoảng 13,6%

năm 2019). Đây là xu thế tốt nhưng ở góc độ khác vẫn chưa tương xứng với tiềm

lực thực tế của khu vực FDI.

Về cơ cấu thu nộp ngân sách, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 26%

tổng thu ngân sách. Riêng giai đoạn 2011 – 2019 khu vực FDI chiếm bình quân 28%

tổng thu ngân sách Nhà nước. Song tại nhiều địa phương, DN vốn FDI chiếm tỷ trọng

lớn trong nguồn thu ngân sách. Chẳng hạn, với tỉnh Vĩnh Phúc là 93,5%; Bắc Ninh là

72%, Đồng Nai 63%, Bắc Giang 60% và Bình Dương 52%...[35].

113

Vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam cũng đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà

nước và ngân sách các địa phương. Hiện nay có hơn 2.000 DN FDI Nhật Bản hoạt

động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Theo kết quả điều tra khảo sát của tổ chức

Xúc tiến thương mại Nhật Bản được tiến hành thường niên hàng năm có thể thấy tỷ

lệ các DN FDI Nhật Bản tại Việt Nam có lãi luôn lớn hơn 50%. Điều đó có nghĩa

hàng năm các DN Nhật Bản đã đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà nước trong

tổng thu ngân sách.

Nguồn: Báo cáo JETRO

Hình 3.13: Lợi nhuận kinh doanh các DN Nhật Bản tại Việt Nam

giai đoạn 2013 - 2020

Theo báo cáo của JETRO năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hoạt

động sản xuất, kinh doanh bị ảnh hưởng sâu sắc, nên có 52,8% DN bị giảm lợi

nhuận kinh doanh, tỷ lệ DN bị lỗ là 30,1%; tuy nhiên, tỷ lệ các DN có lãi là 49,6%

và 20,3% DN có hoạt động kinh doanh cân bằng. So với các quốc gia trong khu

vực, tỷ lệ lãi của DN tại Việt Nam bị suy giảm nhưng vẫn thuộc mức tiêu chuẩn cao

trong ASEAN.

114

Hộp 3.2. Đóng góp của DN Nhật Bản vào ngân sách nhà nước

của tỉnh Vĩnh Phúc.

Tỉnh Vĩnh Phúc với lợi thế vị trí gần thủ đô Hà Nội, có ngành công nghiệp phát triển,

có nhiều nhà đầu tư hàng đầu của Nhật Bản như Honda, Toyota, Nissin, Toyota Boshoku,

Tập đoàn Sumitomo…đã hoạt động hiệu quả từ rất sớm. Không chỉ hoạt động sản xuất

kinh doanh hiệu quả, trong suốt những năm qua, các DN Nhật Bản luôn thực hiện tốt chính

sách, pháp luật Thuế và dẫn đầu danh sách các quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư

đóng góp chủ lực cho ngân sách tỉnh Vĩnh Phúc.

Theo báo cáo của Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc, hiện trên địa bàn tỉnh có trên 440 dự án

đầu tư FDI, trong đó có 42 dự án của Nhật Bản với tổng vốn đầu tư trên 1 tỷ USD. Các dự

án của Nhật Bản chủ yếu đầu tư vào các khu công nghiệp có quy mô lớn, công nghệ hiện

đại, sản xuất trong lĩnh vực ô tô, xe máy, cơ khí, chế tạo, sản xuất phụ tùng ô tô, xe máy đã

tạo việc làm cho trên 22.000 lao động. Nhờ tận dụng tốt các cơ chế, chính sách ưu đãi của

Chính phủ, của tỉnh và phát huy tối đa yếu tố nội lực, nên hoạt động sản xuất kinh doanh

của các DN Nhật Bản luôn ổn định và phát triển.

Từ năm 2015 đến nay, số DN, doanh thu của các DN Nhật Bản liên tục tăng, từ 27 DN,

tổng doanh thu gần 110 nghìn tỷ đồng năm 2015 tăng lên 59 DN năm 2019, với tổng doanh

thu 160 nghìn tỷ đồng; 10 tháng năm 2020 đạt doanh thu trên 115 nghìn tỷ đồng. Các DN

Nhật Bản luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Nếu như năm 2015, các

DN Nhật Bản nộp ngân sách Nhà nước gần 18.500 tỷ đồng, chiếm 83% tổng thu ngân sách

của tỉnh thì đến năm 2019 nộp ngân sách 21.500 tỷ đồng, chiếm khoảng 70%; 10 tháng đầu

năm 2020, mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng do dịch bệnh Covid-19

nhưng các DN Nhật Bản vẫn nộp ngân sách trên 10.400 tỷ đồng [38].

Nguồn: Thanh Nga (2020), Các DN Nhật Bản đóng góp chủ lực cho ngân sách Nhà nước,

Cổng thông tin giao tiếp điện tử tỉnh Vĩnh Phúc.

Thứ ba, FDI Nhật góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Theo cơ cấu ngành, sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, đầu tư của

Nhật Bản luôn chiếm tỷ trọng cao hơn trong các ngành công nghiệp, dịch vụ. Điều

này phù hợp với những định hướng ưu tiên của Việt Nam. Theo Cục đầu tư nước

ngoài, tính đến cuối năm 2020, số dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chiếm

115

43,42%, số dự án trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 51,9% và lĩnh vực nông lâm ngư

nghiệp chỉ chiếm 4,6% trong tổng số dự án đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam.

Theo cơ quan xúc tiến đầu tư thì các DN Nhật Bản được xem là đối tác dẫn đầu

trong việc đưa vốn vào lĩnh vực chế biến - chế tạo, những lĩnh vực đang được Chính

phủ Việt Nam khuyến khích đầu tư nhằm tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng

dài hạn cũng như thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong

tổng số hơn 4.680 dự án FDI của Nhật Bản tại Việt Nam hiện nay, có tới hơn 1.830

dự án thuộc lĩnh vực này tương đương 39,1%. Nhờ có nguồn vốn đầu tư mạnh của

Nhật Bản, cơ cấu ngành công nghiệp của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể,

Vận tải, kho bãi

Khác

Xây dựng

Bán buôn, bán lẻ

Sản xuất, phân phối khí điện nước

Khai khoáng

KD BĐS

Dịch vụ ăn uống

nhất là trong lĩnh vực chế tạo, góp phần thay đổi bộ mặt nền công nghiệp nước nhà.

Nguồn: JETRO soạn thảo theo số liệu của Cục đầu tư nước ngoài, 2020

Hình 3.14: Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam theo ngành

(Lũy kế đến hết năm 2020)

Theo báo cáo của JETRO, đến hết năm 2020, có hơn 40,6 tỷ USD chiếm trên

64,57% vốn đầu tư của Nhật Bản tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế

tạo với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Riêng năm 2020,

trong các ngành kinh tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ Nhật Bản, ngành công

nghiệp chế biến, chế tạo có số vốn đăng ký lớn nhất với 507,6 triệu USD, chiếm

trên 63% tổng vốn FDI từ Nhật Bản.

116

Với sự tăng cường mạnh vốn đầu tư của Nhật Bản vào các ngành trọng điểm như

trên, một điều dễ nhận thấy là ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam cũng sẽ được

phát triển, cả về kết quả giá trị sản xuất, lẫn phát triển về trình độ khoa học kĩ thuật và

nguồn nhân lực. Cơ cấu ngành càng dần chuyển sang lĩnh vực chế tạo. Cao hơn nữa, tỷ

trọng các ngành công nghiệp trong tổng đóng góp vào tăng trưởng cũng ngày càng tăng.

Bên cạnh đó, DN Nhật Bản được đánh giá là đóng vai trò chủ đạo trong quá trình

phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Tháng 7/2013, Việt Nam đã phê

duyệt “Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam -

Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030” trong đó ưu tiên phát triển 6 ngành

công nghiệp bao gồm: điện tử; máy nông nghiệp; chế biến nông, thủy sản; đóng tàu;

môi trường và tiết kiệm năng lượng; và sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô. Với mục tiêu

đưa 6 ngành này thành những ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, có giá trị gia

tăng cao và năng lực cạnh tranh quốc tế, các ngành này sẽ giữ vai trò dẫn dắt về thúc

đẩy thu hút đầu tư của DN trong và ngoài nước, trước hết là DN Nhật Bản.

Đến nay, khu vực FDI của Nhật Bản đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp khá

lớn, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như

điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất xi măng, ô tô, công nghiệp phụ trợ...

Thứ tư, các dự án FDI của Nhật Bản đã góp phần đáng kể trong việc tạo ra

việc làm mới, phát triển chất lượng nguồn nhân lực.

Cho đến nay, các dự án FDI của Nhật Bản đã tạo hàng triệu việc làm, góp phần

nâng cao tay nghề lao động, tăng cường khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật, kỹ

năng công nghệ. Trong quá trình làm việc tại các DN FDI của Nhật Bản người lao

động đã thay đổi tác phong công nghiệp, tiếp cận và hiểu biết tốt hơn về văn hóa

DN, nâng cao được trình độ kỹ năng và chuyên môn kỹ thuật, trình độ quản lý, trình

độ quản lý. Hàng vạn người đã trở thành những cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi

nòng cốt trong các DN. Một số DN FDI của Nhật Bản đã từng bước chuyển giao

công nghệ, các quy trình kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý cho các kỹ sư, cán bộ kỹ

thuật, cán bộ quản lý là người Việt Nam. Cùng với lực lượng lao động được đào

tạo, tập huấn tại DN, hàng năm một số DN FDI Nhật Bản còn lựa chọn và cử hàng

nghìn lượt lao động, chuyên gia người Việt Nam đi đào tạo, tập huấn tại các công ty

mẹ hoặc các cơ sở đào tạo khác tại Nhật Bản. Các tập đoàn công nghệ như Canon,

117

Honda…đã thành lập các trung tâm nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực tại các

DN, trực tiếp đào tạo cán bộ quản lý và nhân lực chất lượng cao.

Tính chung tới nay, các DN có vốn đầu tư của Nhật Bản chiếm tới trên 15%

tổng số lao động trong khu vực đầu tư nước ngoài. Nhật Bản cũng tham gia trực

tiếp vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam bao gồm cả đào tạo nghề,

đáp ứng tốt hơn nhu cầu đầu tư của các công ty xuyên quốc gia (TNC) Nhật Bản.

Đến hết năm 2020, các DN Nhật Bản đã tạo việc làm cho một số lượng lớn người

lao động Việt Nam. Con số ước tính lực lượng lao động đang làm việc cho các công

ty có vốn đầu tư từ Nhật Bản khoảng hơn 4 triệu người, bao gồm cả lao động thủ

công trình độ thấp cho tới lao động có chuyên môn trình độ cao. Chỉ riêng công ty

Honda đã tạo ra hơn 10.000 việc làm [24] và ba nhà máy của Cannon cũng tạo hơn

22.000 việc làm ổn định cho người lao động [22] nhiều trình độ, từ lao động phổ

thông tới lao động có trình độ cao. Việc tạo việc làm cho số lao động đó không chỉ

mang tạo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động Việt Nam. Mà hơn thế

nữa, qua quá trình học tập, rèn luyện và làm việc, người lao động Việt Nam đã học

hỏi trau dồi được nhiều kỹ năng làm việc, kỹ năng tư duy và kỹ năng quản lý rất có

giá trị để đóng góp cho sự phát triển của đất nước sau này.

Ngoài tạo ra việc làm mới cho người lao động mọi trình độ của Việt Nam, các

công ty FDI từ Nhật Bản cũng có những đóng góp không nhỏ vào nền giáo dục

nước nhà. Các công ty có vốn đầu tư từ Nhật Bản tài trợ trực tiếp cho sinh viên Việt

Nam rất nhiều các loại học bổng bán phần, toàn phần, học bổng thực tập, học bổng

nghiên cứu. Có thể kể đến một số học bổng nổi tiếng và có giá trị thực tế như học

bổng của Honda dành cho sinh viên khối ngành kỹ thuật, với giá trị lớn tư tạo điều

kiện cho sự nghiệp học hành và nghiên cứu ở cấp trình độ cao hơn, và có cả những

cơ hội được du học tại chính đất nước mặt trời mọc để học hỏi về công nghệ phục

vụ nước nhà. Hoặc học bổng Toshiba, Kawasasa...dành cho các sinh viên khối

ngành kinh tế...Và còn rất nhiều các dự án liên kết đào tạo cho sinh viên thực tập tại

các công ty liên doanh giữa Nhật Bản và Việt Nam... Điều đó cho thấy, các nhà đầu

tư Nhật Bản rất quan tâm tới phát triển nguồn nhân lực cho Việt Nam, bởi chính

những nguồn nhân lực trẻ này trong tương lai sẽ là lực lượng chính thúc đẩy cho

mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản, đồng thời đóng góp xây dựng kinh tế Việt

118

Nam ngày càng vững mạnh hơn nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút các

nhà đầu tư trên thế giới.

Bên cạnh tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực, đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản

còn tạo ra nhiều giá trị gia tăng về chất lượng lao động như tạo môi trường làm việc

chuyên nghiệp, tuân thủ giờ giấc, nội quy nề nếp và tác phong người lao động - vốn

là đặc trưng của dân tộc Nhật Bản, mà còn là phong cách lãnh đạo công bằng, dựa

trên những dẫn chứng và chỉ tiêu cụ thể cho từng kế hoạch hoặc mục tiêu đã đề ra.

Phong cách làm việc như vậy không dễ gì có được và thực sự là một điều đáng quý

mà người lao động Việt Nam cần phải học hỏi để áp dụng trong công việc hàng

ngày và trong cả cách tư duy. Ngoài ra, còn rất nhiều kỹ năng phát triển con người

khác mà người lao động Việt Nam có thể học tập và được nâng cao khi làm việc

cho các DN có vốn FDI từ Nhật Bản.

Thứ năm, vốn FDI Nhật Bản đã giúp phát triển kết cấu hạ tầng giao thông

của Việt Nam

Theo thứ trưởng Bộ kế hoạch đầu tư, để phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam cần

một nguồn vốn đầu tư lớn, ước tính khoảng 16.000.000.000-17.000.000.000 USD

mỗi năm, trong khi vốn đầu tư từ các kênh truyền thống chỉ đáp ứng 50-60% nhu

cầu. Bởi vậy các chương trình thí điểm đầu tư theo hình thức PPP đã được phê

duyệt. Đây là một trong những chính sách quan trọng của chính phủ Việt Nam

nhằm tạo ra một hành lang pháp lý để thu hút các nguồn đầu tư từ khu vực tư nhân

cho phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng tại Việt Nam.

Nhật Bản là một đối tác chiến lược quan trọng của Việt Nam, và hạ tầng là lĩnh

vực then chốt trong 12 văn kiện hợp tác kinh tế Việt - Nhật được ký kết nhân

chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide.

Trong những năm qua Việt Nam - Nhật Bản luôn hợp tác chặt chẽ triển khai

thành công chương trình chính sách về hình thức hợp tác công - tư PPP, vốn đầu tư

từ các nhà đầu tư Nhật Bản đã đem lại hiệu quả cao trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng.

Mặc dù đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng còn hết sức khiêm tốn, chủ yếu tập trung

đầu tư xây dựng, khai thác cảng biển và một số ít các dự án cầu tại các thành phố lớn

hoặc các trục chính kết nối với các vùng kinh tế trọng điểm. Các DN FDI của Nhật Bản

đầu tư trong lĩnh vực vận tải và logistic chiếm 4% tổng số các dự án đầu tư. Tuy nhiên,

119

điểm mạnh của Nhật Bản về công nghệ và kinh nghiệm trong các lĩnh vực đường sắt

cao tốc, xử lý nước thải và tái chế rác… Cho nên, việc các DN FDI Nhật tham gia đầu

tư vào lĩnh vực giao thông sẽ giảm gánh nặng đầu tư công, tăng hiệu quả quản lý, tiếp

cận thị trường quốc tế và chuyển giao công nghệ. Các nhà đầu tư Nhật Bản đã đầu tư

vào một số bến cảng lớn như Cái Lân, Tiên Sa, Cái Mép – Thị Vải, dự án sân bay Long

Thành…hay một số khu công nghiệp lớn: Nomura (Hải phòng), Khu công nghiệp

Thăng Long (Hà Nội) và Khu công nghiệp Long Bình (Đồng Nai).

Thứ sáu, FDI Nhật Bản góp phần quan trọng vào đẩy mạnh xuất khẩu của

Việt Nam, và mở rộng hội nhập KTQT của Việt Nam.

Trong những năm gần đây, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đã vượt khu vực trong

nước và dần trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam, chiếm

khoảng gần 50-60% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả nước. Trong đó,

Nhật Bản luôn là đối tác kinh tế, thương mại hàng đầu của Việt Nam. Dưới tác động

của đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản, Việt Nam có thể tiếp cận và mở rộng

thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu, nhất là sang Nhật Bản và các bạn

hàng của Nhật Bản, dần góp phần đưa Nhật Bản trở thành thị trường xuất khẩu lớn

của Việt Nam. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài

trong đó có Nhật Bản tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung, đóng góp vào việc

gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam, 2020

Bảng 3.15: Kim ngạch xuất - nhập khẩu và cán cân thương mại giữa

Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn 2009 - 2020

120

Nhật Bản hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam (sau Hoa Kỳ,

Trung Quốc) và và là thị trường tiêu thụ đặc biệt đối với các sản phẩm may mặc,

giày dép, thuỷ sản, các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Nhật Bản là đối tác nhập

khẩu hàng đầu của Việt Nam, đứng thứ 3 về kim ngạch sau Trung Quốc và Hàn

Quốc, cung cấp những mặt hàng rất cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá và thực hiện chiến lược công nghiệp hướng về xuất khẩu của Việt Nam, như

máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, các nguồn nguyên liệu quan trọng phục

vụ đối với hoạt động sản xuất trong nước.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, xuất nhập khẩu hàng

hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản trong 10 năm trở lại đây luôn đạt mức tăng trưởng

cao, bình quân mỗi năm tăng trưởng 11,4%, kim ngạch XK và NK của Việt Nam

với Nhật Bản tương đối cân bằng nhau. Nếu như sau khủng hoảng tài chính toàn

cầu, năm 2009, thâm hụt thương mại đạt mức cao nhất với khoảng 1,2 tỉ USD thì

đến năm 2013 thặng dư đạt mức cao nhất với hơn 2 tỉ USD. Năm 2019, tổng kim

ngạch thương mại của Việt Nam với Nhật Bản chiếm 7,7% tổng kim ngạch thương

mại của Việt Nam với thế giới.

Quan hệ thương mại giữa hai nước mang tính bổ trợ và công bằng. Bất chấp

dịch COVID-19, giá trị trao đổi thương mại giữa hai nước trong giai đoạn từ tháng

1 -11/2020 chỉ giảm nhẹ và đạt 35,9 tỷ USD. Trong đó, giá trị xuất khẩu từ Việt

Nam sang Nhật Bản là 17,3 tỷ USD (giảm 6,5%) và Nhật Bản xuất khẩu sang Việt

Nam đạt 18,6 tỷ USD (tăng 4,8%) [10].

Theo số liệu thống kê của JETRO, các DN có kim ngạch xuất khẩu lớn có thể kể

tên như công ty TNHH Sumimoto Electric Interconnect Việt Nam, công ty TNHH

Canon, công ty TNHH CN Brother Việt Nam, công ty ôtô Toyota, công ty TNHH

Zamil steel Việt Nam. Hay công ty Honda phát triển việc sản xuất từ đáp ứng nhu

cầu nội địa tới việc mở rộng xuất khẩu sang một số nước khác như Ý, Nhật Bản,

Lào và Campuchia. Từ đó, mặt hàng xe máy do Honda Việt Nam sản xuất có thể

tiếp cận với thị trường thế giới dễ dàng hơn. Ngoài ra còn rất nhiều sản phẩm khác

của các DN Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam đều xuất khẩu ra nước ngoài, thậm chí

toàn bộ sản phẩm sản xuất ra chỉ tập trung dành cho thị trường xuất khẩu.

FDI Nhật Bản đã giúp cho Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu

121

vực. Việt Nam đã hội nhập rất nhanh, tham gia với số lượng đáng kể các FTA (Hiệp

định thương mại tự do) và BIT (Hiệp định đầu tư) ở thế giới, khu vực. Với Nhật

Bản, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại với rất nhiều các hoạt động ngoại

giao quốc tế, ký kết nhiều hiệp định như “Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt

Nam - Nhật Bản”, Hiệp định đối tác toàn diện với ASEAN (Việt Nam là thành

viên), hai nước cùng là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế thế giới, điển hình như:

TPP, WTO..., đặc biệt gần đây Việt Nam có hai hiệp định thương mại (FTA) lớn

với Nhật Bản là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP)

và Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA). Nhờ đó mối quan hệ

thương mại giữa 2 quốc gia liên tục được cải thiện, là cầu nối giúp Việt Nam hội

nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới.

Như vậy, từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Nhật Bản là đối tác

đầu tư FDI lớn nhất và là quốc gia cung cấp nguồn vốn ODA hàng đầu cho Việt

Nam, do vậy Nhật Bản có vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế

của Việt Nam.

3.3.2. Những hạn chế

Thứ nhất, đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản vào Việt Nam chưa được như kỳ vọng.

Theo JETRO, trong cơ cấu dòng vốn FDI của Nhật Bản vào Châu Á, dòng vốn

đầu tư vào Việt Nam còn chiếm tỷ trọng không lớn trong tất cả các giai đoạn: trong

giai đoạn thăm dò 1989 - 1993 chỉ đạt 0,17%; thậm chí trong giai đoạn bùng nổ

1994 - 1997 cũng chỉ lên tới 2%. Con số này giảm xuống chỉ còn 0,97% trong thời

kỳ suy thoái 1998 - 2002, và trong giai đoạn hiện nay 2003-2018 là 2,58%.

Nếu so sánh với các quốc gia khác trong ASEAN, đầu tư từ Nhật Bản vào Việt

Nam còn nhỏ, trong những năm gần đây, các doanh nghiêp Nhật Bản đầu tư vào

Thái Lan cao gấp khoảng 3 lần Việt Nam về cả số dự án và vốn đầu tư.

122

Nguồn: Báo cáo JETRO

Hình 3.16: Vốn FDI Nhật Bản vào các nước ASEAN giai đoạn 2011 - 2020

Trong suốt giai đoạn 2011 – 2020 so với các nước ASEAN 4 thì Việt Nam chỉ

đứng thứ 3 sau Thái Lan và Indonesia về thu hút vốn FDI từ Nhật Bản.

Theo báo cáo của JETRO và kết quả khảo sát của tác giả, các nhà đầu tư Nhật

Bản đánh giá cao lợi thế của thị trường Việt Nam, với trên 63,9% DN phản hồi là

“Có định hướng mở rộng kinh doanh” tại Việt Nam (đứng đầu trong ASEAN), cho

nên với số vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam những năm vừa qua là chưa tương

xứng với tiềm năng của Nhật Bản cũng như yêu cầu của Việt Nam.

Thứ hai, cơ cấu vốn FDI của Nhật Bản vào các ngành, lĩnh vực chưa thực sự

phù hợp.

Mặc dù những năm gần đây Nhật Bản đã mở rộng đầu tư thêm sang các lĩnh vực

mới như bán lẻ, tài chính và nông nghiệp nhưng tỷ trọng vốn FDI Nhật trong những

ngành này còn rất thấp so với tỷ trọng vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp. Cơ cấu

vốn FDI của Nhật Bản bất hợp lý khi tập trung quá nhiều vào lĩnh vực công nghiệp,

điều này có thể lý giải do Nhật Bản là một quốc gia khan hiếm về tài nguyên, lực

lượng lao động không dồi dào, trong khi Việt Nam lại có sẵn những thứ này. Mặc

khác, thế mạnh của Nhật Bản luôn là trong lĩnh vực công nghiệp. Chính vì thế khi

đầu tư ở Việt Nam các DN Nhật Bản luôn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp.

123

Thứ ba, về hình thức đầu tư, hiện nay hình thức DN 100% vốn nước ngoài

chiếm đa số trong các dự án đầu tư của Nhật Bản, hình thức liên doanh… còn ít.

Trong khi đó, hình thức liên doanh là hình thức mà chính phủ khuyến khích đầu tư,

vì hình thức này có nhiều lợi ích đối với phía Việt Nam như: chuyển giao công nghệ

hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến, thúc đẩy đào tạo cho kỹ sư, các nhà

quản lý và công nhân Việt Nam.

Thứ tư, chuyển giao công nghệ từ FDI Nhật Bản vào Việt Nam vẫn rất khiêm

tốn so với kỳ vọng.

Nhật Bản là quốc gia có trình độ khoa học - công nghệ cao tốp đầu trên thế giới.

Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam hơn 30 năm, cùng với vốn các nhà đầu tư Nhật

Bản đã mang vào Việt Nam những hệ thống dây truyền công nghệ khá tiên tiến và

hiện đại. Tuy nhiên, việc mang công nghệ và việc chuyển giao công nghệ là hai vấn

đề hoàn toàn khác nhau. Trên thực tế, các công ty Nhật Bản gần như không thực

hiện việc chuyển giao công nghệ hiện đại và công nghệ nguồn cho Việt Nam hoặc

nếu chuyển giao chỉ thực hiện chuyển giao những công nghệ tương đối lạc hậu so

với điều kiện trong nước ra nước ngoài để tiếp tục khai thác chúng, và thực hiện

chuyển giao nhỏ giọt từng phần.

Hộp 3.3. Vấn đề về công nghệ sản xuất ô tô tại Việt Nam

Nhật Bản đã thâm nhập ngành sản xuất ô tô vào thị trường Việt Nam từ rất lâu với

nhiều thương hiệu nổi tiếng như: Toyota, Honda, Mazad… nhưng đến nay Việt Nam vẫn

không tiếp nhận được công nghệ sản xuất ô tô nào từ phía DN Nhật Bản. Ngành ô tô vẫn

dừng ở giai đoạn nhập khẩu và lắp ráp với tỷ lệ nội địa hóa thấp, chi phí cao hơn so với các

nước khác trong cùng khu vực Thái Lan, Malaysia. Đến tận năm 2017, lần đầu tiên tập

đoàn Vingroup của Việt Nam mới mua được công nghệ sản xuất ô tô của Đức và mở nhà

máy sản xuất ô tô Vinfast, thương hiệu ô tô đầu tiên của Việt Nam. Tuy nhiên, công nghệ

sản xuất này hiện nay cũng chủ yếu do nhân lực nước ngoài giữ vị trí quản lý quan trọng.

Nguồn: Tác giả xây dựng

Từ đó cho thấy, Nhật Bản đã rất thành công trong bảo vệ con người, bí quyết

công nghệ còn Việt Nam hạn chế trong tiếp nhận công nghệ nước ngoài. Đây là một

hạn chế rất lớn trong thu hút FDI từ một quốc gia có trình độ khoa học công nghệ

cao như Nhật Bản trong hơn 30 năm qua của Việt Nam.

124

Qua việc thực hiện phỏng vấn lãnh đạo, quản lý trực tiếp của một số DN FDI

Nhật Bản (Phụ lục 11) tại Việt Nam về vấn đề thực hiện chuyển giao công nghệ cho

Việt Nam nhận được kết quả như hộp 3.4.

Hộp 3.4. Vấn đề chuyển giao công nghệ của DN FDI Nhật Bản cho Việt Nam

Vì sao Việt Nam không tiếp nhận được công nghệ của Nhật Bản? Lý do này được giải thích như sau: i) Chính sách về chuyển giao công nghệ vào Việt Nam hiệu lực thực thi chưa cao; Các chính sách ưu đãi về chuyển giao công nghệ của Việt Nam chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư có công nghệ cao, công nghệ nguồn; ii) Việt Nam chưa chủ động xây dựng mô hình về tiếp nhận chuyển giao học hỏi công nghệ nguồn từ thu hút FDI Nhật Bản làm hạn chế kết quả thực hiện. Có phải người Việt Nam yếu kém không có khả năng học hỏi tiếp nhận được công nghệ không? DN Nhật Bản gặp khó khăn trong việc tuyển nhân sự là kỹ sư lành nghề, lao động kỹ thuật đã qua đào tạo, nhân lực chất lượng cao hay nhân viên quản lý để giữ những vị trí quan trọng trong hệ thống điều hành, quản lý hê hoạt động của DN. Thêm nữa, trình độ ngoại ngữ của lao động còn kém, khả năng tự cập nhật kiến thức và ý thức nâng cao chuyên môn của người lao động chưa cao. Người lao động thường chuyển sang làm việc tại DN khác khi mức ưu đãi cao hơn. Những điều đó cho thấy, lao động Việt Nam chưa đủ khả năng làm chủ các công nghệ từ Nhật Bản. Chính sách đầu tư của Nhật Bản ảnh hưởng tới việc chuyển giao công nghệ cho đối tác như thế nào? Chính phủ và DN Nhật Bản luôn đi với nhau rất chặt chẽ trong quan hệ đầu tư ra nước ngoài, vì vậy các nước tiếp nhận đầu tư không lấy được công nghệ nào cho dù là công nghệ đơn giản nhất. Điển hình như Nhật Bản là quốc gia đầu tư ODA lớn nhất vào Việt Nam, dùng ODA để lót tay cho FDI. ODA Nhật Bản vào Việt Nam thực chất là mạng lưới để khai thác thị trường, sau đó FDI để thu hút nguồn lực của thị trường Việt Nam. Sự kết hợp giữa ODA và FDI tạo nên mạng lưới quản lý chặt chẽ khiến Việt Nam khó khai thác quản lý được công nghệ nguồn từ phía Nhật Bản. Đó thực chất là một đặc trưng chiến lược đầu tư thông minh của Nhật Bản.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phỏng vấn Tổng giám đốc, Giám đốc một số DN FDI Nhật Bản tại Việt Nam Thứ năm, các DN Nhật Bản vẫn còn chưa thực sự thực hiện trách nhiệm đào

tạo cán bộ quản lý và kỹ sư cho Việt Nam.

Đa số các nhà quản lý hoặc kỹ sư đầu ngành vẫn là người Nhật Bản. Trên thực

tế, chất lượng lao động thấp của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu công việc

trong các DN Nhật Bản. Vì vậy, nhiều DN Nhật Bản đã phải chủ động thực hiện đào

125

tạo lao động, bỏ ra phần kinh phí khá lớn cho đào tạo lại lao động. Đây chính là đóng

góp tích cực của các DN Nhật Bản đối với đào tạo lao động cho phía Việt Nam. Tuy

nhiên, các DN Nhật Bản chi phí chủ yếu cho đào tạo công nhân, còn chi phí rất ít cho

đào tạo cán bộ quản lý và nhân viên kỹ thuật cao, đa số các nhà quản lý hoặc kỹ sư

đầu ngành vẫn là người Nhật Bản.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này: chủ yếu là trong Luật đầu tư và

các chính sách hiện hành của Việt Nam, không có qui định cụ thể về khuyến khích

DN FDI đào tạo lao động. Bên cạnh đó, vấn đề lớn nhất là nhiều lao động, nhất là

lao động lành nghề, sau khi được đào tạo lại bỏ DN Nhật Bản, đi làm cho DN khác.

Luật pháp hiện hành của Việt Nam chưa có qui đinh nào bảo vệ cho DN FDI và DN

Nhật Bản về mặt này. Điều này dẫn đến DN Nhật Bản chỉ thực hiện đào tạo nhỏ

giọt và không lâu dài cho phía Việt Nam.

3.3.3. Nguyên nhân gây ra những hạn chế

Thứ nhất, hệ thống chính sách pháp luật, chính sách liên quan đến thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam còn nhiều bất cập

- Hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa hoàn thiện, vận hành thiếu minh bạch

Đây là vấn đề cố hữu nhiều năm qua đối với Việt Nam, mặc dù đã sửa đổi bổ

sung nhiều lần nhưng hệ thống pháp luật vẫn chưa hoàn thiện. Trở ngại lớn nhất là

quan điểm, nhận thức không thống nhất giữa các cơ quan hoạch định chính sách đã

làm nảy sinh tình trạng chồng chéo trong các văn bản pháp luật, tính hệ thống - một

nhược điểm lớn của luật pháp nước ta tuy đã được phát hiện từ nhiều năm nay

nhưng vẫn chưa được khắc phục. Theo báo cáo của tổ chức xúc tiến thương mại

Nhật Bản năm 2019 các DN Nhật Bản tham gia khảo sát đã chỉ ra một số vấn đề

trong hệ thống pháp luật của Việt Nam gây rủi ro trong quá trình đầu tư như: Thiếu

sự nghiên cứu trước về các nội dung pháp luật như quy chế nhập khẩu máy móc cũ,

bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người nước ngoài, môi trường; Sự chậm trễ trong

việc ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết về thi hành luật dẫn đến ảnh hưởng tới

công việc và thiếu thống nhất trong nội dung thực thi; Thiếu thống nhất trong vận

hành pháp luật như thay đổi nội dung ghi trên giấy phép đầu tư…; Vận hành quy

chế thiếu rõ ràng trong các lĩnh vực quỹ phòng, chống thiên tai, luật an ninh mạng,

quy chế rác thải.

126

Việc vận hành chính sách chưa rõ ràng của Chính phủ hiện hành là một trong

những nguyên nhân ảnh hưởng tới việc thu hút FDI từ các nhà đầu tư Nhật Bản. Họ

cho rằng Việt Nam chưa có những chỉ thị chính sách cụ thể về: thúc đẩy ngành công

nghiệp ô tô, nuôi dưỡng công nghiệp hỗ trợ, chính sách tiền tệ; Thiếu tính sát thực

trong các kế hoạch triển khai hạ tầng; Phương châm của Chính phủ thường xuyên

có thay đổi, là những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Thủ tục thuế, thủ tục hải quan, hành chính phức tạp

Chế độ thuế phức tạp và thường xuyên có thay đổi: Thuế thu nhập cá nhân đặc

biệt là người công tác nước ngoài, thuế chuyển đổi giá, hay hóa đơn đỏ. Quy chuẩn

kiểm tra không rõ ràng như đánh giá thuế quan, thuế hợp đồng người nước ngoài,

điều tra thuế. Thời gian làm thủ tục không rõ ràng trong vấn đề hoàn thuế VAT.

Thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa rõ ràng như: Thủ tục và hồ sơ giấy tờ thuế,

hải quan còn nhiều giấy tờ, có yêu cầu khác nhau từ người phụ trách khác nhau; Thời

gian làm thủ tục không rõ ràng mất nhiều thời gian; Yêu cầu về lệ phí không công

khai khi rút ngắn thời gian làm các loại thủ tục hành chính; Nhiều thủ tục hải quan,

thuế vụ, phòng hỏa, môi trường, công an còn yêu cầu hối lộ khi kiểm tra… là những

bất cập nhà đầu tư Nhật Bản gặp phải trong quá trình đầu tư tại Việt Nam.

- Chính sách thu hút FDI đặc biệt là ưu đãi đầu tư còn nhiều bất cập

Đối tượng ưu đãi ngành vẫn còn dàn trải về bề rộng, mà chưa đi vào chiều sâu

(chưa thực sự chú trọng các ngành như công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghiệp

hỗ trợ…).

Chưa có chính sách ưu đãi đủ hấp dẫn, các chính sách ưu đãi tập trung nhiều vào

các ưu đãi tài chính (thuế, tiền thuê đất) mà chủ yếu nghiêng theo hướng địa bàn

hơn là lĩnh vực, ít chú ý đến những ưu đãi phi tài chính (đào tạo lao động công nghệ

cao, đóng góp nhiều cho ngân sách, bảo vệ môi trường, kết nối với các nước).

Thứ hai, Việt Nam chưa có chính sách phù hợp, chiến lược thỏa đáng đới với

vấn đề chuyển giao công nghệ trong thu hút FDI từ Nhật Bản.

Chính sách của Việt Nam đối với việc hấp thụ, tiếp nhận chuyển giao công nghệ

từ thu hút FDI của các đối tác hàng đầu thế giới như Nhật Bản chưa thành công. Chúng ta chủ yếu thu hút được vốn mà không quản lý khai thác được FDI từ Nhật Bản. Mặc dù Việt Nam đã có tương đối đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc chuyển giao

127

công nghệ vào Việt Nam như Luật chuyển giao công nghệ, Luật sở hữu trí tuệ, Luật

bảo vệ môi trường…, nhưng hiệu lực thực thi của các Luật này chưa cao.

Các chính sách khuyến khích chuyền giao công nghệ còn thiếu trọng tâm, trọng điểm. Các chính sách ưu đãi cho việc chuyển giao công nghệ cao chưa rõ ràng, các

biện pháp nghiêm cấm, hạn chế chuyển giao công nghệ thấp mới chỉ dừng lại ở mức

xử phạt hành chính, chưa có những công cụ răn đe mạnh. Mặt khác, bảo vệ sở hữu

trí tuệ vẫn là một vấn đề quan ngại ở Việt Nam.

Thêm vào đó tác động lan tỏa công nghệ của khu vực FDI Nhật Bản có thể được

thực hiện thông qua mối liên kết sản xuất giữa DN FDI với DN trong nước, trong

khi đó mối liên kết giữa DN FDI với DN trong nước vẫn còn yếu.

Nhật Bản đầu tư có chiến lược tận dụng khai thác mọi nguồn lực của nước sở tại, trong khi Việt Nam chưa có một chiến lược nào thông minh để hấp thụ được

công nghệ nguồn từ Nhật Bản mà chủ yếu đáp ứng các yêu sách từ phái đối tác.

Đồng thời, Việt Nam chưa chủ động xây dựng mô hình về tiếp nhận chuyển giao

học hỏi công nghệ nguồn từ thu hút FDI Nhật Bản.

Thứ ba, Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực chất

lượng cao, cũng như nhân viên quản lý cấp trung.

Hiện nay ở Việt Nam, nguồn nhân lực có chất lượng cao còn thiếu và yếu, chưa

đáp ứng được yêu cầu của các dự án FDI, đặc biệt là các dự án FDI vào các lĩnh vực

dịch vụ và công nghệ cao, ngành mũi nhọn. Tỷ lệ lao động có tay nghề thấp, phần

lớn các DN phải tuyển dụng và tự đào tạo lao động, điều này làm cho họ mất thời

gian và chi phí đào tạo, ngoài ra các dự án FDI khi tìm kiếm các nhân sự cấp cao,

nhân viên quản lý cấp trung có trình độ rất khó khăn. Các cơ chế, chính sách quy

hoạch, đào tạo, bỗi dưỡng, đãi ngộ còn bộc lộ nhiều bất cập.

Thứ tư, cơ sở hạ tầng của Việt Nam chưa hiện đại và thiếu đồng bộ. Trong khoảng thời gian hơn mười năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã duy trì mức đầu tư cơ sở hạ tầng là 10% GDP, nhằm mục đích đưa Việt Nam vượt lên trên

các nền kinh tế trong khu vực Đông Nam Á. Mặc dù tổng mức đầu tư dành cho kết cấu hạ tầng là rất cao nhưng Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với những yếu kém về cơ sở hạ tầng như: quy mô nhỏ, hầu hết chưa đạt yêu cầu kỹ thuật, năng lực hạn chế, chưa tạo được kết nối liên hoàn, trình độ phát triển chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tình trạng quá tải ở nhiều đô thị đang là gánh nặng cho ngân sách về các vấn đề xã hội và sinh thái.

128

Cơ sở hạ tầng còn chưa hoàn thiện, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của các nhà

đầu tư. Việc nâng cấp hạ tầng vật chất của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót và trậm

trễ nhất là trong việc phát triển cơ sở hạ tầng trọng yếu. Tình trạng thiếu điện, giá điện tăng, cảng biển và cảng hàng không chưa vận hành thuận lợi, hệ thống cấp thoát nước

kém, các dự án cơ sở hạ tầng chậm trễ, mức độ phát triển thấp của dịch vụ logistic…

được coi là thử thách không nhỏ của DN Nhật Bản khi đầu tư vào Việt Nam.

Thứ năm, ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa thực sự phát triển. Công nghiệp phụ trợ của Việt Nam hiện nay mới chỉ ở giai đoạn sơ khai và còn

rất nhiều yếu kém. Sự yếu kém của công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam khiến cho các

DN FDI nói chung và DN Nhật Bản nói riêng phải nhập khẩu linh, phụ kiện, khiến

cho chi phí sản xuất của các DN này tăng cao. Đây trở thành một trong những rào cản lớn trong thu hút FDI của Việt Nam.

Theo đánh giá của các DN, ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam quá yếu và

mong manh dẫn đến mặc dù các DN FDI đầu tư vào Việt Nam nhưng vẫn phải nhập

khẩu vật tư linh kiện từ nước ngoài đồng thời phải kéo theo những nhà lắp ráp, sản

xuất bán thành phẩm cho họ từ chính quốc sang điều này dẫn đến giá trị gia tăng do

các công ty Việt Nam tạo ra không đáng là bao.

Có nhiều yếu tố dẫn đến sự yếu kém của công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, trong đó

chính sách của Nhà nước đóng vai trò quan trọng. Chính phủ Việt Nam thời gian qua

cũng dành sự quan tâm lớn đến phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, đưa ra nhất nhiều

cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp hỗ trợ phát

triển, tuy nhiên vẫn thiếu tính cụ thể. Năm 2011, Chính phủ đã ban hành Quyết định số

12/2011/TTg nhằm thực hiện chính sách khuyến khích đối với công nghiệp hỗ trợ

trong các ngành như: cơ khí chế tạo, điện tử-tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt-may, da-

giầy, và công nghệ hỗ trợ cho các ngành phát triển công nghệ cao. Tuy nhiên, Quyết

định 12 chưa thực sự tạo ra những ưu đãi lớn đối với các ngành công nghiệp phụ trợ, vì những ưu đãi của nó mới chỉ tương đương với những ưu đãi đối với DN vừa và nhỏ.

Do vậy, cho đến hiện nay, chính sách của Chính phủ chưa có những ưu đãi thực sự, để có thể tạo nên sự đột phá phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ.

Thứ sáu, hoạt động xúc tiến đầu tư của Việt Nam chưa mạnh mẽ và hiệu quả,

chưa tạo được mạng lưới xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản.

Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xúc tiến đầu tư còn thiếu tính liên kết và phối hợp cả ở cấp trung ương, giữa các bộ, ngành và giữa trung ương và địa phương. Các hoạt động XTĐT tuy đã triển khai theo đối tác và khu vực nhưng vẫn

129

còn dàn trải và phân tán nguồn lực. Công tác XTĐT tại chỗ chưa được nhận thức

đầy đủ và quan tâm đúng mức, trong khi đây là kênh thông tin quan trọng với các

nhà đầu tư mới. Việc kết nối hỗ trợ DN có quan tâm đến DN sau các hội nghị, hội thảo XTĐT chưa được triển khai hiệu quả. Thông tin ấn phẩm, tài liệu XTĐT còn

chậm cập nhật, mới chỉ chú trọng vào hình thức thể hiện, các thông tin chưa bám sát

với nhà đầu tư dẫn đến hiệu quả thông tin thấp. Bên cạnh đó, trình độ năng lực của các

DN xúc tiến đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu, cán bộ phụ trách công tác XTĐT chưa được chuẩn hóa về: nghiệp vụ, ngoại ngữ, khả năng phân tích và tiếp cận bám đuổi các

cơ hội và các nhà đầu tư tiềm năng. Các chính sách ưu đãi hỗ trợ về đầu tư, thuế, khuyến

khích xuất nhập khẩu, xúc tiến đầu tư là cần thiết song vẫn chưa đủ mạnh, tác động ít và

còn nặng nề về thủ tục hành chính. Công tác xúc tiền đầu tư còn lúng túng, thiếu chương trình, kế hoạch xúc tiến tổng thể, thiếu gắn kết giữa trung ương và địa phương, giữa các

địa phương với nhau, thiếu thông tin, không có đội ngũ cán bộ xúc tiến đầu tư chuyên

nghiệp, chưa xác định rõ đối tượng, mục tiêu, phương thức xúc tiến đầu tư. Mặc dù Việt

Nam đã tổ chức nhiều đoàn xúc tiến đầu tư hoành tráng, nhưng hiệu quả của hoạt động

xúc tiến đầu tư chưa cao.

Hiện nay, hầu hết các hoạt động xúc tiến đầu tư ở nước ngoài của Việt Nam thường

được kết nối thông qua các cuộc viếng thăm của lãnh đạo các nước và đầu mối tổ chức

dựa vào sự giúp đỡ của Đại sứ quán, Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài vì nước ta chưa

hình thành được một mạng lưới xúc tiến đầu tư tại nước ngoài. Đối với đầu tư trực tiếp

của Nhật Bản tại Việt Nam chủ yếu thông qua con đường giới thiệu của các tổ chức hiệp

hội DN, công ty tư vấn nước ngoài như JETRO hoặc thông qua Đại sứ quán Nhật Bản

tại Việt Nam. Trong đó, các nước trên thế giới phần lớn đều có cơ quan đại diện xúc tiến

đầu tư chuyên trách tại địa bàn trọng điểm và hoạt động với tư cách là một cơ quan

Chính phủ [65].

130

Tiểu kết Chương 3

Chương 3 của Luận án đã giải đáp được một số vấn đề nghiên cứu quan trọng:

Thứ nhất, phân tích các chỉ tiêu thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từ sau

khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay, so sánh với giai đoạn trước

khủng hoảng.

Thứ hai, tác giả phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI của Nhật Bản

vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay: nhân tố

thuộc về bối cảnh quốc tế và các nhân tố thuộc về nước tiếp nhận đầu tư (Nhân tố

thể chế, chính sách quản lý Nhà nước của Việt Nam về đầu tư trực tiếp nước ngoài;

Nhân tố thị trường; Nhân tố nguồn nhân lực; Nhân tố cơ sở hạ tầng).

Từ phân tích thực trạng, luận án đã làm rõ thành công cũng như những hạn chế

trong thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam.

Đặc biệt Luận án đã đi sâu phân tích những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong

thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam. Đây chính là cơ sở quan trọng để NCS đưa ra

một số giải pháp nhằm thu hút hiệu quả hơn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam ở chương 4.

131

Chương 4

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT HIỆU QUẢ ĐẦU

TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM

4.1. Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt

Nam đến năm 2030 4.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế

Với xu hướng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới như hiện nay, Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng bởi các xu hướng của kinh tế thế giới. Trong những năm tới

(2022- 2030), kinh tế thế giới sẽ diễn biến phức tạp, theo những xu hướng trái

chiều: tăng trưởng kinh tế thế giới có khả năng chậm hơn giai đoạn trước; thương

mại và đầu tư quốc tế có xu hướng giảm; đặc biệt, đại dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái trầm trọng và khủng hoảng kinh tế toàn

cầu, những diến biến này có khả năng tác động lâu dài đến nền kinh tế thế giới.

Thêm vào đó, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung có khả năng ngày càng căng

thẳng… Trong khi, CMCN 4.0, đặc biệt sự phát triển của nền kinh tế số vẫn diễn ra

mạnh mẽ, tạo cơ hội cho hồi phục tăng trưởng GDP cũng như tăng trưởng FDI toàn

cầu. Những tác động từ bối cảnh quốc tế và trong nước tới việc thu hút FDI Nhật

Bản vào Việt Nam thời gian tới cụ thể như sau:

Thứ nhất, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung có khả năng ngày càng căng thẳng. Khởi đầu vào ngày 22/3/2018 khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố đánh

thuế 50 tỷ USD đối với hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ, để ngăn chặn

những hành vi thương mại không công bằng và hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ. Mỹ

và Trung Quốc đã có nhiều động thái trả đũa lẫn nhau, đánh thuế đối với nhiều mặt

hàng. Tranh chấp thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới ngày càng căng

thẳng thì dòng FDI của các nước trong đó có Nhật Bản có xu hướng chuyển dịch

theo xu hướng “Hướng Nam” trong đó có Việt Nam, điều đó mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc thu hút FDI từ Nhật Bản. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI ngày càng khốc liệt, so sánh với các quốc gia khác trong cùng khu vực thì chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam chỉ đứng thứ 6. Do đó, trong thời gian tới

để tăng cường thu hút có hiệu quả FDI từ Nhật Bản, Việt Nam cần có chiến lược thu hút FDI Nhật trong từng ngành, lĩnh vực trọng điểm.

Thứ hai, cách mạng công nghiệp 4.0. Công nghiệp 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ số, tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất, với những công nghệ

132

như công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự

động hóa, robot…sẽ có tác động lớn. Đặc trưng của công nghiệp 4.0 là sự kết nối

giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào sự phát triển của hạ tầng công nghệ thông tin và Internet, mà đỉnh cao là mạng lưới vạn vật kết nối. Mức độ ảnh hưởng,

lan tỏa của cuộc cách mạng này diễn ra trên quy mô toàn cầu, với tốc độ nhanh hơn

sẽ làm thay đổi toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị trên toàn thế giới.

Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức đối với thu hút FDI, nhất là tác động của công nghệ trí tuệ nhân tạo, tự

động hóa trình độ cao, sản xuất thông minh...Trong Dự thảo lần 2 Chiến lược và

định hướng chiến lược thu hút FDI được công bố nhận định “Cuộc cách mạng công

nghiệp 4.0 chính là một trong những xu hướng lớn toàn cầu tác động tới FDI trong 12 năm tới”. Nguồn nhân lực dồi dào giá rẻ không còn là lợi thế trong thu hút FDI,

đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản, nơi mà công nghệ của họ luôn đi đầu và bắt kịp

xu hướng thế giới.

Thứ ba, xu hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập khu vực và quốc tế. Là xu hướng liên kết các tổ chức, các nền kinh tế trong khu vực và trên toàn thế

giới. Gần đây, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các hiệp định thương mại tự do

EU - Việt Nam EVFTA, và Hiệp định CPTPP. Đặc biệt gần đây nhất, nước ta đã

tham gia Hiệp định CPTPP với 11 quốc gia trong đó có Nhật Bản với mục tiêu giảm

rào cản thương mại. Cam kết quan trọng trong các FTA thế hệ mới là thực hiện

ngay việc xóa bỏ phần lớn thuế quan với đa số hàng xuất khẩu. Để tận dụng cơ hội

này, nhiều công ty nước ngoài trong đó các công ty Nhật Bản sẽ đầu tư mạnh mẽ

vào Việt Nam. Tuy nhiên, sẽ có sự cạnh tranh khốc liệt hơn giữa Việt Nam và các

nước thành viên CPTPP trong thu hút FDI từ Nhật Bản. Điều đó đòi hỏi, Việt Nam

cần có môi trường đầu tư thuận lợi và chất lượng cao hơn.

Thứ tư, đại dịch Covid - 19 diễn ra trên phạm vi toàn cầu. COVID-19, một loại virus gây bệnh lây truyền theo đường hô hấp cấp, xuất hiện ở

Vũ Hán, Trung Quốc vào cuối năm 2019 và sau đó đã nhanh chóng lan ra toàn thế giới, trở thành đại dịch toàn cầu. Hiện nay đại dịch covid - 19 tiếp tục diễn biến khó lường trên toàn thế giới và khó ngăn chặn, điều đó đã đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến hầu hết mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế của các quốc gia.

Đại dịch covid - 19 và các hệ quả nặng nề của nó khiến các quốc gia, các tập đoàn quốc tế đẩy nhanh hơn quá trình tái cơ cấu đầu tư nhằm tránh sự phụ thuộc vào một quốc gia, một đối tác. Một số quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc...

133

đã ban hành chính sách ưu đãi và gói hỗ trợ để kêu gọi các công ty dịch chuyển dây

chuyền sản xuất về nước, hoặc đầu tư sang nước thứ 3 nhằm đa dạng hóa chuỗi cung

ứng, trong đó, Việt Nam có nhiều cơ hội trở thành điểm đến của các dòng đầu tư này. Ở trong nước, trong giai đoạn tới, chúng ta cũng gặp nhiều thuận lợi và khó khăn.

Sự thành công trong việc kiểm soát dịch COVID-19 của Việt Nam thời gian qua

cũng tạo sự tin tửởng cho nhà đầu tư nước ngoài, tăng thêm uy tín cho Việt Nam là

điểm đến đầu tư hấp dẫn và an toàn.

Nhiều tổ chức thế giới dự báo trong 5 năm tới, Việt Nam sẽ là nước có tốc độ tăng

trưởng GDP cao ở châu Á. Theo Báo cáo "Triển vọng Kinh tế Thế giới" của IMF đã

được công bố vào mùa Xuân 2020, Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng GDP

6,5% năm 2021 và 7,2% năm 2022.

Việt Nam cũng là nước có sự ổn định chính trị cao trong khu vực. Trong giai đoạn

tới, Việt Nam sẽ hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực,

đặc biệt là Việt Nam đã tham gia hai Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới là

EVFTA và CPTPP.

Tất cả những nhân tố đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi, thu hút mạnh mẽ hơn dòng

FDI vào Việt Nam.

Tuy nhiên, giai đoạn tới nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Độ mở của nền kinh tế lớn làm các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới đến kinh tế

trong nước nhanh và mạnh hơn. Khó khăn, yếu kém nội tại của nền kinh tế chậm

được khắc phục; hệ thống pháp luật còn mang tính khả thi thấp; năng lực tiếp cận

kinh tế số còn hạn chế; các yếu tố nền tảng như thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân

lực chất lượng cao còn yếu kém... Những nhân tố này gây cản trở đến tăng trưởng

GDP cũng như việc thu hút FDI vào Việt Nam.

Như vậy, trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI ngày càng khốc liệt, hoạt động

xúc tiến và thu hút đầu tư cả trong nước và nước ngoài còn gặp khó khăn do những tác động từ đại dịch Covid-19, chúng ta cần điều chỉnh chính sách thu hút FDI,

nâng cao chất lượng các yếu tố môi trường đầu tư sao cho thích ứng, chủ động, sáng tạo và đón kịp dòng chảy của làn sóng FDI thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, tăng cường thu hút có hiệu quả dòng vốn Nhật Bản vào Việt Nam.

4.1.2. Định hướng thu hút FDI nói chung cũng như FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn tới (2022 - 2030)

Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam [20] đã nêu rõ mục tiêu thu hút FDI

như sau:

134

(1) Mục tiêu thu hút FDI trong thời gian tới là: đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình

tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển nền kinh tế số, bảo vệ môi

trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

(2) Chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số

lượng sang chất lượng, ưu tiên các dự án có công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, có

mô hình quản trị hiện đại, có kết nối với chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Chính sách thu hút FDI cần chủ động tìm kiếm các nguồn vốn FDI phù hợp với cuộc “Cách mạng công nghiệp 4.0”, đặc biệt là công nghệ số. Cần ưu tiên thu hút

FDI một số ngành và sản phẩm công nghệ số như Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo,

điện toán đám mây, dữ liệu lớn …

Ưu tiên các dự án có tác động lan toả và kết nối chặt chẽ với khu vực kinh tế trong nước. Bởi vì, liên kết giữa DN FDI với DN trong nước sẽ giúp nâng cao trình

độ công nghệ, chất lượng nhân lực, kinh nghiệm quản lý cho DN trong nước, thúc

đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, trợ giúp các DN trong nước tham gia

các chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu. Bên cạnh đó, nếu không gắn kết, FDI sẽ không

bén rễ sâu vào nền kinh tế Việt Nam, bất cứ thay đổi nào, khối nước ngoài cũng có

thể chuyển sang nơi khác.

(3) Ưu tiên thu hút các nhà đầu tư chiến lược, và các công ty đa quốc gia.

(4) Cần xây dựng qui hoạch, kế hoạch thu hút FDI cho các ngành, địa phương,

nhằm mục đích phát huy hiệu quả đầu tư của từng ngành, địa phương, phù hợp với

qui hoạch chung của cả nước, tránh tình trạng thu hút bừa bãi, dàn trải, chồng chéo

giữa các ngành và địa phương và ảnh hưởng đến lợi ích tổng thể của quốc gia.

(5) Xây dựng định mức, tiêu chuẩn quốc gia cho từng loại dự án FDI để làm căn

cứ thẩm định và cấp Giấy đăng ký đầu tư; để kiểm tra, thanh tra đối với địa phương,

KKT, KCN thu hút FDI bừa bãi; xử lý nhanh và có kết quả mọi vi phạm.

(6) Về chính sách ưu đãi. Xây dựng chính sách khuyến khích, ưu đãi vượt trội đối với các dự án lớn và

quan trọng để thu hút được các nhà đầu tư chiến lược, và các tập đoàn đa quốc gia

Chính sách ưu đãi đầu tư cũng cần được sửa đổi, bổ sung để thích ứng với định hướng FDI mới, đòi hỏi của TNCs và cuộc cạnh tranh trong khu vực. Ưu đãi thuế, giá thuê đất, chi phí nguyên liệu, nhân công cần được điều chỉnh theo hướng áp dụng chủ yếu đối với các địa phương có trình độ phát triển thấp, cần thu hút dự án thâm dụng lao động và tài nguyên.

135

Đối với các đô thị và địa phương đã phát triển đang cần thu hút dự án công nghệ

cao, công nghệ mới, dịch vụ hiện đại thì cần chú ý đến những ưu đãi phi tài chính

hơn, như: cơ sở hạ tầng hiện đại; nguồn nhân lực chất lượng cao, thời gian đàm phán và ký kết hợp đồng; thời gian triển khai thực hiện…

Ban hành chiến lược, chính sách xúc tiến FDI ra nước ngoài phù hợp với thông

lệ tối ưu và các ngành nghề ưu tiên chiến lược. Hiện đại hóa công tác xúc tiến đầu

tư - bao gồm phạm vi các hoạt động xúc tiến đầu tư, cách tiếp cận, công cụ và các chỉ số hiệu quả FDI được sử dụng.

Ngoài những mục tiêu trên, mục tiêu thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam còn

bổ sung thêm một số nội dung như:

Tập trung thu hút FDI Nhật Bản vào các lĩnh vực mà Chính phủ Việt Nam ưu tiên thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản như điện tử; chế biến nông, thủy sản; công nghệ

môi trường và tiết kiệm năng lượng; máy và thiết bị nông nghiệp; đóng tàu; ô tô và

phụ tùng ôtô.

Khuyến khích FDI Nhật Bản để phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Việt

Nam, tăng cường khơi thông dòng vốn FDI của các DN Nhật Bản vào một số lĩnh

vực: bán lẻ, logistic, kinh doanh bất động sản, … đang là xu hướng lựa chọn của

Nhật Bản trong giai đoạn tới.

Như vậy, với những cơ hội và thách thức từ bối cảnh quốc tế và trong nước như

hiện nay cùng với những định hướng về thu hút FDI nói chung vấn đề đặt ra cho

Việt Nam trong thu hút FDI Nhật Bản giai đoạn (2022 – 2030) là phải làm sao để

tăng cường thu hút có hiệu quả FDI thế hệ mới vào các ngành áp dụng công nghệ

mới, tạo ra nhiều giá trị trong nước hơn, đào tạo lao động có kỹ năng tay nghề cao

hơn với mức lương cao hơn, thân thiện hơn với môi trường và tạo kết nối với các

quốc gia khác.

4.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam

4.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, chính sách liên quan đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam

Thứ nhất, cần bổ sung và hoàn thiện hệ thống Luật Việt Nam để đảm bảo

tính thống nhất, minh bạch, khả thi.

Một số luật của Việt Nam còn có những qui định chưa đầy đủ, chưa tương thích với các cam kết của các FTA thế hệ mới, cụ thể như Luật Đầu tư, Luật đấu thầu, Luật DN, Luật chống tham nhũng, Luật sở hữu trí tuệ, Luật lao động... Luật đầu tư

136

2020 vẫn còn một số điểm chưa hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Ví dụ như

mức độ bảo hộ nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài còn thấp. Việc đền bù cho

nhà đầu tư khi có chiến tranh, xung đột chưa được qui định trong Luật Đầu tư Việt Nam. Cơ chế tranh chấp giữa nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài chưa

được qui định rõ trong Luật Đầu tư của Việt Nam. Những thiếu sót của các Luật nói

trên cần phải được nhanh chóng bổ sung, chỉnh sửa để làm các nhà đầu tư nước

ngoài cũng như các nhà đầu tư Nhật Bản yên tâm, có thể đầu tư vào Việt Nam.

Xây dựng thể chế thực thi luật pháp nghiêm minh, tạo lập chế tài xử lý vi phạm

pháp luật chặt chẽ đối với hầu hết các Luật. Cho đến nay, chúng ta đã có hệ thống

luật tương đối đầy đủ về các lĩnh vực kinh tế, và các luật này. Tuy nhiên, đa số luật

ở Việt Nam có hiệu lực thực thi rất thấp và cơ chế xử phạt không nghiêm khắc. Để xây dựng cơ chế thực thi luật pháp nghiêm minh, những việc quan trọng cần phải

làm là: Một là, trong công tác xây dựng luật pháp, cần tạo lập những qui định đơn

giản, sát thực, dễ thực hiện, tránh bệnh khái quát, chung chung, dễ gây ra những

cách hiểu khác nhau. Hai là, để thực sự nâng cao hiệu lực thực thi của pháp luật, đi

kèm với việc ban hành luật phải ban hành cơ chế xử phạt nghiêm khắc, bảo đảm

tính nghiêm minh của luật pháp. Ba là, hiệu lực của luật pháp còn phụ thuộc vào

việc tổ chức quá trình triển khai thực thi luật pháp. Cần phải có các cơ quan chuyên

trách theo dõi, đôn đốc và kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật. Tham gia vào các

cơ quan kiểm tra, kiểm soát luật không chỉ có các thành viên của bộ máy nhà nước,

mà còn cần phải có sự tham gia của quần chúng, của XHDS. Bốn là, phải xây dựng

ý thức “thượng tôn pháp luật” trong xã hội, không chỉ đối với người dân, mà cả đối

với các cán bộ nhà nước. Chúng ta cần tuyên truyền, cổ vũ cho một xã hội “sống và

làm việc theo pháp luật”.

Tạo lập tính thống nhất, ổn định của hệ thống luật pháp. Hệ thống luật nước ta

thiếu tính ổn định, thường xuyên thay đổi, gây khó khăn và bất lợi, làm cho các DN FDI không yên tâm đầu tư sản xuất. Muốn khắc phục tình trạng này, chúng ta cần

nâng cao trình độ trong công tác làm luật. Cần có đội ngũ soạn thảo luật có trình độ, am hiểu các lĩnh vực. Qui trình soạn thảo các luật cũng cần được đổi mới. Việc soạn thảo các luật không chỉ giao cho các Bộ chủ quản, mà cần giao cho các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực. Hơn nữa, cũng cần có chế tài xử phạt đối với các cá nhân, tổ chức ban hành những qui định pháp luật sai trái, không đúng đắn.

137

Thứ hai, cần có những cải cách mạnh mẽ hơn về thủ tục thuế, hải quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà ĐTNN nói chung cũng như các nhà

đầu tư Nhật Bản nói riêng trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.

Cần tối giản các loại mức thuế, vì trên thực tế, DN Nhật Bản phải thực hiện

nhiều loại thuế, ngoài thuế TNDN còn có thuế giá trị gia tăng, thuế hải quan, thuế

thu nhập cá nhân, thuế trước bạ, thuế môn bài,… Đồng thời, cần tạo lập tính ổn

định, lâu dài của các loại sắc thuế nhằm làm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm, có thể tính toán chi phí và lợi nhuận dài hạn trong đầu tư, và rút ngắn thời gian

thực hiện các thủ tục nộp thuế. Tất cả những vấn đề này cần phải gấp rút giải quyết

để giảm chi phí kinh doanh và giảm bớt phiền hà cho các nhà đầu tư nước ngoài và

nhà đầu tư Nhật Bản.

Về thủ tục hải quan: cần tiếp tục cải cách các thủ tục hải quan theo hướng đơn

giản, gọn nhẹ, hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn như: giảm bớt sự

tham gia của cơ quan quản lý chuyên ngành trong thủ tục thông quan, giảm bớt thời

gian kiểm tra chuyên ngành, giảm bớt các văn bản qui định về quản lý chuyên

ngành và tránh sự chồng chéo giữa các Bộ về vấn đề này, …

Thứ ba, hoàn thiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. Nhằm mục đích tăng cường thu hút FDI của Nhật Bản trong những năm tới,

chính sách thu hút FDI của Việt Nam cần có sự bổ sung và hoàn thiện.

Xác định rõ đối tượng cụ thể, tập trung ưu đãi thu hút FDI.

Luật đầu tư 2020 đã đưa ra những lĩnh vực cụ thể ưu tiên khuyến khích đầu tư,

nhưng phạm vi ưu tiên trong Luật Đầu tư 2020 cũng còn rộng, cần có sự thu hẹp

hơn nữa.

Trong bối cảnh thu hút FDI đã thay đổi, cần xác định và phân loại rõ phạm vi ưu

tiên thu hút FDI. Cần xác định rõ hơn phạm vi ưu tiên thu hút FDI theo ngành, và

theo năng lực nhà đầu tư.

Đối tượng ưu đãi ngành: các ngành nên ưu tiên thu hút FDI như: công nghệ cao,

công nghệ số, công nghệ sạch, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến thực phẩm an toàn sử dụng nhiều đầu vào trong nước, dịch vụ hỗ trợ sản xuất và logistics; ngành chữa bệnh và sản xuất thuốc, ngành đào tạo nghề. Đồng thời nên hạn chế thu hút FDI vào các ngành khai thác, các ngành sử dụng công nghệ thấp, tốn nhiều năng lượng.

Đối tượng ưu tiên vùng: Luật đầu tư 2020 đã xác định rõ 2 địa bàn cần ưu đãi đầu tư là: (1) Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; (2) Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.

138

Tuy nhiên, chính sách ưu đãi dành cho các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế

(KKT) cần có sự khác biệt. Bởi vì, các KCN, khu KT ngày càng đóng vai trò to lớn

đối với sự phát triển kinh tế trong nước, như là cửa sổ mở rộng quan hệ đối ngoại, nơi thu hút FDI nhiều nhất, là vùng xuất khẩu mạnh mẽ; là “cực tăng trưởng” trong cả

nước, tạo ra tác động lan tỏa sâu rộng đến sự phát triển kinh tế vùng và sau đó đến sự

phát triển kinh tế cả nước. Đồng thời, khuyến khích đầu tư theo vùng, theo KCN vẫn

là đối tượng được các nhà đầu tư nước ngoài cũng như nhà đầu tư Nhật Bản rất quan tâm khi cân nhắc đầu tư vào Việt Nam. Vì vậy, chính sách đối với các KCN, khu KT

cần có sự ưu tiên đặc biệt. Các chính sách Nhà nước đối với các khu KTTD ở Việt

Nam có thể phân thành 2 loại hình: đó là các chính sách ưu đãi đầu tư (như chính

sách đất đai, thuế, lao động, xây dựng cơ sở hạ tầng…), và chính sách tạo lập thể chế (chính sách tạo lập cơ chế thị trường cao hơn so với những vùng khác, chính sách ưu

tiên đào tạo nguồn nhân lực, chính sách phân cấp quản lý, chính sách phân cấp tài

chính…). Trong giai đoạn phát triển đầu tiên, các nước đều ưu tiên sử dụng các chính

sách ưu đãi, tuy nhiên những ưu đãi chỉ là những giải pháp cấp thấp, không thu hút

mạnh mẽ FDI, cũng như không kích thich thực sự DN đầu tư đổi mới trang thiết bị và

nâng cao NSLĐ. Chỉ có các chính sách về thể chế mới có thể làm các nhà ĐTNN

ngày càng quan tâm đến đầu tư vào Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện cho DN thực

sự giải phóng năng lực sản xuất.

Ưu tiên khuyến khích theo năng lực nhà đầu tư: Luật Đầu tư 2020 chưa đề cập

đến vấn đề này, vì vậy cần được bổ sung. Cần ưu tiên đối với các nhà đầu tư chiến

lược, các tập đoàn lớn, vì họ thường là các DN có năng lực về vốn, công nghệ.

Đồng thời họ thường có chiến lược đầu tư lâu dài và bền vững và có xu hướng thực

hiện tốt trách nhiệm xã hội của DN.

Điều chỉnh chính sách ưu đãi bằng cách tăng cường các ưu đãi phi tài chính

bên cạnh các ưu đãi tài chính.

Các ưu đãi phi tài chính đó có thể là: đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, đảm bảo

quyền thực thi hợp đồng, thuận lợi hóa thủ tục cấp phép, giải ngân vốn nhanh, cơ sở hạ tầng đầu tư tốt, nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam, giải quyết nhanh thủ tục cấp phép cho lao động quản lý cấp cao và lao động kỹ thuật cao, công nghệ cao đi liền với các dự án FDI... Ngoài ra cần ưu đãi riêng với các dự án công nghệ cao, thân thiện với môi trường, kết nối với các DN trong nước.

Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy các biện pháp “phi thuế” ngày càng có vai trò quan trọng hơn các biện pháp ưu đãi thuế trong thu hút đầu tư nước ngoài, và

139

mang tính cạnh tranh cao. Có thể nói, chỉ có những biện pháp ưu đãi phi tài chính

này mới thu hút được những nhà đầu tư chiến lược, những công ty đa quốc gia có

qui mô vốn lớn và năng lực công nghệ cao.

4.2.2. Xây dựng chiến lược phù hợp nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ

Nhật Bản sang Việt Nam đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất.

Thứ nhất, xây dựng chính sách chuyển giao công nghệ từ thu hút FDI có

trọng tâm, trọng điểm.

Nâng cao hiệu lực thực thi của các cơ sở pháp lý về việc chuyển giao công nghệ

vào Việt Nam như Luật chuyển giao công nghệ, Luật sở hữu trí tuệ, Luật bảo vệ

môi trường…, các chính sách ưu đãi cho việc chuyển giao công nghệ cao, công

nghệ nguồn phải rõ ràng, chi tiết, đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư.

Có chính sách tạo điều kiện ưu đãi, khuyến khích cho những người có khả năng,

trình độ để học hỏi công nghệ của Nhật Bản. Đưa chế độ thưởng cao bằng tiền, hiện

vật hấp dẫn đối với lao động học hỏi tiếp nhận được công nghệ từ Nhật Bản.

Thứ hai, xây dựng chiến lược thỏa đáng về chuyển giao công nghệ trong thu

hút FDI từ Nhật Bản.

Chủ động xây dựng mô hình học hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ thu

hút FDI của Nhật Bản. Có nhiều công nghệ kỹ thuật cơ bản do các SMEs Nhật Bản

đang nắm giữ bí quyết như: Công nghệ chế tạo vòng bi chuyên dụng; Lăng kính

quang học chuyên dụng; Công nghệ kết dính vật liệu không đồng nhất; Công nghệ

nghiền độ mịn cao nano; Công nghệ đánh bóng siêu chính xác; Công nghệ chế tạo

kim thép không gỉ; Công nghệ sản xuất lò so độ tin cậy cao; Công nghệ mài thổi

cát; Công nghệ sản xuất khuôn mãu cho các bộ phận tự động có hình dạng phức tạp;

Công nghệ sản xuất dụng cụ đo chính xác; Công nghệ sản xuất ống cao su chịu áp

lực cao; Công nghệ kéo sợi kim loại siêu nhỏ; Công nghệ mạ cho sản phẩm công nghiệp

kích thước lớn; Công nghệ sản xuất đá mài để gia công chi tiết độ chính xác cao; Công nghệ dập sâu phụ tùng cơ khí ô tô, xe máy…. Hay những công nghệ sản xuất mà Nhật

Bản đã đưa vào thị trường Việt Nam từ rất sớm như công nghệ sản xuất xe máy, ô tô, máy in…Đây chính là những công nghệ quan trọng mà các DN công nghiệp Việt Nam có thể áp dụng và đang rất muốn học hỏi.

Theo báo cáo kết quả khảo sát của Jetro (2019), các DN FDI Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam tập trung rất nhiều vào công nghệ sử dụng Robot chiếm 18,2% so với thế giới (14%), trong xu thế trung và dài hạn các DN Nhật Bản sẽ tập trung

140

vào IoT và trí tuệ nhân tạo (AI). Việc thu hút FDI Nhật Bản trong thời gian tới sẽ

mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp cận công nghệ số mà Nhật Bản đang sử dụng.

Vậy, để có thể tiếp nhận, hấp thụ được các công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn từ FDI Nhật Bản thì Việt Nam phải xây dựng mô hình nhận chuyển giao với quy trình chi

tiết cụ thể theo lộ trình, cần chủ động học hỏi, sẵn sàng nguồn lực để tiếp nhận.

Tăng cường mối liên kết sản xuất giữa DN FDI Nhật Bản với DN trong nước

nhằm lan tỏa công nghệ giữa hai khu vực.

Ngoài ra, có thể tạo sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư để tăng cường tiếp nhận

được công nghệ từ FDI Nhật Bản. Nhật Bản là quốc gia có nền công nghiệp phát

triển sớm với nhiều công nghệ đi đầu thế giới nhưng lại hạn chế về nguồn lực (tài

nguyên tự nhiên, nhân lực), vì vậy Việt Nam có thể cho cạnh tranh để tìm nhà đầu tư có cùng công nghệ thay thế vào những lĩnh vực Nhật Bản phụ thuộc vào nguồn

lực sở tại, hoặc công nghệ cùng tạo ra một loại sản phẩm nếu Nhật Bản vẫn không

chịu chuyển giao công nghệ.

4.2.3. Phát triển nguồn nhân lực

Để đáp ứng mong muốn của các nhà đầu tư Nhật Bản thì Việt Nam cần đẩy

mạnh công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: có trình độ cao, có tay

nghề vững, có thêm ít nhất một ngoại ngữ (tiếng Anh hoặc tiếng Nhật). Tích cực

thực hiện sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản từ năm 2003 (hiện nay đã đến giai

đoạn VIII năm 2021). Do vậy, cần hướng đến một số giải pháp sau:

Thứ nhất, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực phải dựa trên chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và đặc biệt là cơ cấu ngành nghề FDI để đảm bảo tính cân đối

giữa cung và cầu về lao động.

Thứ hai, trong xã hội, cần tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp, nhất là những ngành nghề cần thiết cho FDI. Cần chú trọng trước hết nâng cao trình

độ, nâng cao tay nghề cho người lao động, bổ sung kiến thức và kỹ năng của người lao động trong bối cảnh mới. Liên kết chặt chẽ giữa đơn vị đào tạo với DN Nhật

Bản trong công tác đào tạo, có thể đưa các các bộ giảng dạy, người học đi học tập, thực tập, làm việc trực tiếp tại các cơ sở đào tạo của các tập đoàn, DN Nhật Bản. Các cơ sở đào tạo cần chú trọng đào tạo kỹ năng mềm, giảng dạy về văn hóa DN Nhật Bản. Làm được như vậy, người học sẽ hiểu được môi trường hoạt động thực sự của DN, thúc đẩy quá trình nghiên cứu, tìm hiểu nhằm giải quyết tốt hơn những vấn đề thực tiễn DN đặt ra.

141

Đối với nhóm cán bộ quản lý cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao

năng lực, đòi hỏi tư duy tổng hợp, kỹ năng xử lý tình huống tốt trong bối cảnh

CMCN 4.0.

Cần gắn trách nhiệm của nhà đầu tư với công tác đào tạo. Các nhà đầu tư cần

được yêu cầu đào tạo một số bộ phận nguồn nhân lực với kinh phí từ ngân sách Nhà

nước hoặc từ chính các chủ đầu tư và người lao động.

Cần tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác từ Nhật Bản và các nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc liên kết đào tạo theo các chương trình khác nhau tạo điều kiện cho

người lao động, kỹ sư nâng cao trình độ học vấn. Tăng cường xuất khẩu lao động

cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm đào tạo nguồn nhân lực qua thực tế.

Thứ ba, cần nắm bắt tình hình và nhu cầu thực sự về ngành nghề và tiêu chí, kỹ năng cụ thể của DN FDI Nhật Bản thường xuyên. Đặc biệt, hàng năm cần

nghiên cứu để xác định nhu cầu đối với nguồn lực trình độ cao là quản lý cấp trung,

kỹ sư, chuyên viên cho các DN Nhật Bản. Các cơ quan quản lý Nhà nước tạo điều

kiện cho các cơ sở giáo dục, đào tạo dễ dàng tiếp cận số liệu về lao động từ đó có kế

hoạch đầu tư đào tạo thu hút học sinh, sinh viên, học viên theo học ngành nghề đã

được dự báo có triển vọng.

Thứ tư, trong các khu CN, khu chế xuất, cần hình thành các trung tâm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho các khu này. Trong đó, tập trung vào các ngành

nghề được ưu tiên phát triển, đào tạo để đáp ứng yêu cầu của DN FDI.

Thứ năm, tích cực thu hút các nguồn vốn đa dạng cho phát triển nhân lực nội địa: thu hút vốn ngân sách nhà nước, vốn của tư nhân, sử dụng hiệu quả nguồn vốn

hỗ trợ của nước ngoài cho phát triển nhân lực (ODA), thu hút FDI vào giáo dục vào

đào tạo (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, cơ sở đào tạo...).

Thứ sáu, về mối quan hệ Nhà nước – DN, Nhà nước cần xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực cho DN, như giảm thuế cho các đơn vị nếu họ tự đào tạo được nguồn lực kỹ thuật, miễn thuế đối với những hàng hóa, trang thiết

bị mà DN nhập khẩu phục vụ mục đích đào tạo nhân lực kỹ thuật chất lượng cao, tăng cường cung cấp thông tin cho DN, thúc đẩy, cải thiện mối quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài và các cơ sở đào tạo, các trường học. Chính phủ cũng nên khuyến khích các nhà đầu tư Nhật Bản đầu tư vào lĩnh vực giáo dục nhằm đào tạo đội ngũ lao động có khả năng ngoại ngữ và chuyên môn phù hợp với nhu cầu của các DN Nhật Bản tại Việt Nam.

142

4.2.4. Hiện đại hóa và phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng

Thứ nhất, song song với việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nói chung trong nền kinh tế, cần phát triển cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho các DN nước ngoài và DN Nhật Bản được hưởng hạ tầng kinh doanh với

chi phí thấp nhất.

Thứ hai, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nói chung trong nền kinh tế cần phải được tiến hành đồng bộ đối với cả hạ tầng cứng và mềm. Đối với cơ sở hạ tầng mềm, cần nhanh chóng hiện đại hóa các ngân hàng, tổ chức tín dụng, hệ thống bảo

hiểm. Đối với cơ sở hạ tầng cứng, cần chú trọng nâng cao cơ sở hạ tầng giao thông

vận tải, điện, khí, nước, hệ thống thông tin liên lạc; cơ sở hạ tầng hiện đại tiên tiến

phục vụ cho các hoạt động có hàm lượng công nghệ cao.

Trong giao thông vận tải, cần hiện đại hóa cả vận tải đường bộ, đường biển và

đường hàng không. Đây là những lĩnh vực mà các nhà ĐTNN cũng như nhà đầu tư

Nhật Bản kêu ca nhiều nhất. Đặc biệt là giao thông đường bộ, không chỉ tập trung

vào tăng số lượng kilomet chiều dài mà còn phải nhận diện được các vấn đề giao

thông sẽ phát sinh trong quá trình vận hành như các điểm đen về tai nạn giao thông,

các điểm ùn tắc giao thông tại các nút giao hay sự quá tải trên các tuyến đường. Các

vấn đề trên phải được các cơ quan chức năng tính đến ngay từ khi quy hoạch.

Về cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp, cần được phát triển đồng bộ cả giao

thông vận tải, điện, khí, nước. Thêm nữa, trong phát triển giao thông cần chú ý tới

phát triển giao thông liên kết giữa các khu, các cụm công nghiệp. Giao thông giữa

các khu vực này được phát triển trên cơ sở tính toán lưu lượng hàng hóa luân

chuyển giữa các địa bàn như giữa khu vực tập trung nhiều DN công nghiệp hỗ trợ

với khu vực tập trung nhiều DN sản xuất sản phẩm cuối cùng. Kinh nghiệm từ

Trung Quốc, Malaysia và một số quốc gia khác cho thấy, việc xây dựng các đặc

khu kinh tế hay hành lang công nghệ cao với những trang bị cơ sở hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh, tiên tiến tạo ra những “tổ gọi chim” thu hút mạnh FDI chảy vào.

Về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, Theo thống kê từ Chính phủ, đến năm 2020, Việt Nam cần khoảng 48 tỉ USD để phát triển hạ tầng giao thông. Để đáp ứng nhu cầu này, trước sức ép tài khóa, Việt Nam cần tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư bao gồm vốn NSNN, vốn tư nhân, vốn ODA và FDI. Đối với Nhật Bản, Việt Nam cần tranh thủ và khai thác tối đa quan hệ đối tác chiến lược để có được tài trợ ODA cho cơ sở hạ tầng từ Chính phủ Nhật. Đồng thời, Chính phủ cần chủ động kêu gọi các DN Nhật Bản tham gia đầu tư theo phương thức PPP.

143

4.2.5. Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ

Thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ, nhằm tăng cường vai trò của các

DN nội địa trong chuỗi giá trị toàn cầu, tạo điểm nhấn để thu hút FDI. Các ngành công nghiệp hỗ trợ có vai trò rất quan trọng trong thu hút FDI. Nếu như công

nghiệp hỗ trợ trong nước yếu kém, nó làm cho tỉ lệ nội địa hóa của các doanh

nghiêp Nhật Bản tại Việt Nam dừng lại ở mức thấp, làm cho các DN Nhật Bản luôn

phải tìm đến giải pháp nhập khẩu linh phụ kiện, làm giảm đáng kể hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN Nhật Bản. Vì vậy, để thu hút hiệu quả FDI trong thời gian

tới, Việt Nam cần thiết phải giải quyết bài toán “đẩy mạnh phát triển ngành công

nghiệp phụ trợ và giải quyết những vướng mắc đang tồn tại trong ngành này”.

Chiến lược phát triển CNHT cần được bắt đầu từ khâu nhận diện CNHT của đất nước, tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng và lập quy hoạch phát triển CNHT. Để

phát triển nhanh và hiệu quả ngành CNHT, cần chú ý các điểm sau:

Thứ nhất, Chính phủ cần xây dựng chính sách hỗ trợ, khuyến khích, ưu đãi đối với các DN phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Kinh nghiệm từ một số quốc gia

như Malaysia, Trung Quốc, Ấn Độ cho thấy, các biện pháp chủ yếu để phát triển công

nghiệp phụ trợ ở các nước này là những ưu đãi về mặt bằng, thuế, thủ tục hành chính

đơn giản, giảm bớt hạn chế sở hữu. Việt Nam để tháo gỡ khó khăn của ngành công

nghiệp hỗ trợ trong việc thu hút vốn FDI Nhật Bản trong thời gian tới, cần làm rõ

những chính sách ưu đãi đối với các DN thuộc công nghiệp hỗ trợ. Các chính sách này

có thể là chính sách hỗ trợ về vốn, về cơ sở hạ tầng, về đào tạo nguồn lao động,… Phát

triển các Vườn ươm DN có thể là rất cần thiết. Các Vườn ươm DN được hưởng những

ưu đãi, được hỗ trợ về mặt bằng, miễn giảm thuế cũng như hỗ trợ liên kết với các đơn

vị nghiên cứu, các cơ quan Nhà nước trong cung cấp dịch vụ cho DN…

Thứ hai, Nhà nước cần hỗ trợ cho các DN CNHT nội địa có khả năng trở thành nhà cung ứng cho các công ty đa quốc gia. Đối với các DN đang trong giai đoạn đào tạo để trở thành nhà cung cấp cho các nhà lắp ráp, Nhà nước cần hỗ trợ về thông tin, hỗ

trợ tìm kiếm và chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tài chính, hỗ trợ về đào tạo lao động…

Thứ ba, song song với thu hút FDI thì Nhà nước cần chú trọng hơn nữa trong việc thu hút các DN FDI và FDI của Nhật Bản đầu tư vào lĩnh vực CNHT. Để thực hiện mục tiêu này, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với các DN FDI đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ.

144

Thứ tư, Nhà nước nên có chính sách xây dựng KCN, CCN (cụm công nghiệp) dành riêng cho CNHT. Căn cứ quy hoạch phát triển các KCN, CCN, nhà nước cần

lựa chọn giành một số khu, cụm để ưu tiên thu hút các DN CNHT.

Thứ năm, xây dựng Luật Công nghiệp hỗ trợ và hoàn thiện văn bản luật về xúc tiến công nghiệp hỗ trợ. Theo VCCI, hiện nay nhiều DN Nhật Bản xin hỗ trợ

của Chính phủ Nhật Bản để chuyển dịch đầu tư đã chọn Việt Nam để đón nhận làn

sóng đầu tư FDI mới. Do đó, Việt Nam phải nhận diện thật đúng bản chất của làn sóng đầu tư này là làn sóng dịch chuyển của ngành công nghiệp hỗ trợ. Vì vậy,

Chính phủ sớm xây dựng Dự luật về công nghiệp hỗ trợ, để trình Quốc hội ban

hành nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp là rất quan trọng này. (VCCI, 2020)

Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Có nhiều nguyên nhân làm cho các ngành CNHT của Việt Nam bị đánh giá là yếu kém,

nhưng trực tiếp là vấn đề nguồn nhân lực còn thiếu và yếu. Hàng năm lượng lao

động ra trường rất lớn nhưng DN hỗ trợ vẫn gặp khó khi tuyển dụng bởi đa phần

nhân sự chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong chiến lược và quy hoạch phát triển công

nghiệp Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt, vị thế của các ngành CNHT được khẳng định là nền móng cho sự phát

triển công nghiệp, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp mũi nhọn phát triển. Để

phát triển ngành CNHT, việc đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật có chất lượng cao,

dồi dào và có cơ cấu thích hợp đóng vai trò mang tính quyết định.

4.2.6. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản

Cách mạng 4.0 đòi hỏi cần phải có cải cách về thể chế có liên quan trực tiếp đến

thu hút FDI, hướng tới chuẩn mực quốc tế như tăng cường ứng dụng thành tựu khoa

học và công nghệ, cách mạng 4.0 trong quản lý đặc biệt là các ứng dụng về quản lý

dữ liệu; cập nhật kịp thời về công nghệ ở các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động

FDI trong CMCN 4.0 như tác động của công nghệ sản xuất, kinh doanh mới đến môi trường tự nhiên, văn hóa của Việt Nam nhằm có các phản ứng phù hợp theo

nguyên tắc chỉ can thiệp bằng chính sách quản lý điều hành. Các hình thức xúc tiến đầu tư cần có sự thay đổi mạnh mẽ trong bối cảnh cách mạng 4.0 bởi việc truyền dẫn thông tin, dữ liệu xuyên quốc gia trở nên đơn giản. Do đó, trong thời gian tới, để tăng cường hiệu quả thu hút FDI từ Nhật Bản Việt Nam cần:

Thứ nhất, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác xúc

tiến đầu tư, cụ thể:

145

- Nghiên cứu việc xây dựng Văn bản pháp quy về công tác xúc tiến đầu tư nhằm

tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ

chức thực hiện các hoạt động Xúc tiến đầu tư.

- Rà soát, cơ cấu lại hệ thống các cơ quan xúc tiến đầu tư hiện có (không thành

lập mới) theo hướng chuyên nghiệp, độc lập, không chồng chéo, không trùng lặp

với các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài; xem xét khả

năng gắn kết với xúc tiến thương mại và du lịch một cách linh hoạt, phù hợp với yêu cầu và đặc thù của từng địa phương.

- Tăng cường sự phối hợp, liên kết giữa Trung ương với địa phương, giữa các

vùng, giữa cơ quan quản lý nhà nước với các hiệp hội nghề nghiệp trong công tác

xúc tiến đầu tư.

- Chủ động xúc tiến đầu tư có mục tiêu, trọng tâm, trọng điểm, gắn với các tiêu

chí hợp tác đầu tư mới; tiếp tục duy trì các thị trường và đối tác truyền thống, đồng

thời mở rộng thị trường, đối tác mới.

- Đa dạng hoá các hoạt động và phương thức xúc tiến đầu tư; chú trọng xúc tiến

đầu tư tại chỗ với những dự án hợp tác thành công cụ thể. Tổ chức khảo sát, nghiên

cứu về mô hình cơ quan Xúc tiến đầu tư ở các địa phương để có cơ sở trong việc

hướng dẫn các địa phương tổ chức cơ quan Xúc tiến đầu tư hiệu quả hơn. Triển khai

nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm.

- Đầu tư thoả đáng cho hoạt động xúc tiến. Ưu tiên thực hiện các hoạt động xúc

tiến đầu tư quốc gia, vùng, liên ngành.

- Công khai, minh bạch hệ thống thông tin kinh tế - xã hội, pháp luật, chính sách,

quy hoạch, kế hoạch, thị trường,... đối với các nhà đầu tư.

- Tăng cường cơ chế đối thoại, đổi mới, mở rộng phương thức tiếp nhận kiến

nghị, phản ánh của nhà đầu tư; xử lý dứt điểm, kịp thời các khó khăn, vướng mắc

liên quan đến các dự án đang thực hiện.

Thứ hai, tăng cường hơn nữa các hoạt động xúc tiến đầu tư với Nhật Bản dưới nhiều hình thức như: (i) thành lập các bộ phận hỗ trợ chuyên biệt cho các nhà đầu tư Nhật Bản nói chung (giống như Japan Desk tại Cục ĐTNN – Bộ KHĐT) và nhà đầu tư của một số tỉnh của Nhật Bản nói riêng (ví dụ: các tỉnh Aichi, Saitama và Kansai tại Cục ĐTNN – Bộ KHĐT);(ii) xây dựng tài liệu và trang web XTĐT bằng tiếng Nhật,...; (iii) đẩy mạnh hợp tác với các Liên đoàn kinh tế (như Keidanren, Kankeiren, Chukeiren,...), Hiệp hội DN (Ví dụ, Phòng TMDN Nhật (JCCI),...), Ngân hàng, công ty tư vấn, quỹ đầu tư của Nhật Bản. Đây là các kênh quan trọng

146

giúp ta tiếp cận được với cộng đồng các DN Nhật Bản là thành viên/khách hàng của

các tổ chức này, sàng lọc được đúng đối tượng DN ta cần tiếp cận và truyền tải

thông tin về chính sách, chủ trương của Chính phủ một cách kịp thời nhất tới các DN Nhật Bản; (iv) đẩy mạnh kết nối các địa phương của Việt Nam với các địa

phương của Nhật Bản có thế mạnh có thể bổ sung cho nhau để cùng thúc đẩy hợp

tác đầu tư từ DN của hai bên.

Bên cạnh XTĐT các Tập đoàn lớn, chú trọng XTĐT đối với các DN nhỏ và vừa (SME) của Nhật bản nhất là các DN trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và nông

nghiệp. Các DN SME (4,7 triệu DN) chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Nhật,

có công nghệ kỹ thuật hiện đại và đang có xu hướng đầu tư ra nước ngoài.

Tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư kết hợp các chuyến thăm và làm việc tai Nhật của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi

trường đầu tư Việt Nam.

Đồng thời, sẵn sàng hỗ trợ tích cực để JETRO tổ chức các hoạt động xúc tiến

thương mại; giao thương, thúc đẩy hợp tác, kinh doanh giữa DN hai nước. Đặc biệt,

trong bối cảnh dịch bệnh Covid -19 kéo dài, việc tổ chức các chương trình xúc tiến

thương mại trực tuyến sẽ là phương thức phù hợp, mang lại những hiệu quả thiết

thực nhất cho DN hai bên.

147

Tiểu kết Chương 4

Trên cơ sơ phân tích những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong thu

hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng kinh

tế toàn cầu 2008 ở chương 3; trong chương 4, tác giả đã đề xuất 6 nhóm giải pháp lớn

nhằm tăng cường thu hút hiệu quả hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào

Việt Nam trên cơ sở bối cảnh quốc tế và trong nước cũng như những định hướng thu

hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2022 -2030 bao gồm:

- Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, chính sách liên quan đến

thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam: bổ sung và hoàn thiện hệ thống

Luật Việt Nam để đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, khả thi; Cần có những cải

cách mạnh mẽ hơn về thủ tục thuế, hải quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các

nhà ĐTNN nói chung cũng như các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng trong hoạt động

sản xuất kinh doanh tại Việt Nam; Hoàn thiện chính sách đầu tư trực tiếp nước

ngoài của Việt Nam.

- Thứ hai, xây dựng chính sách sâu sắc, chiến lược thỏa đáng về chuyển giao

công nghệ trong thu hút FDI từ Nhật Bản.

- Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho các dự án FDI.

- Thứ tư, hiện đại hóa và phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng.

- Thứ năm, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ.

- Thứ sáu, tăng cường công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản.

148

KẾT LUẬN

Qua Luận án, tác giả về cơ bản đã giải quyết được các mục tiêu và các câu hỏi

nghiên cứu đặt ra nhằm hoàn thiện cơ sở lý thuyết về thu hút FDI cũng như đánh

giá thực trạng thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng hoảng tài chính

toàn cầu năm 2008 đến nay. Từ đó đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI

Nhật Bản vào Việt Nam hiệu quả hơn.

Về mặt lý thuyết, Luận án đã làm rõ bản chất, đặc điểm, nội dung (qui mô,

hình thức, cơ cấu) và một số lý thuyết của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

một quốc gia. Luận án cũng đã phân tích các nhân tố có ảnh hưởng tới thu hút đầu

tư trực tiếp nước ngoài, bao gồm các nhân tố quốc tế (Xu hướng toàn cầu hóa và hội

nhập kinh tế quốc tế; Xu hướng mới trong hợp tác, liên kết kinh tế khu vực; Cách

mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cách mạng công nghiệp 4.0) và các nhân tố

thuộc về nước tiếp nhận đầu tư (Nhân tố thể chế, chính sách quản lý Nhà nước của

Việt Nam về đầu tư trực tiếp nước ngoài; Nhân tố thị trường; Nhân tố nguồn nhân

lực; Nhân tố cơ sở hạ tầng). Đặc biệt, luận án đã luận giải những tác động của đầu

tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước tiếp nhận đầu tư: cả tác động tích cực và

tiêu cực, trên cơ sở đó chỉ ra rằng không phải cứ thu hút FDI càng nhiều càng tốt.

Về mặt thực tiễn, luận án đã làm rõ thực trạng thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt

Nam giai đoạn từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đến nay. Phân tích được bối

cảnh đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, hay

Các nhân tố nào đã ảnh hưởng đến thu hút vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong

giai đoạn này? Đó là bối cảnh quốc tế bối cảnh quốc tế (dòng FDI của Nhật ngày càng

hướng về châu Á, các nước ASEAN và Việt Nam) và các nhân tố trong nước (Nhân tố

thể chế, chính sách quản lý Nhà nước của Việt Nam về đầu tư trực tiếp nước ngoài;

Nhân tố thị trường; Nhân tố nguồn nhân lực; Nhân tố cơ sở hạ tầng).

Tiếp theo, luận án chỉ ra thành công cũng như những hạn chế trong thu hút FDI

của Nhật Bản vào Việt Nam. Đặc biệt Luận án đã đi sâu phân tích những nguyên

nhân dẫn đến những hạn chế trong thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam. Đây

chính là cơ sở quan trọng để tác giả đưa ra sáu nhóm giải pháp lớn nhằm thu hút

mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong giai đoạn

2022 - 2030 bao gồm: Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, chính sách liên

149

quan đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam (Bổ sung và hoàn thiện

hệ thống Luật Việt Nam để đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, khả thi; Cần có

những cải cách mạnh mẽ hơn về thủ tục thuế, hải quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi

cho các nhà ĐTNN nói chung cũng như các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng trong

hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam; Hoàn thiện chính sách đầu tư trực tiếp

nước ngoài của Việt Nam); Xây dựng chính sách sâu sắc, chiến lược thỏa đáng về

chuyển giao công nghệ trong thu hút FDI từ Nhật Bản; Phát triển nguồn nhân lực

phục vụ cho các dự án FDI; Hiện đại hóa và phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng; Phát

triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp

nước ngoài từ Nhật Bản.

Về hạn chế của luận án, mặc luận án đã đạt được một số kết quả nghiên cứu

nhất định đóng góp vào giá trị lý luận và thực tiễn về FDI. Tuy nhiên, luận án vẫn

còn một số thiếu sót trong quá trình nghiên cứu như: Nghiên cứu gặp khó khăn

trong việc thu thập số liệu thống kê từng năm liên quan tới FDI Nhật Bản vào Việt

Nam: FDI Nhật Bản giải ngân tại Việt Nam, số lượng lao động trong các DN Nhật

Bản, doanh thu của các DN FDI Nhật Bản, đóng góp vào ngân sách Nhà nước của

các DN FDI Nhật Bản...; Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, do hạn chế về số

liệu thống kê nên tác giả chưa có điều kiện để thực hiện phân tích, đánh giá hiệu

quả sử dụng FDI Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2008 - 2020; các giải pháp tác

giả đề xuất mới chỉ được đề xuất dựa trên lý luận logic và phân tích thực trạng, mà

chưa có điều kiện kiểm chứng trên thực tế.

Về hướng nghiên cứu tiếp theo, trong thời gian tới, nếu vẫn đi sâu nghiên cứu

chủ đề này, tác giả cần tiếp tục nghiên cứu một số vấn đề như: Bên cạnh việc thu

hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam, việc quản lý và sử dụng vốn FDI của Nhật

Bản tại Việt Nam như thế nào? Những ưu đãi đối với FDI của Nhật Bản vào Việt

Nam nên thực hiện ngay khi dự án bắt đầu, hay thực hiện sau khi có kết quả thực

hiện FDI của Nhật Bản tại Việt Nam?

150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Thị Ngọc Yến, “Thu hút nguồn vốn FDI theo hướng bền vững

tại tỉnh Hải Dương”, Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, số 461 tháng

01/2016, tr.13-15. ISSN 0868 - 3808.

2. Nguyễn Thị Ngọc Yến, “Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật

Bản vào Việt Nam từ sau căng thẳng chính trị Nhật - Trung”, Tạp chí Kinh tế và dự

báo, số 17 tháng 06/2018, tr.21-23. ISSN 0866 - 7120.

3. Nguyễn Thị Ngọc Yến, “Việt Nam tăng cường cải thiện môi trường kinh

doanh nhằm thúc đẩy thu hút FDI của Nhật Bản”, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và

Trung Đông, số 2 (162) tháng 2/2019, tr.47-54. ISSN 1859 - 0591.

4. Trần Xuân Văn, Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Thị Ngọc Yến, “Tạo đột

phá trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thế hệ mới vào Việt Nam giai đoạn

2020 - 2030”, Tạp chí nghiên cứu Kinh tế, số 10 (509) tháng 10/2020, tr.22-31.

ISSN 0866 - 7489.

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

[1]. Lê Anh (2020), Thu hút DN Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam, Báo điện tử Đảng

cộng sản Việt Nam, ngày 10/07/2020, https://dangcongsan.vn/kinh-te/thu-hut-

doanh-nghiep-nhat-ban-dau-tu-vao-viet-nam-558944.html.

[2]. Lê Hoàng Anh (2015), Chuyển hướng đầu tư của DN Nhật Bản tại các nước

ASEAN từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay, Tạp chí nghiên cứu Đông

Bắc Á, tr 32-42, (2).

[3]. Ngô Thị Lan Anh (2013), Vai trò của Nhật Bản trong chiến lược quay lại Châu

Á của Mỹ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Tạp chí Châu Mỹ ngày

nay, tr 37-44, (3).

[4]. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2015), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Thực

trạng, hiệu quả và hướng điều chỉnh chính sách, NXB Lao động, Hà Nội.

[5]. Đỗ Đức Bình (2011), Một số ý kiến về định hướng chính sách nhằm thu hút

FDI thực sự có hiệu quả vào Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Tạp chí Kinh tế và

phát triển, (1).

[6]. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2008), Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB

Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

[7]. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2006), Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy

sinh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài - Kinh nghiệm Trung Quốc và thực tiễn Việt

Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

[8]. Bộ kế hoạch đầu tư (2018), 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài, thành tựu và bài

học.

[9]. Bộ kế hoạch đầu tư và Ngân hàng thế giới (2018), Dự thảo Chiến lược và định

hướng chiến lược thu hút FDI thế hệ mới" giai đoạn 2018-2030.

[10]. Bộ kế hoạch đầu tư (2020), Việt Nam thu hút đầu tư từ các DN Nhật Bản,

Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin-

48687&idcm=49).

[11]. Choudhury, Srabani Roy (2009), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản

Kinh nghiệm ở Ấn Độ: Bài học rút ra từ Khảo sát cấp DN, Tài liệu làm việc, Số

243, Ấn Độ, Hội đồng Nghiên cứu Quan hệ Kinh tế Quốc tế (ICRIER), New Delhi.

152

[12]. Cổng thông tin điện tử Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (2020), Việt

Nam và Nhật Bản tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp,

https://www.mard.gov.vn/Pages/viet-nam-va-nhat-ban-tang-cuong-hop-tac-trong-

linh-vuc-nong-nghiep.aspx.

[13]. Cục đầu tư nước ngoài (2015), Tăng cường thu hút FDI từ Nhật Bản vào Việt

Nam.

[14]. Cục đầu tư nước ngoài (2017), Tình hình đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam.

[15]. Đặng Thành Cương (2012), Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

vào tỉnh Nghệ An, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.

[16]. Diễn đàn DN (2018), DN Nhật Bản vẫn đầu tư dài hạn ở Việt Nam mặc dù lùi

khỏi top 3.

[17].Tiến Dũng (2017), Tận dụng nguồn lực FDI để phát triển công nghiệp hỗ trợ,

tapchithue.com.vn.

[18]. Đặng Quý Dương, Hoàng Xuân Lâm, Định Văn Tiến (2019), Mối quan hệ

giữa tăng trưởng kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài và năng lực cạnh tranh cấp

tỉnh: Trường hợp tỉnh Hưng Yên, Tạp chí kinh tế và dự báo, tr 97-100, tháng

04/2019.

[19]. Thùy Dương (2021), Nâng cao hiệu quả thu hút FDI vào Việt Nam, Tạp chí

Tài chính online, https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/nang-cao-hieu-qua-

thu-hut-fdi-vao-viet-nam-335141.html.

[20]. Đại hội 13 ĐCS Việt Nam, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh

tế - xã hội 5 năm 2021-2025.

[21]. Vũ Văn Hà (2013), Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam sau khủng

hoảng tài chính toàn cầu, Tạp chí Cộng sản, 19/09/2013,

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/1996-tinh-hinh-dau-tu-truc-

tiep-cua-nhat-ban-vao-viet-nam-va-mot-so-giai-phap-nang-cao-hieu-qua.html.

[22]. Mỹ Hạnh (2017), Công ty TNHH Canon Việt Nam xây dựng quan hệ lao động

hài hòa để phát triển bền vững, Tạp chí Lao động và xã hội onile.

[23]. Trần Thị Hằng (2017), Tình hình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam

và một số giải pháp nâng cao hiệu quả, lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-

153

tien/item/1996-tinh-hinh-dau-tu-truc-tiep-cua-nhat-ban-vao-viet-nam-va-mot-so-

giai-phap-nang-cao-hieu-qua.html.

[24]. Honda Việt Nam (2017), Honda Việt Nam tổng kết hoạt động 20 năm tại

Việt Nam.

[25]. Triệu Văn Huân, Nguyễn Thị Tâm, Trần Thị Phương Thảo (2018), “30 năm

đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái

Bình Dương, số 528, tr.69-71.

[26]. Quốc Huy (2014), Việt Nam có lợi thế lớn trong thu hút đầu tư từ Nhật, Thông

tấn xã Việt Nam, 27/02/2014.

[27]. Đặng Thu Hương (2007), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình

hội nhập kinh tế của Trung Quốc thời kỳ 1978 - 2003, thực trạng và bài học kinh

nghiệm đối với Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc

Dân, Hà Nội.

[28]. IMF (2020), Năm 2020 GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt trên

10.000 USD, Tạp chí Tài chính Online, https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-

bat/imf-nam-2020-gdp-binh-quan-dau-nguoi-cua-viet-nam-dat-tren-10000-usd-

331067.html.

[29]. Klaus Schwab (2018), Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, NXB Chính trị Quốc

gia sự thật.

[30]. Nguyễn Tiến Long (2011), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển dịch cơ

cấu kinh tế tỉnh Thái Nguyên, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.

[31]. Lê Tuấn Lộc (2017), Quan hệ thương mại của Việt Nam với Nhật Bản: Thực

trạng và xu hướng, Tạp chí phát triển Khoa học và Công nghệ, Tập 20, Số Q2-2017.

[32]. Luật Đầu tư (2005), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[33]. Luật Minh Anh (2020), Chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam năm 2020,

https://luatminhanh.vn/chinh-sach-thu-hut-dau-tu-cua-viet-nam-nam-2020.html

[34]. Trần Ngọc Mai, Cam Thị Diệu Linh, Phạm Mai Phương, Nguyễn Hương

Giang, Định Phúc Hưng (2020), Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp

nước ngoài - nghiên cứu trường hợp 15 quốc gia trên thế giới, Tạp chí khoa học và

đào tạo ngân hàng, số 222 tháng 11 năm 2020.

154

[35]. Anh Minh (2020), https://vnexpress.net/ngan-sach-nhieu-dia-phuong-phu-

thuoc-vao-doanh-nghiep-fdi-4167037.html

[36]. MPI (2012), 25 năm đầu tư nước ngoài - Nhìn lại và hướng tới, Báo đầu tư.

[37]. Hà Văn Nam (2013), Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ Việt

Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(67).

[38]. Thanh Nga (2020), Các DN Nhật Bản đóng góp chủ lực cho ngân sách Nhà

nước, Cổng thông tin giao tiếp điện tử tỉnh Vĩnh Phúc,

https://vinhphuc.gov.vn/ct/cms/Convert/caithienmt/Lists/tintuchoatdong/View_Deta

il.aspx?ItemID=585

[39]. An Nhi (2021), Đón dòng vốn đầu tư từ Nhật Bản, Tạp chí điện tử

VnEconomy, https://vneconomy.vn/don-dong-von-dau-tu-tu-nhat-ban-646344.htm

[40]. PCI (2018), Đánh giá chất lượng điều hành kinh tế để thúc đẩy phát triển DN,

Báo cáo PCI.

[41]. Paul Samuelson và Williem D.Nordhause (1997), Kinh tế học, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội, tr.654, 655.

[42]. Nguyễn Minh Phong (1999), Các bài học kinh nghiệm thu hút FDI trên thế giới.

[43]. Lý Hoàng Phú (2013), Các yếu tố tác động tới FDI vào các nước đang phát

triển trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, khuyến nghị

cho Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học Ngoại thương.

[44]. Anh Phương (2020), Năng suất lao động Việt Nam tăng tốc nhưng vẫn thấp xa

so với ASEAN 6, Báo Sài Gòn Giải Phóng online, ngày 09 tháng 10 năm 2020,

https://www.sggp.org.vn/nang-suat-lao-dong-viet-nam-tang-toc-nhung-van-thap-xa-

so-voi-asean6-690178.html.

[45]. Duy Phương (2019), FDI chất lượng cao cần nhân lực chất lượng cao, Báo

Đại đoàn kết, 07/09/2019, http://daidoanket.vn/fdi-chat-luong-cao-can-nhan-luc-

chat-luong-cao-446667.html.

[46]. Trương Hoàng Diệp Phương, Trần Huy Hùng (2020), Hiệu ứng lan truyền từ

FDI đến đổi mới sáng tạo: Kết quả từ mô hình GMM hệ thống hai nước, Tạp chí

Khoa học & Đào tạo ngân hàng, số 222 tháng 10 năm 2020.

[47]. Nguyễn Xuân Phương (2013), Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật

Bản đến sự phát triển kinh tế Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế đối ngoại.

155

[48]. Thu Quang, IPC, Trung tâm xúc tiến đầu tư phía Nam, Cục đầu tư nước ngoài,

Bộ kế hoạch đầu tư, http://www.ipcs.vn/vn/cac-bien-kinh-te-hoc-anh-huong-den-

thu-hut-von-fdi-W257.htm

[49]. Phan Văn Tâm (2011), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt

Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Khoa học xã hội.

[50]. Đinh Trung Thành (2009), Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia

Nhật Bản ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện chính trị hành chính quốc

gia Hồ Chí Minh.

[51]. Phan Thúy Thảo (2020), Nhân tố hấp dẫn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ

các nước Đông Bắc Á vào Việt Nam, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc

dân.

[52]. Phan Thúy Thảo, Tạ Lợi (2018), Nhân tố hấp dẫn của Việt Nam đối với dòng

FDI Nhật Bản, Tạp chí Công thương, số 12, trang 124 - 130.

[53]. Phạm Mạnh Thắng (2017), Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI của Nhật Bản

vào Thành phố Hồ Chí Minh trong 10 năm gần đây (2006-2016) - Thực trạng và

giải pháp, Tạp chí khoa học trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh, tập 14, số 5.

[54]. Trần Quang Thắng (2012), Những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong đầu tư

trực tiếp nước ngoài của một số nước Châu Á và giải pháp cho Việt Nam, Luận án

tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân.

[55]. Nguyễn Quỳnh Thơ (2017), Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong

giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện ngân hàng.

[56]. Ngô Thị Thanh Thúy (2019), Phân tích mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng

kinh tế tỉnh Bình Định giai đoạn 1997 – 2017 trên cách tiếp cận lý thuyết năng lực

hấp thụ, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, tháng 6 năm 2019.

[57]. Nguyễn Thị Thúy (2019), Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trên lĩnh vực kinh tế

những năm đầu thế kỷ XXI, http://lyluanchinhtri.vn/ /home/index.php/quoc-

te/item/2812-quan-he-viet-nam-nhat-ban-tren-linh-vuc-kinh-te-nhung-nam-dau-the-

ky-xxi.html

[58]. Từ Thanh Thủy (2004), Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc và

tác động của nó tới Việt Nam, Tạp chí những vấn đề Kinh tế thế giới, số 12.

156

[59]. Vũ Nguyên Thức (2014), Phát triển công nghiệp hỗ trợ - Gỡ từ cơ chế, chính

sách, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 6/2014.

[60]. Tổng cục thống kê (2020), Kinh tế Việt Nam 2020: Một năng tăng trưởng đầy

bản lĩnh, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/01/kinh-te-viet-

nam-2020-mot-nam-tang-truong-day-ban-linh/

[61]. Tổng cục thống kê (2020), Niên giám thống kê 2020.

[62]. Đỗ Thị Thu Trang (2020), Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hút FDI

của Nhật Bản và bài học cho tỉnh Thái Nguyên, Tạp chí Công thương, Số 17.

[63]. Nguyễn Thị Thu Trang (2020), Thực trạng năng suất lao động của Việt Nam

và một số giải pháp tăng năng suất lao động, Tạp chí công thương, số 12.

[64]. Đỗ Minh Trí (2015), Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút đầu tư

tại tỉnh Hưng Yên, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện nông nghiệp Việt Nam.

[65]. Lưu Ngọc Trịnh, Lê Đăng Minh (2018), Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào

Việt Nam: Đặc điểm, nhân tố tác động và giải pháp thúc đẩy, Tạp chí những vấn đề

Kinh tế và Chính trị thế giới, số 9 (269).

[66]. Phạm Ngọc Trung (2016), Giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của

Nhật Bản vào nông nghiệp Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, tr 65-69, (5)

[67]. Nguyễn Phú Tụ, Huỳnh Công Minh (2010), Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp

nước ngoài với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Hội nghị khoa học và công nghệ

lần thứ nhất.

[68]. Tuyên bố chung Việt Nam - Nhật Bản về thiết lập quan hệ đối tác chiến lược

sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở Châu Á, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, Đăng

ngày 18-3-2014.

[69]. Lê Xuân (2017), Chi phí đắt đỏ - Mối quan ngại lớn của DN Việt Nam, báo

đấu thầu, http://baodauthau.vn/dau-tu/chi-phi-dat-do-moi-quan-ngai-lon-cua-dn-

viet-nam-40624.html

[70]. Viện chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[71]. Viện nghiên cứu và chính sách (2019), Báo cáo kinh tế vĩ mô Việt Nam quý I

năm 2019, Trường đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội.

157

TIẾNG ANH

[72]. Adina Dorneana and associates (2012), Emerging Markets Queries in Finance

and Business The Impact of the Recent Global Crisis on Foreign Direct Investment.

Evidence from Central and Eastern European Countries Adina Dorneana,* , Vasile

I b , Dumitru-Cristian Oaneac.

[73]. Agarwal, S., and Ramaswami, S. (1992), Choice of foreign entry mode:

Impaact of ownership, location, and internalization factors, Journal of

International Business Studies, pp. 1-27, (23).

[74]. Bengoa, M.& Sanchez-Robles, B. (2003), Foreig direct investrnenl, economic

freedom and growth: new evidence from Latin America, European Joumal

Economy, 19, 529-545.

[75]. Blomstrom, M. & Kokko, A. (2002), FDI and human capital: A research

agenda, Technical Papers OECD Development Centre no. 195, available from

http://www.oecd.org/dev/1950227.pdf

[76]. Caves, R.E., (1982), Multinational Enterprise and Economic Analysis,

Cambridge University Press.

[77]. Dunning, Jonh H. (1977), Trade, location of economic activity and the MNC:

A search for an approach in the international allocation of economic activity,

Edited by Bertil Ohlin Hesselborn anh per Magues Wijman, Newyork, Holmes and

Meier Rublisher.

[78]. Dunning, Jonh H. (2003), Economic analysis and the multinational enterprise,

London George Allen & Unwin Ltd, UK.

[79]. Dunning J.H (1979), Explaining Changing Patterns of International

Production: In Defense of the eclectic Theory, Oxford Bulletin of Economics and

Statistics,41, 269-93.

[80]. Dunning J.H (1988), Explaining International Production, London: Unwin

Hyman.

[81]. Dunning J.H (1993), Multinational Enterprises and the Global Economy,

Wokingham: Addison – Wesley.

[82]. Dunning, Jonh H and Narula, R. (1966), FDI and Government: Catalists for

Economic Restrucuring, Routledge, london and New York.

158

[83]. Goldman Sachs (December 3, 2009) Asian Economic Flash.

[84]. Hoang, T. N, Duysters, G., Palterson,J., and Sander, H. (2009), Foreign Direct

Investment Absorptive Capacity Theory, The 7th Globelics International

Conference, Dakar, 6 – 8 October 2009.

[85]. Hymer, S. (1976), The International Operations of Nation Firms: A study of

Foreign Direct Investment, Cambridge, MLT Press.

[86]. ICABSS-Bali (2016), Japanese FDI in Malaysia and other Asian contruies:

are they cointegrated?, First International Conference on Advanced Business and

Social Sciences.

[87]. IMF (1993), Balance of Payments Manual, page 86.

[88]. JETRO (2018), Global Trade and Investment Report.

[89]. JETRO (2019), Global Trade and Investment Report.

[90]. JETRO (2020), Global Trade and Investment Report.

[91]. JETRO, Invest Japan Report, 2017.

[92]. JETRO (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019),

Survey of Japanese Affiliated-Fiims in Asia and Oceanies.

[93]. JETRO (2020), “Survey of Japanese -Affiliated Firms in Asia and Oceania”,

FY 2020 Survey.

[94]. Kozo Kiyota (2015), Trends & Characteristics of Inward & Outward Foreign

Direct Investment in Japan, White Paper on International Economy and Trade, (4)

[95]. Koji Sako(2017), Trends in Japan’s Foreign Direct Investment (FDI) toward

Asia since the first half of 2015, Mizuho Research Institute.

[96]. Koji Sako(2017), Trends in Japan’s Foreign Direct Investment (FDI) toward

Asia Since the second half of 2016, FDI toward China has been rising, driven by the

manufacturing industry”, Mizuho Economic Outlook & Analysis.

[97]. Lumbila, K. N.(2005), What Makes FDI Work: A Panel Analysis of the

Growth Effect of FDI in Africa, Africa Region Working Paper Series No.80

[98]. Mac Dougall (1960), Benefit and costs of Private Investment from abroad: A

theorial Approach, Economic Record.

159

[99]. Maggie Chen và Laura Alfaro (2010), Surviving the global financial

crisis: foreign direct investment and establishment performance, Harvard Business

School BGIE Unit Working …, 2010 - papers.ssrn.com

[100]. Meltem Ucal , Kivilcim Metin Özcan , Mehmet Huseyin Bilgin & Julius

Mungo (2010), Relationship between financial crisis and foreign direct investment

in developing countries using semiparametric regression approach, Journal of

Business Economics and Management, 11:1, 20-33, DOI: 10.3846/jbem.2010.02

[101]. Mizuho (2018), Japan’s foreign direct investment trends in Asia.

[102]. Mohammed Ameen Fadhila, Mahmoud Khalid Almsafir (2015), The Role of

FDI Inflows in Economic Growth in Malaysia (Time Series: 1975-2010), Procedia

Economics and Finance 23 (2015( 1558-1566.

[103]. Multilateral Investment Guarantee Agency (MIGA) (2009), World

Investment and Politic Risk 2009.

[104]. Ohlin Bertil (1933), International Trade and Inter-regional Trade, Cambride,

1933.

[105]. OECD (2008), OECD Benchmark Definition of Foeign Direct Investment,

forth edition (2008), page 48-49

[106]. OECD Benchmark (1999), Denifinition of Foreigh Direct Investment,

Website:http://www.oecd.org/dataoecd/10/16/2090148.pdf

[107]. Permporn Sangiam (2006), Japan’s foreign direct investment in Thailand: trends,

patterns anh determinants, 1970-2003, Victoria Graduate School of Business.

[108]. Ramona Jimborean1 & Anna Kelber (2017), Original Article Foreign Direct

Investment Drivers and Growth in Central and Eastern Europe in the Aftermath of

the 2007, Global Financial Crisis Comparative Economic Studies, 2017, 59, (23 -

54)

[109]. Shatz, H. and A. Venables (2000), The Geography of International

Investment, World Bank Policy Research Working Paper 2338. Word Bank,

Washington DC.

[110]. UNCTAD (2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017,

2018, 2019, 2020), “World Investment Report”.

160

[111]. UNCTAD (2021), Investment Trends Monitor, truy cập tại

https://unctad.org/system/Yles/oZcial document/diaeiainf2021d1_en.pdf

[112]. Vu Anh Dung, Hoang Thi Hong Hanh (2019), Factor affecting

the FDI attraction associated with R&D from Japanese companies to Vietnam,

Vietnam Economic Review Số 1 – 293.

[113]. Wells, Louis T, and Alvin G. Wint, 1991, Marketing a Country: Pro

Occasimotion as a Tool for Atracting Foreign Investment, Foreign Investment

Agency Occasional Paper 1

[114]. Zhang, K.H.L. (2001), Does Foreign Direct Investment Promote Economic

Growth? Evidence from East Asia and Latin America, Contemporary Economic

Policy, pp. 175-85, (19).

161

PHỤ LỤC

Phụ lục 01: Danh sách các chuyên gia tham gia đóng góp ý kiến

STT Họ và tên Chức vụ Số điện thoại

1 0983478486

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng

2 PGS.TS Nguyễn Đắc Hưng 0912478685

Cơ quan công tác Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế - Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Tạp chí ngân hàng – Ngân hàng Nhà nước

Giảng viên chính (Chuyên gia Kinh tế) Phó tổng biên tập (Chuyên gia Kinh tế)

3 0982413593

PGS.TS Nguyễn Bình Giang

Viện Kinh tế Chính trị thế giới

4 PGS.TS Phạm Quý Long 0983478486

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

5 PGS.TS Lê Xuân Bá 0913248303

Viện nghiên cứu quản lý Kinh tế TW

6 TS. Trần Thị Hồng Minh 0902267469

Viện nghiên cứu quản lý Kinh tế TW

Viện trưởng (Quản lý Nhà nước) Viện trưởng (Quản lý Nhà nước) Nguyên Viện trưởng CIEM (Quản lý Nhà nước) Viện trưởng (Quản lý Nhà nước)

162

7 Thạc sĩ Nguyễn Việt Cường 0987813821

Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch đầu tư

8 Thạc sĩ Nguyễn Đức Anh 0988844355

Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch đầu tư

9 Thạc sĩ Đỗ Thị Ngát 09862651243

Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Hải Dương

10 Nguyễn Thị Tuyết Lan 0243825250630

Trưởng phòng tổng hợp thông tin (Quản lý Nhà nước) Phó trưởng phòng Đầu tư nước ngoài (Quản lý Nhà nước) Chuyên viên phòng đấu thầu, thẩm định và giám sát đầu tư (Quản lý Nhà nước) Chuyên viên tư vấn đầu tư

Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) Văn phòng Hà Nội

163

Phụ lục 02: PHIẾU KHẢO SÁT DN

FDI NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM

Kính gửi tới quý DN!

Tôi là nghiên cứu sinh của Học viện Khoa học và xã hội. Hiện tôi đang thực hiện

đề tài luận án “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam từ sau khủng

hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay: Thực trạng và giải pháp”. Để có những

thông tin đánh giá về các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật

Bản vào Việt Nam, tôi rất mong nhận được ý kiến đánh giá của quý DN. Tôi cam kết

những thông tin mà Ông/Bà cung cấp sẽ được bảo mật, tất cả các câu trả lời của Quý vị

sẽ được gộp chung để xử lý thống kê.

Trân trọng cảm ơn!

Dear Business!

I am a graduate student of the Academy of Social Sciences. I am currently

working on the thesis "Foreign direct investment of Japan into Vietnam after the global

financial crisis in 2008 up to now: Reality and solutions". In order to get information on

factors affecting Japanese foreign direct investment in Vietnam, I look forward to

receiving your comments. I promise that the information you provide will be kept

confidential, all your answers will be aggregated for statistical processing.

Sincerely thank you!

A. THÔNG TIN CHUNG (INFORMATION)

1. Tên công ty (Company name):..................................................................................

2. Địa chỉ (Address):.....................................................................................................

3. Ngành nghề kinh doanh (Business scope) :..............................................................

4. Điện thoại (Phone): ....................... Email:.....................Website:...........................

5. Vốn điều lệ (Charter capital):....................................................................................

6. Số lượng lao động (Quantity of labor)......................................................................

B. NỘI DUNG ĐIỀU TRA (CONTENTS OF SURVEY)

Please indicate your agreement or disagreement with the following statements.

Mark (X) in the checkbox which you consider it as the best following to scale from

1 to 5 (Đánh dấu “X” vào ô chọn thể hiện mức độ đồng ý của ông bà theo nội dung

dưới đây):

164

1 2 3 4 5

Very low Low Normal High Very high

Rất thấp Thấp Bình thường Cao Rất cao

No. Level of agreement

(STT) Contents (nội dung) 1 2 3 4 5

I Institutions and policies for State management of

Vietnam’s foreign direct investment

Thể chế, chính sách quản lý Nhà nước về đầu tư trực

tiếp nước ngoài của Việt Nam

1 The economic, political and social stability of Vietnam.

Sự ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội của Việt Nam.

2 The rigor and transparency of the legal system.

Tính chặt chẽ và minh bạch của hệ thống pháp luật.

3 The level of synchronous compliance of the legal system

and policies from the central to local levels.

Mức độ tuân thủ đồng bộ của hệ thống pháp luật, chính

sách từ Trung ương đến địa phương.

4 Compliance with international practice of the legal

system.

Sự phù hợp với thông lệ quốc tế của hệ thống pháp luật.

5 Enforcement of the legal system in Vietnam.

Tính thực thi của hệ thống pháp luật ở Việt Nam.

6 Complicated tax system and tax procedures.

Hệ thống thuế và thủ tục thuế phức tạp.

7 Attactiveness of investment incentive policies.

Mức độ hấp dẫn của các chính sách ưu đãi đầu tư.

8 Effectiveness of investment promotion activities in

Vietnam.

Hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam.

165

II Market factor

Nhân tố thị trường

9 Size and growth potential of Vietnam market

Quy mô và tiềm năng tăng trưởng của thị trường Việt

Nam

10 The situation of applying EPA/FTA of Vietnam.

Tình hình áp dụng EPA/FTA của Việt Nam

III Resource factor

Nhân tố nguồn lực

11 The abundance of human resources in Vietnam.

Mức độ dồi dào của nguồn nhân lực tại Việt Nam.

12 The availability of quality human resources and skills.

Sự sẵn có nguồn nhân lực có chất lượng và tay nghề.

13 Language and working style of workers.

Ngôn ngữ và tác phong làm việc của người lao động.

14 What is the degree of employee's engagement with the

enterprise.

Mức độ gắn bó của người lao động với DN.

15 The advantage of Vietnam’s geographical location.

Mức độ thuận lợi về vị trí địa lý của Việt Nam.

16 Vietnam’s abundance of natural resources.

Mức độ phong phú tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam.

IV The infrastructure

Cơ sở hạ tầng

17 The level of convenience and quality of the transport

infrastructure system in Vietnam

Mức độ thuận tiện, chất lượng của hệ thống hạ tầng

giao thông tại Việt Nam

18 Quality of information technology, telecommunications

and energy systems in Vietnam

Chất lượng hệ thống công nghệ thông tin, viễn thông,

166

năng lượng tại Việt Nam

19 Modern and synchronous level of infrastructure system

of economic zones and industrial zones in Vietnam

Mức độ hiện đại, đồng bộ của hệ thống hạ tầng các khu

kinh tế, khu công nghiệp tại Việt Nam

20 The level of development of the supporting industry

Mức độ phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ

21 The development level of the logistics service system in

Vietnam

Mức độ phát triển của hệ thống dịch vụ logistic tại Việt

Nam

VI Investment decision of Japanese enterprises

Quyết định đầu tư của DN Nhật Bản

22 There are plans to expand the scale in the Vietnamese

market

Có kế hoạch mở rộng quy mô tại thị trường Việt Nam

23 Long-term attachment in the Vietnamese market

Gắn bó lâu dài tại thị trường Việt Nam

167

Phụ lục 03: Danh sách các DN FDI Nhật Bản tại Việt Nam thực hiện điều tra, khảo sát

Năm thành lập STT Tên DN Lĩnh vực hoạt động Địa chỉ DN Vốn điều lệ (ĐVT: USD)

1 2020 47.500 Giáo dục và đào tạo

2 2020 Công ty Cổ phần Bond INC Công ty Cổ phần Matsumoto Kogyo Công nghiệp chế biến, chế tạo 300.000

3 2020 KOBAYASHI GUMI CORPORATION Công nghiệp chế biến, chế tạo 270.000

4 2019 SHINSEN HOLDINGS INC. Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 329.446

5 2019 Công ty TNHH Thương mại và xây dựng lắp Meiko Công nghiệp chế biến, chế tạo 893.617

Công ty Mars Tohken Solution Co. Ltd 6 2019 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 165.000 Số 6, lô A3, CL2, Khu đô thị Nghĩa đô - Dịch Vọng Hậu, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Việt Nam Thôn Thanh Trí, xã Minh Phú, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Việt Nam Tầng 17, Tòa nhà VIT 519 Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam. Tầng 6, số 559 Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, Việt Nam Tầng 1, nhà EMS 2, Lô CN9, Khu công nghiệp Thạch Thất – Quốc Oai, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, Việt Nam Số 17, Lô TT4, Khu X5, ngõ 60 phố Dương Khuê, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Việt Nam

168

7 2019 Công ty cổ phẩn Forchile Sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa 26.086

8 2018 Công ty cổ phần Aisei 214.040 Hoạt động dịch vụ khác

9 2018 Công ty Cổ phần DAIKO Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 50.000

10 2018 Công ty TNHH Life Stage Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 85.653

11 2018 Công ty Cổ phần Sanshin Metal Working

12 2018 Công ty cổ phần ipax Iketani 50.000 Thông tin và truyền thông Công nghiệp chế biến, chế tạo 1.200.000

50.000.000

13 14 2017 2017 Công ty TNHH Điện khí Kuroda Công ty cổ phần Dimage share Công nghiệp chế biến, chế tạo Thông tin và truyền thông Tầng 16, tháp A, tòa nhà sông Đà, đường Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Số 27, phố Trần Duy Hưng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Việt Nam Phòng 601, tầng 6 số 199 Quan Hoa , phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Việt Nam Số 14B, phố Đông Quan, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Việt Nam Tầng 4, Tòa A, Tòa nhà BIDHOMES THE GARDEN HILL, số 99 Đường Trần Bình, Phường Mỹ Đình 2, Quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Việt Nam". Lô 44D, KCN Quang Minh, thị trấn Chi Đông, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội Lô LD4, khu Công nghiệp Thạch Thất - Quốc Oai, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội, Việt Nam, Việt Nam Phòng 1451C, tòa nhà Hapro, số 11 Cát

169

26.827

Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 100.000 15 2017 Công ty cổ phần thiết bị Toyoda

16 2017 Takamura Terutaka; Hoshi Kazunỏi; Hoshi Densetsu Co.;LTD 261.000 Xây dựng

17 2017 Công ty TNHH Aeonmall Việt Nam 192.510.000 Hoạt động kinh doanh bất động sản

18 2016 500.000

19 2016 KYORITSU ELECTRIC CORPORATION Công ty cổ phần YamuYamu Kurieitu Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Công nghiệp chế biến, chế tạo 300.000

20 2016 Japan Food Value Corporation Công nghiệp chế biến, chế tạo 75.000

21 22 2016 2015 Công ty TNHH SG Sagawa Việt Nam Cty Emuten Co.,Ltd;Iwama Yuichi 300.000 Vận tải kho bãi Công nghiệp chế biến, chế Linh, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Tầng 4, số 92 Hoàng Ngân, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội LK87 Khu nhà ở Bắc Hà, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Tổ dân phố Hoàng Văn Thụ, Phường Dương Nội, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Tầng 11, tòa nhà LADECO, số 266 Đội Cấn, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Số 2 Chương Dương Độ, phường Chương Dương Cụm công nghiệp Trường An, xã An Khánh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Hà Nội Tầng 3, Khu B (361) HVKTQS, đường Hoàng Quốc V iệt, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Việt Nam số 1, ngõ 484 đường Hà Huy Tập, Yên

170

500.000 tạo

23 2015 57.450.000

24 2014 71.429

Hoạt động kinh doanh bất động sản Hoạt động kinh doanh bất động sản

25 2014 57.242 Thông tin và truyền thông

26 2014 Công ty TNHH Daibiru CSB Công ty cổ phần Aisia Business Investment Miyashita Miyuki; Miyashita Sakura Cty TNHH Mỹ phẩm Shiseido Việt Nam Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 500.000

27 2014 Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 150.000

28 2014 Viên, H. Gia Lâm, Hà Nội Số 16 Phan Chu Trinh, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phòng B01, toà Sky City,88 Láng Hạ, Q. Đống Đa, HN tầng 22 M, tháp VP quốc tế Hoà Bình,106 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, HN P603B toà nhà Capital Tower,109 Trần Hưng Đạo,Hoàn Kiếm,Hà Nội Tầng 26 – tòa tháp Tây, Trung tâm Lotte Hà Nội, số 54 đường Liễu Giai, phường Cống Vị, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, Việt Nam. tầng 8, toà nhà Licogil 13, đg Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, HN

29 2014 Cty TNHH Yamada & Partners Consulting; SHOGO MAEDA Công ty Cổ phần Kakehashi Skysolutions CÔNG TY TNHH MURAMATSU KENMA KOGYO 90.000 Thông tin và truyền thông Công nghiệp chế biến, chế tạo 800.000

30 2013 M.tec Co., Ltd 3.000.000

200.000

31 32 2013 2013 Cty TNHH Fujifilm Việt Nam công ty cổ phần Grasys Hoạt đông làm thuê các công việc trong các hộ gia đình Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Thông tin và truyền thông Lô 44D, KCN Quang Minh, Mê Linh, HN Phòng 407, tầng 4, tòa nhà DMC, số 535 Kim mã, phuờng Ngọc khánh, quận Ba đình, thành phố Hà Nội P 1302 và 1036 toà nhà BIDV 19 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, HN tầng 14, tòa nhà Ladeco, 266 Đội Cấn,

171

100.000

33 2013 Cty TNHH M-Tec Co., Ltd 13.000.000 Xây dựng

34 2013 465.000 Phường Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà Nội 37 Nguyễn Đình Chiểu, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, HN Tầng 5, toà nhà Quý Hạnh, số 165 Bà Triệu, Lê Đại Hành, Hà Nội

35 2013 Công ty cổ phần GRAPHIC Công ty Cổ phần kho vận Jupiter Việt Nam Công nghiệp chế biến, chế tạo 355.000 Vận tải kho bãi

36 2012 Công ty TNHH AEONMALL VIỆT NAM 200.000.000 Dịch vụ lưu trú và ăn uống

37 2012 Công ty Cổ phần KONDO TEKKO 1.800.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

38 2012 Công ty TNHH Kyoshin Việt Nam 14.250.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

39 2012 Công ty cổ phần Endo Seisakuso 1.625.000

40 2012 Sugiko Group Holding Co., Ltd 1.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ

41 2012 Cty cổ phần Sky Holding 300.000 Thông tin và truyền thông Lô 43C1, Khu công nghiệp Quang Minh Lô HH1, Khu công viên CNTT Hà Nội, P Phúc Đồng, và P Long Biên, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội, Việt Nam. Nhà xưởng sản xuất cơ khí số I, Lô 43- D2, KCN Quang Minh, huyện Mê Linh, Hà Nội Lô 69A1 và 69A2, Khu công nghiệp Nội Bài, xã Mai Đình, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Việt Nam. nhà xưởng số 13, lô P-7, tổ hợp nhà máy cho thuê 2, khu công nghiệp Thăng Long, huyện Đông Anh, Tp Hà Nội Tầng 20, toà nhà CEO LôHH2-1,KĐT Mễ Trì Hạ,Hà Nội P401 Toà nhà CMC, Vọng hậu, Cầu Giấy, HN

172

42 2011 245.000

43 2011 500.000

44 2011 Công nghiệp chế biến, chế tạo Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 251.440

45 2011 BR International Corporation; Miwa Tech Co, ltd Công ty cổ phần Thương mại Hamabo TAKENOUCHI MASAYA; TAKENOUCHI MARI NIPPON SALVAGE SERVICE CO., LTD; ASIA MACHINERY SOLUTIONS CO., LTD. 30.000.000

46 2010 1.165.945

47 2010 Cty TNHH Fuji Xerox Việt Nam Công ty Cổ phần công nghiệp Daido 435.000

Thôn Cổ Điền, Hải Bối, Đông Anh, HN P 102, số 157 Xuân Thuỷ, Dịch vọng, Cầu Giấy, HN 503B, tầng 5, toà nhà Viglacera Exim, số2 Hoàng Quốc Việt, HN số 37A ngõ 97, đường Văn Cao, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội Tầng8, toà nhà mặt trời sông hồng,23 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, HN số 345 Kim Mã, P. Ngọc Khánh, Ba Đình, HN Lô 14, KCN Quang Minh, Thị trấn Quang Minh, huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội. 48 2010 Công ty TNHH HARD COAT 3.000.000

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Công nghiệp chế biến, chế tạo 500.000 Vận tải kho bãi 49 2010 Japan transcity corporation

50 2010 300.000 Xây dựng

400.000 Vận tải kho bãi

Phòng 602B, D10 Giảng Võ, Giảng Võ Đ Phòng 1101A, tầng 11, Giang Vo Lake View, D10 Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội. Tầng 10, tòa Grand, số 30-32 Hòa Mã, Phạm Đình Hổ, Hai Bà Trưng, Hà Nội Khu công nghiệp Thăng Long, huyện 51 52 2009 2009 Sanyo Engineering & Construction Inc YASUDA LOGISTICS CORPORATION Công ty TNHH Phụ tùng xe máy - Công nghiệp chế biến, chế

173

ô tô Showa Việt Nam 16.700.000 tạo

53 2009 Công ty cổ phần Coatech Japan 300.000 Cấp nước và xử lý chất thải

54 2009

1.730.000 Vận tải kho bãi

55 2009 Công ty Fukuoka Soko Co., LTD Cty cổ phần Viet Nam Investment Partners (Nhật Bản) 100.000 Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tầng 4, số 12A ngõ Bà Triệu, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Việt Nam P202 toà DMC,535 Kim Mã, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội K10B, tổ 91, ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội

56 2008 Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 4.700.000

57 2008 Công ty TNHH Toyoda Giken Công ty TNHH Quản lý và đầu tư Logitem Việt Nam 10.000.000 Vận tải kho bãi

58 2008 200.000 Vận tải kho bãi Lô 41B, Khu công nghiệp Nội Bài. Số 64, phố Hoa Lâm, phường Việt Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Tầng 6, số 93, Linh Lang, Cống Vị, Ba Đình, HN

59 2008 21.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Lô M5B, Khu công nghiệp Thăng Long, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội.

60 2008 Cty TNHH Nippon KonPo VN Công ty TNHH SUMITOMO CORPORATION VIỆT NAM; SUMITOMO HONDA TRADING CORPORATION; HONDA TRADING ASIA CO., LTD Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 5.000.000

61 2020 tầng 8, toà nhà Mặt trời Sông Hồng, 23 Phan Chu Trinh, Hà Nội Lô CN2-3, KCN Minh Quang, phường Bạch Sam, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam NAKANO INDUSTRIES CO., LTD 6.603.500 Công nghiệp chế biến, chế tạo

174

62 2019 CÔNG TY TNHH VIỆT NAM MUSASHI PAINT 3.720.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

63 2019 LAYMAC LIMITED 2.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

64 2019 Công ty TNHH Công nghiệp Kongo Việt Nam 650.000

65 2019 7.320.000

66 2019 Công ty TNHH Kyocera Việt Nam Công ty TNHH Akiyama-SC (Việt Nam) Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo 3.000.000

67 2019 Công ty TNHH Quốc Tế IDE 2.400.000 Hoạt động kinh doanh bất động sản

68 2017 Công ty TNHH Vietinak 1.800.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

Công ty Cổ phần Gemopia Japan 2.500.000

69 70 2017 2017 NAKANO INDUSTRIES CO., Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế Lô VI-3.2, Đường N1-D, Khu công nghiệp Quế Võ II, Xã Ngọc Xá, Huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam Đường D2, Khu công nghiệp Yên Mỹ II, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên Khu công nghiệp Tiên Sơn, Xã Tương Giang và Phường Đồng Nguyên, Thị xã Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Lô đất số B-1, KCN Thăng Long II, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên Lô đất số C3, KCN Thăng Long II, Liêu Xá, Yên Mỹ, Hưng Yên, Việt Nam Đường 206, khu E, KCN Phố Nối A, xã Lạc Đạo và xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam Nhà xưởng RF-3, lô đất số D-8, Khu công nghiệp Thăng Long II, phường Dị Sử, Thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam Lô đất số J5-A, khu công nghiệp Thăng Long II, xã Dị Sử, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam Lô II.8.1 Khu công nghiệp Thuận Thành

175

LTD 1.280.000 tạo

71 2017 Công ty TNHH chăn nuôi gia cầm Matsukawa Nông nghiêp, lâm nghiệp và thủy sản 45.000

72 2017 Shinmei Co., Ltd Công nghiệp chế biến, chế tạo 2.500.000

73 2017 Công ty TNHH D.I.D Việt Nam 1.835.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

74 2017 Công ty TNHH Ogino Kogyo 25.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

75 2016 Công ty TNHH Sagawa Express Việt Nam 100.000 Vận tải kho bãi

76 2016 AMAGASAKI PIPE CORPORATION 5.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo III, Xã Thanh Khương, Huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Thôn Ngọc Khám, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh Nhà xưởng B thuộc Dự án công nghiệp tổng hợp IDE 2 của Công ty TNHH Quốc tế IDE; Đường 206, Khu E, KCN Phố Nối A, xã Đình Dù, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam Nhà xưởng tiêu chuẩn số 7D, Lô đất số H- 1, Khu công nghiệp Thăng Long II, phường Dị Sử, Thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam Số 06, Đường 8, Khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP Bắc Ninh, Xã Phù Chẩn, Thị xã Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Lô D, Khu công nghiệp Quế võ, Phường Vân Dương, Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh. - Dự án thực hiện tại lô đất số J-6, Khu Công nghiệp Thăng Long II, phường Dị Sử, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.

176

77 2016 YMK CO., LTD 200,000

78 2016 5.000.000

79 2016 Công ty TNHH quốc tế IDE Công ty Cổ phần thực phẩm Nipponham Việt Nam 7.316.292 Công nghiệp chế biến, chế tạo Hoạt động kinh doanh bất động sản Công nghiệp chế biến, chế tạo

80 2016 NIPPON MEKTRON, LTD 100.000.000

81 2015 Công ty Cổ phần SANKO 500.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

82 2014 NIPPON STEEL CORPORTION 11.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

83 2014 Công ty TNHH Ogino Việt Nam 14.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Số 91, đường Nguyễn Đăng Sở, khu K15, phường Ninh Xá, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam Đường 206, khu E, KCN Phố Nối A, xã Đình Dù, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên Lô M5, KCN Thăng Long II, Phường Dị Sử, Thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Lô đất số K-3 & 4 Khu Công Nghiệp Thăng Long II Xã Dị Sử, Mỹ Hào Tỉnh Hưng Yên thôn Ngọc Khám, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh Lô D1, Khu công nghiệp Quế Võ, Phường Vân Dương, Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. - Lô 130B, Số 11, Đường 3, Khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP Bắc Ninh, Xã Phù Chẩn, Thị xã Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Diện tích đất: 15.986 m2. - Lô CN21A, Số 39, Đường 15, Khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP Bắc Ninh, Xã Đại Đồng, Huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Diện tích đất: 30.282 m2.

177

TAIYO NIPPON SANSO CORPORATION; TOMOE SHOKAI CO., LTD 84 2013 6.000.000

85 2013 CT chế tạo Yamaguchi I Co., Ltd 3.000.000

86 2013 Công ty TNHH Hal Việt Nam 30.000.000 Sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

87 2013 Tokyo Keiso Co., Ltd 3.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

88 2012 Công ty TNHH Akebono Kasei Việt Nam 5.200.000

89 2012 Cty cổ phần Optorun 300.000

90 2011 Cty cổ phần Hiroshima Metal Work 64.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ

91 2011 Công ty Cổ phần Saito Paint 4.500.000

Cty CP TANAKA SANGYO 650.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

92 93 2011 2010 Denyo Co., Ltd Công nghiệp chế biến, chế Lô số 10, Đường TS27, Khu công nghiệp Tiên Sơn, Phường Tân Hồng, Thị xã Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. lô H4-1 KCN Quế Võ, p. Vân Dương, Bắc Ninh Số 15, đường 03, KCN Vsip Bắc Ninh, Phù Chấn, Từ Sơn, Bắc Ninh Lô đất số E-2, Khu Công nghiệp Thăng Long II, xã Liêu Xá, Huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam Đường TS 23, Khu công nghiệp Tiên Sơn, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Đường D3, Khu D,KCN Phố Nối A, Văn Lâm, Hưng Yên KCN Yên Phong, Xã Long Châu, Yên Phong, Bắc Ninh Lô I4-2, Khu công nghiệp Quế Võ, Xã Phượng Mao, Huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. KCN Yên Phong, Xã Long Châu, Yên Phong, Bắc Ninh Lô đất số A-3, khu công nghiệp Thăng

178

25.000.000 tạo

94 2008 Công ty TNHH Shinei Seiko (H.K) 1.500.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

95 2008 1.600.000

96 2008 TOHO RUBBER MANUFACTURING CO., LTD Công ty cổ phần Acecook Việt Nam, Nhật Bản 1.250.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

97 2020 Công ty Cổ phần Ichino 3.300.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

98 2020 KAWAGOSHI MASA CO., LTD Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 60.000

99 2020 Công ty TNHH Vina MC Infonics 100.000 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy

1.000.000 Vận tải kho bãi

MITSUI & CO. GLOBAL LOGISTICS, LTD. Công ty Cổ phần Bra Vesoft Việt 100 101 2019 2019 Thông tin và truyền thông Long II, Yên Mỹ, Hưng Yên Nhà C, trong khuôn viên Dự án công nghiệp quốc tế tổng hợp IDE tại Khu công nghiệp Phố Nối A, tỉnh Hưng Yên Số 8, Đường 9, Khu Công nghiệp, Đô thị và Dịch vụ VSIP Bắc Ninh, Xã Phù Chẩn, Thị xã Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. KCN Tiên Sơn, xã Hoàn Sơn, h Tiên Du, Bắc Ninh Lô số 33- đường 5A, khu công nghiệp Tân Tạo mở rộng, phường Tân Tạo A, Quận Bình Tân, TP.HCM Cao ốc HSC, 162B đường Điện Biên Phủ, Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tầng 16, Saigon Riverside Office Center, 2A-4A, Đường Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Số 45/7, Đường số 30, Phường Bình An, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Tòa nhà Mirae Business Center, số 268,

179

Nam 31.500

102 2019 GENERATION PASS CO., LTD 4.577.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

103 2019 Công ty TNHH Watari Việt Nam Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 634.989

104 2018 Công ty TNHH Dream Games Việt Nam Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 450.000

105 2018 GLOBAL HATTEN SHOJI HOLDING CO., LTD Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 200.000

106 2018 MIYAGAWA DATA SUPPORT CENTER LIMITED 550.000 Thông tin và truyền thông

107 2017 MITSUI O.S.K LINES LTD 5.200.000 Vận tải kho bãi Đường Tô Hiến Thành, Phường 15, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh Nhà xưởng A-18A21-CN, lô A-18A21- CN, Khu Công Nghiệp Bàu Bàng, xã Lai Hưng, Huyện Bàu Bàng, Tỉnh Bình Dương số 200/22-24, đường Cô Giang, phường Cô Giang, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh L2-04, Tầng 3, Trung tâm thương mại Sense City Phạm Văn Đồng, số 240-242, Đường Kha Vạn Cân, Phường Hiệp Bình Chánh, Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh Tầng 19, Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam Unit BC - 1103, Tầng 11, Số 180 – 192 Đường Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Thái Bình, Quận 1, Hồ Chí Minh, Việt Nam số 722, đường Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh

180

108 2017 Công ty TNHH Dream Games 300.000

109 2017 Công ty Cổ phần Willer Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 35.663.360 Vận tải kho bãi

110 2017 Công ty TNHH MEIKI SEKKEI Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 60.000

111 2017 Công ty TNHH PORTER MANAGEMENT; Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 100.000

112 2016 ISUZU MOTORS LIMITED; ITOCHU CORPORATION 2.900.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

113 2016 Công ty TNHH Honda Logicom (Việt Nam) 7.500.000 Vận tải kho bãi

114 2016 Công ty TNHH Sài Gòn RDC 2.245.677 Công nghiệp chế biến, chế tạo Gian hàng B-5, Tầng hầm B1, Trung tâm thương mại Đa chức năng, số 11, đường Sư Vạn Hạnh, phường 12, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh số 64, đường Hai Bà Trưng, phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Số 605, Đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, Phường 26, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh L17-11, Tầng 17, tòa nhà Vincom Center Đồng Khởi, số 72, Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh Lô B6-6, Đường D2, Khu công nghiệp Tân Phú Trung, Quốc lộ 22, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh Lô D7a-4, đường số 9 (đường N2), khu công nghiệp Hiệp Phước (giai đoạn 2), xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh. Lô D7a-2, khu công nghiệp Hiệp Phước giai đoạn 2, xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh.

181

115 2016 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 80.000

116 2016 350.000

117 2015 Công ty TNHH MTV Giày Eizo Việt Nam TEMCO., LTD.; HIROSHI KAWAMURA; NAOYUKI KAWAMURA TABATA TOSHITAKE; YAMAMOTO MASAYOSHI Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ Công nghiệp chế biến, chế tạo 100.000

118 2015 NITORI HOLDINGS CO., LTD. Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 500.000

119 2015 Công ty Cổ phần Rensel Kogyo 170.000 Thông tin và truyền thông

120 2015 Công ty TNHH Acty Daimonya Việt Nam Công nghiệp chế biến, chế tạo 9.443

121 2014 Công ty TNHH Khu kỹ nghệ Việt Nhật Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 100.000

Công ty Cổ phần Nippon Kanzai Center 250.000

2014 2013 HIGASHIYAMA INDUSTRIES 122 123 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Công nghiệp chế biến, chế 65 Trần Quốc Hoàn, P.04, Quận Tân Bình, TP. HCM Tầng 5, Tòa nhà PaxSky, Số 123 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. số B6/4A, ấp 2, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh Cao ốc văn phòng số 194 Golden Building, số 473, đường Điện Biên Phủ, phường 25, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh Tầng 5, số 123 đường Nguyễn Đình Chiểu, P6, Q3, TP Hồ Chí Minh Số A7/16 đường Trần Đại Nghĩa, Khu phố 7, phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. Lô D6, khu công nghiệp Hiệp Phước (Giai đoạn 2), xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh Số 200/1, Đường Bình Lợi, Phường 13, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh lô B_6D10_CN, đường NE5A&DE5A,

182

CO., LTD; TEMCO., LTD 2.000.000 tạo

124 2013 LEOPALACE21 CORPORATION 922.026 Hoạt động kinh doanh bất động sản

125 2013 Jfe Engineering Corporation 400.000 Xây dựng

126 2012 MOLTEN CORPORATION 3.150.000

127 2012 Công ty TNHH temp Holdings 1.572.882 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ

128 2012 NAVITAS CO., LTD KCN Mỹ Phước 3 Cao ốc văn phòng Lim Tower, số 9-11, đường Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh Tòa nhà Sun Wah Tower, số 115, đường Nguyễn Huệ, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam số 364 đg Cộng Hòa, P.13, Q. Tân Bình, Tp HCM Số 208, đg Nguyễn Trãi, P. Bến Nghé, Q.1, TPHCM Tầng số 10-07, tòa nhà Becamex Tower, số 230, Đại lộ Bình Dương, phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. 500.000

129 2012 5.000.000

130 2011 YAMAICHI SPECIAL STEEL CO., LTD Công ty TNHH Tosadenshi Việt Nam 52.820 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

131 2011 KCN Đồng An 2, Nhật Bản 108, Tây Thạnh, P. Tây Thạnh, Q. Tân Phú, TP HCM số 601, đường Hoàng Văn Thụ, phường 4, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh 50.000 Hoạt động dịch vụ khác

132 2010 Sakura Sonic Co., LTd Công ty Cổ phần Vina – Japan; Ruan inose; Mitani Masashi 37.500 Thông tin và truyền thông 359/1/27B, Lê Văn Sỹ, P13, Q3, HCM

183

133 2010 Công ty Liên doanh TNHH Nippon Express Việt Nam 10.000.000 Xây dựng

134 2010 64.000

135 2010 Công ty TNHH Okisho Clean Công ty Cổ phần Sato Kogyosho Co., Ltd 1.000.000

136 2008 NAKABAYASHI CO., LTD 3.500.000 Lô F, Đ.6, Sóng thần II, Bình Dương số 18/4E, đường Nguyễn Cửu Vân, phường 17, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Lô C, Đương số 2 KCN Đồng AN, Bình Dương Lô A-4D-CN, KCN Bàu Bàng, Bến Cát, Bình Dương

137 2008 6.000.000

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

138 2008 Công ty cổ phần Sakurai Công ty cổ phần IT Brain, Nhật Bản

112.500 Thông tin và truyền thông Công nghiệp chế biến, chế tạo 690.000 139 2008 Vệt Nam Challenge Corp LTD

140 2008 TPR CO., LTD. 42.500.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo KCN Lễ Môn, Thanh Hóa số 423, đường Sư Vạn Hạnh, p12, Q10, TP Hồ Chí Minh Nhà xưởng số FA-10-2, Bàu Bàng, Bến Cát, Bình Dương Địa điểm thứ nhất: Số 26 VSIP II đường số 02, Khu công nghiệp Việt Nam- Singapore II, Khu liên hợp công nghiệp- dịch vụ- đô thị Bình Dương, phường Hòa Phú, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Địa điểm thứ hai: Số 01 VSIP II-A đường số 26, Khu công nghiệp Việt Nam-

184

Singapore II-A, xã Vĩnh Tân, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

MARUBENI CORPORATION (Marubeni); KOREA ELECTRIC POWER CORPORATION (KEPCO) 141 2017 2.793.000.000

142 2017 Công ty TNHH Lacue International 43.000 Sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy

143 2016 Công ty TNHH Taiyo Koko

144 2015 Sunhomes Co., Ltd 875.742

145 2015 CT CP Yada Industry 10.000.000

146 2010 Công ty cổ phần xi măng NM 30.000.000 Cấp nước và xử lý chất thải Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo 3.750.000

147 2019 Công ty xi măng Nghi Sơn 1.825.000 Vận tải kho bãi Xã Hải Hà và Hải Thượng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa Khu công nghiệp số 2, xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. xã Hoằng thịnh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. lô CN 1, phía Nam khu A KCN Bỉm Sơn, tx. Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa KCN luyện kim, xã Hải Thượng, H Tĩnh Gia, Thanh Hoá KCN Cảng và hậu cần cảng Chu Lai Trường Hải, xã Tam Hiệp, huyện Núi Thành, thuộc Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam.

1.863

148 149 2019 2019 Công ty TNHH Aska Foods FUYUKO ANDO; SAEKO Công nghiệp chế biến, chế tạo Nghệ thuật, vui chơi và giải Khu Kinh tế Đông Nam Số 78 Lê Thánh Tông, khối An Mỹ,

185

BORWELL 50.000 trí

150 2019 4.000.000

151 2019 Công ty TNHH Makitech Việt Nam Công ty TNHH Daikyo Ohta Việt Nam 1.548.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

152 2018 Công ty TNHH Fujikura Automotive Việt Nam 12.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

153 2018 Công ty TNHH Hoya Lens Việt Nam 138.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

154 2018 Công ty TNHH Ogawa Pipe 7.207.207 phường Cẩm Châu, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam Lô số 08, Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, phường Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Thôn Bồ Mưng 1, xã Điện Thắng Bắc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Lô CN 04 Khu công nghiệp Tịnh Phong, xã Tịnh Phong, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam Số 01, đường số 8A, KCN Việt Nam- Singapore, xã Tịnh Phong, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam Số 3, Đường số 6A, KCN Việt Nam- Singapore, xã Tịnh Phong, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam

155 2018 Agata Seisakusho Co., Ltd 607.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

156 2017 DAISSHO CO., LTD 3.300.000

157 2014 Công ty Cổ phần SENDAITECH 300.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo KCN Điện Nam-Điện Ngọc Lô A 4.2 Cụm công nghiệp Tây An, xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam Lô số 19, Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng

186

158 2014 Công ty TNHH Điện công nghiệp MARUESU 490.000

159 2014 Công ty Cổ phần MAKITECH 5.500.000

160 2013 SOJITZ COPORATION 3.067.425

Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Nam. lô số 19, KCN Điện Nam-Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Lô số 18, KCN Điện Nam-Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Xã Bình Chánh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi Cụm công nghiệp thị trấn Yên Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An 20.000.000 161 2011

162 2011 1.000.000 Dịch vụ lưu trú và ăn uống Thôn Hà My Đông A, xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

163 2010 269.400.000 Xây dựng

164 2010 Công ty Yumine Sewing Co., Ltd YAMAGUCHI HIROKAZU; MIZOGUCHI SHUNICHI; MORII TAKAYUKI Cty Việt Nam Investment Partnert Nhật Bản Công ty Vietnam Investment Partnerts Inc 40.600.000 Xây dựng KCN Đông Hồi, Nghệ An Khối 10 phường Quỳnh Thiện, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

165 2010 Công ty TNHH thép Kobel 1.000.000.000

166 2008 Công ty TNHH LIXIL Việt Nam 28.115.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

167 2018 Công ty TNHH chế tạo máy EBA Công nghiệp chế biến, chế tạo 200.000 KCN Hoàng Mai, H Quỳnh Lưu, Nghệ An Lô số 8, KCN Điện Nam - Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Km8/QL5 Hùng Vương, phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, Việt Nam

187

168 2018 RESCO HOUSE CO.,LTD 2.192.505 Công nghiệp chế biến, chế tạo

169 2018 Nomura Micro Science Co., Ltd Công nghiệp chế biến, chế tạo 88,378

170 2018 Cty TNHH Dây cáp Điện ô tô Sumiden Việt Nam 28.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

171 2018 190.366.000 Hoạt động kinh doanh bất động sản Lô CN4, KCN Nam Cầu Kiền, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng Phòng 302, Tầng 3, Tòa nhà Thành Đạt 1, Số 3 đường Lê Thánh Tông, Phường Máy Tơ, Quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Lô đất XN7, khu công nghiệp Đại An mở rộng, thị trấn Lai Cách, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương Đường Hồ Sen - Cầu Rào 2, phường Kênh Dương và phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng

172 2017 500.000

173 2017 Công ty TNHH Aeonmall Việt Nam Công ty Kuwahara Ltd., Co.; Công ty TNHH KUWAHARA (Việt Nam) Công ty Cổ phần Toyota Corolla Nankai 17.000.000 Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy

174 2017 Công ty TNHH Sản xuất Pallet CS Việt Nam Công nghiệp chế biến, chế tạo 600.000

175 2015 Công ty Furukawa Electric Power Systems Co., Ltd 8.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Số 178 Văn Cao, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng Km 88 thôn Lương Quán, xã Nam Sơn, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng Khu nhà xưởng Công ty TNHH Sơn Kova, Đội 2, xã Kiền Bái, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng Lô đất số 841, thuộc tờ bản đồ số 11, Xã Vĩnh Hồng, Huyện Bình Giang, Tỉnh Hải Dương.

188

176 2015 Công ty TNHH EPE Packaging (Việt Nam) 2.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

177 2014 Công ty TNHH Vật liệu Nam châm Shin-Etsu Việt Nam 100.000.000

178 2014 Cty cổ phần Tsutsumi Seisakusyo 800.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

179 2014 IIYama seiki Co., ltd 2.500.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo

180 2014 Công ty TNHH Paloma 10.000.000 Lô IN 1-7*B, Khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ VSIP Hải Phòng, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng Lô đất số CN5.2D, KCN Đình Vũ, thuộc KKT Đình Vũ - Cát Hải, Hải Phòng, Việt Nam xã HưngThịnh, H. Bình Giang, Hải Dương Nhà xưởng D5, lô đất IL08~IL10 và IL18~IL20(P1-SP1), Khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ VSIP Hải Phòng, huyện Thủy Nguyên, thuộc Khu kinh tế Đình Vũ- Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Lô đất IN3-1*C, IN3-1*O, Khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ VSIP Hải Phòng, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng

181 2014 Yutaka Yasukawa 100.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ

952.000

182 183 2014 2013 Công ty cổ phần Fujikura Kasei Công ty cổ phần Fuluhashi Epo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế KCN Phúc Điền, Cẩm Giàng, Hải Dương Lô 13.1, đường số 10, khu công nghiệp Cẩm Điền – Lương Điền, xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương KCN Đại An, Km51, Quốc lộ 5, Tứ Minh,

189

1.200.000 tạo TP Hải Dương, Hải Dương

NISSHIN TRANSPORTATION CO., LTD; CAITAC HOLDINGS CORP 184 2013 Công nghiệp chế biến, chế tạo 400.000

185 2013 Công ty TNHH Yamashita Rubber 84.210.526 Công nghiệp chế biến, chế tạo

186 2013 Fuji Chemi Trading Co.,Ltd Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 500.000

187 2013 JFE Shoji Trade Corporation 13.958.000 xưởng X1, khu VP nhà xưởng tiêu chuẩn cho thuê Hải Thành, p. Hải Thành Lô đất Lô IN2-1A, IN2-1B1Khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ VSIP Hải Phòng, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng Lô D1, khu công nghiệp Phúc Điền, xã Cẩm Phúc và Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương Lô đất số IN1-6*B và IN1-5*D, Khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ VSIP Hải Phòng, thuộc Khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, Việt Nam.

188 2013 38.000.000

189 2012 BROTHER INDUSTRIES, LTD Công ty cổ phần IHI;ICS CORPORATION 8.000.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

31.700.000

190 191 2012 2011 CTy TNHH Idemitsu Kosam Công ty TNHH Chiaki Iwasa Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế KCN Tân Trường, Hải Dương KCN Tân Trường, Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Lô đất số CN5.2E, KCN Đình Vũ, thuộc KKT Đình Vũ - Cát Hải, Hải Phòng, Việt Nam CN02 cụm CN Tân Liên, Vĩnh Bảo, Hải

190

1.400.000 tạo Phòng

192 2011 Paloma Co.,Ltd 201.000 Cụm CN Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng

193 2010 Công ty AJINOMOTO Việt Nam 5.887.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

194 2010 Công ty TNHH Kokuyo Việ Nam 2.000.000 Bán buôn và bán lẻ

195 1996 62.900.000 KCN Tân Trường, Hải Dương Khu Văn phòng Cty TNHH Kokuyo Việt Nam, Lô B2-B7- KCN Nomura- HaiPhong, An Dương, Hải Phòng Phường Phúc Thắng, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc

196 2004 Công ty Honda Việt Nam Công ty TNHH Sumidenso Việt Nam 5.000.000

197 2018 Nhà máy Daikin Hưng Yên 9.000.000

198 1995 89.600.000

199 2019 Công ty Ô tô Toyota Việt Nam Công ty TNHH Process lab. Micron Việt Nam 280.000 Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

200 Công ty TNHH Yamashina 310.000 Xây dựng KCN Đại An, Hải Dương Khu công nghiệp Thăng Long II, Hưng Yến Phường Phúc Thắng, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc Lô đất số H1, Khu công nghiệp Th, Xã Dị Sử, Huyện Mỹ Hào, Hưng Yên Số 9, Ngõ 64 Đường Thạch Bàn, Phường Thạch Bàn, Quận Long Biên, Hà Nội, Việt Nam

2018

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư, 2020

191

Phụ lục 04: Kết quả khảo sát theo địa phương

Địa phương

TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Hà Nội Hải Dương Hưng Yên Bắc Ninh Hải Phòng Thanh Hóa Nghệ An Quảng Nam Quảng Ngãi Bình Dương Thành phố Hồ Chí Minh Số DN khảo sát 60 10 16 19 18 7 5 11 4 8 35 Ghi chú

(Nguồn: Khảo sát của tác giả)

Phụ lục 05: Kết quả khảo sát theo lĩnh vực hoạt động

Lĩnh vực hoạt động Số DN khảo sát Tỷ lệ (%)

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe

máy 22 11.40

Cấp nước và xử lý chất thải 2 1.04

Công nghiệp chế biến, chế tạo 101 52.33

Dịch vụ lưu trú và ăn uống 2 1.04

Giáo dục và đào tạo 1 0.52

Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 15 7.77

Hoạt động dịch vụ khác 2 1.04

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 3 1.55

Hoạt động kinh doanh bất động sản 7 3.63

Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 3 1.55

Nông nghiêp, lâm nghiệp và thủy sản 1 0.52

Sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa 3 1.55

Thông tin và truyền thông 11 5.70

Vận tải kho bãi 13 6.74

Xây dựng 7 3.63

Tổng số 193 100

(Nguồn: Khảo sát của tác giả)

192

Phụ lục 06: Đánh giá của DN Nhật Bản về thể chế, chính sách quản lý Nhà

nước về thu hút FDI của Việt Nam

Thấp Cao Tổng số Yếu tố

Số lượng DN Rất thấp 0 0 Bình thường 87 106 Rất cao 0 193

0 Tỷ lệ 0 45,08 54,92 100 0

Số lượng DN 15 81 85 12 193 0

Tỷ lệ 7,77 41,97 44,04 6,22 100 0

Số lượng DN 8 23 128 34 193 0

Tỷ lệ 4,15 11,92 66,32 17,62 100 0

Số lượng DN 19 14 85 48 193 7

Tỷ lệ 9,84 7,25 44,04 24,87 3,63 100

Số lượng DN 17 68 108 0 193 0

Tỷ lệ 8,81 35,23 55,96 0 100 0 Sự ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội Tính chặt chẽ và minh bạch của HTPL Tuân thủ, đồng bộ của HTPL từ TW đến địa phương Sự phù hợp với thông lệ quốc tế của HTPL Tính thực thi của hệ thống pháp luật

0 28 74 68 23 193 Số lượng DN

0 100 Tỷ lệ 11,92 35,23 38,34 14,51

0 0 74 96 23 Số lượng DN 193

0 Tỷ lệ 11,92 49,74 38,34 100 0

Số lượng DN 193 85 89 19 0 0

44,04 46,11 Tỷ lệ 9,84 100 0 0

Số lượng DN 193 89 88 16 0 0

46,11 45,60 Tỷ lệ 8,29 100 0 0

Thủ tục hành chính phức tạp Hệ thống thuế và thủ tục thuế phức tạp Mức độ hấp dẫn của các chính sách ưu đãi đầu tư Hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư Nguồn: Tác giả xử lý từ dữ liệu khảo sát

193

Phụ lục 07: Đánh giá của DN Nhật Bản

về nhân tố thị trường tại Việt Nam

Yếu tố Thấp Cao Tổng số

Số lượng DN Rất thấp 0 8 Bình thường 121 64 Rất cao 0 193

Tỷ lệ 4,15 62,69 33,16 0 100 0

Số lượng DN 13 94 86 0 193 0

Tỷ lệ 6,74 48,70 44,56 0 100 0 Quy mô và tính tăng trưởng của thị trường Tình hình áp dụng EPA/FTA của Việt Nam

Nguồn: Tác giả xử lý từ dữ liệu khảo sát

Phụ lục 08: Đánh giá của DN Nhật Bản về cơ sở hạ tầng tại Việt Nam

Yếu tố Thấp Cao

Số lượng DN Rất thấp 0 78 Bình thường 115 Rất cao 0 Tổng số 193 0

0 Tỷ lệ 40,41 59,59 0 0 100

0 Số lượng DN 36 119 38 0 193

0 Tỷ lệ 18,65 61,66 19,69 0 100

0 Số lượng DN 17 135 41 0 193

0 Tỷ lệ 8,81 69,95 21,24 0 100

0 Số lượng DN 9 132 52 0 193

0 Tỷ lệ 4,66 68,39 26,94 0 100 Độ thuận tiện, chất lượng của hệ thống hạ tầng giao thông Chất lượng hệ thống công nghệ thông tin, viễn thông, năng lượng Mức độ hiện đại, đồng bộ của hạ tầng khu kinh tế, KCN Mức độ phát triển của hệ thống dịch vụ logistic

0 Số lượng DN 113 80 0 0 193

Mức độ phát triển CN hỗ trợ 0 Tỷ lệ 58,55 41,45 0 0 100

Nguồn: Tác giả xử lý từ dữ liệu khảo sát

194

Phụ lục 09: Đánh giá của DN Nhật Bản về nguồn lực tại Việt Nam

Rất Bình Rất Tổng Thấp Cao Yếu tố thấp thường cao số

Mức độ dồi dào Số lượng DN 34 156 3 0 0 193

của nguồn nhân Tỷ lệ 17,62 80,83 1,55 100 0 0 lực Việt Nam

Sự sẵn có nguồn Số lượng DN 67 81 42 3 193 0

NL có chất lượng Tỷ lệ 1,55 34,72 41,97 21,76 100 0 và tay nghề

Số lượng DN 34 87 72 0 193 0 Ngôn ngữ và tác

phong làm việc Tỷ lệ 17,62 45,08 37,31 0 100 0

Mức độ gắn bó Số lượng DN 54 116 23 0 193 0

của người lao Tỷ lệ 27,98 60,10 11,92 0 100 0 động với DN

Số lượng DN 0 76 117 0 193 0 Mức độ thuận lợi

về vị trí địa lý Tỷ lệ 0 39,38 60,62 0 100 0

Mức độ phong Số lượng DN 69 109 15 193 0

phú tài nguyên Tỷ lệ 35,75 56,48 7,77 0 100 0 thiên nhiên

Nguồn: Tác giả xử lý từ dữ liệu khảo sát

Phụ lục 10: Quyết định đầu tư của DN Nhật Bản tại Việt Nam

Rất Bình Rất Tổng Thấp Cao Yếu tố thấp thường cao số

Có kế hoạch mở Số lượng DN 3 22 81 87 193 0

rộng quy mô tại thị Tỷ lệ 1,55 11,40 41,97 45,08 100 0 trường Việt Nam

Gắn bó lâu dài tại Số lượng DN 4 34 87 68 193 0

thị trường Việt Tỷ lệ 2,07 17,62 45,08 35,23 100 0 Nam

Nguồn: Tác giả xử lý từ dữ liệu khảo sát

195

Phụ lục 11: Danh sách các lãnh đạo của DN FDI Nhật Bản được phỏng vấn về

vấn đề chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.

STT Họ và tên Công ty Chức vụ Địa chỉ

1 Ông Keisuke Công ty Honda Tổng giám đốc Phường Phúc

Tsuruzono Việt Nam Thắng, thành

phố Phúc

Yên, tỉnh

Vĩnh Phúc

2 Ông Hiroyuki Ueda Công ty ô tô Tổng giám đốc Phường Phúc

Toyota Việt Nam Thắng, thành

phố Phúc

Yên, tỉnh

Vĩnh Phúc

3 Ông Katsuyoshi Công ty TNHH Tổng giám đốc Lô 1, Khu

Soma Canon Việt Nam công nghiệp

Thăng Long,

Đông Anh,

Hà Nội

4 Ông Takahashi Công ty Cổ phần Giám đốc sản Lô Q1, khu

Mitsuo xuất CN Thăng Daikin Air

Long II, Hưng Conditioning

Yên (Vietnam) - Chi

nhánh Hưng Yên

196

Phụ lục 12: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam theo ngành

(Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến hết 31/12/2020)

Tổng vốn Số dự STT Ngành đầu tư (triệu án USD)

1 Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 22 46,49

2 Xây dựng 174 1.392,52

3 Vận tải kho bãi 120 556,91

4 Thông tin và truyền thông 641 515,47

5 Sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa 19 7.403,05

6 Nông nghiêp, lâm nghiệp và thủy sản 44 240,71

7 Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 23 55,60

8 Khai khoáng 9 1.398,51

9 Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 13 117,30

Hoạt đông làm thuê các công việc trong các hộ

10 gia đình 1 3,00

11 Hoạt động kinh doanh bất động sản 98 7.025,16

12 Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 72 84,17

13 Hoạt động dịch vụ khác 20 37,54

14 Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 697 738,04

15 Giáo dục và đào tạo 88 78,58

16 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 98 416,58

17 Công nghiệp chế biến, chế tạo 1.830 40.621,38

19 268,37 18 Cấp nước và xử lý chất thải

692 1.906,78 19 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy

20 Tổng 4.680 62.906,16

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư, 2020

197

Phụ lục 13: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản

Tại Việt Nam theo địa phương (Lũy kế đến hết 31/12/ 2020)

STT Địa Phương Số dự án Tổng vốn đầu tư (triệu USD)

1 Yên Bái 2 79,90

2 Vĩnh Phúc 56 977,79

3 Vĩnh Long 8 101,57

4 Trà Vinh 1 48,64

5 TP. Hồ Chí Minh 1.448 5.126,56

6 Tiền Giang 5 56,00

7 Thừa Thiên Huế 15 48,58

8 Thanh Hóa 16 12.527,80

9 Thái Nguyên 6 135,77

10 Thái Bình 5 70,54

11 Tây Ninh 8 56,83

12 Sơn La 3 5,85

13 Quảng Trị 1 88,26

14 Quảng Ninh 9 441,67

15 Quảng Ngãi 8 198,88

16 Quảng Nam 21 146,62

17 Phú Yên 8 38,98

18 Phú Thọ 9 46,91

19 Ninh Thuận 3 0,40

20 Ninh Bình 3 73,20

21 Nghệ An 13 1.131,78

22 Nam Định 5 27,32

23 Long An 142 849,90

24 Lào Cai 1 2,26

25 Lạng Sơn 1 0,02

26 Lâm Đồng 12 40.43

27 Kiên Giang 6 1.288,80

28 Khánh Hòa 8 2.646,28

198

29 Hưng Yên 164 2.953,09

30 Hòa Bình 13 351,88

31 Hậu Giang 3 3,98

32 Hải Phòng 152 3.629,92

33 Hải Dương 60 1.189,30

34 Hà Tĩnh 2 5,30

35 Hà Nội 1.340 10.545,65

36 Hà Nam 90 997,41

37 Hà Giang 1 0,82

38 Đồng Tháp 1 0,00

39 Đồng Nai 267 4.063,38

40 Dầu khí 4 95,48

41 Đăk Nông 1 48,75

42 Đăk Lăk 2 6,00

43 Đà Nẵng 211 793,41

44 Cao Bằng 1 0,50

45 Cần Thơ 7 1.345,44

46 Cà Mau 1 0,79

47 Bình Thuận 10 40,03

48 Bình Phước 10 236,86

49 Bình Dương 324 5.767,13

50 Bình Định 20 163,44

51 Bến Tre 5 107,77

52 Bắc Ninh 97 1.501,49

53 Bạc Liêu 2 121,96

54 Bắc Kạn 1 0,22

55 Bắc Giang 25 286,48

38 2.372,03 56 Bà Rịa - Vũng Tàu

5 20,13 57 An Giang

4.680 62.906,16 58 Tổng

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư, 2020

199

Phụ lục 14: Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam

giai đoạn 1997 - 2020

Đơn vị: Triệu USD

Giai đoạn trước khủng hoảng 1997-2008 Giai đoạn sau khủng hoảng 2009 - 2020

Số dự án Tổng số vốn Năm Số dự án Tổng số vốn Năm

65 657,3 110 532 2009 1997

12 108,0 167 3.234 2010 1998

14 62,1 269 2.331 2011 1999

26 80,6 333 4.379 2012 2000

40 163,5 379 5.277 2013 2001

48 102,0 373 2.330 2014 2002

53 100,4 346 1.943 2015 2003

110 810,0 362 2.420 2016 2004

131 1.064,3 383 8.720 2017 2005

154 1.490,0 444 8.348 2018 2006

154 965,5 457 2.934 2019 2007

212 9.154 279 2.368 2020 2008

1.110 18.715,8 3.895 44.816 1997 – 2008 2009 - 2020

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch đầu tư, 2020)

200