intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dạy học theo nhóm nhỏ: Lí luận và thực tiễn - TS. Nguyễn Thị Kim Dung

Chia sẻ: Trần Dự Trữ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:43

371
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo nhóm, khái niệm dạy học theo nhóm, vài nét về thực trạng dạy học theo nhóm là những nội dung chính trong bài viết "Dạy học theo nhóm nhỏ: Lí luận và thực tiễn". Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dạy học theo nhóm nhỏ: Lí luận và thực tiễn - TS. Nguyễn Thị Kim Dung

DẠY HỌC THEO NHÓM NHỎ­ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN <br /> TS Nguyễn Thị Kim Dung<br /> <br /> <br /> Trung tâm Giáo dục học ­ Viện NCSP<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> <br /> Tồn tại hai cách tiếp cận cơ bản trong giảng dạy: tiếp cận lấy giáo viên (GV) làm trung tâm và tiếp cận <br /> lấy hoc sinh (HS) làm trung tâm. Đối với việc giảng dạy lấy GV làm trung tâm hay còn gọi là giảng dạy <br /> trực tiếp, giảng dạy mang tính suy diễn thì GV có nhiều thời gian để kiểm soát HS sẽ học cái gì và chúng <br /> ta sẽ truyền đạt kiến thức như thế nào cho các em.  Tiếp cận lấy người học làm trung tâm nhấn mạnh <br /> đến người học.<br /> <br /> Chúng thường được gọi là học tập khám phá, học tập quy nạp hay học tập mang tính điều tra. Hai cách <br /> tiếp cận khác nhau cơ bản ở việc GV làm cái gì, việc giảng dạy được tiến hành như thế nào, HS được <br /> thu hút tích cực đến đâu vào quá trình học tập và học sinh có trách nhiệm bao nhiêu về việc học của chính <br /> mình.<br /> <br /> Cái lợi lớn nhất của phương pháp tiếp cận lấy người học làm trung tâm là việc thu hút chúng tham gia <br /> tích cực vào quá trình học. Có rất nhiều phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm như: thảo <br /> luận, làm việc nhóm và học tập hợp tác, dạy học giải quyết vấn đề, các hoạt động thể hiện như trò chơi <br /> đóng vai, kịch câm, hề, múa rối, kịch ngắn vui, trò chơi kích thích, thảo luận nhóm và tranh luận.... Mỗi <br /> phương pháp có thể sử dụng độc lập, nhưng cũng có thể sử dụng phối kết hợp ... Trong bài viết này <br /> chúng tôi chỉ đi sâu vào phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ ­ một trong những phương pháp dạy học <br /> tích cực được dùng khá phổ biến trong giảng dạy ở nước ta hiện nay. <br /> <br /> 1.Những ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo nhóm:<br /> <br /> <br /> 1.1 Những ưu điểm<br /> <br /> <br /> Kết quả nghiên cứu cho thấy bên cạnh việc giải quyết tốt nhiệm vụ nhận thức, học theo nhóm nhỏ giúp <br /> HS hình thành các phẩm chất nhân cách và các kỹ năng xã hội tốt hơn [2,3,4,5,7].  Cụ thể là:<br /> <br /> ­ Học theo nhóm phát huy cao độ vai trò chủ thể, tích cực của mỗi cá nhân trong việc thực hiện tốt hơn <br /> nhiệm vụ được giao: các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi học theo nhóm, vai trò chủ thể, tính tự giác, tích <br /> cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của HS thường được phát huy hơn, cơ hội cho HS tự thể <br /> hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn.<br /> Đặc biệt, khi HS học theo nhóm thì kết quả học tập thường cao hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn, khả <br /> năng ghi nhớ lâu hơn, động cơ bên trong, thời gian dành cho việc học, trình độ lập luận cao và tư duy phê <br /> phán. Nhóm làm việc còn cho phép các em thể hiện vai trò tích cực đối với việc học của mình ­ hỏi, biểu <br /> đạt, đánh giá công việc của bạn, thể hiện sự khuyến khích và giúp đỡ, tranh luận và giải thích... rất nhiều <br /> những kĩ năng nhận thức được hình thành, như: biết đưa ra ý tưởng của mình trong môi trường cùng phối <br /> hợp, giải thích, học hỏi lẫn nhau bằng ngôn ngữ và phương thức tác động qua lại,  phát triển sự tự tin vào <br /> bản thân như là người học và trong việc chia sẻ ý tưởng với sự tiếp thu có phê phán (của nhiều người <br /> cùng nghe về một vấn đề). Hay nói cách khác, HS trở thành chủ thể đích thực của họat động học tập của <br /> cá nhân mình.<br /> <br /> ­ Giúp hình thành các kĩ năng xã hội và các phẩm chất nhân cách cần thiết như: kĩ năng tổ chức, quản lí, <br /> kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng hợp tác, có trách nhiệm cao, tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối <br /> quan hệ khăng khít, sự ủng hộ cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị của sự <br /> đa dạng và tính gắn kết. Có những cảm xúc về trách nhiệm với nhóm và khuyến khích ý thức tự giác, tự <br /> kỉ luật; phương tiện rèn luyện và duy trì các mối quan hệ liên nhân cách.<br /> <br /> ­ Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: dạy học theo nhóm sẽ tạo cơ hội bình đẳng cho <br /> mỗi cá nhân người học được khẳng định mình và được phát triển. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS <br /> giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những trẻ em nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội <br /> hòa nhập với lớp học. Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt động mang bâù không khí <br /> thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá <br /> nhân. HS có cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều được tôn <br /> trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó sẽ khắc phục tình trạng áp đặt, uy <br /> quyền, làm thay, thiếu tôn trọng...giữa những người tham gia hoạt động, đặc biệt giữa GV và HS.<br /> <br /> <br /> 1.2 Nhược điểm của dạy học theo nhóm<br /> <br /> <br /> ­ Đòi hỏi nhiều thời gian: Một lớp học đông với thời gian giảng dạy là 45 phút học một tiết là một trở <br /> ngại rất lớn cho dạy học nhóm thành công.<br /> <br /> ­ Nếu như GV không kiểm soát cẩn thận tương tác giữa HS trong nhóm, thì một vài HS có thể lãng phí <br /> thời gian vào việc thảo luận những vấn đề không có liên quan hoặc có thể xảy ra trường học là một HS <br /> phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, đa số các thành viên trong nhóm không tham gia thảo luận mà lại <br /> quan tâm đến vấn đề khác…trong nhóm và giữa các nhóm có thể phát sinh tình trạng đối địch, ganh đua <br /> qua mức.<br /> ­ Thường khó để đánh giá từng HS một cách công bằng và một vài em có thể cảm thấy không thỏai mái <br /> với việc đánh giá dựa trên sự nỗ lực của nhóm;<br /> <br /> ­ HS phải học cách học trong môi trường nhóm, nhưng đôi khi không dễ cho các em khi mà chúng đã quen <br /> với các phương pháp giảng dạy lấy GV làm trung tâm.<br /> <br /> <br /> 2.  Khái niệm dạy học theo nhóm<br /> <br /> <br /> Về mặt thuật ngữ, dạy học theo nhóm được các tác giả nêu ra dưới những cách gọi khác nhau: là phương <br /> pháp dạy học; là hình thức tổ chức dạy học hoặc là phương tiện theo nghĩa rộng (Trần Thu Mai, Ngô Thu <br /> Dung, Trần Duy Hưng, Vũ Sơn, Nguyễn Thị Hồng Nam...)<br /> <br /> Tuy có những quan niệm rộng, hẹp khác nhau nhưng các tác giả đều đưa ra những dấu hiện chung của <br /> dạy học theo nhóm là mối quan hệ giúp đỡ, gắn kết và hợp tác giữa các thành viên trong nhóm với nhau <br /> nhằm giải quyết nhiệm vụ học tập chung của nhóm.<br /> <br /> Trên cơ sở những quan niệm khác nhau, chúng tôi đưa ra định nghĩa sau: ''Dạy học theo nhóm nhỏ là <br /> phương pháp dạy học trong đó GV sắp xếp HS thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác <br /> trực tiếp giữa các thành viên, mà theo đó HS trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và cùng nhau phối hợp làm <br /> việc để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm''.<br /> <br /> Định nghĩa này nhấn mạnh một số điểm sau:<br /> <br /> ­ Dạy học theo nhóm ở đây được coi là một phương pháp dạy học.<br /> <br /> ­ Những người tham gia trong nhóm phải có mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ và phối hợp lẫn nhau. Nói <br /> cách khác là tồn tại tương tác "mặt đối mặt" trong nhóm HS.<br /> <br /> ­ HS trong nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên là phải có sự phụ thuộc tích <br /> cực giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm cần hiểu rằng họ không thể trốn tránh <br /> trách nhiệm, hay dựa vào công việc của những người khác. Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo <br /> cho tất cả các thành viên trong nhóm thực sự mạnh lên trong học tập theo nhóm.<br /> <br /> <br /> 3. Vài nét về thực trạng dạy học theo nhóm:<br /> <br /> <br /> Qua một số công trình nghiên cứu trong nước những năm gần đây về dạy học theo nhóm [3,4,7,8,9], <br /> chúng tôi có một số nhận định sau:<br /> 3.1 Ưu điểm:<br /> <br /> <br /> ­ Dạy học theo nhóm đã được GV sử dụng khá phổ biến và thường xuyên: Từ khi có chủ trương đổi mới <br /> phương pháp dạy học theo hướng tăng cường sự tham gia của HS, phát huy tối đa vai trò chủ động, tích <br /> cực của các em thì dạy học theo nhóm đã được coi là phương pháp dạy học hữu hiệu và bước đầu đã làm <br /> thay đổi bộ mặt phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông. GV đã có ý thức trong việc sử dụng <br /> dạy học nhóm trên giờ học. Theo như điều tra của TS Ngô Thu Dung với 216 GV thuộc một số trường <br /> Tiểu học Hà Nội và Bắc Giang thì có tới 96% nói là có sử dụng phương pháp dạy học nhóm và 68% nói <br /> là thường xuyên sử dụng.<br /> <br /> ­ GV đã nhận thức được những ích lợi của dạy học nhóm: GV đã thấy rõ tác dụng của dạy học theo <br /> nhóm trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, tăng cường sự tham gia của HS, như: mọi HS đều được <br /> trình bày ý kiến, HS tự tìm ra tri thức, nắm bài chắc hơn, hứng thú với học tập hơn.v.v... và phát triển <br /> những kĩ năng XH cho HS, như biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của bạn, biết trình bày ý kiến của mình <br /> cho các bạn nghe và hiểu, biết thống nhất ý kiến,v.v...; Còn đối với GV thì dạy học nhóm giúp họ không <br /> phải nói nhiều trên lớp, nhưng chuẩn bị bài cần kỹ lưỡng hơn; hiểu khả năng của HS hơn.v.v....<br /> <br /> ­ GV đã có kiến thức và một số kỹ năng để tiến hành dạy học theo nhóm: Qua dự giờ và qua một số công <br /> trình nghiên cứu đều cho thấy về cơ bản GV biết sử dụng phương pháp dạy học nhóm phù hợp với yêu <br /> cầu, nhiệm vụ và nội dung bài học. GV bước đầu đã biết lựa chọn hình thức và cơ cấu nhóm tương đối <br /> phù hợp; đã nêu được các bước dạy học theo nhóm. Khâu chuẩn bị của GV cho HS làm việc theo nhóm <br /> cũng tương đối tốt<br /> <br /> ­ HS bước đầu đã có những kĩ năng làm việc theo nhóm:  Các em đã biết nhanh chóng gia nhập vào nhóm, <br /> bầu nhóm trưởng, thư kí; bước đầu biết bày tỏ quan điểm/ý kiến và trình bày mạch lạc kết quả làm việc <br /> chung của cả nhóm.<br /> <br /> <br /> 3.2 Một số tồn tại:<br /> <br /> <br /> Bên cạnh những kết quả tích cực như trên, vẫn còn những tồn tại nhất định, cụ thể là:<br /> <br /> ­ Quy trình tổ chức dạy học theo nhóm chưa được GV thực hiện đầy đủ: Sự không đầy đủ được thể hiện <br /> ngay từ khâu thiết kế họat động nhóm khi soạn giáo án. GV chủ yếu chỉ chú ý đến việc chuẩn bị phiếu <br /> học tập cho nhóm, chú ý đến kích cỡ nhóm làm việc là bao nhiêu. Khi tổ chức triển khai thực hiện nhiệm <br /> vụ nhóm trên lớp, GV cũng chủ yếu chú trọng đến việc giao nhiệm vụ học tập cho nhóm, sau đó theo dõi, <br /> giám sát và đánh giá kết quả làm việc của nhóm.<br /> ­ GV chưa hiểu đúng bản chất, tính đa mục đích của dạy học theo nhóm nhỏ: Khi tiến hành tổ chức dạy <br /> học theo nhóm nhỏ, GV chủ yếu hướng HS nhằm vào mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ học tập cụ thể mà <br /> nhóm HS cùng nhau thực hiện chứ chưa chú trọng GD cho HS những kĩ năng xã hội quan trọng mà làm <br /> việc nhóm có ưu thế.<br /> <br /> Ngoài ra, cũng do không hiểu hết những ích lợi XH mà dạy học nhóm mang lại, nên trong thực tiễn triển <br /> khai vô hình chung GV đã "hành chính hóa" nhóm trưởng và thư kí và thường là những em học khá, nhanh <br /> nhẹn hơn và như vậy cơ hội cho những em khác được hưởng những lợi thế của làm việc nhóm sẽ không <br /> có.<br /> <br /> Sau khi các nhóm thảo luận GV ít quan tâm chốt lại những kiến thức, kết luận chung làm cho HS không <br /> biết ý kiến nào là phù hợp.<br /> <br /> ­ Dạy học nhóm chưa được sử dụng đồng đều ở tất cả các môn học<br /> <br /> ­ Còn đơn điệu trong việc sử dụng các hình thức tiến hành và nhiệm vụ giao cho nhóm<br /> <br /> Nhiệm vụ giao cho nhóm còn đơn giản, ít phương án trả lời, không cần huy động nhiều kinh nghiệm của <br /> từng cá nhân và thiếu định hướng để HS buộc phải phân chia công việc hay phải trưng cầu ý kiến riêng <br /> của từng người trong nhóm.<br /> <br /> <br /> 4. Tiến trình dạy học theo nhóm: <br /> <br /> Trên cơ sở phân tích khái niệm và những đặc trưng của việc tổ chức dạy học theo nhóm trong giờ học và <br /> dựa vào lý thuyết về tổ chức, chúng tôi cho rằng quy trình tổ chức day học theo nhóm trong giờ học phải <br /> bao gồm ba khâu cơ bản  với 11 bước cụ thể mà GV cần tiến hành như sau [4]:<br /> <br /> Bảng: Tiến trình dạy học theo nhóm<br /> <br /> <br /> TT Các khâu Các bước cụ thể<br />     1.Xác định mục tiêu, nội dung bài học<br /> 2.Xác định mục tiêu của họat động nhóm<br /> 1 Thiết kế 3. Thiết kế nhiệm vụ của họat động nhóm<br /> 4. Dự kiến cách thức kiểm tra, đánh giá<br /> họat động nhóm<br /> 2 Tổ chức thực hiện  5. Tổ chức sắp xếp nhóm làm việc<br /> trên giờ học 6. Giao nhiệm vụ cho nhóm làm việc<br /> 7. Hướng dẫn HS phương pháp, kĩ năng làm việc <br /> nhóm<br /> 8. Quan sát, kiểm soát họat động nhóm<br /> 3 Kiểm tra, đánh giá  9. HS tự đánh giá kết quả làm việc nhóm<br /> kết quả làm việc  10. Các nhóm đánh giá kết quả làm việc của nhau<br /> 11. GV đánh giá, cho điểm kết quả làm việc nhóm<br /> của nhóm<br /> <br />  <br /> <br /> <br /> 4.1 Lập kế hoạch cho họat động nhóm khi soạn giáo án.<br /> <br /> <br /> Đây là khâu đầu tiên, quan trọng GV cần chuẩn bị kỹ trước khi tiến hành dạy học theo nhóm. Ngay khi <br /> soạn giáo án chuẩn bị cho giờ học, GV đã cần thiết kế đầy đủ các bước của hoạt động nhóm từ khâu xác <br /> định thời điểm tiến hành dạy học nhóm trong tiết học, xác định nhiệm vụ, hình thức làm việc nhóm, phân <br /> công vai trò, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá.<br /> <br /> ­ Xác định mục tiêu, nội dung bài dạy: Việc xác định tường minh những mục tiêu mà HS cần đạt được, <br /> xác định rõ những nội dung chính của bài và hình thành những câu hỏi cần trả lời là rất quan trọng cho <br /> việc lựa chọn mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ và thời điểm sử dụng dạy học nhóm trong giờ học.<br /> <br /> Việc lựa chọn hình thức dạy học nhóm phải được ưu tiên khi mục tiêu dạy học là hình thành kỹ năng <br /> giao tiếp và làm việc tập thể, hình thành phương pháp tổ chức hoạt động trong một nhóm. Hoặc những <br /> nhiệm vụ học tập hay những câu hỏi không có câu trả lời trực tiếp hay tương đối phức tạp đối với đa số <br /> HS trong lớp, những nhiệm vụ đòi hỏi sự huy động vốn kinh nghiệm, hiểu biết của nhiều người, hoặc <br /> cần tổ chức cho HS tranh luận, thảo luận về một vấn đề mà HS còn có nhiều cách hiểu khác nhau, đa <br /> dạng các ý kiến, v..v...<br /> <br /> ­ Xác định mục tiêu của họat động nhóm: Mục tiêu của họat động nhóm phải bao gồm hai mục tiêu cơ <br /> bản: mục tiêu của bài học; mục tiêu cụ thể cho sự phát triển kĩ năng XH trong hoạt động nhóm. Tuy <br /> nhiên, không thể một lúc và đồng thời có thể giáo dục ở các em tất cả các kĩ năng mà nên lựa chọn một <br /> vài kĩ năng cần thiết, phù hợp với nhiệm vụ/nội dung bài học, với trình độ thực tế của HS.<br /> <br /> Trên cơ sở những kĩ năng XH cơ bản cần cho HS khi làm việc nhóm, GV cần có kế hoạch cho toàn bộ <br /> quá trình hình thành kĩ năng làm việc nhóm ở HS; cần có sự ưu tiên những kĩ năng nào hình thành ở HS <br /> trước, kĩ năng nào sau và có sự theo dõi tiến bộ của từng HS để có sự điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Trên <br /> cơ sở kế hoạch tổng thể đó, GV lựa chọn một hay hai kĩ năng cho một bài học khi chuẩn bị cho dạy học <br /> theo nhóm.<br /> <br /> ­ Thiết kế các nhiệm vụ cho họat động nhóm:<br /> + Thiết kế các nhiệm vụ đòi hỏi sự phụ thuộc lẫn nhau.<br /> <br /> + Tạo ra những nhiệm vụ phù hợp với kĩ năng và khả năng của HS.<br /> <br /> + Phân công nhiệm vụ cho công bằng giữa các nhóm và các thành viên.<br /> <br /> + Đảm bảo trách nhiệm của cá nhân.<br /> <br /> ­ Dự kiến cách thức đánh giá/cho điểm nhóm: Vấn đề này GV cũng cần phải nghĩ đến ngay từ khâu <br /> chuẩn bị, thiết kế nhóm làm việc. Vì cách thức đánh giá như thế nào cũng có ảnh hưởng rất lớn đến trách <br /> nhiệm cá nhân, đến sự tham gia tích cực của mọi thành viên trong nhóm. Vì thế cần xây dựng phương án <br /> đánh giá cụ thể để sự cố gắng của mỗi cá nhân trong nhóm đều có ý nghĩa trong thành tích của nhóm và <br /> thành tích của các thành viên trong nhóm có ảnh hưởng lẫn nhau [5].<br /> <br /> <br /> 4.2.  Tổ chức, thực hiện nhiệm vụ học tập theo nhóm trong giờ học:<br /> <br /> <br /> ­ Tổ chức, sắp xếp nhóm làm việc:<br /> <br /> a. Sắp xếp nhóm làm việc: Việc phân chia nhóm học tập phụ thuộc vào một số yếu tố như: mục tiêu, <br /> nhiệm vụ dạy học cụ thể của giờ học; điều kiện tiến hành giờ học; phụ thuộc các kĩ năng làm việc <br /> nhóm của HS; phụ thuộc vào mức độ quen biết giữa các HS trong lớp về phân chia nhóm.<br /> <br /> Có một số cách hình thành nhóm học tập như sau:<br /> <br /> ­ Hình thành nhóm theo nhiệm vụ học tập.<br /> <br /> ­ Hình thành nhóm học tập theo quy tắc ngẫu nhiên.<br /> <br /> ­ Phân chia nhóm theo bàn hoặc một số bàn học gần nhau, hoặc dùng đơn vị tổ của HS để làm một <br /> hay một số nhóm.<br /> <br /> ­ Một vài người lại thích để HS tự chọn tuy nhiên điều này thích hợp nhất đối với những lớp ít HS, <br /> những lớp mà các em đã biết rõ về nhau.<br /> <br /> ­ Có một số cách hình thành nhóm khác là xếp HS theo giới, theo mức độ, thói quen làm việc, theo <br /> khả năng của HS ở những môn cốt lõi, môn khoa học tự nhiên như Toán chẳng hạn. ...<br /> <br /> b. Kích cỡ nhóm: Kích cỡ nhóm phụ thuộc vào bài tập mà GV thiết kế. Nhóm đôi phù hợp khi mà HS xem <br /> lại cách đánh vần chữ cái trong môn tiếng Việt hay đánh dấu đúng sai trong môn Toán chẳng hạn. Làm <br /> việc theo cặp cũng dễ cho GV mới bắt đầu sử dụng hình thức dạy học nhóm để dễ điều khiển và với <br /> những HS nhỏ khi mà nhóm lớn đòi hỏi những kĩ năng xã hội phức tạp.<br /> <br /> Tuy nhiên một điều quan trọng cần lưu ý khi thiết kế quy mô nhóm là nhóm phải huy động được sự tham <br /> gia của mọi thành viên vào giải quyết nhiệm vụ nhóm và phải tạo ra những tương tác đa chiều giữa các <br /> thành viên trong nhóm.<br /> <br /> c. Bố trí chỗ ngồi cho HS làm việc nhóm: Bố trí chỗ ngồi cho HS phải phù hợp với họat động nhóm cũng <br /> như kích cỡ nhóm làm việc. Việc bố trí chỗ ngồi cho HS phải đảm bảo thuận lợi cho HS khi làm việc <br /> cũng như khi di chuyển, đồng thời đảm bảo sự tương tác giữa các HS trong nhóm cũng như giữa các <br /> nhóm được thuận lợi.<br /> <br /> ­ Giao nhiệm vụ và thời gian dành cho làm việc nhóm:  GV cần đưa ra những chỉ dẫn rất cụ thể, như:<br /> <br /> ­ Nêu nhiệm vụ cho từng nhóm dưới dạng một câu hỏi hay một tình huống có vấn đề<br /> <br /> ­ Nêu những kĩ năng XH yêu cầu HS tuân thủ khi làm việc nhóm<br /> <br /> ­ Nêu thời gian dành cho thảo luận nhóm là bao lâu?<br /> <br /> ­ Yêu cầu các nhóm diễn giải lại nhiệm vụ của nhóm mình để đảm bảo chắc chắn là HS hiểu <br /> những gì GV yêu cầu<br /> <br /> ­ Trình bày cách thực hiện nhiệm vụ như thế nào là tốt nhất?<br /> <br /> GV có thể xây dựng một số dạng bài tập sau để giao cho các nhóm: So sánh; phân tích (phân tích một bức <br /> tranh, sự kiện...); Phân loại (phân chia các yếu tố theo từng loại; sắp xếp theo thứ tự (sắp xếp trình tự các <br /> sự kiện, biến cố trong một tác phẩm, sắp xếp theo trình tự các bước tiến hành một thí nghiệm,...); Nhớ <br /> lại (nhớ lại các khái niệm, định nghĩa, sự kiện... họat động này dùng trong ôn tập); Lựa chọn (các chi tiết, <br /> sự kiện về nhân vật A, B...); Ghép đôi (nối kết hai cột thông tin cho sẵn A và B); Mô phỏng (sau khi GV <br /> cho ví dụ, HS phải cho ví dụ khác tương tự); Chuẩn bị (cho HS chuẩn bị một số bài tập, thí nghiệm, các <br /> bước trình bày một vấn đề); Cải tiến (GV cho bài tập sai, hoặc thiếu dữ kiện, yêu cầu HS sửa lại) [9]<br /> <br /> ­ Hướng dẫn HS phương pháp, kĩ năng làm việc nhóm<br /> <br /> a. Giúp nhóm phân công vai trò và nhiệm vụ cho từng thành viên: Trước tiên các thành viên trong nhóm <br /> cần cùng nhau bầu nhóm trưởng, thư kí và các vai trò khác nếu cần thiết. GV cần theo dõi, giám sát để <br /> tránh việc một em nào đó luôn giữ vai trò nhóm trưởng, thư kí. Nên gợi ý để có sự luân phiên các vai trò <br /> trong nhóm với nhau để mỗi HS đều được trải nghiệm vị trí lãnh đạo nhóm.<br /> <br /> b. Theo dõi, hướng dẫn HS các kỹ năng làm việc nhóm thông qua các tương tác đa chiều, trực diện trong <br /> nhóm: Sự tương tác trực tiếp này thể hiện ở chỗ: Trong một nhóm, phải tạo ra các quan hệ giao tiếp, trao <br /> đổi hoặc tranh luận trực tiếp giữa các thành viên khi giải quyết một công việc, một nhiệm vụ học tập cụ <br /> thể của nhóm. Giữa các nhóm với nhau, sự tương tác trực tiếp cũng thể hiện ở chỗ phải tạo ra những <br /> cuộc trao đổi, tranh luận giữa những ý kiến của các nhóm. Sau khi các nhóm xem xét, cân nhắc, trao đổi, <br /> đánh giá và sau đó phải cùng thống nhất một kết luận chung, trong đó có xem xét, bảo lưu cả những ý <br /> kiến trái ngược hợp lý.<br /> <br /> Tương tác giữa GV và HS  chủ yếu được thực hiện thông qua nhóm, chỉ trong những trường hợp đặc biệt <br /> mới cần có tác động trực tiếp giữa GV với HS [2,4,9].<br /> <br /> ­ Quan sát, kiểm soát họat động nhóm, bao gồm :<br /> <br /> + Kiểm soát các nhóm và cá nhân đã nắm vững nhiệm vụ học tập hay chưa?<br /> <br /> + Kiểm soát quá trình làm việc hợp tác giữa các thành viên trong nhóm<br /> <br /> + Kiểm soát kết quả công việc của các nhóm<br /> <br /> Trong quá trình quan sát, kiểm soát họat động nhóm, nếu phát hiện thấy nhóm nào có những thành viên <br /> không chịu phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ, GV cũng không nên dừng nhóm lại ngay cả khi nhóm yêu <br /> cầu. Hãy để cho nhóm tự học cách giải quyết với những tương tác giữa các thành viên không hợp tác.<br /> <br /> <br /> 4.3 Đánh giá kết quả làm việc nhóm<br /> <br /> <br /> Đánh giá như thế nào để khuyến khích HS làm việc theo nhóm, đảm bảo sự công bằng và thực hiện được <br /> mục tiêu của làm việc nhóm là rất quan trọng.<br /> <br /> ­ HS tự đánh giá kết quả làm việc của nhóm: Cần tạo cơ hội để các thành viên trong mỗi nhóm tự đánh <br /> giá kết quả làm việc của nhóm mình. Điều trước tiên cần lưu ý khi để HS tự đánh giá là GV phải hướng <br /> các em vào việc đánh giá ở cả hai khía cạnh: nhận thức và cách thức mà nhóm làm việc (sự tham gia tích <br /> cực của các thành viên, sự hợp tác với nhau, lắng nghe ý kiến của nhau, giải quyết bất đồng, v.v...).<br /> <br /> ­ Các nhóm đánh giá kết quả làm việc của nhau: Sau khi có sự đánh giá, nhận xét nội bộ trong nhóm, GV <br /> yêu cầu từng nhóm cử đại diện nên trình bày kết quả làm việc của nhóm mình. Tiếp theo mỗi nhóm lại <br /> cử đại diện lên kiểm tra, nhận xét kết quả chéo nhau, ví dụ nhóm 1 có thể kiểm tra kết quả làm việc của <br /> nhóm 2, nhóm 2 kiểm tra kết quả làm việc của nhóm 3 và nhóm 3 kiểm tra kết quả làm việc của nhóm 4, <br /> nhóm 4 kiểm tra kết quả làm việc của nhóm1, v.v...<br /> <br /> ­ GV đánh giá, nhận xét kết quả làm việc của các nhóm: Công việc này có thể tiến hành song song hoặc <br /> sau khi đã có sự đánh giá giữa các nhóm với nhau. GV nên cùng HS kiểm tra lại kết quả đánh giá của các <br /> nhóm có đúng không? chỗ nào đánh giá chưa đúng thì cần chỉ ra cho toàn lớp biết sai ở đâu và vì sao sai.<br /> <br /> Kết quả làm việc của nhóm có thể được GV sử dụng để cho điểm các thành viên trong nhóm. Về cách <br /> thức cho điểm như thế nào đối với kết quả làm việc nhóm thì vẫn đang có những tranh luận khác nhau. <br /> Một vài người đã đánh giá cho cùng điểm số như nhau đối với mọi thành viên trong nhóm khi cùng thực <br /> hiện nhiệm vụ nhóm. Họ cho rằng nếu đánh giá từng HS thì vô tình chung sẽ dẫn đến sự ganh đua trong <br /> nhóm với nhau và như vậy phá hỏng những lợi ích của làm việc theo nhóm. Một số khác cho điểm theo <br /> sự đóng góp của mỗi em dựa trên các điểm số bài kiểm tra của mỗi em hoặc dựa trên sự đánh giá của <br /> nhóm về công việc của từng thành viên.<br /> <br /> Tuy nhiên, khi đánh giá cho điểm HS, GV cần tính đến tính đa mục đích cuả dạy học theo nhóm: thứ nhất <br /> là đánh giá kiến thức/hay nhiệm vụ đã hoàn thành mà HS thu được sau khi làm việc nhóm. Thứ hai là kĩ <br /> năng cần thiết để làm việc nhóm.<br /> <br /> Tóm lại, dạy học theo nhóm là một công việc phức tạp, đòi hỏi GV cũng như HS phải có sự chuẩn bị và <br /> có thời gian để làm quen dần dần. Tuy nhiên nếu đã quen với cách dạy theo nhóm thì sẽ tiết kiệm được <br /> thời gian và công sức của GV và HS học được một cách thức làm việc hữu ích cho sau này khi bước vào <br /> cuộc sống.<br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> <br />  <br /> <br /> 1.      Nguyễn Hữu Châu (chủ  biên), Phương pháp, phương tiện, kĩ thuật và hình thức tổ  chức dạy học  <br /> trong nhà trường, NXB ĐHSP, Hà Nội, 2005<br /> <br /> 2.       J,Dean, Improving children's learning. Effective teaching in the primary school, London Routledge, <br /> 2000<br /> <br /> 3.       Ngô Thu Dung, Mô hình tổ  chức học theo nhóm trong giờ  học trên lớp, Tạp chí Giáo dục số  3,  <br /> 5/2001.<br /> 4.      Nguyễn Thị  Kim Dung, "Những yêu cầu sư  phạm đối với việc nâng cao chất lượng tổ  chức dạy <br /> học theo nhóm trong giờ học ở tiểu học". Mã số:           SP ­ 04 ­ 123, 2004<br /> <br /> 5.      Good, T. L. & Brophy L. E . Looking in Classrooms. 6th  edition. New York: Harper Collins College <br /> Publishers, 1994.<br /> <br /> 6.      Johnson, D; Johnson, R & Holubec, E. Circles of Learning: co­operation in the clasroom. 3rd edition. <br /> Minnesota: Internation Book company, 1990.<br /> <br /> 7.      Trần Duy Hưng, Nhóm nhỏ và việc tổ chức dạy cho học sinh theo nhóm nhỏ, T/c NCGD số 7/1999.<br /> <br /> 8.      Trần Thị Thu Mai, Về phương pháp học tập nhóm, T/c NCGD số 12/2000<br /> <br /> 9.      Nguyễn Thị Hồng Nam, Tổ chức hoạt động hợp tác trong học tập theo hình thức thảo luận nhóm,  <br /> T/c Giáo dục số 26/2002.<br /> <br /> 10. Vũ Thị Sơn, Tương tác giữa học sinh trong dạy học theo nhóm, Tạp chí TT KHGD, số 114, 2005<br /> <br /> <br /> Đổi mới phương pháp dạy học môn Địa Lý ở Trường THPT theo<br /> phương pháp dạy học tích cực<br /> 1. Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học môn Địa lý ở Trường THPT.<br /> <br /> 1.1. Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế ­ xã hội đối với việc đào tạo nguồn nhân lực trong giai <br /> đoạn mới và xu hướng hội nhập quốc tế.<br /> <br /> 1.2. Thực trạng dạy học Địa lý ở Trường THPT.<br /> <br /> ­ Một số giáo viên Địa lý vẫn chưa thực sự thấm nhuần tích cấp thiết, tầm quan trọng, bản chất phương <br /> hướng và cách thức đổi mới phương pháp dạy học Địa lý, hiểu biết về cơ sở lý luận, thực tiễn của đổi <br /> mới phương pháp dạy học còn chưa sâu sắc.<br /> <br /> ­ Đa số giáo viên vẫn chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ với hỏi đáp, nặng về <br /> thông báo, giảng giải kiến thức, nhẹ về phát huy tính tích cực và phát triển tư duy học sinh, học sinh tiếp <br /> thu kiến thức một cách thụ động.<br /> <br /> ­ Hình thức tổ chức dạy học con đơn điệu, dạy theo lớp là chủ yếu. Các hình tức dạy học cá nhân, ngoài <br /> trời chưa được thực hiện, hoặc thực hiện chưa có hiệu quả.<br /> <br /> ­ Cơ sở vật chất phục vụ dạy học, các phương tiện dạy học còn thiếu và chưa đồng bộ.<br /> <br /> ­ Việc tạo động cơ học tập đúng đắn cho học sinh và các hình thức khen thưởng, động viên người học <br /> chưa được giáo viên quan tâm một cách thích đáng.<br /> ­ Nhìn chung giờ học Địa lý chưa mang lại nhiều hứng thú cho học sinh. Có thể nói cách dạy và học Địa <br /> lý như trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đối với chất lượng dạy học, đồng thời hạn chế việc phát triển <br /> trí tuệ của học sinh khi học môn Địa lý. Vì vậy tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ, có hiệu quả các <br /> phương pháp dạy học Địa lý là một trong những vấn đề quan trọng nhất cần phải được tiếp tục quan tâm <br /> và tìm cách giải quyết.<br /> <br /> 2. Những tiền đề cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học Địa lý ở trường THPT.<br /> <br /> 1.1. Cơ sở pháp lý của đổi mới phương pháp dạy học đã được khẳng định ở những văn bản của Đảng và <br /> nhà nước về chiến lược phát triển giáo dục 2001­2010 ghi rõ Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp <br /> giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi song hướng dẫn người <br /> học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học phương pháp tự học, tự <br /> thu nhập thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích tổng hợp, phát triển năng lực của <br /> mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học <br /> tập…<br /> <br /> 1.2. Chương trình và sách giáo khoa có sự đổi mới cơ bản.<br /> <br /> 1.3. Nhận thức của giáo viên đã có sự thay đổi. Hầu hết giáo viên Địa lý đều hiểu được cùng với đổi <br /> mới mục tiêu, nội dung chương trình và sách giáo khoa, việc đổi mới phương pháp dạy học là nhân tố <br /> quan trọng nhất, quyết định nhất đến việc nâng cao chất lượng dạy học Địa lý. Một khi chương trình và <br /> sách giáo khoa đã đổi mới thì việc đổi mới phương pháp dạy học là một tất yếu.<br /> <br /> 1.4. Đặc điểm tâm – sinh lý học sinh thay đổi. Học sinh tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong <br /> phú từ nhiều mặt của cuộc sống, có hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng <br /> lứa tuổi trước đây mấy chục năm, đặc biệt là học sinh phổ thông.<br /> <br /> 1.5. Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho việc dạy và học Địa lý đã được tăng cường.<br /> <br /> 3. Quan niệm về đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp dạy học tích cực.<br /> <br /> 3.1. Đổi mới phương pháp dạy học là vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học  tích cực.<br /> <br /> Phương pháp dạy học tích cực là gì?<br /> <br /> ­ Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích <br /> cực, chủ động, sáng tạo của người học.<br /> <br /> ­ Phương pháp tích cực là một quá trình học tập đa hướng thông qua các quan hệ thầy ­ trò, trò ­ thầy, trò <br /> ­ trò. Phương pháp tích cực liên quan với kinh nghiệm học tập dựa trên các hoạt động dưới nhiều hình <br /> thức như nhóm nhỏ, theo cặp hoặc cá nhân. Các dạng hoạt động có thể là nói, viết, đọc, thảo luận, tranh <br /> luận, thực hiện hành động, đóng vai, hội thảo, phỏng vấn, sáng tạo.<br /> <br /> 3.2. Phương pháp tích cực nghĩa là tổ chức dạy học theo kiểu mới: Tạo cho học sinh một vị thế mới <br /> và những tiền đề, những điều kiện thuận lợi để hoạt động. Sự tác động qua lại giữa thầy và trò trong <br /> môi trường học tập của phương pháp tích cực, cụ thể là:<br /> <br /> ­ Đối với thầy: Xác định và khẳng định vai trò, chức năng mới của người thầy trong quá trình dạy học là:<br /> <br /> + Thầy là người tổ chức chỉ đạo, điều khiển các hoạt động học tập của học sinh.<br /> + Thầy không còn là nguồn cung cấp thông tin duy nhất, không phải là người hoạt động chủ yếu ở trên <br /> lớp như trước đây mà sẽ là người tổ chức và điều khiển quá trình học tập của học sinh.<br /> <br /> ­ Đối với học sinh:<br /> <br /> + Phải trở thành chủ thể hoạt động tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo.<br /> <br /> + Tạo ra và duy trì ở học sinh những động lực mạnh mẽ đó là động cơ, hứng thú, lạc quan trong quá trình <br /> học tập.<br /> <br /> + Phát hiện ở học sinh khả năng tự đánh giá kết quả học tập trên cơ sở đó có thể điều chỉnh các hoạt <br /> động của mình.<br /> <br /> 3.3. Vì sao cần áp dụng phương pháp tích cực: <br /> <br /> Phát huy tính tích cực của người học được biết đến từ lâu trong phương pháp dạy học truyền thống và <br /> khả năng lưu giữ thông tin của con người thông qua các hoạt động được thể hiện như sau:<br /> <br /> ­Đọc chiếm 5%.<br /> <br /> ­Nghe chiếm 15%.<br /> <br /> ­Nhìn chiếm 20%.<br /> <br /> ­Nghe + Nhìn chiếm 25%.<br /> <br /> ­Thảo luận chiếm 55%<br /> <br /> ­Dạy lại cho người khác chiếm 90%.<br /> <br /> 3.4. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp tích cực (PPTC).<br /> <br /> ­ Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.<br /> <br /> Nghe thì quên<br /> <br /> Nhìn thì nhớ<br /> <br /> Làm mới hiểu.<br /> <br /> ­ Giảng dạy theo PPTC giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt kiến thức mà còn phải hướng dẫn học <br /> sinh hoạt động và tham gia tích cực vào các hoạt động.<br /> <br /> ­ Dạy và học chú trọng tới rèn luyện phương pháp tự học.<br /> <br /> ­ Tăng cường học tập cá thể với học tập hợp tác.<br /> <br /> ­ Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.<br /> <br /> 4. Đổi mới phương pháp dạy học thể hiện trong một tiết học Địa lý theo PPTC.<br /> 4.1. Tiết dạy học Địa lý theo tinh thần đổi mới PPTC khác với tiết học bình thường và những điểm <br /> sau:<br /> <br /> ­ Đối với học sinh:<br /> <br /> + Học sinh cần biết rõ mục đích, yêu cầu của giờ học về kiến thức, kỹ năng Địa lý và những thao tác tư <br /> duy cần vận dụng.<br /> <br /> + Học sinh dành thời gian thích đáng để tự làm việc với sách giáo khoa (kênh chữ, kênh hình) tập bản đồ <br /> và các nguồn cung cấp kiến thức khác dưới sự hướng dẫn của giáo viên.<br /> <br /> + Học sinh biết cách làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ giáo <br /> viên giao cho.<br /> <br /> ­ Đối với Thầy giáo:<br /> <br /> + Hình dung được kế hoạch bài dạy của mình một cách tường tận, chi tiết.<br /> <br /> + Hạn chế việc giảng giải, thuyết trình, minh hoạ, hạn chế đưa câu hỏi vụn vặt mà nên tập hợp các câu <br /> hỏi thành những gợi ý, hướng dẫn giải quyết một vấn đề, một nội dung tương đối trọn vẹn.<br /> <br /> + Dành thời gian cho học sinh làm việc.<br /> <br /> + Sau mỗi hoạt động đó, giáo viên cần giúp học sinh khẳng định lại từng kiến thức cơ bản của bài.<br /> <br /> + Luôn chú ý động viên, khen thưởng học sinh.<br /> <br /> 4.2. Định hướng và giải pháp đổi mới PPDH Địa lý ở Trường THPT theo PPTC.<br /> <br /> ­ Định hướng đổi mới PPDH Địa lý theo PPTC, chú ý tới:<br /> <br /> + Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh.<br /> <br /> + Bồi dưỡng phương pháp tự học.<br /> <br /> + Rèn luyện kỹ năng vận dụng vào thực tiễn.<br /> <br /> + Tác động đến tình cảm, hứng thú, niềm vui hứng thú học tập bộ môn.<br /> <br /> ­ Giải pháp đổi mới PPDH Địa lý theo PPTC, giáo viên cần quan tâm thực hiện tốt các việc:<br /> <br /> + Đầu tư nhiều hơn vào công tác thiết kế bài dạy và tổ chức dạy học trên lớp theo tinh thần tổ chức các <br /> hoạt động học tập cho học sinh.<br /> <br /> + Vận dụng linh hoạt các PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, đồng <br /> thời áp dụng các PPDH mới như: Thảo luận, khảo sát, điều tra…<br /> <br /> + Đa dạng hoá và phối hợp linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học: Cá nhân, nhóm, lớp, tham quan, hoạt <br /> động ngoại khoá.<br /> <br /> 4.3. Đổi mới thiết kế bài dạy học Địa lý theo PPTC.<br /> Các bước thiết kế bài dạy học Địa lý:<br /> <br /> ­ Xác định mục tiêu bài dạy.<br /> <br /> ­ Lựa chọn kiến thức cơ bản của bài, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm của bài, cấu trúc các kiến thức <br /> cơ bản theo ý định dạy học.<br /> <br /> ­ Tạo nhu cầu, hứng thú nhận thức (gây hứng thú trong dạy học Địa lý).<br /> <br /> ­ Xác định các hình thức tổ chức dạy học (Cá nhân, nhóm, học theo lớp).<br /> <br /> ­ Xác định các PPDH.<br /> <br /> ­ Xác định hình thức củng cố, đánh giá học sinh.<br /> <br /> ­ Thiết kế các hoạt động học tập cho học sinh.<br /> <br /> Trên đây là một số suy nghĩ và các giải pháp mà Bộ môn Địa lý đã và đang tiếp tục thực hiện đổi mới <br /> PPDH Địa lý theo hướng tích cực nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy và học ngày càng hiệu quả <br /> hơn.<br /> <br /> Thạc sỹ. Lê Hoàng Sơn<br /> <br /> Chủ nhiệm Bộ môn Địa lý<br /> <br /> Lựa chọn phương pháp dạy học ­ một nội dung quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học nhằm <br /> nâng cao chất lượng đào tạo <br /> <br /> Nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ  trong lực lượng CAND là một vấn đề  bức xúc <br /> đặt ra trong thời kỳ  công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để  làm được việc này, đòi hỏi phải giải <br /> quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề mang tính chiến lược là đổi mới phương pháp dạy học  <br /> (PPDH).<br /> <br /> Tuy nhiên, trong thực tiễn xây dựng kế hoạch và tiến hành dạy học, người giảng viên thường xuyên <br /> phải đối diện với câu hỏi: làm thế nào để lựa chọn PPDH phù hợp và có hiệu quả ? Đặc biệt, trong bối <br /> cảnh đang có sự đấu tranh (lúc công khai, lúc ngấm ngầm) giữa xu hướng muốn giữ nguyên phương pháp  <br /> trạng thái dạy học truyền thụ một chiều hiện hành, với xu hướng chủ trương đổi mới thì làm rõ vấn để <br /> trên có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn sâu sắc, từ đó giúp người giảng viên có thể  lựa chọn PPDH thích  <br /> hợp và có hiệu quả nhất.<br /> <br /> Có thể nói rằng, PPDH truyền thống là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ lâu đời <br /> và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Về cơ bản, PPDH này lấy hoạt động của người thầy là trung  <br /> tâm, là quá trình chuyển tải thông tin từ “đầu thầy sang đầu trò”. Thực hiện lối dạy học này, giảng viên <br /> là người thuyết trình, diễn giảng, là "kho tri thức" sống, sinh viên là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ  <br /> theo. Với PPDH truyền thống, giảng viên là chủ thể, là tâm điểm, sinh viên là khách thể, là quỹ đạo. Giáo  <br /> án dạy theo phương pháp này được thiết kế kiểu đường thẳng theo hướng từ trên xuống, do đó nội dung  <br /> bài dạy có tính hệ thống, tính logic cao. Song do quá đề cao người dạy nên nhược điểm của PPDH truyền  <br /> thống là sinh viên thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận,  <br /> ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học; do đó kỹ năng vận dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế.<br /> Phương pháp dạy học hiện đại xuất hiện ở các nước phương Tây (ở Mỹ, ở Pháp...) từ  đầu thế  kỷ <br /> XX và được phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có ảnh hưởng sâu rộng tới các nước trên thế  giới,  <br /> trong đó có Việt Nam. Đó là cách thức dạy học theo lối phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên. Vì  <br /> thế thường gọi phương pháp này là PPDH tích cực; ở đó, giảng viên là người giữ vai trò hướng dẫn, gợi  <br /> ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới   theo kiểu tranh luận, hội thảo <br /> theo nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy. Phương pháp dạy học  <br /> này rất đáng chú ý đến đối tượng sinh viên, coi trọng việc nâng cao quyền năng cho người học. Giáo viên  <br /> là người nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của sinh viên; từ  đó <br /> hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững. Ưu điểm của PPDH  <br /> tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề  thực tiễn, coi trọng rèn luyện  <br /> và tự học. Đặc điểm của dạy học theo phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường <br /> dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình huống song nếu không tập trung cao, sinh viên sẽ không hệ thống <br /> và logic. Yêu cầu của PPDH tích cực cần có các phương tiện dạy học, sinh viên chuẩn bị  bài kỹ   ở  nhà  <br /> trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự  tin bộc lộ  ý kiến, quan điểm. Giáo viên phải chuẩn bị  kỹ  bài <br /> giảng, thiết kế giờ  dạy, lường trước các tình huống để  chủ  động tổ  chức giờ  dạy có sự  phối hợp nhịp  <br /> nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt động của trò. Tuy nhiên, do một số  nguyên nhân như  phương <br /> pháp đòi hỏi cao, do sinh viên chưa chăm đều, còn thụ  động, do bản thân người giảng viên thiếu năng <br /> động, học hỏi, chậm đổi mới…nên hiện nay vẫn còn tình trạng dạy học vẫn rất lạc hậu chỉ theo lối diễn  <br /> giảng đơn điệu, không đổi mới, không chú ý đến người học.<br /> <br /> Qua sự phân tích như trên, chúng ta có thể thấy rằng mỗi PPDH truyền thống hay hiện đại điều có  <br /> những đặc điểm, ưu thế và hạn chế nhất định;  không có phương thuốc nào có thể chữa được bách bệnh, <br /> không có PPDH nào là chìa khóa vạn năng, là tối  ưu cho mọi trường hợp. Chính vì thế, việc nghiên cứu <br /> kỹ  nội dung bài giảng, đặc điểm riêng của từng môn học và đối tượng người học để  có sự  kết hợp đa <br /> dạng các PPDH là một yêu cầu có tính bắt buộc đối với việc đổi mới phương pháp dạy học nâng cao  <br /> chất lượng đào tạo trong giai đoạn hiện nay.<br /> <br /> Tuy vậy, vấn đề cần phải làm sáng tỏ ở đây là: Việc lựa chọn PPDH được tiến hành một cách tuỳ <br /> tiện, bất kì, hay bị ràng buộc bởi những tiêu chuẩn khoa học nào?<br /> <br />  Qua nghiên cứu, theo quan điểm của chúng tôi để lựa chọn PPDH phù hợp, hiệu quả cần chú ý dựa  <br /> trên những cơ sở sau:<br /> <br /> Thứ nhất, là việc lựa chọn những PPDH có khả năng cao nhất đối với việc thực hiện mục tiêu dạy  <br /> học.<br /> <br /> Như trên đã trình bày, mỗi mô hình lí luận dạy học, PPDH đều có những điểm mạnh, điểm hạn chế <br /> nhất định. Nhưng khi xem xét việc thực hiện một mục tiêu dạy học nhất định thì có một số PPDH có khả <br /> năng cao hơn các PPDH khác. Tùy thuộc vào mục tiêu yêu cầu cần đạt được của quá trình dạy học mà <br /> lựa chọn phương pháp nào cho thích hợp. <br /> <br /> Sau đây là kết quả nghiên cứu về khả năng của các PPDH trong việc thực hiện các mục tiêu [1]: <br /> Nhìn vào biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu của các nhóm PPDH với việc  <br /> thực hiện mục tiêu, đặc biệt là sự hạn chế của phương pháp thuyết trình đối với việc thực hiện các mục <br /> tiêu quan trọng của phát triển nhân cách. <br /> <br /> Thứ hai là lựa chọn các PPDH phải phù hợp với nội dung dạy học.  Giữa nội dung và PPDH có mối <br /> quan hệ  tác động lẫn nhau, trong nhiều trường hợp quy định lẫn nhau.  Ở  bình diện kĩ thuật dạy học,  <br /> PPDH cần tương thích với nội dung dạy học. Mỗi nội dung dạy học phải lựa chọn những PPDH phù hợp  <br /> với nội dung dạy học đó.<br /> <br /> Thứ  ba là lựa chọn PPDH cần chú ý đến đối tượng sinh viên và kinh nghiệm sư  phạm của giảng  <br /> viên. Ở  đây, khi lựa chọn PPDH người giảng viên cần quan tâm tìm hiểu nhu cầu, hứng thú, thói quen  <br /> của sinh viên. Đối với những trường hợp cần trình bày thông tin thì giảng viên nên ưu tiên lựa chọn các  <br /> phương pháp sử  dụng phương tiện nghe nhìn, sử  dụng truyền thông đa phương tiện. Đối với các hoạt  <br /> động chế biến thông tin thì cần tổ chức các hoạt động để  sinh viên tự  phát hiện, phối hợp với làm việc  <br /> theo nhóm, phát huy càng tối đa tính tích cực, sáng tạo của sinh viên càng tốt. <br /> <br /> Mặt khác, trong quá trình giảng dạy, giảng viên cần chú ý thay đổi phương pháp và hình thức tổ <br /> chức dạy học tránh nhàm chán, từ đó gây hứng thú cho người học. Kinh nghiệm cho thấy, trong một tiết  <br /> giảng (45 phút) người giảng viên cần thay đổi, sử dụng ít nhất là hai phương pháp, hình thức dạy học là  <br /> hiệu quả nhất. <br /> <br /> Bên cạnh đó, ngoài việc chú ý đến nhu cầu, hứng thú của sinh viên, người giảng viên cũng phải <br /> quan tâm ưu tiên lựa chọn các PPDH mà sinh viên và giảng viên đã thành thạo. Thể  hiện vấn đề  này sẽ <br /> đảm bảo người giảng viên và sinh viên sẽ tích cực chủ động trong việc truyền đạt cũng như cảm thụ nội  <br /> dung của bài học. Tuy nhiên, không vì tiêu chí này mà chúng ta quay trở lại với phương pháp truyền thụ <br /> một chiều. Hiện nay, rất cần thiết phải cho giảng viên và sinh viên trở  nên quen thuộc với các kĩ thuật <br /> dạy học mới có hiệu quả cao trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục. <br /> Thứ tư là việc lựa chọn PPDH phù hợp với điều kiện dạy học hiện có . Ở đây muốn cho chúng ta <br /> thấy rằng, việc lựa chọn PPDH nào cần phải đặt nó trong mối quan hệ với các điều kiện vật chất, đặc  <br /> biệt là thiết bị  dạy học. Việc lựa chọn PPDH đòi hỏi phải phù hợp với điều kiện của nhà trường, của <br /> phòng học, của tình trạng đang có. <br /> <br /> Tóm lại, đổi mới PPDH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo là yêu cầu thường xuyên của công tác  <br /> giáo dục và đào tạo, nhằm đào tạo ra những con người đáp  ứng những yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên, <br /> mỗi cách dạy đều có những ưu điểm và hạn chế riêng; không thể có một cách dạy tối ưu cho mọi trường  <br /> hợp. Thêm vào đó, việc thực hiện có hiệu quả  mỗi cách dạy luôn đòi hỏi người dạy và người học phải <br /> có những phẩm chất, kỹ  năng nhất định và những điều kiện cần thiết để  đảm bảo thực hiện. Vì vậy,  <br /> vấn đề không phải là cách dạy nào tốt hơn, mà là cách dạy nào phù hợp hơn. Điều quan trọng nhất là cần  <br /> xác định lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có thể giúp sinh viên học tập với niềm say <br /> mê, hứng thú, khát khao tìm tòi khám phá; lĩnh hội tri thức trong các hoạt động học tập tích cực, chủ <br /> động, sáng tạo, theo phương pháp khoa học; học trong tương tác, trong việc hình thành các quan hệ  hợp  <br /> tác, thân thiện, cùng nhau giải quyết các nhiệm vụ học tập. <br /> <br /> Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Trai<br /> <br />                                                                                                                  Khoa NV CSPCTPHS<br /> <br /> GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỔI <br /> MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG <br /> HIỆN NAY <br /> Phạm Quang Huân<br /> (Viện NCSP)<br /> <br /> (Tạp chí Dạy và Học ngày nay – Hội khuyến học VN. Số 2/2007)<br /> <br /> Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là một yêu cầu tất yếu trong sự nghiệp đổi mới giáo dục ­ đào  <br /> tạo của nước ta. Đây cũng đang là vấn đề  cấp bách không chỉ  được toàn ngành giáo dục quan tâm mà <br /> cũng là sự quan tâm trong đường lối lãnh đạo công tác giáo dục của Đảng, từng được ghi trong các Nghị <br /> quyết Trung ương 4 (khoá VII) và Nghị quyết Trung ướng 2 (khoá VIII), Luật giáo dục.<br /> <br /> Vấn đề đổi mới PPDH không phải là mới đối với nhà trường phổ thông. Nó đã được đề  cập, phát động  <br /> dưới nhiều cách thức khác nhau trong các nhà trường từ thập kỷ 70 (thế kỷ XX). Đội ngũ giáo viên phổ <br /> thông của ta ít nhiều cũng đã được các nhà trường sư phạm trang bị vốn liếng về các PPDH tích cực. Vậy <br /> thì tạ  sao vấn đề  đó bây giờ  chuyển động vẫn rất chậm chạp, vẫn được đánh giá là yếu kém. Có rất  <br /> nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan. Song nguyên nhân quan trọng nhất là: công tác quản lý, từ cấp  <br /> quản lý hệ thống tới quản lý ở các cơ sở trường học còn nhiều bất cập. Phần đông các chủ thể quản lý  <br /> (nhất là hiệu trưởng nhà trường) chưa thực sự vào cuộc, thậm chí chưa được quan tâm trong công tác chỉ <br /> đạo, quản lý. Bởi vậy, muốn quá trình đổi mới PPDH ở nhà trường phổ thông có hiệu quả, cần đổi mới <br /> công tác quản lý, nhằm giải quyết những bất cập, những trở ngại cho quá trình này.<br /> <br /> <br /> 1. Nhận 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1