intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề cương tham khảo môn Mac 2

Chia sẻ: Hà Quốc Dũng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:42

742
lượt xem
74
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo Đề cương tham khảo môn Mac 2 sau đây. Nội dung tài liệu trình bày các nội dung chính theo từng vấn đề của môn học Triết học Mác-Lênin nhằm giúp các bạn sinh viên củng cố kiến thức cũng như ôn thi một cách dễ dàng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề cương tham khảo môn Mac 2

  1. ĐỀ CƯƠNG THAM KHẢO Vấn đề 1: Phân tích 2 thuộc tính của HH. vì sao HH có 2 thuộc tính *  Khái niệm Hàng hóa: Hàng hóa là một sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu   cầu nào đó của con người thông qua trao đổi mua ­ bán.  * Hàng hóa có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và Giá trị a. Giá trị sử dụng của hàng hóa ­ Khái niệm: Giá trị  sử  dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm có thể  thỏa mãn  một hay một số nhu cầu nào đó của con người.  ­ Bất cứ một hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định có thể thỏa mãn   một hay một số nhu cầu nào đó của con người. Những công dụng đó được gọi là tính có ích của   hàng hóa. ­ Giá trị  sử  dụng của hàng hóa là nội dung vật chất của của cải vì nó do thuộc tính tự  nhiên (lý, hóa học) của thực thể hàng hoá đó quyết định.  ­ Giá trị  sử  dụng của hàng hóa là một phạm trù vĩnh viễn vì không phụ  thuộc vào sự  sự  thay đổi của phương thức sản xuất. ­ Theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng phát hiện thêm những   thuộc tính mới của sản phẩm và phương pháp để lợi dụng chúng đó đó số lượng giá trị sử dụng  ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng tốt.  ­ Giá trị  sử  dụng chỉ  được thực hiện khi nó được tiêu dùng hay sử  dụng. Nếu hàng hóa  chưa được tiêu dùng thì giá trị sử dụng của nó chỉ ở dạng tiềm năng. Để giá trị  sử dụng ở dạng   tiềm năng trở thành giá trị sử dụng hiện thực thì hàng hóa đó cần được tiêu dùng.  ­ Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì nó không phải là giá trị sử dụng   cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội thông qua hoạt động trao đổi,   mua bán. b. Giá trị hàng hóa ­ Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải xuất phát từ giá trị trao đổi.  ­ Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. ­ Khái niệm: Giá trị  trao đổi trước hết là tỷ  lệ  về  lượng mà giá trị  sử  dụng này trao đổi   với giá trị sử dụng khác.  Ví dụ: 1m vải trao đổi lấy 5 kg thóc. (Điều này có nghĩa là 1m vải có giá trị trao đổi bằng  5kg thóc) ­ Vấn đề đặt ra là: tại sao hai hàng hoá, hai giá trị sử dụng lại trao đổi được cho nhau, hơn   nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?  + Cái chung đó không thể  là giá trị  sử  dụng vì hai loại hàng hóa này có công dụng hoàn  toàn khác nhau (vải để  mặc, thóc để  ăn). Và sự  khác nhau đó chỉ  là điều kiện cần thiết để  sự  trao đổi xảy ra vì không ai đem trao đổi những vật phẩm giống hệt nhau về giá trị sử dụng. 
  2. + Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh   trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vậy, thực chất  người ta trao đổi hàng hóa với nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong trong   những hàng hóa đó. ►  Chính hao phí lao động để  tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa  ấy là cơ  sở  chung   cho mọi việc trao đổi và nó tạo thành giá trị hàng hóa. ­ Khái niệm: Giá trị  hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra, kết tinh   trong hàng hóa Giá trị  hàng hóa biểu hiện thông qua giá trị  trao đổi. Tức là, giá trị  là nội dung, là cơ  sở  của giá trị trao đổi. ­ Giá trị  biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi   hàng hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa. Quan hệ giữa  người với người được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật (hàng – hàng). ­ Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, có sản  xuất hàng hóa thì mới có giá trị hàng hóa. ­ Kết luận: + Giá trị  của hàng hóa là do lao động xã hội (lao động trừu tượng) của người sản xuất   hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. + Giá trị  là cơ  sở  là nội dung của giá trị  trao đổi. Chất của giá trị  là lao động, nên sản   phẩm không chứa đựng lao động thì không có giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao động để  tạo ra thì có giá trị cao. Lượng giá trị là biểu hiện lượng lao động kết tinh trong hàng hóa. Lượng  lao động kết tinh thay đổi dẫn đến giá trị trao đổi thay đổi. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện  của giá trị.  + Giá trị là một phạm trù lịch sử. c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa Giá trị  sử  dụng và giá trị  là hai thuộc tính vùa thống nhất, vùa mâu thuần với nha trong   một hàng hoá. ­ Mặt thống nhất: Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa. Một vật muốn trở thành hàng hóa thì   không thể thiếu bất kỳ một thuộc tính nào trong hai thuộc tính trên. Ta có thể  thấy một vật có   ích tức là có giá trị sử dụng nhưng không do lao động tạo ra tức là không có lao động xã hội kết   tinh trong đó thì không phải là hàng hóa, ví dụ như: không khí, ánh nắng mặt trời… ­ Mặt mâu thuẫn: + Thứ nhất, với tư cáchlà một giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất vì   mỗi hàng hóa có một công dụng khác nhau. Ngược lại, với tư  cách là giá trị  thì các hàng hoá  đồng nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao động, đều là lao động được vật hoá. + Thứ  hai, tuy giá trị  và giá trị  sử  dụng cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình   thực hiện giá trị  sử dụng và giá trị  khác nhau về thời gian và không gian. Cụ thể là giá trị  được  thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.  Nếu không thực hiện được giá trị hàng hoá (hàng hóa không bán được) thì không thực hiện được   giá trị sử dụng có thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất “thừa”. * Vì sao phải nghiên cứu giá trị bắt đầu từ giá trị trao đổi?
  3. Giá trị  là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa nên ta không xác định trực tiếp  được. Ta chỉ có thể xác định, đo lường nó thông qua một hàng hóa khác. Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc ►5kg thóc đo gía trị cho 1 m vải Do đó ta luôn phải xác định tỷ lệ về lượng mà giá trị  sử  dụng này trao đổi với giá trị  sử  dụng khác ►hay nói cách khác, chúng ta đang xác định giá trị trao đổi để xác định giá trị. * Vì sao Hàng hóa có 2 thuộc tính Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị  sử  dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do có   hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất hàng hoá có   tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.  C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó. a. Lao động cụ thể ­ Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp   chuyên môn nhất định. ­ Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng: Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục   đích riêng, công cụ  lao đông riêng, phương pháp hoạt động riêng, và kết quả  lao động riêng ►   tạo ra những sản phẩm có công dụng khác nhau, tức là tạo ra nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa.  b. Lao động trừu tượng ­ Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa không kể  đến hình thức   cụ thể của nó, để quy về một cái chung nhất, đó chính là sự tiêu hao sức lao động ( tiêu hao bắp   thịt, thần kinh, bộ óc) của người lao động sản xuất hàng hóa nói chung. ­ Lao động trừu tượng tích lũy trong hàng hóa và tạo ra giá trị.  + Chỉ có lao động của người lao động sản xuất hàng hóa mới mang tính trừu tượng và tạo   ra giá trị hàng hóa. +  Lao động trừu tượng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa. Tất nhiên không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ  là lao động của   người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt. ­ Tính chất hai mặt nói trên liên quan đến tính chất tư  nhân và tính chất xã hội của lao   động sản xuất hàng hóa. + Tính chất tư nhân: Mỗi người sản xuất hàng hoá có tính tự chủ của mình nên sản xuất   ra cái gì, sản xuất như  thế  nào là việc riêng của họ.  Vì vậy, lao động của họ  trở  thành việc  riêng, mang tính tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân. + Tính chất xã hội:  Lao động của mỗi sản xuất hàng hóa cũng là một bộ  phận của lao  động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội làm cho lao   động của người sản xuất trở  thành một bộ  phận trong lao động xã hội, từ  đó   tạo ra sự  phụ  thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. Họ làm việc cho nhau, người này làm việc   vì người kia thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Việc trao đổi hàng hoá không thể dựa vào lao   động cụ thể mà phải quy thành lao động đồng nhất là lao động trừu tượng.  Do đó, lao động trừu  tượng là biểu hiện của lao động xã hội. Lượng giá trị hàng hóa và Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa Giá trị  hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong  hàng hóa đó Như vậy:
  4. ­ VỀ  MẶT CHẤT, giá trị  của hàng hóa được xác định bởi hao phí lao động để  sản xuất   hàng hóa đó quyết định. Giá trị của hàng hóa = lao động vật hóa +  lao động sống = lao động quá khứ + lao động hiện tại = Gtrị tư liệu sản xuất + Gtrị mới do công nhân tạo ra ­ VỀ  MẶT LƯỢNG: giá trị  của hàng hóa được tính theo thời gian lao động xã hội cần  thiết. a. Thời gian lao động xã hội cần thiết ­ Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một sản xuất một hàng hóa nhưng điều  kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động của họ khác nhau nên thời gian lao động cá   biệt khác nhau để tạo ra một hàng hóa không giống nhau nhau (nghĩa là hao phí lao động cá biệt   khác nhau).  ­ Vậy, có phải rằng người sản xuất nào càng lười biếng, càng vụng về, có điều kiện sản  xuất càng khó khăn thì lượng giá trị hàng hóa của họ càng lớn? Điều này không đúng vì sự khác nhau trên chỉ là sự khác nhau về chi phí lao động cá biệt   của mỗi cá nhân trong khi giá trị  hàng hóa không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt mà   tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (giá trị xã hội của hàng hóa).  ­ Khái niệm: Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động trung bình, cần   thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ  trang thiết bị sản xuất trung bình, trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình.  ­ Trong thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết là mức hao phí lao động trung bình  của xã hội để sản xuất ra một hàng hóa. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết (thời   gian lao động xã hội trung bình) gần sát với thời gian lao động cá biệt (mức hao phí lao động cá   biệt) của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp tuyệt đại đa số  hàng hóa cùng loại trên thị  trường. ­ Cần chú ý, thời gian lao động cần thiết là đại lượng không cố định mà thay đổi theo thời   gian và có thể khác nhau ở các nước. Bởi vì trình độ  thành thạo trung bình, cường độ  lao động   trung bình, điều kiện trang bị  kỹ  thuật trung bình…luôn thay đổi theo sự  phát triển lực lượng   sản xuất.  b. Những  yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa Tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới   lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa.  Có thể xem xét ba yếu tố cơ bản sau:  ­ Năng suất lao động: + Là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số  lượng sản phẩm được sản  xuất ra trong một đơn vị thời gian (hoặc lượng thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm).  + Giá trị hàng hóa thay đổi tỉ lệ nghịch với năng suất lao động: khi năng suất lao động tăng   sẽ  kéo theo tổng số sản phẩm tăng lên, tổng giá trị  hàng hóa không tăng so với trước  ► giá trị  một đơn vị sản phẩm giảm xuống và ngược lại. + Năng suất lao động trên thực tế  phụ  thuộc vào nhiều yếu tố  như: trình độ  thành thạo  trung bình của người lao động; mức phát triển của khoa học ­ kỹ thuật, công nghệ và mức ứng  
  5. dụng chúng vào sản xuất; trình độ  tổ  chức quản lý; quy mô và hiệu suất của tư  liệu sản xuất;   các điều kiện tự nhiên. Do đó, muốn tăng năng suất cần nâng cao hiệu quả của các yếu tố trên.  ­  Cường độ lao động: + Là mức độ  hao phí lao động (mức độ  nặng nhọc, khẩn trương hay căng thẳng) của  người lao động trong một đơn vị thời gian. + Cường độ lao động tăng nghĩa là mức hao phí sức lao động (cơ bắp, thần kinh…) trong   một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng  lên. Và nếu cường độ  lao động tăng lên thì tổng số  (hay khối lượng) hàng hoá cũng tăng lên   nhưng tổng hao phí sức lao động cũng tăng lên tương  ứng cùng tỉ  lệ. Do đó, giá trị  một đơn vị  sản phẩm không thay đổi. Vậy, trong thực tế, tăng cường độ  lao động giống như  kéo dài thời   gian lao động nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi. + Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư  liệu sản xuất, đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động. ­ Mức độ phức tạp của lao động: Căn cứ theo độ phức tạp có thể chia ra lao động phức tạp và lao động giản đơn.  + Lao động giản đơn là lao động mà một người bình thường không cần trải qua đào tạo  cũng có thể làm được. + Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải qua huấn luyện, đào tạo, hay lao động lành  nghề mới có thể thực hiện đuợc. Trong cùng một thời gian hao phí như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị lớn hơn  gấp bội lần lao động giản đơn.  Vấn đề 2: Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị * Để  hiểu rõ các quy luật của sản xuất hàng hóa, chúng ta cần hiểu một số  khái niệm  sau: ­ Quy luật: mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố,  các thuộc tính bên trong mỗi sự vật hay giữa các sự vật và hiện tượng với nhau. ­ Quy luật kinh tế: phản ánh những mối liên hệ  tất yếu, bản chất, thường xuyên và lặp  lại giữa các hiện tượng và quá trình kinh tế 1. Nội dung của quy luật giá trị ­ Quy luật giá trị không phải là quy luật kinh tế chung của mọi nền sản xuất xã hội. Nó   cũng không phải là quy luật kinh tế riêng của bất kỳ nền sản xuất xã hội nào. Quy luật giá trị là  quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá vì nó quy định bản chất của sản xuất hàng hóa.   Ở đâu và khi nào có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. ­ Quy luật giá trị còn là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hoá. ­ Nội dung quy luật: Sản xuất và trao đổi hàng hoá dựa trên cơ  sở  giá trị  của nó, tức là  dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. ­ Yêu cầu đối với sản xuất: 
  6. Trong thực tế sản xuất, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí cá biệt của mình. Tuy   nhiên, giá trị  hàng hóa không phải do hao phí lao động cá biệt mà do hao phí lao động xã hội   quyết định. Do vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và tiến tới có lãi thì người   sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao  động xã hội cần thiết.  ► Qua đây, ta thấy được tác động của quy luật giá trị là buộc người sản   xuất phải điều chỉnh quá trình sản xuất của mình sao cho phù hợp nhất. ­ Yêu cầu đối với lưu thông: Trao đổi, lưu thông hàng hóa cũng phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là  trao đổi phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Điều này có nghĩa là, hai hàng hóa được trao  đổi cho nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như  nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá  phải thực hiện với giá cả bằng giá trị. ► Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Giá trị  là   cơ sở của giá cả nên giá cả phụ thuộc vào giá trị  theo hướng: hàng hoá nào có giá trị  cao thì giá  cả cao và ngược lại. Tuy nhiên, trên thị trường, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố cạnh tranh,   cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên   thị trường tách rời so với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động của giá   cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật   giá trị.  Giá cả ộng của quy luật giá trị 2. Tác đ * Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Giá trị ­ Điều tiết sản xuất: Điều tiết sản xuất có nghĩa là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các   lĩnh vực của nền kinh tế. Sự điều tiết sản xuất của quy luật giá trị  thông qua sự biến động của   giá cả thị trường do tác động trực tiếp của cung cầu. Điều này thể hiện qua hai trường hợp sau: + Thứ  nhất, nếu hàng hóa nào đó có cung nhỏ  hơn cầu dẫn đến giá cả  lớn hơn giá trị,  hàng hóa đó có khả năng bán chạy và thu lãi cao, những người sản xuất  sẽ đầu tư thêm tư liệu   sản xuất và sức lao động để  mở  rộng quy mô sản xuất. Không những thế, những người sản   xuất đang hoạt động ở lĩnh vực khác cũng có thể chuyển qua sản xuất mặt hàng này. Do đó, quy   mô ngành này càng được mở rộng. + Thứ hai, đối với những mặt hàng hóa có cung lớn hơn cầu kéo theo giá cả thấp hơn giá   trị, hàng hóa đó sẽ  không bán được và người sản xuất sẽ phải thu hẹp quy mô, thậm chí đóng   cửa xí nghiệp sản xuất mặt hàng này. Một số người sẽ không sản xuất loại hàng hóa đó nữa mà   chuyển sang sản xuất loại hàng hóa có lãi nhiều. Kết quả là các yếu tố của sản xuất của ngành  giảm đi do đã bị chuyển sang ngành sản xuất khác. + Thứ  ba, đối với hàng hóa mag cung bằng cầu thì giá cả  bằng giá trị. Tuy nhiên trường   hợp này ít xảy ra. ►  Vậy, quy luật giá trị  đã tự  động điều tiết tỷ  lệ  phân chia tư  liệu sản xuất và sức lao   động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng đầy đủ hơn, phù hợp hơn nhu cầu của xã hội. ­ Điều tiết lưu thông Tác động điều tiết lưu thông của quy luật giá trị  cũng thông qua sự vận động giá cả  trên   thị trường. Sự biến động giá cả trên thị trường có tác dụng thu hút luồng hàng hóa từ nơi giá cả  thấp đến nơi giá cả cao, nơi có thể thu nhiều lãi. Qua đó, quy luật giá trị  có tác động điều tiết,  
  7. phân phối các nguồn hàng hóa một cách hợp lý hơn giữa các vùng, giữa cung và cầu đối với các  loại hàng hóa trong xã hội.  Trong kinh tế thị trường hiện nay, ngoài vai trò điều tiết của thị trường, nhà nước cũng có  tác động mạnh mẽ đến điều tiết sản xuất, lưu thông thông qua các công cụ của kế hoạch.  * Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá  thành sản phẩm.  ­ Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất là một chủ thể độc lập, tự quyết định   hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Và mỗi người có điều kiện sản xuất khác nhau nên  mức hao phí lao động cá biệt của họ  khác nhau, sản xuất mặt hàng này. Tuy nhiên, trên thị  trường, các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy,   người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã   hội sẽ thu được lãi và ngược lại. Để dành được lợi thế trong cạnh tranh và tránh khỏi nguy cơ  vỡ nợ, phá sản, các chủ thể kinh tế phải luôn luôn phấn đấu hạ thấp giá trị cá biệt sao cho bằng  hoặc thấp hơn giá trị xã hội. ­ Muốn vậy, người sản xuất phải: + Tìm cách cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng các thành tựu mới của  khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. + Cải tiến hiệu quả  tổ  chức quản lý sản xuất, kinh doanh, cải tiến các biện pháp lưu  thông, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng. + Thực hiện tiết kiệm chặt chẽ các yếu tố đầu vào nhằm nâng cao năng suất lao động. + Cải tiến chất lượng, mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng Kết quả  là năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, lực lượng sản xuất không   ngừng phát triển, chi phí sản xuất không ngừng giảm xuống. * Phân hóa giàu nghèo giữa những  người sản xuất hàng hóa. Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu sẽ dẫn đến kết quả là:  Những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độtay nghề  cao, có kiến thức,   trang bị  kỹ thuật tốt, có vốn nên hạ thấp được mức hao phí lao động cá biệt so với hao phí lao   động xã hội cần thiết sẽ  thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể  mua sắm thêm tư  liệu sản xuất,   thuê thêm lao động, mở rộng sản xuất kinh doanh và trở thành ông chủ. Ngược lại, những người không có điều kiện sản xuất thuận lợi, làm ăn kém cõi, hoặc   gặp rủi ro trong kinh doanh sẽ có mức hao phí lao động cá biệt cao, khi bán hàng sẽ rơi vào tình  trạng thua lỗ, thậm chí  phá sản và trở thành người làm thuê. Tác động phân hóa giàu nghèo của quy luật giá trị  cũng chính là một trong những nguyên  nhân, cơ chế làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ  sở  ra đời của chủ  nghĩa tư  bản. Bởi vì nó đã tạo điều kiện tập trung một khối lượng tiền lớn vào tay một số người và đồng  thời cũng tạo ra lực lượng lao động làm thuê bán sức lao động kiếm sống. ►  Qua đây, ta có thể thấy quy luật giá trị  vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu   cực. Một mặt, quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh tế phải sàng lọc, lưu giữ các yếu tố có tác  dụng tích cực đến hiệu quả  sản xuất, gạt bỏ những yếu tố lạc hậu. Mặt khác, nó phân hóa xã   hội thành giàu nghèo, gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Vì lý do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, Nhà nước cần có   những biện pháp để  phát huy mặt tích cực của quy luật giá trị. Cụ  thể, nhà nước có thể  vận  
  8. dụng quy luật giá trị  trong điều tiết vĩ mô để thúc đẩy hoặc không khuyến khích một số  ngành  sản xuất phát triển, bên cạnh đó là các chính sách điều tiết, chính sách xã hội để  hạn chế  sự  phân hóa trên. Đặc biệt, đối với Việt Nam, trong điều kiện phát triển nền kinh tế  hàng hóa  nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, điều đó càng được thực hiện đúng  mức. Vấn đề 3: Trình bày 2 PP SX GTTD (Tương đối và siêu ngạch) a) Quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng trong chủ nghĩa tư bản  ­ Mục đích: nhà tư  bản ứng ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao động không   phải là để thu được giá trị sử dụng mà để thu giá trị, hơn nữa đó là tạo ra giá trị thặng dư. Hành vi của họ sẽ tuân theo công thức:  T ­ H ­ T '  ( T ' > T, T ' ­ T = ∆T > 0 ) Muốn thực hiện mục đích đó, họ phải tổ chức sản xuất ra những giá trị  sử dụng đáp ứng   nhu cầu của xã hội. Vậy quá trình sản xuất tư  bản chủ nghãi là sự  thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá   trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Bởi vì, giá trị  sử dụng là nội dung vật chất   của hàng hóa, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư.   ­ Đặc điểm: Quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư  liệu sản xuất để  sản xuất ra   giá trị thặng dư có 2 đặc điểm: + Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư  bản giống như  những yếu tố khác   của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. +  Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không thuộc về công nhân.  Quá trình sản xuất tư  bản chủ nghĩa là sự  thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá  trị sử dụng với việc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Các phương pháp sản xuất Giá trị thặng dư a. Giá trị thặng dư tuyệt đối ­ Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian   lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động   và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. ­ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Thí dụ, ngày lao động là 8h, trong đó thời gian lao động tất yếu là 4h, mỗi giờ công nhân   tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị. Biểu diễn bằng sơ đồ sau:  Thời gian cần thi ết 4 h Thời gian thặng d ư 4 h     Tỷ suất giá trị thặng dư:       4   100% 
  9. m’ = 4 = 100% 40 Hoặc:m' =   x 100% = 100% 40 + Nếu nhà tư  bản kéo dài ngày lao động của công nhân thêm 2h nữa, trong khi các điều  kiện khác không đổi, lúc đó, thời gian lao động tất yếu là 4h, thời gian lao động thặng dư  là 6h.  Nghĩa là, giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và tỷ suất giá trị thặng dư ( m' ) tăng lên thành: Thời gian cần thi ết 4 h Thời gian thặng d ư 6 h   Tỷ suất giá trị thặng dư:       6   100%  m’ = 4 = 150% 60 Hoặc:            m' =   x 100% = 150% 40     Bất cứ  nhà tư  bản nào cũng muốn kéo dài ngày công lao động của công nhân, nhưng   việc kéo dài đó không thể vượt qua giới hạn sinh lý của công nhân. Bởi vì, người công nhân cần   có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Do vậy, việc kéo dài thời gian lao   động gặp sự phản kháng gay gắt của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm.  + Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, vì lợi nhuận của mình, nhà tư bản lại   tìm cách tăng cường độ  lao động của người công nhân. Vì tăng cường độ  lao động có nghĩa là   chi phí nhiều sức lao động hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Nên tăng cường độ  lao  động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động hay tăng cường độ  lao động đều để  sản xuất giá trị  thặng dư tuyệt đối. ­ Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong thời kỳ đầu nền sản xuất tư bản, với việc phổ  biến sử dụng lao động thủ công và năng suất lao động thấp. b. Giá trị thặng dư tương đối ­ Khái niệm:  Giá trị  thặng dư  tương đối là giá trị  thặng dư  thu được do rút ngắn thời   gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư  liệu   sinh hoạt để  hạ  thấp giá trị  sức lao động, nhờ  đó tăng thời gian lao động thặng dư  lên ngay   trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ. ­ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối Thí dụ, ngày lao động là 10h, trong đó 5h là lao động tất yếu, 5h là lao động thặng dư.  Biểu diễn bằng sơ đồ sau:    Thời gian cần thi ết 5 h Thời gian thặng d ư 5 h   Khi đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:               m’ =  55  100% = 100% 50 Hoặc:    m' =   x 100% = 100% 50 Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1h thì thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn 4h và   thời gian lao động thặng dư tăng lên 6h và tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên thành:
  10.               Thời gian lao động cần thiết  Thời gian lao động thặng dư  4 h 6 h   Khi đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:     6   100%  m’ = 4 = 150% 60 Hoặc: m' =   x 100% = 150% 40 ­ Điểm mấu chốt của phương pháp này là phải hạ thấp giá trị sức lao động. Điều đó đồng  nghĩa với giảm giá trị  các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho công nhân. Muốn vậy phải   tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất  tư liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng. ­ Phương pháp này được sử  dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ  nghĩa tư  bản phát triển.   nhưng lúc đầu chỉ một số nhà tư  bản làm được vì điều kiện khoa học, kỹ thuật chưa cho phép.   Khi đó, các nhà tư  bản này tăng được năng suất lao động nên thu được giá trị  thặng dư  siêu   ngạch. Khi các nhà tư bản đều cải tiến kỹ thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ không còn. Tất   cả sẽ thu được giá trị  thặng dư tương đối. Do đó giá trị  thặng dư siêu ngạch là biến tướng của   giá trị thặng dư tương đối. c. Giá trị thặng dư siêu ngạch C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương   đối. Bởi vì chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, chỉ khác một chỗ một bên là tăng   năng suất lao động cá biệt, một bên là tăng năng suất lao động xã hội. ­ Khái niệm: Giá trị  thặng dư  siêu ngạch là phần giá trị  thặng dư  thu được do áp dụng   công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị   thị trường của nó. ­ Nhà tư  bản chỉ phải bỏ ít chi phí hơn các nhà tư  bản khác nhưng vẫn có thể  bán được  hàng hóa với giá ngang bằng với giá thị trường, từ đó thu được giá trị thặng dư cao hơn.  Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật công nghệ thì giá trị thặng dư siêu ngạch   của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.  ­ Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, nhưng xét  trên phạm vi toàn xã hội, nó lại thường xuyên tồn tại. Và nó chính là động lực mạnh nhất thúc  đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suât lao động cá biệt, đánh bại đối thủ cạnh   tranh, thu được phần giá trị thặng dư lớn. * So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối:   GTTD tương đối GTTD siêu ngạch * Do tăng NSLĐ XH * Do tăng NSLĐ cá biệt * Toàn bộ các nhà TB thu * Từng nhà TB thu * Biểu hiện quan h ệ  gi ữa công  *   Biểu   hiện   quan   h ệ   gi ữa   công   nhân   với   tư  nhân và tư bản. bản, tư bản với tư bản.
  11. Vấn đề 4: Khái niệm tư bản, tư bản bất biến và tư bản khả biến, tư bản cố định và   tư bản lưu động ­ Khái niệm tư  bản: Tư  bản là giá trị  mang lại giá trị  thặng dư  bằng cách bóc lột lao   động không công của người công nhân. Sơ đồ biểu thị sự phân chia tư bản: Giá trị nhà xưởng, công trình,  TƯ BẢN máy móc, thiết bị (c1) Theo vai trò sản xuất TƯ BẢN  CỐ ĐỊNH giá trị thặng dư Theo đặc điểm BẤT BIẾN (c) chu chuyển Giá trị nguyên liệu, nhiên  . liệu, vật liệu phụ (c2) TƯ BẢN LƯU ĐỘNG TƯ BẢN KHẢ BIẾN Giá trị sức lao động (v) Tư bản bất biến và tư bản khả biến Để sản xuất giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng trước tư bản để  mua tư  liệu sản xuất   và sức lao động, tức là tư bản tiền tệ đã được chuyển hóa thành hai hình thức khác nhau của tư  bản sản xuất. Người ta gọi chúng là: Tư  bản bất biến  và Tư  bản khả  biến.  Mỗi bộ  phận tư  bản ấy có vai trò khác nhau trong quá trình làm tăng thêm giá trị Khái niệm ­ Tư  bản bất biến : Bộ  phận tư  bản dùng để  mua tư  liệu sản xuất (tồn tại d ưới hình  thái tư  liệu sản xuất) mà giá trị  đượ c bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị  không  thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất + Ký hiệu: c + Các bộ phận cấu thành:   * Máy móc, nhà xưởng: tham gia vào quá trình sản xuất nhưng chuyển giá trị  từng phần  vào sản phẩm dưới dạng khấu hao hữu hình và vô hình (c1). * Nguyên, nhiên, vật liệu: chuyển toàn bộ  giá trị  vào sản phẩm trong quá trình sản xuất   (c2).
  12. + Đặc điểm:  * Giá trị của chúng đượ c bảo tồn và chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm * Giá trị TLSX đượ c bảo tồn dưới hình thức giá trị sử dụng mới.  ­ Tư  bản khả  biến:   Bộ  phận tư  bản  ứng trước dùng để  mua hàng hoá sức lao   động. Bộ  phận này không biểu hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng, người   công nhân làm thuê đã sáng tạo ra một giá trị  mới, lớn hơn giá trị  của sức lao động, tức   là có sự biển đổi về số lượng. + Ký hiệu: v + Hình thức biểu hiện:  tiền lương. + Quá trình vận động: Diễn ra trên hai mặt  Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt và biến đi trong quá trình tiêu   dùng của công nhân.  Mặt khác,  bằng lao  động trừu tượng, người công nhân tạo ra giá trị  mới không   những đủ để bù đắp sức lao động của mình, mà còn có giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó, bộ phận tư bản này đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. c) Tư bản cố định và tư bản lưu động Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận với thời gian chu chuyển khác nhau về giá trị bởi vì  chúng dịch chuyển giá trị  của mình vào sản phẩm theo những cách thức khác nhau. Căn cứ  vào   tính chất chu chuyển về mặt giá trị của các tư bản đó, C.Mác chia tư bản sản xuất thành hai bộ  phận: tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư bản cố định  ­ Khái niệm: Tư bản cố định là bộ phận của tư bản sản xuất, đồng thời là bộ  phận chủ   yếu của tư bản bất biến (các máy móc, thiết bị, nhà xưởng...) tham gia vào quá trình sản xuất,   về  hình thái hiện vật, chúng tham gia toàn bộ  trong quá trình sản xuất, nhưng về  giá trị  của   chúng không chuyển hết một lần mà chuyển dần từng phần vào sản phẩm (khấu hao) theo mức   độ hao mòn của nó trong quá trình sản xuất.  ­ Đặc điểm của tư bản cố định: Về hình thái hiện vật, tư bản cố định luôn bị  cố định trong quá trình sản xuất, chỉ  có giá  trị  của nó là tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm. Hơn nữa, nó chỉ  lưu thông từng   phần, còn một phần vẫn bị  cố định trong trong tư  liệu lao động, phần này không ngừng giảm  xuống cho đến khi giá trị của nó chuyển hết vào sản phẩm.  Ví dụ: Khấu hao tài sản cố định  (ĐVT: $) Giá   trị   của  Giá   trị   chuyển  Quỹ khấu hao TBCĐ vào (Quỹ   khấu   trừ  Thời điểm gồm chi phí sản phẩm trong củ a sửa chữa cơ bản vòng một năm tư bản cố định) Bắt   đầu   vào   sản       1.000.000 ­ ­ xuất Đến cuối năm thứ 1 800.000 200.000 200.000
  13. Đến cuối năm thứ 2 600.000 200.000 400.000 Đến cuối năm thứ 3 400.000 200.000 600.000 Đến cuối năm thứ 4 200.000 200.000 800.000 Đến cuối năm thứ 5 ­ 200.000 1.000.000 ► Thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài   hơn thời gian một vòng tuần hoàn. Nghĩa là tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu   kỳ sản xuất. Trong quá trình sử dụng, tư bản cố định bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Cụ thể,  tư bản cố định bị hao mòn dần dưới các hình thức:  + Hao mòn hữu hình: là hao mòn về vật chất, về giá trị sử dụng. Loại hao mòn này do quá  trình sử  dụng và tác động của tự  nhiên làm cho các bộ  phận của tư  bản cố  định dần dần hao   mòn đến khi hư hỏng và phải được thay thế, hết chu kỳ sử dụng. + Hao mòn vô hình: là sự hao mòn thuần túy về giá trị. Loại hao mòn này xảy ra ngay cả  khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện máy móc mới hiện đại hơn, rẻ hơn, hoặc có   giá trị  tương đương nhưng công suất cao hơn, nhiều tính năng công dụng hơn. Việc tránh hao  mòn vô hình có ý nghĩa vô cùng to lớn trong quản lý kinh tế. Để  làm được điều đó, các nhà tư  bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ  lao động, tăng ca kíp làm việc… nhằm tận   dụng máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt. ­ Ý nghĩa: Tăng tốc độ  chu chuyển của tư  bản cố  định là một yêu cầu cấp thiết đối với quá trình   sản xuất. Bởi vì, đó là biện pháp quan trọng để  tăng quỹ  khấu hao tài sản cố  định, giảm được   hao mòn hữu hình do tự nhiên phá hủy và tránh được hao mòn vô hình. Qua đó, chủ thể sản xuất  có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh hơn. Tư bản lưu động ­ Khái niệm: Tư  bản lưu động là bộ  phận tư  bản sản xuất, gồm một phần tư  bản bất   biến (nguyên, nhiên liệu, vật liệu…) và tư  bản khả  biến (sức lao động) được tiêu dùng hoàn   toàn trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm trong quá   trình sản xuất. ­ Đặc điểm: Tư  bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư  bản cố định. Nếu tư  bản cố định muốn chu   chuyển hết giá trị của nó phải mất nhiều năm thì trái lại, tư bản lưu động trong một năm có thể  chu chuyển giá trị của nó nhiều lần hoặc nhiều vòng. ­ Sơ đồ biểu thị sự phân chia:    Tư bản cố định   Tư bản lưu động   c Tư bản bất biến     T 1 c ư bản khả biến 2 v              Trong đó:    + c1:  Giá trị nhà xưởng, công trình, máy móc, thiết bị + c2:  Giá trị nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ + v :     Giá trị sức lao động
  14. Vấn đề 5: Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa ­ Địa tô đã xuất hiện từ khi có quyền tư hữu về ruộng đất bà là hình thức bóc lột chủ yếu   trong xã hội phong kiến. trong lịch sử, nó lần lượt trải qua các hình thái: tô lao dịch, tô hiện vật   và tô tiền. ­ Trong chủ  nghĩa tư  bản, nhà tư  bản kinh doanh trong nông nghiệp phải thuê ruộng đất  và thuê công nhân để tiến hành sản xuất thu giá trị thặng dư. Họ coi nông nghiệp là một lĩnh vực  đầu tư kinh doanh.  Cũng như trong công nghiệp, nhà tư bản nông nghiệp phải thu được  P , đồng thời phải  thu được một số giá trị thặng dư dôi ra, tức là lợi nhuận siêu ngạch, để nộp tiền thuê đất của địa   chủ dưới hình thức địa tô (r).  Từ đó, ta thấy giá cả nông sản là: Wns = c + v +  P  + Pns  = c + v +  P  + r    Trong đó:  + Wns: Giá nông sản + c1: khấu hao tài sản cố định phục vụ sản xuất. + v : tiền lương trả cho công nhân nông nghiệp. +  P : lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế. + r: địa tô. + Pns: lợi nhuận siêu ngạch mà tư bản cá biệt kinh doanh nông nghiệp thu được. + ( P  + Pns) = m ­ Như vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng còn lại, tức là một phần của giá   trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra, sau khi đã trừ  phần lợi nhuận bình quân ( P ), mà  các nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp phải trả cho địa chủ.  Khái niệm: Địa tô tư  bản chủ  nghĩa là bộ  phận lợi nhuận siêu ngạch do công nhân lao   động động làm thuê trong nông nghiệp làm ra (tức là một phần của giá trị thặng dư sau khi trừ   lợi nhuận bình quân của tư  bản đầu tư  vào nông nghiệp) mà các nhà tư  bản kinh doanh trong   nông nghiệp phải nộp cho người sở hữu ruộng đất  Vấn đề  đặt ra là: Vì sao tư  bản nông nghiệp lại có thể  thu được phần lợi nhuận siêu  ngạch để  nộp cho địa chủ?  Nghiên cứu các hình thức địa tô tư  bản chủ nghĩa sẽ  giúp chúng ta   giải thích rõ điều này. Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa a, Địa tô chênh lệch ­ Để  phân tích, ta phải giả định nông sản cũng bán theo giá cả  sản xuất, nghĩa là tư  bản  phải thu hồi được chi phí sản xuất và lợi nhuận bình quân.  ­   Như   phân   tích   ở   phần   trước,   chúng   ta   thấy   rằng   lợi   nhuận   siêu   ngạch   trong   công  nghiệpdo cạnh tranh tạo nên, vì vậy nó chỉ  xuất hiện tạm thời và không tồn tại  ổn định một   doanh nghiệp nào nhất định.
  15. ­ Trái lại, lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp tồn tại ổn định trong các xí nghiệp có   điều kiện sản xuất thuận lợi.  Điều đó là do: + Một là, số lượng ruộng đất bị giới hạn và bị độc chiếm, người ta không thể tự tạo thêm   ra những vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi.  + Thứ hai, nông phẩm là thứ sản phẩm không thể thiếu, không thể  thay thế đối với đời   sống con người. Bên cạnh đó, nhu cầu về lương thực thực phẩm không ngừng tăng lên, do đó xã   hội không chỉ canh tác trên những mảnh đất tốt mà buộc phải canh tác trên cả ruộng đất xấu hay   kém thuận lợi hơn.  Do vậy, giá cả  thị  trường của nông phẩm do giá cả  sản xuất  ở  nơi có điều kiện ruộng   đất xấu hoặc kém thuận lợi, để đảm bảo cho người kinh doanh trên đất này phải thu được lợi   nhuận bình quân. (Trong công nghiệp, giá cả sản xuất là do điều kiện sản xuất trung bình quyết  định). Điều này giúp cho người kinh doanh trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi, có   năng suất cao hơn, khi bán theo giá cả  sản xuất chung, ngoài phần lợi nhuân bình quân, sẽ  thu  được lợi nhuận siêu ngạch để chuyển thành địa tô nộp cho chủ đất gọi là địa tô chênh lệch. (Lợi   nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định, lâu dài vì nó dựa trên tính chất cố định của đất đai và   độ màu mỡ của đất) Địa tô chênh lệch trong CNTB là số dư ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên ruộng đất  có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung quyết định   bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và  trung bình.(Đất xấu nhất nhưng không phải bất kỳ chi phí nào cũng trở  thành giá cả  SX, mà là   chi phí SX ở mức trung bình)  Như vậy, địa tô chênh lệch là một phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân   thu được trên rượng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số  chênh lệch giữa giá cả   sản xuất chung được quy định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất  với giá cả  sản   xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.   Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn gốc của nó là một  phần giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch là  do có sự độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối tư bản chủ nghĩa.  ­ Xét về cơ sở hình thành lợi nhuận siêu ngạch và việc chuyển hóa nó thành địa tô thì địa  tô chênh lệch được chia làm hai loại: + Địa tô chênh lệch I: là địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kện tự nhiên thuận   lợi như: độ màu mỡ tự nhiên cao, gần nơi tiêu thụ, gần đường giao thông… làm cho năng suất   của tư bản nông nghiệp cao hơn, tiết kiệm được chi phí hơn. Ví dụ 1: Sự hình thành địa tô chênh lệch I trên đất tốt và trung bình (Giả sử: P’ = 20%) TB  Sản  Giá cả sxuất cá biệt Giá cả sxuất chung Địa   tô  Loại  đầu  P’ lượng Của   tổng  Của   1  Của   tổng  chênh lệch ruộng Của 1 tạ tư (tạ) SP tạ SP Rcl1 Tốt 100 20 6 20 120 30 180 60 T.bình 100 20 5 24 120 30 150 30 Xấu 100 20 4 30 120 30 120 0
  16. Ví dụ 2: Sự hình thành địa tô chênh lệch 1 trên đất có vị trí thuận lợi Vị   trí  TB đầu  Phí   vận  P’  Sản  Giá cả sxuất cá biệt Giá cả sxuất chung Địa tô chênh  ruộng tư chuyển lượng Của   tổng  Của 1 tạ Của   1  Của   tổng  lệch (tạ) SP tạ SP Rcl1 Gần 100 0 20 5 120 24 27 135 15 Xa 100 15 20 5 135 27 27 135 0 Vị trí thuận lợi sẽ giúp nhà tư  bản kinh doanh nông nghiệp tiết kiệm được phần lớn chi   phí lưu thông. Nhưng khi bán hàng thì cùng giá bán nên người nào có chi phí vận chuyển ít hơn   sẽ thu được một khoản lợi nhuận siêu ngạch so với người khác, do đó họ thu được địa tô chênh  lệch. + Địa tô chênh lệch II: là địa tô thu được nhờ  thâm canh tăng năng suất, là kết quả  của  việc đầu tư thêm tư  bản vào một đơn vị  diện tích để  nâng cao chất lượng canh tác, nhằm tăng   độ màu mỡ trên mảnh ruộng đó, nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích. Lầ Giá   cả   sxuất   cá  Giá   cả   sxuất  Tư  n  Sản  biệt chung Địa   tô  Loại  bản  P’  đầ lượng  chênh  ruộng đầu  (%) T ổ ng   s ả n   T ổ ng   s ả n   u  (tạ) 1 tạ 1 tạ lệch tư lượng lượng tư Cùng  1 100 20 4 30 120 30 120 0 một  2 100 20 6 20 120 30 180 60 thửa  ruộng 3 100 20 8 15 120 30 240 120  Địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II có điểm giống nhau là: Đều là lợi nhuận  siêu ngạch, hình thành do hiệu quả đầu tư khác nhau của những tư bản như nhau.   Điểm khác nhau giữa hai loại địa tô là:   Địa tô chênh lệch I là do hiệu quả đầu tư trên những thửa ruộng có điều kiện khác  nhau (quảng canh),   Địa tô chênh lệch II là do hiệu quả  những lần đầu tư  khác nhau trên cùng thửa   ruộng (thâm canh). Trong thời hạn hơp đồng thuê đất, phần lợi nhuận siêu ngạch thu được, do việc nhà tư  bản thuê đất đã thâm canh, thuộc về nhà tư  bản. Chỉ  đến khi hết thời kỳ thuê đất, địa chủ  mới   tìm cách nâng giá thuê đất lên để chiếm lấy phần lợi nhuận siêu ngạch đó, tức là nhằm biến lợi   nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh (địa tô chênh lệch II)  thành địa tô chênh lệch I. điều này   làm phát sinh mâu thuẫn là, nhà tư bản thuê đất kéo dài thời hạn thuê đất, còn địa chủ lại muốn  rút ngắn thời hạn cho thuê. Do đó, trong thời hạn hợp đồng, nhà tư bản tìm mọi cách quay vòng,  tận dụng, vắt kiệt độ màu mỡ của đất đai. ­ Địa tô tuyệt đối   + Địa tô tuyệt đối là số địa tô mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp tuyết đối phải   nộp hco địa chủ dù ruộng đất tốt hay xấu, ở  gần hay ở xa. 
  17. (Trên những ruộng đất tốt và trung bình, địa chủ còn thu thêm địa tô chênh lệch I và địa tô   chênh lệch II) + Dưới chế độ tư bản, sự độc quyền tư hữu ruộng đất đã cản trở sự phát triển của quan   hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp. Do vậy, nông nghiệp thường lạc hậu hơn công   nghiệp về  kinh tế  và kỹ  thuật, và cấu tạo hữu cơ  trong nông nghiệp thấp hơn trong công   nghiệp. Điều này phản ánh một điều: nếu trình độ  bóc lột như  nhau (tỷ  suất giá trị  thặng dư  như nhau) thì một tư bản ngang nhau sẽ sinh ra trong nông nghiệp nhiều giá trị thặng dư hơn.  Ví dụ: Giả sử:  + Có hai tư bản đầu tư trong nông nghiệp và trong công nghiệp đều là 100.  + Trong công nghiệp, cấu tạo hữu cơ là 4/1 còn trong nông nghiệp, cấu tạo hữu cơ là 3/2. + m’ = 100% Ngành  Tổng   giá   trị  Đại   tô  c+v c/v m’ m P' P SX SP tuyệt đối Cnghiệp 80c+20v 4/1 100% 20 80c+20v+20m 20% 20 0 Nnghiệp 60C+40v 3/2 100% 40 60C+40v+40m 20% 20 20 + Địa tô tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch (20) dôi ra ngoài lợi nhuận bình  quân (20) được hình thành do cấu tạo hữu cơ của của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong   công nghiệp, nó là số  chênh lệch giữa giá trị  nông sản với giá cả  sản xuất chung của nông  phẩm. + Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn   trong công nghiệp, còn nguyên nhân tồn tại của địa tô tuyệt đối là do chế độ độc quyền tư  hữu  ruộng đất đã ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh giữa các ngành để hình thành lợi nhuân  bình quân. * So sánh địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch: Địa tô chênh lệch Địa tô tuyệt đối Giống nhau Cùng là Pns, nguồn gốc từ  giá trị thặng dư Khác nhau   Nguyên nhân sinh ra địa tô chênh  Nguyên   nhân   sinh   ra   địa   tô  lệch   là   độc   quyền   kinh   doanh  tuyệt đối là độc quyền tư  hữu  ruộng đất ruộng đất ­ Địa tô độc quyền   + Địa tô độc quyền là hình thức đặc biệt của địa tô tư  bản chủ  nghĩa. Nó có thể  tồn tại  trong nông nghiệp, công nghiệp khai thác và các khu đất trong thành thị. + Địa tô gắn với độc quyền sở  hữu ruộng đất, độc chiếm các điều kiện tự  nhiên thuận  lợi, cản trở  sự  cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả  độc quyền của ruộng đất. Địa tô thu trên  các loại có thể  trồng các loại cây cho những sản phẩm quý hiếm, có giá trị  cao, hay những  khoáng sản có giá trị đặc biệt, thường rất cao  và được gọi là địa tô độc quyền. + Nguồn gốc của nó cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền cao của những sản   phẩm thu được trên đất ấy mà nhà tư bản phải nộp cho địa chủ.
  18. Vấn đề 6: Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền a) Tập trung sản xuất và sự hình thành các tổ chức độc quyền ­ Tích tụ tập trung cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ  bản của chủ nghĩa đế quốc.  ­ Tập trung sản xuất đến mức độ cao trực tiếp hình thành các tổ chức độc quyền. Và lúc  này, giữa các xí nghiệp lớn tồn tại 2 xu thế: + Dễ dàng thỏa thuận với nhau để hợp tác sản xuất, kinh doanh + Cạnh tranh gay gắt bất phân thắng bại nên dẫn đến khuynh hướng thỏa hiệp với nhau  để thiết lập thế lực độc quyền. Tích tụ,  Một số xnghiệp có quy mô lớn Thỏa hiệp,  Tổ chức tập trung  thỏa thuận độc quyền sản xuất Cạnh tranh gay gắt ­ Tổ  chức độc quyền: liên minh giữa các nhà tư  bản lớn nắm trong tay phần lớn (thậm   chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy  ảnh hưởng quyết định   đến quá trình sản xuất, lưu thông của ngành đó, nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền   cao. ­ Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa các liên minh độc quyền liên kết ngang, tức là  liên kết các doanh nghiệp trong cùng một ngành. Những hình thức độc quyền cơ bản kiểu này là:  Cartel, Cydicate, Trust. +  Cartel:  tổ  chức độc quyền trên cơ  sở  những hiệp định giữa các thành viên để  thỏa   thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, thị trường thanh toán... của các  xí nghiệp tham gia nó. Còn việc sản xuất, thương nghiệp vẫn độc lập, do từng thành viên thực  hiện. Nếu ai làm sai sẽ bị phạt tiền theo hiệp định. + Cydicate: tổ  chức độc quyền thực hiện những liên minh về  mua nguyên vật liệu, bán  hàng hóa, do một ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công việc độc lập của   mỗi thành viên. Mục đích của nó là thống nhất đầu mối mua, bán để  mua rẻ, bán đắt nhằm thu   lợi nhuận cao. ►  Cartel và Cydicate dễ bị  phá vỡ, vì khi tương quan lực lượng thay đổi, các thành viên  chạy theo lợi ích bộ phận nên dễ phá cam kết. Từ đó Trust hình thức cao hơn của độc quyền ra  đời. + Trust: hình thức độc quyền cao nhằm thống nhất cả việc sản xuất và thương nghiệp  vào trong tay một ban quản trị điều hành chung. Các thành viên trở thành cổ đông hưởng lợi tức   cổ phần. ­ Đến giai đoạn sau, hình thức liên kết dọc xuất hiện. Đó là liên kết của các xí nghiệp  lớn, các Cydicate, Trust thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan đến nhau về kinh tế và kỹ  thuật. Người ta gọi hình thức này là Consortium. Một Consortium có thể có hàng trăm xí nghiệp  liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch xù. Từ  giữa thế  kỷ  XX, một hình thức liên kết mới, liên kết đa ngành, hình thành những  conglomerat, hay concern. Đó là những công ty khổng lồ thâu tóm nhiều công ty xí nghiệp thuộc 
  19. những ngành công nghiệp rất khác nhau, đồng thời bao hàm cả vận tải, thương mại, ngân hàng  và các dịch vụ khác. ­ Nhờ nắm được địa vị thống trị trong sản xuất, lưu thông nên các tổ  chức độc quyền có   khả năng định giá cả độc quyền cao. Giá cả độc quyền có hai loại: + Giá cả độc quyền mua: Mua hàng hóa (đặc biệt là nguyên liệu) với giá thấp hơn nhiều  so với giá cả sản xuất. + Giá cả độc quyền bán: Bán hàng hóa với giá cao hơn giá cả sản xuất. ► Tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền. ­ Tuy nhiên, giá cả độc quyền cũng không thủ tiêu quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng   dư. Vì xét trên toàn xã hội tư bản thì: Do đó, phần lợi nhuận kếch xù mà các tổ chức độc quyền thu được cũng bằng phần mà   tầng lớp tư sản vừa và nhỏ cũng như nhân dân lao động mất đi. Lợi nhuận độc quyền còn gồm  cả  phần bóc lột những tư  sản vừa và nhỏ, người sản xuất nhỏ  trong nước và đặc biệt là nhân   dân các nước thuộc địa và phụ  thuộc (do tư  bản mua nông sản với giá rẻ, bán hàng công nghệ  giá cao...) b) Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính ­ Cùng với quá trình tích tụ  và tập trung tư  bản như  trong công nghiệp, đồng thời cũng   diễn ra quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong ngân hàng. Cạnh tranh làm các ngân hàng nhỏ  bị  phá sản, ngân hàng lớn thôn tính ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng nhỏ khác cũng chủ  động sáp   nhập. Điều đó dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền ngân hàng.  ­ Nhờ  nắm trong tay phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, các tổ  chức độc quyền ngân   hàng có thêm vai trò mới, từ  chỗ  làm trung gian trong thanh toán và tín dụng nay họ  nắm được  phần lớn tư  bản tiền tệ trong xã hội, trở  thành người có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt  động kinh tế ­ xã hội. Vai trò đó thể hiện: + Cử người vào cơ quan quản lý của tư bản công nghiệp. + Trực tiếp đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp. ­ Ngược lại, trước sự chi phối, khống chế ngày càng xiết chặt của ngân hàng, các tổ chức   độc quyền công nghiệp cũng tìm cách xâm nhập tương ứng đối ngân hàng. Cụ thể là: +  Các tổ chức độc quyền công nghiệp tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách  mua cổ phiếu của các ngân hàng lớn để có thể chi phối hoạt động của ngân hàng. + Tự lập ngân hàng phục vụ cho riêng mình.   ­ Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và trong ngân hàng gắn bó, đan xen vào nhau  và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một loại tư bản mới. Đó là tư bản tài chính. ­ Theo Lênin: “tư bản tài chính là kết quả của sự kết hợp giữa tư bản ngân hàng của một   số ngân hàng độc quyền lớn nhất với tư bản của liên minh độc quyền các nhà công nghiệp”.
  20.     Ta  có  thể  thấy  qua  sơ  đồ: Phá sản Tổ chức Tổ chức Ngân hàng  Độc quyền  Độc quyền    Công  Ngân hàng nhỏ Sáp  nhập TƯ BẢN TÀI CHÍNH Cạnh tranh khốc liệt ­ Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối   toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn bộ xã hội tư bản. Đó là bọn đầu sỏ tài chính. Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua các phương pháp: + Vận dụng “chế  độ  tham dự”. Thực chất của chế  độ  này là một số  nhà tài chính lớn  hoặc một tập đoàn tài chính nhờ nắm số cổ phiếu khống chế nên có thể nắm được một công ty   lớn nhất với tư cách là “công ty mẹ”. Sau đó, công ty này lại nắm được lượng cổ phiếu chi phối   được nhiều “công ty con”, và đến lượt mình, các “công ty con” lại chi phối được các “công ty   cháu”.  Vậy, chế  độ  tham dự  và phương pháp tổ  chức tập đoàn theo kiểu mắt xích đã giúp cho   nhà tư  bản độc quyền tài chính có thể  khống chế  và điều tiết một lượng tư  bản lớn hơn gấp   nhiều lần so với lượng tư bản mà họ đầu tư. + Sử dụng các thủ đoạn: lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu  cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất để thu lợi nhuận cao. ­ Thống trị về kinh tế là cơ sở thống trị về chính trị và các mặt khác. Chúng chi phối mọi   hoạt động của cơ quan nhà nước, biến nhà nước thành công cụ phục vụ cho tư bản độc quyền.   Đó cũng là nguyên nhân xuất hiện chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ khác, tất   cả  cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để  áp bức, bóc lột các nước chậm phát   triển.  c) Xuất khẩu tư bản ­ Lênin vạch ra rằng: “xuất khẩu hàng hóa là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh   tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền”. ­ Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hoá ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng   dư. Xuất khẩu tư  bản là  xuất khẩu giá trị  ra nước ngoài, mang tư  bản đầu tư   ở  nước ngoài  chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu giá trị ra nước  CNTB ngoài nhằm mục đích đoạt  XK Tư bản Độc quyền giá trị thặng dư và nguồn  lợi khác Xuất khẩu hàng hóa  CNTB Tự do  cạnh tranh XK Hàng  ra nước ngoài nhằm  hóa thực hiện giá trị ­ Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành một tất yếu. Bởi vì:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2