intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Hợp đồng dân sự

Chia sẻ: Mai Đức | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:22

532
lượt xem
86
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Hợp đồng dân sự giới thiệu tới các bạn về khái niệm và đặc điểm của một bản hợp đồng dân sự; hình thức hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành; thực trạng và giải pháp về hợp đồng dân sự. Mời các bạn tham khảo tài liệu để hiểu rõ hơn về điều này.

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Hợp đồng dân sự

  1. MỤC LỤC Mở đầu…………………………………………………………………...…… 2 Nội dung………………………………………………………………………3 1. Hợp đồng dân sự: ……………………………………………………….3 1.1. Khái niệm: ……………………………………………………….3 1.2. Đặc điểm: ………………………………………………………..4 2. Hình thức hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành: …..6 1.1. Hình thức miệng: ………………………………………………...7 1.2. Hình thức văn bản:……………………………………………… 8 1.3. Hình thức hành vi cụ thể:……………………………………… 10 1.4. Hình thức bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử): ………..10 3. Thực trạng và giải pháp:……………………………………………… 11
  2. 1.1. Thực trạng:……………………………………………………..11 1.2. Giải pháp:………………………………………………………17 Kết luận……………………………………………………………………… 19 Danh mục tài liệu tham  khảo………………………………………………...20 MỞ ĐẦU Để  tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như  mỗi tổ  chức phải   tham gia nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết  lập với nhau những quan hệ, để  qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích  vật chất như chuyển giao tài sản, quyền tài sản hoặc một nghĩa vụ  nào đó  nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng,…Quan hệ  đó được gọi là hợp  đồng dân sự. Sự chuyển giao đó thường được hình thành thông qua sự thỏa   thuận giữa các bên, trên cơ  sở  đó pháp luật buộc các bên phải thực hiện   quyền và nghĩa vụ đó. Theo Điều 388 Bộ  luật dân sự  2005 quy định “Hợp 
  3. đồng dân sự  là sự  thỏa thuận giữa các bên về  việc xác lập, thay đổi và   chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, cơ sở đầu tiên để hình  thành một hợp đồng dân sự  là việc thỏa thuận bằng ý chí tự  nguyện của   các bên. Tuy nhiên hợp đồng chỉ được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý  chí các bên phù hợp với quy định của nhà nước, một trong các điều kiện đó  là quy định về hình thức của hợp đồng.  NỘI DUNG 1. HỢP ĐỒNG DÂN SỰ: 1.1. Khái niệm: Khái niệm hợp đồng dân sự  cần phải xem xét theo nhiều phương  diện khác nhau. Theo phương diện khách quan, thì hợp đồng dân sự  là do  các quy phạm pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan  hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các  chủ thể với nhau. 
  4. Theo phương diện chủ  quan, hợp đồng dân sự  là một giao dịch dân  sự  mà trong đó các bên tự  do trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự  thỏa  thuận   cùng   nhau   làm   phát   sinh   các   quyền   và   nghĩa   vụ   nhất   định.  Theo  phương diện này hợp đồng dân sự  vừa được xem xét  ở  dạng cụ  thể  vừa   được xem xét ở dạng khái quát. Nếu định nghĩa ở dạng cụ thể thì hợp đồng  dân sự  là sự  thỏa thuận giữa các bên về  việc xác lập, thay đổi hay chấm  dứt các quyền nghịa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng,  cho tài sản, làm một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa  thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt  tiêu dùng (Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự). Sự liệt kê bao giờ cũng rơi   vào tình trạng không đầy đủ  và để  quy định của pháp luật có thể  bao trùm  được toàn bộ  các hợp đồng dân sự  xảy ra trong thực tế, BLDS đã định  nghĩa nó ở dạng khái quát hơn: “Hợp đồng dân sự là sử thỏa thuận giữa các  bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự” –   Điều 388 BLDS năm 2005. Như vậy, hợp đồng dân sự không chỉ là sự thỏa  thuận để một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia  mà còn có thể là sự thỏa thuận để  thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ  đó.   Hợp đồng dân sự  và pháp luật về hợp đồng dân sự  là hai khái niệm không  đồng nhất với nhau.  1.2. Đặc điểm: Theo Điều 388 Bộ  luật dân sự  2005 định nghĩa về  hợp đồng dân sự  thì hợp đồng dân sự có hai nét cơ bản đó là : Sự thỏa thuận giữa các bên và  làm phát sinh hậu quả pháp lý.  Hợp đồng dân sự  trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp  đồng phải chứa đựng yếu tố  tự  nguyện khi giao kết nó phải có sự  trùng 
  5. hợp ý chí của các bên. Việc giao kết hợp đồng dân sự  phải tuân theo các   nguyên tắc tự  nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay  thẳng, tự  do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái với pháp luật và   đạo đức xã hội. Thỏa thuận theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là: Đi tới sự đồng ý sau  khi cân nhắc, thảo luận. Thỏa thuận cũng có nghĩa là sự  nhất trí chung   (không bắt buộc phải được nhất trí hoàn toàn) được thể hiện ở chỗ không  có một ý kiến đối lập của bất cứ  một bộ  phận nào trong số  các bên liên  quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua một quá trình   mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải được xem xét và dung  hoà được tất cả các tranh chấp; là việc các bên (cá nhân hay tổ  chức) có ý   định chung tự nguyện cùng nhau thực hiện những nghĩa vụ  mà họ  đã cùng   nhau chấp nhận vì lợi ích của các bên. Sự đồng tình tự  nguyện này có thể  chỉ  được tuyên bố  miệng và được gọi là thoả  thuận quân tử  (hợp đồng  quân tử) hay được viết thành văn bản gọi là hợp đồng viết hay hợp đồng  thành văn. Tuỳ theo từng trường hợp được gọi là hợp đồng hay hiệp định;   vd. hiệp định mua bán, hợp đồng đại lí. Yếu tố thỏa thuận đã bao hàm trong  nó yếu tố  tự  nguyện, tự  định đoạt và sự  thống nhất về  mặt ý chí. Đây là  yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đặc trưng của hợp đồng so với các giao   dịch dân sự  khác, đây cũng là yếu tố  làm nên bản chất của luật dân sự  so  với các ngành luật khác. Về  chủ thể tham gia hợp đồng dân sự : Chủ thể giao kết, thực hiện   hợp đồng dân sự   phải có ít nhất từ hai bên trở  lên, vì hợp đồng dân sự  là  một giao dịch pháp lý song phương hay đa phương. Các chủ  thể  khi giao  kết, thực hiện hợp đồng đều phải có tư  cách chủ  thể  tức là phải đáp ứng 
  6. các điều kiện theo quy định của pháp luật đối với một chủ thể của quan hệ  dân sự (ví dụ: nếu chủ thể là cá nhân thì phải đáp ứng được các yêu cầu về  năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự…). Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để xác lập   thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.  Quyền và nghĩa vụ trong   phạm vi hợp đồng có phạm vi rất rộng, trước đây trong Pháp lệnh hợp  đồng dân sự ngày 29­4­1991 (Điều 1) quy định hợp đồng dân sự là sự  thỏa   thuận của các bên về  việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và   nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm  một hoặc không làm công việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong   đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.  Theo quy định của pháp luật hiện hành thì không liệt kê cụ  thể  các  quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể đó tuy nhiên về bản chất thì các quyền và  nghĩa vụ mà các bên hướng tới khi giao kết, thực hiện hợp đồng là những   quyền và nghĩa vụ để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng,   đó cũng chính là một trong những đặc điểm cơ bản để  phân biệt giữa hợp   đồng dân sự  và các hợp đồng kinh tế, thương mại. Yếu tố  này giúp phân  biệt hợp đồng dân sự với hợp đồng kinh tế :  Mục đích của hợp đồng kinh  tế khi các bên chủ thể tham gia là mục đích kinh doanh (nhằm phát sinh lợi   nhuận) trong khi đó hợp đồng dân sự các bên tham gia nhằm thỏa mãn nhu  cầu sinh hoạt, tiêu dùng.  Chủ  thể  tham gia hợp đồng kinh tế  phải là các  thương nhân, các công ty, đơn vị  kinh doanh (nếu chủ  thể  là cá nhân thì  phải có đăng ký kinh doanh)
  7. 2. HÌNH   THỨC   HỢP   ĐỒNG   DÂN   SỰ   THEO   QUY   ĐỊNH  CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH: Những điều khoản mà các bên đã cam kết thỏa thuận phải được thể  hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định. Hay nói cách khác hình  thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã  xác định. Tùy thuộc vào nội dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như  tùy thuộc vào độ  tin tưởng lẫn nhau mà các bên có thể  lựa chọn một hình  thức nhất định trong việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng trường  hợp cụ thể. Để đảm bảo được tính thống nhất và mối quan hệ liên thông, bổ trợ  lẫn nhau trong hệ thống các quy định pháp luật về hợp đồng, chế định hợp   đồng trong Bộ  luật Dân sự  2005 được xây dựng theo hướng là nền tảng  chung cho pháp luật về hợp đồng, có hiệu lực điều chỉnh đối với tất cả các  quan hệ hợp đồng trong mọi lĩnh vực. Về hình thức hợp đồng, Điều 401 Bộ  luật Dân sự 2005 quy định : “1. Hợp đồng dân sự  có thể  được giao kết bằng lời nói, bằng văn   bản hoặc bằng hành vi cụ  thể, khi pháp luật không quy định đối với loại   hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. 2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể   hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc   phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Hợp đồng không bị  vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về  hình   thức, trừ trường hợp có quy định khác.” Theo Khoản 1 Điều 124 BLDS 2005 quy định về hình thức giao dịch  dân sự: “1.  Giao dịch dân sự  được thể  hiện bằng lời nói, bằng văn bản  
  8. hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử   dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. 2.Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự  phải được   thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký   hoặc xin phép thì phải tuân theo quy định đó.” Như ta đã biết, hợp đồng dân sự cũng là một loại gia dịch dân sự nên  nó có đầy đủ  các đặc điểm về  hình thức của giao dịch dân sự  như. Từ  những căn cứ trên ta thấy, hình thức hợp đồng gồm: bằng lời nói, bằng văn  bản, bằng hành vi cụ  thể  và bằng thông điệp dữ  liệu (hợp đồng điện tử).  So với quy định về hình thức hợp đồng dân sự của Bộ luật Dân sự 1995 tại  Điều 400 thì  quy định về  hình thức của hợp đồng trong Bộ  luật Dân sự  2005 được bổ sung thêm một hình thức mới: hình thức thông điệp dữ liệu. 1.1. Hình thức miệng:            Thông qua hình thức này, các bên chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau   về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi   nhất định với nhau. Hình thức miệng được coi là có độ xác thực thấp nhất.  Khi có tranh chấp giữa các bên về  một hợp đồng đã được giao kết miệng   với nhau, bất cứ bên nào cũng có thể phủ nhận tất cả những cam kết trước   đây của mình. Tuy nhiên, đối với tất cả  các quốc gia trên thế  giới thì hình  thức miệng vẫn được coi là hình thức hợp đồng có lịch sử lâu đời và được  áp dụng phổ biến nhất trong các giao dịch dân sự. Trước đây điều đó được  lý giải là do số lượng những người biết đọc, biết viết còn rất ít. Ngày nay,  hình thức miệng vẫn giữ  nguyên được vai trò to lớn của nó. Các trường   hợp cơ bản phổ biến áp dụng hình thức miệng là:
  9. ­ Hình thức miệng được áp dụng trong những trường hợp các bên tham  gia giao kết hợp đồng đã có độ tin cậy lẫn nhau. Độ tin cậy giữa các  chủ  thể  thường được xác lập thông qua các quan hệ  ruột thịt, quan   hệ hàng xóm láng giềng, quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, cùng học tập  … Sự tin tưởng giữa các chủ thể ở đây đóng vai trò như là một nhân  tố  chủ  quan bổ  xung thêm cho sự  xác thực của hình thức miệng.  Trong nhiều trường hợp do thiếu độ  tin cậy nên các chủ  thể  không  thể áp dụng được hình thức miệng. ­ hình thức miệng được áp dụng với những hợp đồng có giá trị  nhỏ.   Đối với những hợp đồng có giá trị quá nhỏ ( ví dụ: mua mớ rau, bao   diêm, mượn cái bút chì,…) thì các bên không có cách nào khác ngoài  cách áp dụng hình thức miệng, nếu áp dụng các hình thức khác sẽ có  thể  tạo nên những chi phí quá lớn, mà giá trị  hợp đồng quá nhỏ  nên   các chi phí đó làm cho việc ký kết hợp đồng trở nên vô nghĩa. ­ hình thức miệng được áp dụng đối với những hợp đồng mà có thể  được thực hiện và chấm dứt ngay sau khi giao kết. Ví dụ  như đa số  các hợp đồng bán lẻ đều được thực hiện dưới hình thức miệng. Sau   khi thỏa thuận miệng xong về giá cả, số  lượng và chất lượng …thì  hai bên thực hiện ngay thỏa thuận đó ( bên bán cân đong và bàn giao  hàng, bên mua nhận lấy hàng và trả tiền ). Đến đây hợp đồng coi như  đã thực hiện xong và chấm dứt. 1.2. Hình thức văn bản:           Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên   có thể ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản. Trong văn  bản đó, các bên phải ghi đầy đủ  những nội dung cơ bản của hợp đồng và 
  10. cùng kí tên xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao  kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lí chắc chắn hơn so với   hình thức miệng. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ  dàng thực  hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia. Vì vậy, đối với những hợp   đồng   mà   việc   thực   hiện   không   cùng   lúc   với   việc   giao   kết   thì   các   bên  thường chọn hình thức này. Thông thường, hợp đồng được lập thành nhiều  bản và mỗi bên giữ  một bản, coi như  đã có trong tay một bằng chứng,   chứng minh quyền dân sự của mình. Hình thức hợp đồng bằng văn bản mang tính xác thực hơn so với  hình thức hợp đồng miệng. Trong văn bản đó các bên ghi đầy đủ những nội  dung đã thỏa thuận, cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Văn bản hợp đồng   thường được soạn thành hai hay nhiều bản gốc giông nhau, đều phải có  chữ  ký của các bên, mỗi bên được giữ  một bản. Căn cứ  vào văn bản của   hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên  kia. Các trường hợp cơ bản áp dụng hình thức văn bản này là :  ­ Đối với hợp đồng có giá trị lớn. ­ Đối với hợp đồng  mà việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ  hợp   đồng có thể  diễn ra trong một thời gian dài không cùng lúc với việc  giao kết (ví dụ : hợp đồng gia công xây dựng nhà…) ­ Khi giữa các bên chưa đạt được sự tin cậy nhất định. Tại Khoản 2 Điề  401BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp   luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng   hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các   quy định đó”. Thông qua chỉ  dẫn này ta thấy rằng hợp đồng bằng văn bản  được chia tiếp ra làm hai loại là : hợp đồng bằng văn bản thông thường và 
  11. hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc   chứng thực của  Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Hợp đồng bằng văn  bản có chứng nhận, chứng thực được coi là hình thức mang tính xác thực  cao nhất và thường được pháp luật quy định đối với các trường hợp như  đối với các hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp hoặc với   hợp đồng có đối tượng là những tài sản mà nhà nước cần phải quản lý,  kiểm soát. Những trường hợp đó được quy định cụ  thể  cho từng loại hợp  đồng dân sự. Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật không có quy định thì  các bên vẫn có thể  thỏa thuận với nhau  áp dụng hình thức văn bản có  chứng nhận, chứng thực đó để  giao kết hợp đồng. Tuy nhiên nếu có vi  phạm về  hình thức thì cũng không bị  coi là vô hiệu, trừ  trường hợp pháp  luật có quy định khác. 1.3. Hình thức hành vi:            Đối với hình thức này thì chỉ cần các bên thực hiện một hoặc một   vài (không bắt buộc phải tất cả) hành vi là nghĩa vụ  của hợp đồng thì hợp  đồng đã được coi là giao kết.  Ví dụ  như: hợp đồng tặng cho tài sản như  việc bỏ tiền vào hòm công đức, như người tiêu dùng mua nước tại các máy  bán nước tự  động, hợp đồng được coi là ký kết khi người tiêu dùng thả  tiền vào máy tự động và thực hiện một số các động tác cần thiết để  nhận  chai nước. 1.4. Hình thức bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử): Cùng với sự  phát triển của công nghệ  thông tin, việc giao kết hợp   đồng dưới hình thức văn bản giấy không còn là hình thức thích hợp khi các  bên có khoảng cách xa về mặt địa lý. Chủ thể ở một quốc gia này có thể ký  kết hợp đồng với chủ thể của một quốc gia khác mà không phải đi đến tận 
  12. nơi gặp nhau trực tiếp để thương thảo hợp đồng. Thông qua mạng Internet,  các doanh nghiệp ở các địa phương khác nhau, ở các quốc gia khác nhau có   thể nhanh chóng tìm kiếm được bạn hàng để thiết lập mối quan hệ làm ăn,  mở  rộng thị  trường. Với chiếc máy tính nối mạng Internet, ngồi  ở  nhà  chúng ta có thể  dạo quanh thị  trường một cách thoải mái vào bất cứ  thời  điểm nào trong ngày. Khi cần mua một món hàng, chúng ta chỉ cần liên lạc  với cửa hàng qua hệ  thống mạng, sau đó sẽ  có người mang món hàng đó   đến tận nơi theo yêu cầu. Sự phát triển mạnh mẽ của giao dịch điện tử kéo  theo sự  ra đời một hình thức hợp đồng mới: hợp đồng điện tử­ hợp đồng  được giao kết thông qua phương tiện điện tử. 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP: 1.1. Thực trạng: Có thể nói, các quy định về hình thức hợp đồng trong Bộ Luật dân sự  2005 là đầy đủ, phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay, nó thúc đầy quá  trình phát triển trong nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, cũng như  trong  cuộc sống hàng ngày. Những quy định chi tiết và hợp lý đó đã giúp ích rất  nhiều cho các cá nhân, pháp nhân hay tổ  chức trong các mối quan hệ  nhật  định. Bằng việc coi trọng yếu tố  hình thức trong các hợp đồng dân sự  là   điều kiện có hiệu lực đã tạo ra cơ chế đảm bảo về quyền lợi của bên yếu   hơn trong quan hệ hợp đồng, sự tồn tại của hợp đồng đã được chứng minh  bằng pháp lý, từ  đó đảm bảo trật tự  công cộng cũng như  an toàn pháp lý  cho các bên và cả người thứ ba.
  13. Một trong những quy định mới về hình thức hợp đồng trong Bộ  luật  dân sự  2005 đã đem lại hiệu quả  cao là quy định định về  hình thức bằng   thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử). Để tạo cơ sở pháp lý cho giao dịch   điện tử phát triển, Bộ  luật Dân sự  năm 2005 được thông qua tại Kỳ  thứ  7  Quốc hội khoá XI, lần đầu tiên đã ghi nhận hình thức hợp đồng điện tử  thông qua việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu: “Giao dịch   dân sự  thông qua phương tiện điện tử  dưới hình thức thông điệp dữ  liệu   cũng được coi là giao dịch bằng văn bản” (khoản 1 Điều 124). Cũng tại kỳ  họp thứ 7 Quốc hội Khoá XI, Luật Thương mại năm 2005 được thông qua,  trong đó Điều 15 ghi nhận nguyên tắc thừa nhận giá trị  pháp lý của thông   điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại: “Trong hoạt động thương mại,   các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy   định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị  pháp lý tương đương văn   bản". Và đặc biệt, tại kỳ  họp thứ 8 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật  Giao dịch điện tử  2005. Luật này công nhận giá trị  pháp lý của giao dịch  điện tử, giá trị  pháp lý của thông điệp dữ  liệu, chữ  ký điện tử  được sử  dụng trong các giao dịch điện tử; cụ thể hoá quy định về hợp đồng điện tử  trong Bộ luật Dân sự 2005, tạo môi trường pháp lý nhằm thúc đẩy việc sử  dụng các giao dịch điện tử, giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử  góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế ­ xã hội và hội nhập kinh tế  quốc tế. Luật Giao dịch điện tử  2005 dành một chương (từ  Điều 33 đến  Điều 38) quy định về việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Xét về  bản chất, hợp đồng điện tử  cũng là sự  thoả  thuận giữa các  bên về  việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ  như  các  hình thức hợp đồng phổ  biến mà chúng ta đang áp dụng, chỉ  khác là chúng 
  14. được xác lập thông qua các phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ  liệu. Một hợp đồng điện tử  có thể  được giao kết dưới nhiều dạng khác   nhau, từ các phương thức trao đổi hiện đại như trao đổi dữ liệu điện tử, E­ mail, tới các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn tại từ nhiều năm nay như  điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự  khác. Các bên có thể  sử  dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một bước hay toàn bộ các bước trong  quá trình giao kết hợp đồng điện tử. Đề  nghị  giao kết hợp đồng và chấp  nhận giao kết hợp đồng có thể  được thực hiện thông qua thông điệp dữ  liệu. Việc trao đổi, thoả thuận đó sẽ  tạo ra hiệu lực pháp lý của hợp đồng  mà không cần hai bên phải thực hiện thêm bất kỳ một thủ tục nào khác (trừ  trường hợp pháp luật đòi hỏi hợp đồng phải được lập theo một hình thức  và trình tự cụ thể). Giá trị  pháp lý của hợp đồng điện tử  không thể  bị  phủ  nhận chỉ vì nó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu (Điều 34 Luật  Giao dịch điện tử  2005). Nó có giá trị  làm chứng cứ, khi các bên có tranh   chấp khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết (Điều 14 Luật Giao dịch điện tử  2005. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam còn có những bất cập, hạn chế trong   những quy định về hình thức hợp đồng.  Tại Khoản 2, Điều 122 về “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân  sự” quy định như sau: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực   của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” Khoản 2, Điều 401  về  “Hình thức hợp đồng dân sự” cũng quy định: “Trong trường hợp pháp   luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng  hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy  định đó” và “Hợp đồng không bị  vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về 
  15. hình thức, trừ  trường hợp pháp luật có quy định khác.” Theo các quy định  này, thì hợp đồng vi phạm về hinh thức chỉ vô hiệu khi không đáp ứng đủ 2  điều kiện sau: ­ Thứ nhất, hợp đồng bắt buộc phải được lập bằng văn bản, phải có   công chứng hoặc chứng thực, phải xin phép hoặc phải đăng ký theo  quy định của pháp luật; ­ Thứ hai, có quy định của pháp luật về việc hợp đồng bị vô hiệu nếu   vi phạm vào ít nhất một trong 4 hình thức trên. Như vậy, không phải hợp đồng cứ  vi phạm về  hình thức là bị  vô  hiệu, mà phải có những quy định cụ thể của pháp luật về việc hợp đồng sẽ  bị  vô hiệu khi không đáp ứng được các điều kiện này. Cho đến nay, liên  quan  đến hình thức  của hợp   đồng, pháp luật mới  chỉ  quy  định một số  trường hợp phải được làm thành văn bản, phải được công chứng, chứng  thực và phải được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hoặc đăng ký, mà  chưa thấy quy định nào của pháp luật về việc phải làm như vậy thì mới có  hiệu lực, cũng không có quy định nào của pháp luật khẳng định việc tuân   thủ các hình thức đó là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, thì gần như 100% hợp đồng không tuân thủ  về  hình thức văn bản, công chứng, xin phép và đăng ký trong trường hợp  đã có quy định bắt buộc của pháp luật, thì sẽ  đều bị Toà án tuyên vô hiệu,  do đánh đồng giữa quy định của pháp luật về hình thức cũng chính là“điều  kiện có hiệu lực của giao dịch”. Theo  đó, thì Toà án chỉ  còn mỗi việc:  Tuyên tất cả  cả  hợp đồng vi phạm về  hình thức là vô hiệu theo quy định  tại Điều 134 về  “Giao dịch dân sự  vô hiệu do không tuân thủ  quy định về  hình thức”: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân  
  16. sự  là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì  theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án,cơ quan nhà nước có thẩm  quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về  hình thức của   giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao  dịch vô hiệu.”. Hay nói cách khác, quy định tại đoạn 2, khoản 2, Điều 401  “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ  trường hợp pháp luật có quy định khác” đã bị  “vô hiệu toàn bộ”, trở thành  thừa và hoàn toàn vô nghĩa trên thực tế. Cũng có những trường hợp Toà án quyết định rắc rối hơn về việc vi   phạm về hình thức, như 2 ví dụ sau: ­ Năm 2009, xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp  đồng   chuyển   nhượng   quyền   sử   dụng   đất   giữa   nguyên   đơn   là   Công   ty   TNHH Sản xuất, Thương mại, Dịch vụ Đông Nam Việt và bị  đơn là Công  ty TNHH Hoàng Gia, TAND huyện Đức Hòa, Long An đãtuyên hợp đồng   đặt cọc (đặt chỗ) để  chuyển nhượng quyền sử  dụng đất giữa hai công ty,   ký ngày 18­7­2006 là vô hiệu, do không có chứng nhận của công chứng. Xét  xử phúc thẩm, TAND tỉnh Long An đã tuyên huỷ bản án sơ thẩm, với nhận  định TAND sơ thẩm đãsai phạm, vì hợp đồng đặt cọc theo quy định tại  Điều 358 về “Đặt cọc” của Bộ luật Dân sự năm 2005 không bắt buộc phải  có công chứng. Trong trường hợp này, Toà sơ thẩm đãnhầm lẫn hợp đồng  đặt cọc cũng phải  đòi  hỏi về  hình thức công chứng như với hợp  đồng  chuyển nhượng quyền sử dụng đất. ­ Năm 2010, xét xử  vụ  án kinh doanh thương mại tranh chấp hợp   đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) và bị  đơn là Công ty Cổ  phần Hàng không Đông Dương (Indochina Airlines),  
  17. TAND TP Hồ  Chí Minh đã tuyên hợp đồng thế  chấp tài sản là quyền sử  dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bà Phùng Trịnh Thị  Vinh, ký năm   2010, để  bảo đảm cho nghĩa vụ  trả  nợ  mở  thư tín dụng của bị  đơn là vô  hiệu, vì không  được công chứng và không  đăng ký giao dịch bảo  đảm.  Nhưng sau đó, Toà Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM đã công nhận  hợp đồng thế chấp này là hợp pháp, vì người thế chấp là người có lỗi trong  việc không chịu hoàn thiện thủ tục công chứng hợp đồng theo yêu cẩu của  bên nhận thế chấp. Trong trường hợp này, khác với nhiều vụ án tương tự,   Toà án đã không thực hiện quy định tại Điều 134, “quyết định buộc các bên  thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn”. Và gần   như trong tất cả các vụ án, một khi đã đưa tranh chấp ra Toà án, nếu có yêu  cầu các bên hoàn tất về hình thức, thì kết quả đều gần như 100% sẽ là vô  hiệu, vì “quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.” Một điểm bất cập nữa về hình thức hợp đồng dân sự  trong các quy  định của pháp luật hiện hành đó là về mối quan hệ giữa hình thức với hiệu   lực của hợp đồng được quy định tại khoản 2 Điều 122 BLDS 2005: “hình   thức giao dịch dân sự  là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường   hợp pháp luật có quy định”, Điều 134 BLDS 2005: “trong trường hợp pháp  luật quy định hình thức giao dịch dân sự  là điều kiện có hiệu lực của giao  dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà   án, cơ  quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực   hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn   đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”, khoản 2 Điều 401: “trong  trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể  hiện bằng văn  bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải 
  18. tuân theo các quy định đó. Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có   vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.  Các quy định nói trên cho thấy, mặc dù pháp luật có quy định một   loại hợp đồng nào đó phải được ký kết bằng văn bản, văn bản có chứng   thực, tuy nhiên hợp đồng sẽ không bị coi là vô hiệu nếu các bên không tuân  thủ hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định. Pháp luật quy định như  vậy, tuy nhiên khi nghiên cứu các quy định của Bộ  luật Dân sự  và các văn  bản pháp luật khác thì không thể tìm thấy bất kỳ quy định nào, theo đó hợp  đồng không tuân thủ hình thức văn bản, văn bản có chứng thực thì vô hiệu,   mà trong nhiều trường hợp pháp luật chỉ quy định hợp đồng phải được ký  kết bằng văn bản. Ví dụ, theo Điều 450 BLDS 2005, hợp đồng mua bán nhà  ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ trường  hợp pháp luật có quy định khác, hay theo Điều 492, hợp đồng thuê nhà  ở  phải được lập thành văn bản, nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trở lên thì phải  có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật  có quy định khác… Với cách quy định về  hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu  lực của hợp đồng trong pháp luật Việt Nam nói chung và BLDS nói riêng là  không rõ ràng. Sự không rõ ràng này được hợp thức hoá bởi Nghị quyết số  01/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị  quyết số  01/2003). Cụ thể, hợp đồng mua bán nhà ở không được công chứng và một  trong các bên yêu cầu Toà án tuyên bố  vô hiệu, thì Tòa án áp dụng Nghị  quyết số  01/2003, sẽ  bị tuyên bố  vô hiệu, nếu hợp đồng không được công  chứng, chứng thực trong thời hạn một tháng (thời gian có sự  kiện bất khả  kháng hoặc có trở  ngại khách quan không tính vào thời hạn một tháng đó)  
  19. kể từ ngày có Quyết định của Toà án (Quyết định yêu cầu thực hiện công  chứng, chứng thực).  Cách giải quyết các tình huống nói trên là quá máy móc và không hợp   lý. Bởi lẽ, thứ nhất, như đã phân tích ở trên, hợp đồng là sự thoả thuận và  hình thức của hợp đồng chỉ  là hình thức thể  hiện ý chí của các bên ra bên  ngoài; thứ hai, rõ ràng hợp đồng không được công chứng, chứng thực là do  một trong các bên không muốn, vậy thì Quyết định của Toà án cũng không  thể  thay đổi được ý chí của họ. Mặt khác, theo quy định của Điều 126 và  Điều 409 BLDS 2005, khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì không   chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của  các bên để giải thích điều khoản đó. Rõ ràng, ý chí chung của các bên được   đánh giá cao hơn hình thức biểu hiện ra bên ngoài. Ý chí của các bên được  hiểu là ý chí được biểu hiện tại thời điểm ký kết hợp đồng. Trong khi đó,  nếu theo Điều 134 BLDS 2005 và Nghị  quyết số  01/2003 thì pháp luật có   vẻ  như  tôn trọng ý chí được biểu hiện sau thời điểm hợp đồng được ký   kết. Điều này có vẻ  trái với lý thuyết về  tự  do ý chí cũng như  nguyên tắc   giải thích hợp đồng.  1.2. Giải pháp:             Từ thực trạng trên  ta thấy, các quy định của pháp luật Việt Nam liên  quan đến hình thức là điều kiện để  hợp đồng có hiệu lực cần phải được  quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối   cao cần có sự  giải thích việc áp dụng các quy định về  hình thức là điều  kiện có hiệu lực của hợp đồng tương tự án lệ và thực tiễn giải quyết tranh  chấp của các nước trên cơ sở nguyên tắc trung thực thiện chí.
  20. Hơn nữa, trong các quy định về hình thức hợp đồng nhà làm luật cần có sự  thống nhất, rõ ràng và cụ  thể  hơn để  bảo vệ  quy định tại Điều 401 “Hợp  đồng không bị  vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về  hình thức, trừ  trường hợp pháp luật có quy định khác”. Các bên đã hoàn toàn tự  do ý chí  thoả  thuận hợp đồng, kể  cả  về  hình thức, thì cần hạn chế  tối đa việc vô  hiệu do không tuân thủ  về  hình thức. Ví dụ, theo quy định tại Điều 30 về  ”Nguyên tắc quản lý”, Quy chế  Quản lý vay và trả  nợ  nước ngoài. Ban  hành kèm theo Nghị định số số 134/2005/NĐ­CP ngày 01­11­2005 của Chính  phủ, thì tất cả  các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp phi nhà nước   phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, không thể vin vào lý do,   các hợp vay vốn nước ngoài không đăng ký với Ngân hàng Nhà nước là vô  hiệu (không được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trả nợ lãi).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2