VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34<br />
<br />
DẠY HỌC TÍCH HỢP MÔN NGỮ VĂN ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU<br />
PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC HỌC SINH PHỔ THÔNG<br />
Phạm Thanh Hùng - Trường Đại học An Giang<br />
Ngày nhận bài: 12/06/2018; ngày sửa chữa: 15/06/2018; ngày duyệt đăng: 27/07/2018.<br />
Abstract: Integrated teaching and diferential teaching is one of the core issues in pedagogy which<br />
is emphasized and clarified in General Education Program (July 2017) as well as the renovated<br />
Draft Curriculum for general education in Literature (January, 2018). The article presents an<br />
overview on integrated teaching and how to apply integrated teaching in literature to develop the<br />
dignity and capacity of students (at secondary schools and high schools).<br />
Keywords: integration, internal intergration, multi-subject integration, inter-subject integration,<br />
cross-subject integration, Draft Curriculum for General education in Literature.<br />
1. Mở đầu<br />
Dạy học tích hợp là xu hướng chung của giáo dục phổ<br />
thông các nước trên thế giới. Thông qua dạy học tích hợp,<br />
giáo viên hình thành cho học sinh những kiến thức, kĩ<br />
năng mới, phát triển những năng lực cần thiết, nhất là<br />
năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn cuộc<br />
sống. Trong Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông<br />
môn Ngữ văn trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ<br />
thông (THPT) đổi mới lần này (tháng 01/2018), khi đề<br />
cập phương pháp giáo dục, vấn đề dạy học tích hợp và<br />
phân hóa đã được nhấn mạnh và làm rõ hơn so với các<br />
lần cải cách giáo dục trước đây.<br />
Bài viết phân tích những nội dung liên quan đến dạy<br />
học tích hợp và dạy học tích hợp môn Ngữ văn nhằm đáp<br />
ứng mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất cho học<br />
sinh phổ thông.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Một số khái niệm<br />
2.1.1. Tích hợp<br />
Tích hợp (tiếng Anh: Integration; tiếng Pháp:<br />
Intégration) là một khái niệm rộng, không chỉ dùng trong<br />
lí luận dạy học. Theo định nghĩa của UNESCO, tích hợp<br />
là “Một cách trình bày các khái niệm và nguyên lí khoa<br />
học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của tư tưởng<br />
khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm sự sai khác<br />
giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau” [1; tr 7]. Như vậy,<br />
tích hợp có nghĩa là sự xác lập cái chung, cái toàn thể, cái<br />
thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ. Trong giáo<br />
dục, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ,<br />
có hệ thống, ở những mức độ khác nhau các kiến thức,<br />
kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần<br />
của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ<br />
sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến<br />
<br />
30<br />
<br />
trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó.<br />
Tích hợp là một trong những quan điểm dạy học nhằm<br />
nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những<br />
người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các<br />
vấn đề trong học tập và trong cuộc sống hiện đại.<br />
2.1.2. Dạy học tích hợp<br />
Dạy học tích hợp (Integrated teaching) là một quan<br />
niệm giáo dục toàn diện con người xuất hiện từ thời kì<br />
Khai sáng (thế kỉ XVIII) nhằm chống lại hiện tượng phát<br />
triển thiếu hài hòa, cân đối. Dạy học tích hợp là định<br />
hướng dạy học trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn<br />
học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc<br />
nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ<br />
học tập, đời sống; từ đó hình thành những kiến thức, kĩ<br />
năng mới, phát triển những năng lực cần thiết, nhất là<br />
năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và trong cuộc<br />
sống. Dạy học tích hợp cũng có nghĩa là đưa những nội<br />
dung giáo dục có liên quan thuộc những môn học, lĩnh<br />
vực khác nhau vào quá trình dạy học các môn học như:<br />
tích hợp văn học với lịch sử, địa lí, văn hóa, xã hội, đạo<br />
đức, lối sống; tích hợp giáo dục công dân với giáo dục<br />
pháp luật, chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo, an<br />
toàn giao thông; tích hợp vật lí, hoá học, sinh học với giáo<br />
dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ<br />
môi trường bền vững, chống biến đổi khí hậu, chăm sóc<br />
và bảo vệ sức khỏe…<br />
Nhiều nước tiên tiến trên thế giới như Hoa kì, Anh,<br />
Thụy Sĩ, Australia, Hàn Quốc, New Zealand, Nhật Bản,<br />
Singapore,… đã thực hiện quan điểm tích hợp một cách<br />
hiệu quả trong dạy học. Theo giáo sư (GS) Đinh Quang<br />
Báo, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển<br />
nhân lực, trong một nghiên cứu mới đây của Viện Khoa<br />
học giáo dục Việt Nam về chương trình giáo dục phổ<br />
thông 20 nước đã cho thấy 100% các nước đều xây dựng<br />
Email: pthung@agu.edu.vn<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34<br />
<br />
chương trình theo hướng tích hợp. GS Nguyễn Minh<br />
Thuyết, Tổng Chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông<br />
mới, cho rằng: “Dạy học tích hợp là xu thế chung của<br />
chương trình giáo dục phổ thông các nước. Tuy nhiên, có<br />
nhiều mức độ tích hợp khác nhau. Các môn Khoa học tự<br />
nhiên, Lịch sử và Địa lí trong chương trình giáo dục phổ<br />
thông của Việt Nam mới tích hợp ở mức độ thấp, tức là<br />
tích hợp liên môn, chứ chưa phải là tích hợp ở mức độ<br />
cao như nhiều nước trên thế giới” [2]. Tuy vậy, đến nay,<br />
nhiều giáo viên vẫn hiểu chưa đúng hoặc còn rất mơ hồ<br />
về dạy học tích hợp. Chẳng hạn, có giáo viên biến giờ<br />
dạy văn thành giờ giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục<br />
về dân số rất sống sượng; hay dựa vào kiến thức của môn<br />
học này để nói đến một nội dung giáo dục khác, khiến<br />
nội dung kiến thức môn đang học bị suy diễn, lệch lạc…<br />
2.1.3. Các dạng tích hợp<br />
- Tích hợp nội môn<br />
Tích hợp nội môn là sự gắn kết, đảm bảo tính đồng<br />
bộ giữa các nội dung liên quan của các phân môn trong<br />
một môn học, hoặc lồng ghép các vấn đề cần thiết nhưng<br />
không thành môn học vào môn học tùy theo đặc trưng<br />
của từng môn như môi trường, năng lượng, biến đổi khí<br />
hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản,…<br />
- Tích hợp đa môn<br />
Tích hợp đa môn tập trung trước hết vào các môn học<br />
liên quan với nhau có chung một định hướng về nội dung<br />
và phương pháp dạy học nhưng mỗi môn lại có một<br />
chương trình riêng. Tích hợp đa môn được thực hiện theo<br />
cách tổ chức các môn học xoay quanh một chủ đề, đề tài,<br />
dự án, tạo điều kiện cho người học vận dụng tổng hợp<br />
kiến thức của các môn học có liên quan.<br />
- Tích hợp liên môn<br />
Với tích hợp liên môn, giáo viên tổ chức chương trình<br />
học tập xoay quanh các nội dung học tập chung, như các<br />
chủ đề, các khái niệm và kĩ năng liên ngành, liên môn.<br />
Tích hợp liên môn còn được hiểu như là phương án,<br />
trong đó nhiều môn học liên quan được kết lại thành một<br />
môn học mới với hệ thống những chủ đề nhất định xuyên<br />
suốt qua nhiều cấp lớp. Ví dụ: Lịch sử, Địa lí, Vật lí, Hóa<br />
học, Sinh học, Giáo dục công dân, Xã hội được tích hợp<br />
thành môn “Nghiên cứu xã hội và môi trường” trong<br />
chương trình giáo dục phổ thông ở Anh, Australia,<br />
Singapore, Thái Lan.<br />
- Tích hợp xuyên môn<br />
Trong dạy học tích hợp xuyên môn, giáo viên tổ chức<br />
chương trình học tập xoay quanh các vấn đề và mối quan<br />
tâm của người học. Học sinh phát triển kĩ năng sống khi<br />
áp dụng các kĩ năng môn học và liên môn vào hoàn cảnh<br />
<br />
31<br />
<br />
thực tế. Con đường dẫn đến tích hợp xuyên môn là khi<br />
học tập theo dự án và thương lượng chương trình học. Có<br />
thể xem tích hợp xuyên môn là đỉnh cao của dạy học tích<br />
hợp khi ranh giới giữa các môn học bị xóa nhòa.<br />
2.2. Tích hợp trong Chương trình giáo dục phổ thông<br />
tổng thể<br />
2.2.1. Chủ trương tích hợp<br />
Chủ trương dạy học tích hợp trong chương trình mới<br />
có một số điểm khác so với chương trình hiện hành như:<br />
tăng cường tích hợp nhiều nội dung trong cùng một môn<br />
học, xây dựng một số môn học tích hợp mới ở các cấp<br />
học; tinh thần chung là tích hợp mạnh ở các lớp học dưới<br />
(tiểu học (TH), THCS) và phân hoá dần ở các lớp học<br />
trên (THPT); yêu cầu tích hợp được thể hiện cả trong<br />
mục tiêu, nội dung, phương pháp và thi, kiểm tra, đánh<br />
giá giáo dục.<br />
2.2.2. Định hướng các dạng tích hợp<br />
Trước hết, định hướng tích hợp được thể hiện ngay<br />
trong một môn học. Chẳng hạn, trong chương trình môn<br />
Ngữ văn sẽ có sự tích hợp giữa các kĩ năng đọc, viết, nói<br />
và nghe; tích hợp giữa kiến thức văn học và kiến thức<br />
tiếng Việt trong quá trình dạy học các kĩ năng này. Các<br />
môn học khác, tùy vào đặc điểm và tính chất môn học<br />
mà thực hiện yêu cầu tích hợp giữa các phân môn, các<br />
phần của mỗi môn học. Việc tích hợp trong chương trình<br />
các môn học cũng được thể hiện ở yêu cầu cần đạt (chuẩn<br />
đầu ra) khi dạy học nội dung từng chủ đề môn học.<br />
Tên các môn học trong Chương trình giáo dục phổ<br />
thông mới đã phản ánh tư tưởng tránh nhấn quá mạnh<br />
hoặc quá sớm sự sai khác giữa các lĩnh vực khoa học<br />
khác nhau, nghĩa là không phân hóa quá sớm kiến thức<br />
khoa học.<br />
Ví dụ: Ở chương trình cấp TH hiện hành, các môn Tự<br />
nhiên và Xã hội ở các lớp 1, 2, 3; môn Lịch sử và Địa lí,<br />
môn Khoa học ở các lớp 4, 5 vốn đã có tính tích hợp.<br />
Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, tính tích<br />
hợp trong những môn học này sẽ được thể hiện đậm nét<br />
hơn thông qua các chủ đề chung giữa các phân môn.<br />
Chương trình cấp THCS lần này quán triệt tư tưởng trên<br />
thể hiện ở tên các môn học: Lịch sử và Địa lí và môn<br />
Khoa học tự nhiên. Việc tích hợp được thiết kế ở mức<br />
thấp. Đó không phải là sự “lắp ghép cơ học” các phân<br />
môn trong Khoa học tự nhiên cũng như trong Lịch sử và<br />
Địa lí.<br />
Trong chương trình của mỗi môn, các mạch nội dung<br />
có sự kết nối ở mức có thể, để tránh trùng lặp; kiến thức<br />
và kĩ năng của phân môn này giúp làm sáng rõ hơn kiến<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34<br />
<br />
thức và kĩ năng của phân môn kia; giúp học sinh vận<br />
dụng các kiến thức, kĩ năng của từng phân môn nhằm<br />
giải quyết các vấn đề đòi hỏi từ cách tiếp cận liên môn.<br />
Với chương trình môn Khoa học tự nhiên, nội dung<br />
đã được thiết kế thành các chủ đề lớn như vật chất, vật<br />
sống, năng lượng và sự biến đổi, trái đất và bầu trời. Các<br />
kiến thức và kĩ năng Vật lí, Hóa học, Sinh học đều được<br />
triển khai trong phạm vi những chủ đề này.<br />
Ở chương trình môn Lịch sử và Địa lí, nội dung được<br />
thiết kế thành hai mạch tương đối độc lập nhưng có các<br />
chủ đề gắn kết để giáo viên và học sinh thấy được mối<br />
liên hệ giữa Lịch sử và Địa lí thông qua việc tìm hiểu,<br />
khám phá các sự kiện trong thời gian và không gian. Tính<br />
chất tích hợp của môn học này còn được thể hiện ở một<br />
số chủ đề chung như Khám phá các dòng sông lớn trên<br />
thế giới, Văn minh châu thổ sông Hồng, Bảo vệ chủ<br />
quyền biển đảo Việt Nam, Đô thị,...<br />
Việc tích hợp trong chương trình giáo dục mới còn<br />
thể hiện ở yêu cầu tất cả các môn đều phải lồng ghép một<br />
số nội dung giáo dục (chủ đề xuyên môn) mang tính cấp<br />
thiết, có ý nghĩa dân tộc và nhân loại như giáo dục bình<br />
đẳng giới, giáo dục tài chính - kinh doanh, chủ quyền<br />
biển đảo, môi trường và phát triển bền vững…<br />
2.3. Dạy học tích hợp môn Ngữ văn đáp ứng mục tiêu<br />
phát huy phẩm chất và năng lực học sinh<br />
2.3.1. Khái quát Chương trình Ngữ văn<br />
Chương trình giáo dục môn Ngữ văn (Dự thảo, tháng<br />
01/2018) được xây dựng theo hướng mở, lấy các kĩ năng<br />
giao tiếp đọc, viết, nói và nghe làm trục chính xuyên suốt<br />
cả ba cấp học (TH, THCS, THPT) nhằm đáp ứng mục<br />
tiêu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, đồng thời<br />
đảm bảo tính chỉnh thể, nhất quán trong tất cả các cấp<br />
học. Hệ thống kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về<br />
văn học và tiếng Việt được tích hợp vào hoạt động dạy<br />
đọc, viết, nói và nghe.<br />
Chương trình không quy định chi tiết về nội dung<br />
dạy học và các văn bản cụ thể mà chỉ quy định những<br />
yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp.<br />
Quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về văn học,<br />
tiếng Việt và 06 văn bản quan trọng (ngữ liệu) của văn<br />
học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với<br />
học sinh cả nước (6 văn bản đó là: Nam quốc sơn hà<br />
(tương truyền của Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ của<br />
Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi,<br />
Truyện Kiều của Nguyễn Du, Văn tế nghĩa sĩ Cần<br />
Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Tuyên ngôn độc lập<br />
của Hồ Chí Minh).<br />
<br />
32<br />
<br />
Môn Ngữ văn hướng tới cho học sinh cơ hội khám<br />
phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con<br />
người, biết đồng cảm, sẻ chia, có cá tính và đời sống tâm<br />
hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn;<br />
bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với tiếng Việt và văn<br />
học, ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần<br />
giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá.<br />
Ngoài các năng lực chung, chương trình môn Ngữ<br />
văn tập trung giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp<br />
và năng lực thẩm mĩ; cung cấp hệ thống kiến thức phổ<br />
thông nền tảng về văn học và tiếng Việt góp phần phát<br />
triển vốn học vấn căn bản của một người có văn hóa; hình<br />
thành và phát triển con người nhân văn, biết tiếp nhận,<br />
cảm thụ, thưởng thức, đánh giá các sản phẩm ngôn từ và<br />
các giá trị cao đẹp trong cuộc sống. Điểm khác biệt nhất<br />
so với các chương trình trước đây là chương trình Ngữ<br />
văn lần này được xây dựng xuất phát từ các phẩm chất<br />
và năng lực cần có của người học để lựa chọn nội dung<br />
dạy học.<br />
Các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp tập trung vào bốn kĩ<br />
năng chính: đọc, viết, nói và nghe. Đọc, gồm yêu cầu đọc<br />
đúng và đọc hiểu. Yêu cầu về đọc hiểu bao gồm các yêu<br />
cầu hiểu văn bản (trong đó có cả đọc thẩm mĩ, cảm thụ,<br />
thưởng thức và đánh giá) và hiểu chính mình (người<br />
đọc). Viết, không chỉ yêu cầu học sinh biết viết chữ, viết<br />
câu, viết đoạn mà còn tạo ra được các kiểu loại văn bản,<br />
trước hết là các kiểu loại văn bản thông dụng, sau đó là<br />
một số kiểu loại văn bản phức tạp hơn. Nói và nghe, căn<br />
cứ vào nội dung của đọc và viết để luyện tập cho học sinh<br />
trình bày, nói và nghe tự tin, có hiệu quả; từ nói đúng đến<br />
nói hay.<br />
Từ các yêu cầu cần đạt nêu trên, chương trình nêu lên<br />
các nội dung dạy học, bao gồm kiến thức về tiếng Việt,<br />
văn học và ngữ liệu. Kiến thức tiếng Việt với các nội<br />
dung chủ yếu là: ngữ âm và chữ viết; từ vựng; ngữ pháp;<br />
hoạt động giao tiếp; sự phát triển của ngôn ngữ và các<br />
biến thể của ngôn ngữ. Kiến thức văn học gồm: những<br />
vấn đề chung về văn học; các thể loại văn học; các yếu<br />
tố của tác phẩm văn học; một số hiểu biết sơ giản về lịch<br />
sử văn học Việt Nam. Ngữ liệu cho mỗi lớp chỉ nêu lên<br />
định hướng về kiểu loại văn bản, các ngữ liệu cụ thể được<br />
giới thiệu thành một Phụ lục gồm văn bản bắt buộc và<br />
văn bản gợi ý.<br />
2.3.2. Dạy học tích hợp môn Ngữ văn<br />
2.3.2.1. Định hướng khái quát<br />
Theo Chương trình Ngữ văn, dạy học tích hợp đòi hỏi<br />
giáo viên Ngữ văn trước hết phải thấy được mối liên hệ<br />
nội môn (đọc, viết, nói và nghe), theo đó nội dung dạy<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34<br />
<br />
đọc có liên quan và lặp lại ở các nội dung dạy viết, nói và<br />
nghe; kiến thức và kĩ năng đọc hiểu mà học sinh tích lũy<br />
được trong quá trình tiếp nhận văn bản thuộc các kiểu<br />
loại khác nhau sẽ giúp cho kĩ năng viết, nghe và nói tốt<br />
hơn. Những kiến thức và cách thức diễn đạt học sinh học<br />
được trong quá trình đọc sẽ được dùng để thực hành viết.<br />
Tương tự, những điều học được khi đọc và viết sẽ được<br />
học sinh dùng khi nói. Cùng với yêu cầu tích hợp nội<br />
môn, trong khi dạy đọc, viết, nói và nghe, giáo viên còn<br />
phải biết tận dụng các cơ hội để lồng ghép một cách<br />
nhuần nhuyễn, hợp lí vào giờ học các yêu cầu giáo dục<br />
liên môn (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Nghệ thuật)<br />
và những nội dung giáo dục ưu tiên xuyên suốt toàn<br />
chương trình giáo dục phổ thông (chủ quyền quốc gia,<br />
hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, phát triển bền<br />
vững, bảo vệ môi trường, quyền con người, quyền trẻ em,<br />
bình đẳng giới, giáo dục tài chính,... ).<br />
Tất nhiên, dạy học tích hợp còn gắn liền với các hoạt<br />
động nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đa dạng<br />
hóa các phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện<br />
dạy học mang tính đặc thù của môn học, sao cho khi kết<br />
thúc mỗi cấp lớp, học sinh đạt được các yêu cầu cần đạt<br />
mà chương trình đã đề ra.<br />
Trên cơ sở đó có thể thấy, phạm vi tích hợp trong giờ<br />
dạy Ngữ văn rất phong phú: có thể tích hợp nội môn<br />
(giữa ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Làm văn hay giữa<br />
những bài học có cùng chủ đề); có thể tích hợp liên môn<br />
Văn - Lịch sử (mở rộng theo hướng vận dụng những kiến<br />
thức về hoàn cảnh lịch sử - xã hội, thời đại, về nhân vật<br />
lịch sử,. . . để lí giải lịch sử phát sinh, khai thác giá trị về<br />
nội dung và nghệ thuật, thành công và hạn chế của tác<br />
phẩm); tích hợp Văn - Địa lí (theo hướng vận dụng kiến<br />
thức hiểu biết về các địa danh, thổ nhưỡng, khí hậu để lí<br />
giải rõ chi tiết về thiên nhiên, hình tượng nhân vật,…);<br />
tích hợp Văn - Mĩ thuật (có thể cho học sinh vẽ tranh<br />
minh họa về một số hình tượng nghệ thuật trong tác<br />
phẩm: thiên nhiên, con người,…); tích hợp Văn - Nghệ<br />
thuật (hát, ngâm thơ, diễn kịch, sân khấu hóa)… Dưới sự<br />
hỗ trợ của công nghệ thông tin và truyền thông<br />
(PowerPoint, videoclip, tranh ảnh và các phần mềm ứng<br />
dụng khác), qua kênh hình trình chiếu của giáo viên, học<br />
sinh sẽ tiếp cận được những hình ảnh trực quan sinh<br />
động, đầy màu sắc và ấn tượng…<br />
2.3.2.2. Định hướng cụ thể - một số gợi ý<br />
Từ những nội dung đã trình bày trên đây, có thể<br />
thấy rằng giáo viên đóng một vai trò hết sức quan<br />
trọng trong việc nâng cao hiệu quả giờ dạy Ngữ văn<br />
theo hướng tích hợp.<br />
<br />
33<br />
<br />
Chương trình và sách giáo khoa chỉ có tính định<br />
hướng. Để dạy học tích hợp môn Ngữ văn đạt hiệu quả<br />
cao, giáo viên cần xác định chính xác mục tiêu, nội<br />
dung tích hợp, phương pháp tích hợp cho từng<br />
bài/chuyên đề học tập. Ngoài ra, cần phải đổi mới cách<br />
kiểm tra, đánh giá.<br />
- Mục tiêu: đó là mục tiêu cần đạt của bài học/chuyên<br />
đề. Giáo viên cần trả lời câu hỏi: Vận dụng phương pháp<br />
giáo dục tích hợp ở bài học/chuyên đề này nhằm đạt được<br />
gì về phẩm chất và năng lực học sinh?<br />
+ Về phẩm chất: như tình yêu thiên nhiên; yêu quê<br />
hương; biết ơn những người lao động, người có công<br />
với nước; biết trân trọng, giữ gìn, bảo vệ cái đẹp, các<br />
giá trị văn hóa, lịch sử; biết quan tâm đến người thân,<br />
tôn trọng bạn bè, thầy cô; trung thực và trách nhiệm<br />
trong học tập; có ý chí vượt khó; sẵn sàng thực hiện<br />
trách nhiệm công dân…<br />
+ Về năng lực: như năng lực tự chủ và tự học (biết tự<br />
tìm kiếm, lựa chọn, đánh giá nguồn tài liệu phục vụ học<br />
tập; biết lưu trữ, xử lí thông tin; có khả năng nhận biết<br />
cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá tính và khả năng của bản<br />
thân; biết tự làm chủ bản thân, tự nhận thức và điều chỉnh<br />
những hạn chế của mình, không ngừng học hỏi); năng<br />
lực giao tiếp và hợp tác (biết lựa chọn nội dung, kiểu loại<br />
văn bản, ngôn ngữ và các phương tiện giao tiếp phù hợp;<br />
biết thảo luận, lập luận, đánh giá các vấn đề trong học tập<br />
và đời sống…); năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo<br />
(như khả năng đánh giá nội dung văn bản; biết phân tích<br />
các nguồn thông tin; có kĩ năng viết bắt đầu từ việc hình<br />
thành ý tưởng và triển khai ý tưởng theo cách sáng<br />
tạo…); năng lực thẩm mĩ (chỉ ra, phân tích, đánh giá<br />
được vẻ đẹp của các hình thức ngôn từ trong văn bản văn<br />
học; nêu ra và phân tích được những giá trị thẩm mĩ thể<br />
hiện trong tác phẩm văn học; hình thành và nâng cao<br />
nhận thức về cái đẹp và xúc cảm thẩm mĩ cá nhân…);<br />
năng lực ngôn ngữ (hình thành và phát triển thông qua<br />
các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe).<br />
- Nội dung: giáo viên cần trả lời câu hỏi: Trong bài<br />
học/chuyên đề này, nội dung nào cần được tích hợp? Cụ<br />
thể: Có nội dung nào có liên quan/tương đồng với kiến<br />
thức các bài đã học? Có nội dung nào cần sử dụng/liên<br />
hệ kiến thức phân môn/môn học khác để khai thác/mở<br />
rộng/vận dụng?<br />
- Phương pháp: giáo viên cần trả lời câu hỏi: Sử dụng<br />
phương pháp dạy học tích hợp như thế nào ở bài<br />
học/chuyên đề này? Trong một bài học/chuyên đề, không<br />
phải nội dung kiến thức nào giáo viên cũng tích hợp. Vì<br />
vậy, trước khi lên lớp, giáo viên cần đầu tư suy nghĩ để<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34<br />
<br />
xác định chính xác nội dung, phạm vi kiến thức cần tích<br />
hợp, đồng thời lựa chọn ngữ liệu/dữ liệu phù hợp.<br />
+ Về tích hợp nội môn: chẳng hạn khi dạy bài Cuộc<br />
chia tay của những con búp bê (Ngữ văn 7, Tập 1), giáo<br />
viên có thể tích hợp với kiến thức phân môn Tiếng Việt<br />
qua bài Từ láy, kiến thức phân môn Tập làm văn qua việc<br />
xác định ngôi kể trong câu chuyện và nêu tác dụng của<br />
ngôi kể ấy. Dạy bài thơ Sóng - Xuân Quỳnh (Ngữ văn<br />
12, Tập 1), giáo viên có thể tích hợp với kiến thức Tiếng<br />
Việt về một số phép tu từ cú pháp, tu từ ngữ âm đã học<br />
trước đó như phép lặp cú pháp, điệp âm, điệp vần, điệp<br />
thanh; với kiến thức Tập làm văn nghị luận về một bài<br />
thơ, đoạn thơ… Cách tích hợp này còn được gọi là tích<br />
hợp ngang giữa các phân môn (Văn - Tiếng Việt - Làm<br />
văn) trong cùng môn học Ngữ văn có tác dụng làm sáng<br />
tỏ lẫn nhau, khác với tích hợp dọc: Văn bản - Văn bản,<br />
Tiếng Việt - Tiếng Việt, Tập làm văn - Tập làm văn có<br />
tác dụng liên kết, tổng hợp, mở rộng kiến thức. Chẳng<br />
hạn, khi dạy bài Câu đặc biệt (Ngữ văn 7, tập 2), giáo<br />
viên tích hợp với bài Rút gọn câu (Ngữ văn 7, tập 2)<br />
trước đó. Ngoài ra, còn có tích hợp dọc khác khối lớp.<br />
Thí dụ, khi phân tích hình tượng nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng<br />
trong Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu (Ngữ<br />
văn 12, tập hai), giáo viên có thể tích hợp với đoạn trích<br />
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ Như Tô - Nguyễn Huy<br />
Tưởng) (Ngữ văn 11, tập 1) với hình tượng Vũ Như Tô<br />
đã học trước đó để nói về mối quan hệ giữa nghệ thuật<br />
và đời sống, giữa lí tưởng nghệ thuật với sự thật cuộc đời<br />
và lợi ích của nhân dân…<br />
+ Về tích hợp đa môn/liên môn/xuyên môn: khi bài<br />
dạy có cùng chủ đề/đề tài/dự án; nhiều môn học liên<br />
quan nhau kết hợp lại thành một môn mới với những<br />
chủ đề nhất định được học qua nhiều cấp lớp, như việc<br />
xây dựng hai môn học mới: môn Khoa học tự nhiên<br />
(trên cơ sở các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học hiện<br />
hành) và môn Khoa học xã hội (trên cơ sở các môn<br />
Lịch sử, Địa lí hiện hành và một số vấn đề xã hội) ở<br />
THCS; hoặc khi học tập theo dự án và vấn đề thương<br />
lượng chương trình học được đặt ra thì có thể xem đó<br />
là tích hợp xuyên môn, đỉnh cao của dạy học tích hợp<br />
khi ranh giới giữa các môn học bị xóa nhòa.<br />
- Kiểm tra, đánh giá: Trong lần đổi mới chương trình,<br />
sách giáo khoa lần này, giáo viên cần đổi mới cách kiểm<br />
tra, đánh giá với nhiều phương thức khác nhau. Cần<br />
chuyển từ phương pháp dạy học “truyền thụ, áp đặt một<br />
chiều” sang phương pháp dạy học phát triển phẩm chất<br />
và năng lực (ở môn Ngữ văn là năng lực giao tiếp, năng<br />
lực thẩm mĩ), theo đó chuyển cách đánh giá ghi nhớ máy<br />
<br />
34<br />
<br />
móc, rập khuôn sang cách đánh giá ưu tiên sáng tạo, tôn<br />
trọng ý tưởng mới và cách trình bày độc đáo…<br />
3. Kết luận<br />
Đổi mới chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ<br />
thông là những vấn đề quan trọng của nền giáo dục mọi<br />
quốc gia. Đổi mới chương trình giáo dục và sách giáo<br />
khoa theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực<br />
lần này đòi hỏi người học phải thực hiện được, làm được,<br />
nói được, tạo ra được các sản phẩm chứ không dừng lại<br />
chỉ biết lí thuyết. Với Chương trình giáo dục phổ thông<br />
môn Ngữ văn, dạy học theo các định hướng tích hợp<br />
được nêu ra đòi hỏi giáo viên và học sinh cần phải vận<br />
dụng các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực/môn học<br />
khác nhau trong việc thực hiện, giải quyết một vấn đề<br />
hoặc làm ra một sản phẩm. Nội dung dạy học cần xác<br />
định và trả lời câu hỏi: Để giải quyết vấn đề đã nêu trong<br />
yêu cầu cần đạt, người học phải có những kiến thức, kĩ<br />
năng nào? Những kiến thức, kĩ năng ấy thuộc những lĩnh<br />
vực/môn học nào? Môn nào đảm nhiệm chính, môn nào<br />
góp phần và hỗ trợ ?... Làm được như thế, việc dạy học<br />
Ngữ văn theo hướng tích hợp sẽ góp phần không nhỏ vào<br />
lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục\.<br />
Tài liệu tham khảo<br />
[1] Nguyễn Kim Hồng - Huỳnh Công Minh Hùng<br />
(2013). Dạy học tích hợp trong trường phổ thông<br />
Australia. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư<br />
phạm TP. Hồ Chí Minh, số 42, tr 7-17.<br />
[2] Nguyễn Minh Thuyết (2017). Định hướng đổi mới<br />
chương trình môn Ngữ văn. Tạp chí Khoa học Giáo<br />
dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 143, tr<br />
23-27.<br />
[3] Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục phổ<br />
thông - Chương trình tổng thể.<br />
[4] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ<br />
thông môn Ngữ văn.<br />
[5] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số<br />
29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản,<br />
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công<br />
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị<br />
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập<br />
quốc tế.<br />
[6] Chính phủ (2015). Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày<br />
27/3/2015 về Phê duyệt Đề án đổi mới chương trình,<br />
sách giáo khoa phổ thông.<br />
[7] Quốc hội (2014). Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày<br />
28/11/2014 về Đổi mới chương trình, sách giáo<br />
khoa giáo dục phổ thông.<br />
<br />