intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo - Lý luận và thực tiễn

Chia sẻ: Steven Đàm Viễn Khương | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:41

862
lượt xem
63
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với đề tài, người viết mong muốn có thể góp phần làm sáng tỏ những quy định về yếu tố vô hiệu do giả tạo của hợp đồng dân sự và hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu cũng như thực trạng, thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay, để từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm từng bước hoàn thiện pháp luật. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo - Lý luận và thực tiễn

  1. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự và cũng là một trong những  phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, xác lập   và thực hiện các quyền và nghĩa vụ  của mình nhằm thỏa mãn các nhu cầu   trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế  thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn hiện  nay thì hợp đồng dân sự càng có ý nghĩa hơn nữa.  Hiện nay, Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế  xã hội, và việc gia  nhập Tổ  chức Thương mại Thế  giới (WTO) đã mở  ra vô vàn cơ  hội nhưng   cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức, chính điều này đòi hỏi pháp   luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự  nói riêng phải hoàn thiện để đáp  ứng các nhu cầu thực tế xảy ra. Hơn nữa, các tranh chấp về hợp đồng dân sự  cũng ngày một gia tăng và mức độ ngày càng phức tạp thì đòi hỏi pháp luật về  hợp đồng dân sự phải hoàn thiện để giải quyết một cách triệt để. Xuất phát từ lý do đó, pháp luật dân sự  nước ta đã quy định khá đầy đủ,   chặt chẽ và cụ thể về việc xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự  thông qua quy   định về  giao dịch dân sự  cũng như  việc quyết định các trường hợp giao dịch   dân sự vô hiệu. Những quy định này của pháp luật dân sự đã tạo ra một khung   hành lang pháp lý cho các chủ  thể  tham gia vào hợp đồng dân sự  được thuận  tiện hơn, đặc biệt khi có tranh chấp xảy ra thì đây là cơ sở để giải quyết tranh  chấp. Thực tiễn cho thấy, ngành toà án cũng đã giải quyết những vụ án về  hợp   đồng dân sự vô hiệu. Trong đó, hợp đồng dân sự do giả tạo là một trong những  loại giao dịch dân sự  vô hiệu do vi phạm ý chí chủ  thể  gây nhiều tranh cãi và   GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 1 ễn Thị Mỹ  Phương
  2. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn khó   khăn   trong   quá   trình   áp   dụng   pháp   luật   hiện   nay.   Bộ   luật   dân   sự   số  33/2005/QH11 ngày 14/6/2005 của Quốc hội (“BLDS”) quy định về  giao dịch  dân sự tại Chương VI của Phần thứ nhất, từ Điều 121 đến Điều 138, trong đó   giao dịch dân sự  do giả  tạo được quy định cụ  thể  tại Điều 129. Do các quy   định của pháp luật hiện hành về  vấn đề  này chủ  yếu dừng lại  ở  nhiều cách   hiểu khác nhau về giao dịch dân sự do giả tạo và việc giải quyết hậu quả pháp   lý của giao dịch dân sự do giả tạo. Từ đó dẫn đến tình hình vi phạm pháp luật   về  hợp đồng dân sự  do giả  tạo đang có nhiều chiều hướng gia tăng và phức  tạp. Toà án cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình giải quyết các vụ  án  khiếu kiện về  hợp đồng dân sự  do giả  tạo. Có nhiều vụ  án đã được xét xử  nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều thắc mắc, nhiều quan điểm khác nhau gây   nhiều tranh luận phức tạp. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài Từ việc nhận thức được tầm quan trọng cũng như thấy rõ những bất cập  hiện hữu liên quan đến hợp đồng dân sự  vô hiệu do giả  tạo, người viết chọn   vấn đề “Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn ” làm nội  dung chính cho đề tài. Với đề  tài, người viết mong muốn có thể góp phần làm  sáng tỏ những quy định về yếu tố vô hiệu do giả tạo của hợp đồng dân sự  và   hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu cũng như thực trạng, thực tiễn áp dụng   pháp luật hiện nay, để  từ  đó đưa ra một số  kiến nghị, giải pháp nhằm từng   bước hoàn thiện pháp luật.  3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề  tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về  hợp đồng  dân sự vô hiệu, hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu và thực tiễn xác   định, xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của BLDS hiện hành. Bên cạnh đó, sau gần 10 năm thi hành thì thực tiễn đã chứng minh rằng  BLDS đã có những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế ­ xã hội của đất  nước cũng như đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan   GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 2 ễn Thị Mỹ  Phương
  3. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn hệ  dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Trong   giai đoạn phát triển mới của đất nước  hiện nay,  BLDS  hiện hành  cũng cần  được xem xét sửa đổi, bổ sung thích hợp, đáp ứng những  yêu cầu đòi hỏi mới,  cụ  thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 liên quan đến bảo vệ  quyền con   người, quyền công dân và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã   hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Vì lẽ đó, trong đề tài này thì người viết sẽ  mở  rộng phạm vi nghiên cứu đến Dự  thảo  Bộ  luật Dân sự  được trình Quốc  hội thông qua tại kỳ  họp thứ  10 Quốc hội khóa XIII (“Dự  thảo BLDS”) để  nhằm đưa ra những kiến nghị  cần thiết, phù hợp với thực tiễn về  hợp đồng  dân sự vô hiệu trong suốt thời gian vừa qua. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề  tài người viết đã áp dụng một số  phương  pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách: nhằm nghiên cứu các  cơ  sở  lí luận về  giao dịch dân sự, hợp  đồng dân sự, hợp đồng dân sự  vô  hiệu….. Phương pháp phân tích luật viết: đặc biệt là nghiên cứu những quy định  của pháp luật điều chỉnh về  hợp đồng dân sự  vô hiệu, hợp đồng dân sự  vô  hiệu do giả tạo được quy định trong các đạo luật và các văn bản có liên quan. Phương   pháp   so   sánh,   phân   tích,   tổng   hợp:   nhằm   tìm   ra   những   điểm  chung, khác biệt khi tiếp cận các vấn đề cần nghiên cứu trong luận văn. Phương pháp sưu tầm số liệu thực tế: bằng cách tìm trên mạng Internet,  giáo trình, tìm kiếm số liệu ở các cơ  quan tiến hành tố  tụng dân sự… để  giúp   cho người viết có nguồn thông tin chính xác đối với các trường hợp về  hợp   đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.  5. Bố cục của đề tài  ̀ ở đâu va kêt luân, nôi dung đ Ngoai phân m ̀ ̀ ̀ ́ ̣ ̣ ề tài được chia lam 03 ch ̀ ương: Chương 1: Lý luận chung về hợp đồng dân sự vô hiệu. GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 3 ễn Thị Mỹ  Phương
  4. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn Chương 2: Hợp đồng dân sự  vô hiệu do giả  tạo và hậu quả  pháp lý của   hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo. Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về  giao  dịch dân sự do giả tạo – một số kiến nghị cụ thể. GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 4 ễn Thị Mỹ  Phương
  5. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ GIẢ TẠO 1.1. Khái quát chung về hợp đồng dân sự  1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự 1.1.1.1. Khái niệm Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia  nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với nhau   những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp  ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trò quan trọng, là một tất yếu   đối với mọi đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc chuyển giao các lợi ích vật chất   đó không phải tự nhiên hình thành bởi tài sản (vốn là hiện thân của các lợi ích   vật chất) không thể tự tìm đến với nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ  tài sản chỉ  được hình thành từ  những hành vi có ý chí của các chủ  thể.1 Mặt  khác, nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia chấp   nhận cũng không thể hình thành một quan hệ để qua đó thực hiện việc chuyển  giao tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau được. Do đó, chỉ  khi nào có   sự  thể  hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ  trao đổi lợi ích vật  chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là hợp đồng dân sự.  Tuy nhiên, hợp đồng đó chỉ  có hiệu lực pháp luật (chỉ  được pháp luật   công nhận và bảo vệ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước.   Các bên được tự do thoả thuận để thiết lập hợp đồng nhưng sự tự do ấy phải   được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và  trật tự công cộng.  1   Các­Mác cho rằng: “Tự  chúng, hàng hóa không thể  đi đến thị  trường và trao đổi với nhau   được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau   như những người mà ý chí nằm trong các vật đó”.  GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 5 ễn Thị Mỹ  Phương
  6. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn Khái niệm về hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở  nhiều phương   diện khác nhau.  Theo phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự  là do các quy phạm  pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ  xã hội phát  sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà  trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận để cùng  nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Theo phương diện  này, hợp đồng dân sự  vừa được xem xét  ở  dạng cụ  thể  vừa được xem xét  ở  dạng khái quát.  Nếu định nghĩa dưới dạng cụ thể thì: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận   giữa các bên về  việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ   của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc   hoặc không làm một việc, dịch vụ  hoặc các thoả  thuận khác mà trong đó một   hoặc các bên nhằm đáp  ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”2. Sự liệt kê cụ  thể  bao giờ cũng rơi vào tình trạng không đầy đủ và để quy định của pháp luật có   thể bao trùm được toàn bộ các hợp đồng dân sự xảy ra trong thực tế, BLDS đã  định nghĩa nó ở dạng khái quát hơn: “Hợp đồng dân sự là sự  thoả thuận giữa   các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự”3.  Như vậy, hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thuận để một bên chuyển giao  tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thoả thuận để  thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ đó.  Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng xét về nội dung kinh tế sẽ khó phân biệt   giữa một hợp đồng dân sự với một hợp đồng kinh tế nếu nội dung của chúng  đều là sự mua bán và trao đổi các lợi ích vật chất. Tuy nhiên, yêu cầu của quá  trình tiến hành tố  tụng trong việc giải quyết các tranh chấp từ  hợp đồng, đòi  hỏi cần phải có sự phân biệt rạch ròi giữa một hợp đồng thương mại với một   2   Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự năm 1991.   Điều 388 BLDS. 3 GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 6 ễn Thị Mỹ  Phương
  7. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn hợp đồng dân sự. Trong thực tế  có rất nhiều hợp đồng không thể  phân biệt  được là hợp đồng thương mại hay hợp đồng dân sự. Để có thể phân biệt được   hai loại hợp đồng này phải xác định được cụ  thể mục đích của từng loại hợp   đồng. Nếu các bên chủ  thể  (hoặc ít nhất có một bên) tham gia hợp đồng với   mục đích thoả mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng thì hợp đồng đó được xác định  là hợp đồng dân sự. Vì vậy, chỉ được coi là hợp đồng thương mại khi các bên  chủ thể tham gia đều nhằm mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, mục đích tham gia  cũng chỉ  là một cơ  sở  mang tính tương đối trong việc phân biệt giữa hai loại   hợp đồng vì rằng có những hợp đồng cả  hai bên đều mang mục đích kinh  doanh nhưng không thể coi đó là hợp đồng thương mại được nếu có một bên  chủ thể là cá nhân không có đăng kí kinh doanh. 1.1.1.2. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự Theo quy định tại Điều 390 BLDS, khi giao kết hợp đồng các chủ  thể  phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: ­ Tự  do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã   hội. Nhằm tạo điều kiện cho các chủ  thể thoả  mãn được các nhu cầu về  đời   sống vật chất cũng như  tinh thần, BLDS cho phép mọi chủ  thể  được quyền  “tự  do giao kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ  chức khi có  đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kì một hợp đồng dân sự  nào, nếu họ muốn mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình,   các chủ thể có quyền giao kết những hợp đồng dân sự đã được pháp luật quy  định cụ thể cũng như những hợp đồng dân sự khác dù rằng pháp luật chưa quy  định. Tuy nhiên, sự  tự  do ý chí đó phải nằm trong một khuôn khổ  nhất định.  Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc  bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì  vậy, tự  do của mỗi chủ  thể  phải không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nằm  trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có   GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 7 ễn Thị Mỹ  Phương
  8. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn quyền “tự  do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo  đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức   xã hội được coi là sự giới hạn ý chí tự do của mỗi một chủ thể trong việc giao   kết hợp đồng dân sự nói riêng, cũng như đối với mọi hành vi nói chung của họ. Trong xã hội xã hội chủ  nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không   cho phép các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để  biến các hợp đồng dân sự  thành phương tiện bóc lột. ­ Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng. Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi  hỏi các bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không  một ai được lấy lí do khác biệt về  thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn   giáo, hoàn cảnh kinh tế  v.v. để  làm biến dạng các quan hệ  dân sự. Mặt khác,  chỉ khi nào các bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp   đồng thì ý chí tự nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo  nguyên tắc trên, những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có  sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đánh   giá một hợp đồng có phải là ý chí tự  nguyện của các bên hay không là một   công việc tương đối phức tạp và khó khăn trong thực tế. Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham   gia. Vì thế, muốn xem xét các chủ  thể  có tự  nguyện trong giao kết hợp đồng  hay không, cần phải dựa vào sự  thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: Ý  chí và sự bảy tỏ ý chí. Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên   trong của mỗi một chủ thể. Nó phải được bày tỏ  ra bên ngoài thông qua một   hình thức nhất định. Ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng  luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau. Ý chí tự  nguyện chính là sự  thống nhất giữa ý muốn chủ  quan bên trong  và sự bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài. Vì vậy, để xác định một hợp đồng dân sự có   tuân theo nguyên tắc tự  nguyện hay không cần phải dựa vào sự  thống nhất ý  GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 8 ễn Thị Mỹ  Phương
  9. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn chí của người giao kết hợp đồng và sự  thể  hiện (bày tỏ) ý chí đó trong nội  dung của hợp đồng mà người đó đã giao kết. Chỉ khi nào hợp đồng là hình thức   phản ánh một cách khách quan, trung thực những mong muốn bên trong của các   bên giao kết thì việc giao kết đó mới được coi là tự nguyện. 1. 2. Khái quát về hợp đồng dân sự vô hiệu 1.2. 1. Khái niệm  Hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng không tuân thủ  các điều kiện có  hiệu lực do pháp luật quy định nên không tồn tại theo quy định của pháp luật,  không có hiệu lực pháp lý mặc dù hợp đồng đó được xác lập, các bên có thể  chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ  như  cam kết nhưng khi xác định là HĐVH thì mọi cam kết đã, đang thực hiện thì  đều không phải là các quyền và nghĩa vụ  được pháp luật bảo vệ.  Vậy hợp  đồng vô hiệu là khi xác lập các bên đã có vi phạm ít nhất một trong các điều   kiện có hiệu lực do pháp luật quy định dẫn đến hậu quả pháp lý là không làm   phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nào. Khi tìm hiểu về hợp đồng dân sự  vô hiệu thiết nghĩ cần phải có sự  phân  biệt rạch ròi với trường hợp hợp đồng dân sự  mất hiệu lực. Theo đó, hợp   đồng dân sự vô hiệu là hợp đồng không có hiệu lực ở ngay thời điểm giao kết.   Còn hợp đồng mất hiệu lực là hợp đồng có hiệu lực ở thời điểm ký kết nhưng   hợp đồng bị  mất hiệu lực là do rơi vào tình trạng không thể  thực hiện được.   Tình trạng mất hiệu lực của hợp đồng dân sự có thể do một bên vi phạm, dẫn  đến bên vi phạm yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc các bên tự  thoả  thuận với nhau   chấm dứt hiệu lực của hợp đồng hoặc do trở ngại khách quan nào khác. 1.2.2. Đặc điểm  Căn cứ  quy định của BLDS thì những quy định về  hợp đồng dân sự  vô   hiệu được hiểu và vận dụng giống như là giao dịch dân sự vô hiệu4. Vậy đặc  điểm chung của các hợp đồng vô hiệu là không đáp ứng các điều kiện theo quy    Khoản 1 Điều 410 BLDS. 4 GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 9 ễn Thị Mỹ  Phương
  10. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn định của pháp luật. Khi hợp đồng vô hiệu các bên phải gánh chịu hậu quả pháp  lý nhất định có thể  bất lợi về  vật chất hoặc tinh thần như  không đạt được  mục đích đã xác định nếu chưa thực hiện được thì sẽ  không thực hiện được  tiếp, nếu đang thực hiện thì phải chấm dứt việc thực hiện đó để  quay trở  lại   tình trạng ban đầu hoàn trả  cho nhau những gì đã nhận5. Người viết đi vào  phân tích các đặc điểm sau đối với hợp đồng dân sự vô hiệu: 1.2.2.1. Không đáp  ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật   với hợp đồng vô hiệu ­ Về năng lực hành vi dân sự của người tham gia hợp đồng:  Bản chất của hợp đồng dân sự là sự  thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của  các chủ  thể  tham gia hợp đồng nhưng không phải ai cũng có quyền tham gia   vào bất kỳ loại hợp đồng nào mà chỉ  có các chủ  thể  được pháp luật cho phép   mới có thể  được tham gia. Trong một số  trường hợp thì một số  chủ  thể  chỉ  được tham gia trong giới hạn của một số quan hệ quan hệ dân sự  nhất định.  Khi các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải có năng lực pháp luật và năng  lực hành vi dân sự  mà năng lực pháp luật là vốn có của chủ  thể  mà pháp luật  quy định cho các chủ  thể  có quyền như  nhau: mọi cá nhân đều có năng lực   pháp luật dân sự  như  nhau. Năng lực pháp luật dân sự  của cá nhân có từ  khi  người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết6. Còn năng lực hành vi thì pháp  luật căn cứ vào khả năng nhận biết hành vi của từng con người cụ thể.  ­ Mục đích và nội dung của các hợp đồng không đáp ứng đủ  yêu cầu của   pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội:  Trong chế  định hợp đồng dân sự, các chủ  thể  có quyền tự  do thể hiện ý  chí của mình, tự  do trong việc quyết định nội dung, hình thức của giao dịch,   thể hiện khi xác lập hợp đồng các chủ thể có quyền tự do lựa chọn đối tác, tự  do thoả  thuận nội dung của hợp đồng, hình thức giao kết. Nhưng sự  tự  do  không mang tính tuyệt đối mà bị  ràng buộc bởi khuôn khổ  pháp luật. Sự  ràng    Khoản 2 Điều 137 BLDS. 5   Khoản 2, 3 Điều 14 BLDS. 6 GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 10 ễn Thị Mỹ  Phương
  11. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn buộc này hạn chế  sự  tự  do của các chủ  thể  khi tham gia xác lập hợp đồng.  Chủ thể không tuân theo sự hạn chế của pháp luật dẫn tới hợp đồng vô hiệu.  + Mọi thoả thuận không trái với pháp luật.  + Mọi thoả  thuận không được trái với đạo đức xã hội. Không trái với   pháp luật thì rõ nhưng không trái với đạo đức xã hội là một vấn đề phức tạp vì  khái niệm đạo đức là một khái niệm trừu tượng.  Khái niệm đạo đức xã hội được luật hóa như  sau: “Đạo đức xã hội là   những chuẩn mực  ứng xử  giữa người với người trong đời sống xã hội, được   cộng đồng thừa nhận”7. Tuy nhiên, các nhà làm luật không quy định cụ  thể  trường hợp nào là vi phạm. Chính vì vậy mà khi xác định nội dung của khái  niệm đạo đức thường được xem trong mối quan hệ  với án lệ, nhưng về  lý   thuyết thì Nhà nước ta chưa thừa nhận án lệ. Chính vì thế trong thực tiễn hiện   nay quy định này đã gây ra không ít khó khăn trong việc áp dụng.  ­ Chủ thể tham gia xác lập hợp đồng không tự nguyện: Sự  tự  nguyện khi giao kết hợp đồng là một yếu tố  cơ  bản và không thể  thiếu được trong hợp đồng dân sự. VÌ vậy các chủ  thể  khi tham gia giao kết   hợp đồng phải thể hiện ý chí đích thực của mình. Mọi thoả thuận không phản  ánh đúng ý chí cuả  các bên đều có thể  dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Ý chí của   chủ  thể  là thể  hiện mong muốn của mình ra bên ngoài trong khuôn khổ  pháp  luật cho phép mà không bị sự ép buộc nào.  ­ Hình thức hợp đồng không đúng quy định của pháp luật:  Để đảm bảo cho trật tự xã hội, lợi ích của Nhà nước và cá nhân khi tham   gia giao kết hợp đồng, ngoài việc các chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải   thể hiện ý chí của mình còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về hình   thức đối với một số loại hợp đồng nhất định. Thông qua các biểu hiện về hình   thức này người khác có thể phần nào biết được nội dung của hợp đồng. Việc   quy định một số  loại giao dịch cần phải tuân theo các quy định về  hình thức     Điều 128 BLDS. 7 GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 11 ễn Thị Mỹ  Phương
  12. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn dưạ  trên cơ  sở  là đối tượng của các loại hợp đồng này có giá trị  lớn hoặc có   tính năng đặc biệt nên hình thức của hợp đồng là căn cứ xác đinh nội dung của   hợp đồng. Mặt khác, với những quy đinh này còn là cơ sở để các cơ quan Nhà  nước có thẩm quyền kiểm tra giám sát việc chuyển dịch các tài sản này.  1.2.2.2. Các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất   định Một khi hợp đồng vô hiệu thì: “…các bên khôi phục lại tình trạng ban   đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả  bằng hiện vật   thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ  trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức   thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải   bồi thường8”. Về  mặt lý thuyết thì đây là sự  tổn thất của các bên nên phải  quay lại tình trạng ban đầu như  trước khi tham gia hợp đồng. Tuy nhiên về  mặt thực tế có trường hợp khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu có bên được hưởng  lợi, có bên bị thiệt hại. 1.2.3. Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu  1.2.3.1. Căn cứ vào thủ tục tố tụng để tuyên bố hợp đồng vô hiệu Căn cứ  vào tính chất trái pháp luật của hợp đồng xâm phạm đến quyền  lợi của ai, pháp luật sẽ quy định những thủ tục tố tụng và thời hiệu khởi kiện  dân sự tương ứng với từng loại hợp đồng vô hiệu đó. Các hợp đồng xâm phạm đến lợi ích công thì đương nhiên vô hiệu. Các hợp đồng xâm phạm tới lợi ích tư thì có 02 yêu cầu:  (i) khi có đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan;  (ii) có quyết định của Tòa án.  Dựa vào căn cứ phân loại này, có thể chia hợp đồng vô hiệu thành 2 loại:  hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối. Tuy nhiên, trước  hết cần khẳng định rằng khái niệm vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối là  hai khái niệm của ngành khoa học luật dân sự, mang tính lý thuyết và chưa    Khoản 2 Điều 137 BLDS. 8 GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 12 ễn Thị Mỹ  Phương
  13. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn được sử  dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật. BLDS (Phần thứ  nhất,   Chương 5) không phân loại các trường hợp vô hiệu của giao dịch dân sự thành  vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối, mà chỉ  giới hạn  ở  việc chỉ  ra các  trường hợp vô hiệu do vi phạm từng điều kiện cụ  thể  của giao dịch dân sự,   cùng với việc chỉ ra hậu quả cụ thể của từng giao dịch vô hiệu. Thế nhưng hai  khái niệm “giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối” và “giao dịch dân sự vô hiệu   tương đối” lại là hai khái niệm rất quan trọng đối với khoa học luật dân sự.   Chúng là công cụ  không thể  thiếu được trong việc nghiên cứu bản chất của   giao dịch dân sự, cũng như  trong việc giải quyết các vấn đề  có liên quan đến  thủ tục tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối Là những hợp đồng bị  xem là đương nhiên vô hiệu do việc xác lập hợp  đồng là trái pháp luật, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước hoặc lợi ích công  cộng. Hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị  coi là vô hiệu tuyệt  đối: (i) Hợp đồng vô hiệu do giả tạo; (ii) Hợp đồng có nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật; (iii) Hợp đồng có nội dung, mục đích trái đạo đức xã hội; (iv) Hợp đồng không đúng hình thức do pháp luật quy định và đã được Tòa   án cho các bên thời hạn để  thực hiện đúng quy định về  hình thức này nhưng  hết thời hạn đó mà các bên vẫn chưa thực hiện; hoặc  (v) Trường hợp pháp luật có quy định về  hợp đồng vi phạm hình thức   nhưng các bên chưa thực hiện hợp đồng và các bên có tranh chấp thì hợp đồng   bị xem là vô hiệu. Một hợp đồng vô hiệu tuyệt đối thì không giải quyết theo yêu cầu của  các bên. Mọi trường hợp đều giải quyết theo quy định của pháp luật và không  được hòa giải, không có quyền công nhận giá trị  pháp lý của hợp đồng trong  GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 13 ễn Thị Mỹ  Phương
  14. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn quá trình thụ lý và giải quyết tranh chấp về hợp đồng hoặc các nội dung pháp  lý có liên quan. Hợp đồng vô hiệu tương đối Là những hợp đồng được xác lập, nhưng có thể  bị  Tòa án tuyên bố  là vô  hiệu theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. Sự  vô hiệu tương đối thể  hiện  ở  chổ: giao dịch dân sự  đó “có thể  vô   hiệu” hay “không đương nhiên bị  xem là vô hiệu” vì nó chỉ  xâm hại trực tiếp  tới quyền lơi hợp pháp của cá nhân của từng bên chủ thể tham gia. Do đó, hợp   đồng này nếu không có sự  xem xét của Tòa án thì vẫn có hiệu lực. Trong  trường hợp muốn hủy bỏ  hợp đồng này, các bên phải yêu cầu Tòa án giải   quyết theo thủ tục tư pháp thông thường chứ hợp đồng không đương nhiên bị  xem là vô hiệu. Các trường hợp dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu tương đối: (i) Giao dịch dân sự  vô hiệu do người xác lập không có năng lực hành vi  tương ứng với đòi hỏi của pháp luật đối với loại giao dịch đó; (ii) Giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa; (iii) Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối; (iv) Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn; (v) Giao dịch dân sự vô hiệu do một người xác lập trong tình trạng người  đó không nhận thức, điều khiển được hành vi của mình. 1.2.3.2. Căn cứ vào phạm vi bị vô hiệu Hợp đồng vô hiệu toàn bộ Là hợp đồng có toàn bộ  nội dung vô hiệu, hoặc tuy chỉ có một phần nội   dung vô hiệu nhưng phần đó lại  ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ  hợp  đồng. Khi có những căn cứ cho là toàn bộ điều khoản của hợp đồng vô hiệu, thì   hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu có thể xuất phát  GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 14 ễn Thị Mỹ  Phương
  15. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn từ  sự  vi phạm nội dung hợp đồng, nhưng cũng có thể  là những căn cứ  khác   như: mục đích, năng lực giao kết hợp đồng, hợp đồng giả tạo, v.v. Cũng có những hợp đồng vô hiệu toàn bộ  nhưng đối với một số  điều  khoản được các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng có vai trò độc lập với hợp   đồng, thì khi hợp đồng vô hiệu toàn bộ  các điều khoản đó cũng có thể  được  công nhận có hiệu lực nếu đủ  các điều kiện luật định mà không lệ  thuộc vào  hiệu lực của toàn bộ hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu từng phần (vô hiệu một phần) Là những hợp đồng được xác lập mà có một phần nội dung của nó không  có giá trị pháp lý nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của   hợp đồng đó. Đối với một hợp  đồng vô hiệu từng phần, ngoài phần vô hiệu không  được áp dụng, các phần còn lại vẫn có giá trị  thi hành, nên các bên vẫn phải   tiếp tục thi hành trong phạm vi phầm hợp đồng vẫn còn hiệu lực. 1.3.3. Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng Dựa vào dấu hiệu này có thể phân hợp đồng vô hiệu thành các trường hợp  sau: (i) Hợp đồng vô hiệu do người tham gia là cá nhân không có năng lực hành   vi dân sự; (ii) Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, đạo đức xã hội; (iii) Hợp đồng vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể; và (iv) Hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức, nếu pháp luật có quy định  về hình thức của hợp đồng là điều kiện bắt buộc. 1.3.4. Căn cứ  vào mức độ  vượt quá phạm vi đại diện của người đại   diện Một trong các điều kiện quan trọng để công nhận hợp đồng có hiệu lực là   tư cách đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật hoặc ủy quyền) của hộ gia   đình, tổ hợp tác, tổ chức hoặc cá nhân. Trong nhiều trường hợp, khi việc tham  GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 15 ễn Thị Mỹ  Phương
  16. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn gia xác lập hợp đồng thay cho người thứ ba không dựa trên các trường hợp đại  diện luật định thì hợp đồng đó có thể bị vô hiệu. 1.3.4.1. Hợp đồng vô hiệu do người đại diện xác lập vượt quá phạm vi   đại diện Thường thì đây là hợp đồng được xác lập bởi người đại diện hợp pháp,  nhưng do người đại diện đã xác lập hợp đồng trên thực tế  vượt quá phạm vi   đại diện. Người trực tiếp tham gia hợp đồng tuy có tư cách đại diện hợp pháp  nhưng nội dung hợp đồng do họ xác lập có một phần giá trị, mức độ, phạm vi  vượt quá giới hạn được ghi trong hợp đồng  ủy quyền hoặc được quy định  trong loại đại diện tương ứng. Hợp đồng được xác lập vượt quá phạm vi đại diện thì phần vượt quá  phạm vi đại diện đó bị  vô hiệu, trừ trường hợp người được đại diện biết mà  không phản đối. 1.3.4.2. Hợp đồng vô hiệu do người giao kết không có quyền đại diện Hợp đồng vô hiệu do người trực tiếp giao kết không có tư cách đại diện  hoặc tuy có tư  cách đại diện nhưng đã giao kết, thực hiện hợp đồng không  thuộc công việc mà họ được phép đại diện Cũng bị  xem là không có tư  cách đại diện nếu người đại diện đưa ra  những tuyên bố  ý chí trái với ý chí của người được đại diện, làm những việc  không thuộc đối tượng của quan hệ đại diện. 1.3. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dân sự do giả tạo 1.3.1. Khái niệm Sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định chính là sự  thể hiện ý chí tự nguyện của chủ thể trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, không  phải sự  tự  nguyện nào của chủ  thể  cũng làm phát sinh hậu quả  pháp lý. Có  những trường hợp, bản thân chủ thể hoàn toàn kiểm soát được sự biểu hiện ý  chí ra bên ngoài, không bị  tác động bởi bất cứ  yếu tố  khách quan nào nhưng  GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 16 ễn Thị Mỹ  Phương
  17. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn cũng không được pháp luật thừa nhận. Đó là giao dịch dân sự được xác lập do   giả tạo.  Đối với giao dịch được xác lập do giả tạo, chủ thể hoàn toàn mong muốn  sự  thể  hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định, mặc dù ý chí đó   không phải ý chí đích thực của chủ thể. Do đó ta có thể  hiểu giao dịch dân sự  được xác lập do giả tạo là giao dịch được xác lập để nhằm che giấu một giao   dịch khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ  đối với người thứ ba. Giao dịch giả  tạo là  giao dịch được các bên chủ  thể  xác lập nhưng không nhằm mục đích là thiết   lập các quyền và nghĩa vụ  của các bên tham gia giao dịch. Nội dung của giao  dịch được xác lập không xuất phát từ  ý chí đích thực của các bên.       Các giao dịch được xác lập do giả tạo đều là các  giao dịch vô hiệu.   Mặc dù trong các giao dịch này, các bên chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự  nguyện, nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực của họ. 1.3.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự do giả tạo Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo là giao dịch   vô hiệu, vì vậy, giao dịch giao dịch dân sự  do giả  tạo mang những đặc điểm   chung của giao dịch dân sự vô hiệu. Thứ nhất, giao dịch dân sự đáp  ứng tất cả các điều kiện có hiệu lực của  giao dịch dân sự được quy định tại Điều 122 BLDS. Tuy nhiên giao dịch dân sự  xác lập do giả tạo được xác định là vô hiệu do không đảm bảo yêu cầu về tính  tự nguyện của các bên chủ thể khi tham gia giao dịch. Có nghĩa là các bên tham   gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện xác lập giao dịch, nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí   không đúng với ý chí đích thực của họ. Ý chí đích thực  ở  đây là sự  thể  hiện   của các chủ  thể, khi tham gia giao dịch, các chủ  thể  có quyền thể  hiện mong  muốn của mình ra bên ngoài trong khuôn khổ  của pháp luật mà không bị  ép  buộc bởi bất cứ yếu tố nào khác. Thứ  hai, giao dịch dân sự  do giả  tạo  được  xác  lập dựa  trên  ý  chí  tự  nguyện của các bên, các bên biết trước sự  không thống nhất giữa ý chí và sự  GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 17 ễn Thị Mỹ  Phương
  18. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn thể hiện của ý chí ra bên ngoài, nhưng vẫn tự nguyện xác lập giao dịch. Mục   đích của các bên khi xác lập giao dịch không nhằm làm phát sinh quyền và   nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật mà nhằm che giấu một giao dịch   khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ  đối với người thứ  ba. Qua đó ta hiểu là sự  tự  nguyện không đơn giản chỉ  là tự  nguyện xác lập giao dịch mà còn là sự  tự  nguyện ở chính bản thân chủ thể. Các bên chủ thể phải biểu lộ ý chí một cách   thoải mái và trung thực theo đúng ý chí và mong muốn của mình. Thứ ba, các bên xác lập giao dịch không nhằm mục đích làm phát sinh các  quyền và nghĩa vụ  dân sự  từ  giao dịch mà nhằm che giấu một giao dịch khác  hoặc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.  Đối với giao dịch dân sự giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì có  hai giao dịch song song tồn tại. Giao dịch giả  tạo được thể  hiện ra bên ngoài  nhưng không có giá trị thực tế, còn giao dịch ẩn giấu bên trong mới là giao dịch  đích thực, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể. Giao dịch giả  tạo chỉ  là hình thức, giao dịch che giấu bên trong mới là ý chí chung của các   chủ thể tham gia giao dịch. Giao dịch bên trong được che giấu bởi giao dịch giả  tạo bên ngoài. BLDS quy định, chỉ giao dịch dân sự giả tạo mới bị vô hiệu hoàn  toàn, còn giao dịch được che giấu vẫn có hiệu lực nếu đáp  ứng đủ  các điều  kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với giao dịch giả  tạo được xác lập nhằm trốn tránh nghĩa vụ  với  người thứ  ba cũng như  vậy, pháp luật quy định giao dịch giả  tạo sẽ  đương   nhiên bị  vô hiệu mà không cần có sự  yêu cầu của chủ  thể  có quyền lợi liên  quan. 1.3.3. Các trường hợp giao dịch dân sự do giả tạo Trên cơ sở xác định mục đích của việc xác lập giao dịch do giả tạo, ta có   hai trường hợp giao dịch do giả tạo sau: Thứ nhất, giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một  giao dịch khác. Trong trường hợp này có hai loại giao dịch song song tồn tại đó  GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 18 ễn Thị Mỹ  Phương
  19. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn là giao dịch đích thực (bên trong) và giao dịch giả tạo (giao dịch che giấu, thể  hiện ra bên ngoài). Giao dịch dân sự giả tạo nhằm che giấu giao dịch khác luôn  luôn vô hiệu còn giao dịch đích thực vẫn có hiệu lực pháp luật nếu như  giao  dịch bị  che giấu đó đáp  ứng được đầy đủ  các điều kiện có hiệu lực của giao   dịch dân sự.  Chẳng hạn như trường  hợp sau: Ông Nguyễn Văn A có vợ  là bà Đặng Thị  B. Ông A muốn tặng cho bạn gái của mình một ngôi nhà tọa  lạc tại quận Thủ  Đức, thành phố  Hồ  Chí Minh (ngôi nhà này thuộc sở  hữu  chung của vợ chồng). Nhưng sợ vợ biết được sẽ không đồng ý nên ông nói dối  là bán lại cho cô bạn để lấy tiền bỏ vào một dự án đầu tư thì bà B đồng ý (hợp  đồng tặng cho không được lập thành văn bản). Trong trường hợp này, giao   dịch mua bán nhà  ở  bị  vô hiệu (giao dịch giả  tạo) và giao dịch tặng cho bất   động sản cũng bị vô hiệu (giao dịch được che giấu) do không thỏa mãn về mặt   hình thức của hợp đồng.   Khi xác lập giao dịch giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác, các bên  chủ thể đều có sự tự nguyện tham gia giao dịch nhưng không có sự thống nhất   giữa ý chí và bày tỏ  ý chí. Các bên xác lập giao dịch giả  tạo không làm phát   sinh quyền và nghĩa vụ  giữa các bên tham gia giao dịch. Việc giao kết hợp   đồng này chỉ che giấu giao dịch khác, giao dịch này chỉ  mang tính hình thức vì  nội dung giao dịch đã thiết lập không đúng với ý chí đích thực của các bên. Thứ  hai, giao dịch dân sự  được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh  nghĩa vụ  của người thứ ba. Trong trường hợp này, giao dịch dân sự  được xác   lập có sự  tự  nguyện khi thể  hiện ý chí, tuy nhiên sự  thể  hiện ý chí này lại  nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Có hai trường hợp sau: (i) Trường hợp bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa   vụ với một chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác lập  giao dịch giả tạo. GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 19 ễn Thị Mỹ  Phương
  20. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn Chẳng hạn như để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong một hợp đồng vay tài  sản, A đã ký hợp đồng tặng cho ngôi nhà cho người thân của mình để  tránh   trường hợp ngôi nhà đó có thể bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của A. (ii) Trường hợp khi tham gia giao dịch, chủ  thể  có thể  phải thực hiện  một nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập hợp đồng  giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ đó. Chẳng hạn như trường hợp C bán nhà cho D, nhưng để trốn thuế, C và D  đã thỏa thuận lập hợp đồng  ủy quyền thỏa thuận D được toàn quyền định  đoạt đối với ngôi nhà đó. Trong trường hợp này, hợp đồng  ủy quyền bị  vô  hiệu, còn hợp đồng mua bán vẫn có hiệu lực. Một cách rõ ràng, mục đích của giao dịch giả tạo là nhằm trốn tránh nghĩa  vụ  với người thứ  ba, hoặc với Nhà nước, mặc dù trên thực tế  họ  có đủ  điều  kiện để  thực hiện.Vì vậy để  bảo vệ  lợi ích của Nhà nước cũng như  đối với  người thứ ba thì pháp luật quy định các giao dịch do giả tạo sẽ đương nhiên bị  vô hiệu mà không cần phải có sự yêu cầu của chủ thể có quyền lợi liên quan. 1.4. Sơ lược sự phát triển của hợp đồng dân sự  và hợp đồng dân sự  vô hiệu do giả tạo từ năm 1986 đến nay 1.4.1. Từ 1986 đến 1995 Từ  giữa những năm 80 của thế  kỷ  trước, khi đất nước ta bước vào thời  kỳ  đổi mới, phát triển nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành phần có sự  quản lý  của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để bảo vệ các quyền, lợi ích  hợp pháp của cá nhân, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm  thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới kinh tế ­ xã hội.   Các văn bản ban hành trong giai đoạn này có tính hiệu lực tương đối cao thể  hiện dưới dạng Luật, Pháp lệnh và các Nghị  định hướng dẫn thi hành, các   Luật và Pháp lệnh được Quốc hội và Hội đồng nhà nước ban hành.  Các văn bản pháp luật được ra đời để  điều chỉnh các quan hệ  hợp đồng  kinh tế  và quan hệ  hợp đồng dân sự, trong đó có Pháp lệnh hợp đồng kinh tế  GVHD: Tăng Thanh Phương                                     SVTH: Nguy Trang 20 ễn Thị Mỹ  Phương
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2