Đề tài " Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý trong giai đoạn hiện nay "
lượt xem 98
download
Đảng cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước ta, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong suốt 82 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng, giành độc lập tự do cho đất nước và nhân dân ta....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài " Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý trong giai đoạn hiện nay "
- MỤC LỤC Trang Mở đầu.....………..…………...…………………………………….... 4 1. Tính cấp thiết của đề tài………………………. 4 …………………...... 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên 6 cứu........................................................ 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên 7 cứu........................................... 4. Đố i tượng và phạm vi nghiên cứu......…….. 7 ……………………….... 5. Kết cấu của luận văn......……………………………... 8 …………....... Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tự phê bình và phê 9 bình……… 1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy 9 quản lý 1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về tự phê bình và phê 11 bình 1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam 12 về tự phê bình và phê bình 1.4. Tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong giai đoạn hiện 21 nay Chương 2: Thực trạng tự phê bình và phê bình c ủa đ ội ngũ cán 24 bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy Quốc Oai quản lý 2.1. Khái quát về kinh tế - xã hội - văn hoá huy ện Qu ốc 24 Oai………….. 2.2. Tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc di ện Ban 25 Thường vụ Huyện uỷ quản lý 2.3. Đánh giá chung……………………………………………………. 40 Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng 50 tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thu ộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy Quốc Oai quản lý 3.1. Phương hướng, mục tiêu 50 3
- chung……………………………………. 3.2. Một số giải pháp cơ bản.. 51 ………………………………………...... Kết 73 luận……………………………………………………………....... Tài liệu tham 76 khảo……………………………………………………........ 4
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đảng cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước ta, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho m ọi hoạt động. Trong suốt 82 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng đã lãnh đ ạo nhân dân ta làm cách mạng, giành độc lập tự do cho đất nước và nhân dân ta. Mục tiêu của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, sau 26 năm đã đưa Việt Nam thu được các thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Trong tình hình thế giới biến đổi không lường, công cuộc đổi mới đất nước ta có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức. Để Đảng có vai trò, trình độ ngang tầm lãnh đạo đất nước trong xu thế phát triển của thế giới và khu vực, phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Một trong nh ững giải pháp quan trọng là thực hiện nghiêm túc ch ế độ tự phê bình và phê bình. Qua quá trình hoạt động, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển, là thuộc tính b ản ch ất c ủa một chính đảng cách mạng, là công cụ sắc bén để giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên và củng cố khối đoàn kết th ống nh ất trong Đ ảng. Vì v ậy, t ự phê bình và phê bình luôn là việc làm không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Tự phê bình, phê bình giúp cho cán bộ, đảng viên và t ổ chức đảng thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của mình, qua đó tìm cách khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, nâng cao năng l ực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và cán bộ đảng viên. Văn kiện Đại hội 5
- đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng viết: "Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ ch ức; th ường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Gi ữ vững truy ền th ống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân ch ủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hoạt động chia rẽ, bè phái…”1. Đại hội XI cũng thẳng thắn đánh giá: “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đ ảng còn th ấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nề nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu”2. Chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng có vai trò quyết định chất lượng tự phê bình và phê bình trong các cấp bộ Đảng. Trong giai đoạn hiện nay cần tiếp tục đưa tự phê bình, phê bình trong các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến các cơ sở thành nền nếp thường xuyên và theo định kỳ, không làm qua loa chiếu lệ hình thức. Đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt đ ộng lãnh đ ạo, t ổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của huyện. Việc thực hiện nghiêm túc, có chất lượng chế độ tự phê bình và phê bình của Đảng trong đ ội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng bộ huyện nói chung, trong đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện uỷ quản lý nói riêng là biện pháp có ý nghĩa trực tiếp quyết định việc nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng, tác phong và năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ. Bên cạnh những ưu điểm, còn tồn tại một số mặt h ạn ch ế nh ư: chất lượng kiểm điểm tự phê bình và phê bình chưa cao, nhất là kiểm điểm 1 Đảng cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 89, 90. 2 Đảng cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”, Sđd, tr 174. 6
- phần tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống chưa sâu, chưa tự giác b ộc l ộ những tồn tại, yếu kém khuyết điểm... Hầu như không có trường hợp nào qua tự phê bình và phê bình chỉ ra được những tập th ể và cá nhân sai ph ạm đến mức phải xem xét xử lý kỷ luật. Nguyên nhân của những thiếu sót, khuyết điểm trên đây được Ban Chấp hành Đảng bộ huyện chỉ ra khá rõ, trên nhiều mặt, nhưng đáng chú ý nhận định sau: Tính tự giác, gương mẫu, dũng cảm thành khẩn của một s ố ít đ ồng chí cán bộ chủ chốt chưa cao; tinh thần đấu tranh, xây dựng của đội ngũ cán bộ đồng cấp, của đảng viên thiếu mạnh dạn, thẳng th ắn, còn né tránh... Công tác quản lý cán bộ lâu nay thiếu ch ặt chẽ, c ấp ủy n ắm cán b ộ chưa chắc nên chưa có gợi ý, yêu cầu kiểm điểm cụ thể và sâu sắc, tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quy ền và s ơ h ở trong cơ chế, chính sách để tham ô, nhũng nhiễu, gây phi ền hà cho nhân dân. Tính chiến đấu, vai trò lãnh đạo ở một số tổ chức đảng yếu, th ậm chí có nơi bị tê liệt. Đấu tranh t ự phê bình và phê bình theo tinh th ần Ngh ị quyết Trung ương 6 (lần 2) của nhiều tổ chức đảng, nhi ều cán b ộ, đ ảng viên còn yếu nên ít phát hiện đ ược tham nhũng, tiêu c ực ở c ơ quan, đ ơn vị, địa phương mình, cá biệt có n ơi còn vi ph ạm nguyên t ắc c ủa Đ ảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, dẫn đến nội bộ mất đoàn kết. Nhận thức được yêu cầu bức thiết trên, qua thời gian đ ược đào t ạo chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính t ại H ọc vi ện Chính tr ị - Hành chính khu vực I, được tiếp thu những kiến thức lý luận cùng với những kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình công tác tại địa phương , với mong muốn kết hợp lý luận và thực tiễn, tôi chọn vấn đề “ Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán b ộ thu ộc di ện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý trong giai đo ạn hi ện nay” làm luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính. 7
- 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản lý luận và thực tiễn về chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc di ện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý hiện nay, đ ề xu ất phương hướng, quan điểm và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ này. 2.2. Nhiệm vụ - Dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, nêu ra các quan ni ệm và tiêu chí đánh giá chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán b ộ thu ộc di ện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý trong giai đoạn hiện nay. - Đánh giá đúng thực trạng chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý từ năm 2006 đến nay, xác định rõ nguyên nhân của những thực trạng trên. Qua đó nêu lên những kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra cần giải quy ết trong t ự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện uỷ quản lý. - Đề xuất những phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán b ộ thuộc di ện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý trong giai đoạn hiện nay. 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3.1. Cơ sở phương pháp luận Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; các luật, văn bản pháp quy c ủa có liên quan đến chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ. 3.2. Phương pháp nghiên cứu 8
- Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp: điều tra, kh ảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai (Hà Nội) quản lý. - Thời gian từ năm 2006 đến nay 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham kh ảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tự phê bình và phê bình. Chương 2: Thực trạng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy Quốc Oai quản lý. Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Th ường vụ Huyện ủy Quốc Oai quản lý. 9
- CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH 1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý 1.1.1. Khái niệm cán bộ “Cán bộ” là một từ được du nhập vào Việt Nam khoảng nửa đầu thế kỷ XX. Ban đầu, từ “cán bộ” được dùng trong quân đội để phân biệt giữa chiến sĩ và người chỉ huy (từ cấp tiểu đội trở lên). Về sau từ “cán bộ” được dùng để chỉ tất cả những người thoát ly gia đình đi hoạt động kháng chiến để phân biệt với nhân dân. Trong một thời gian dài, ở Vi ệt Nam h ầu như từ “cán bộ” được dùng thay thế cho từ công chức. Theo cách hiểu thông thường hiện nay cán bộ được coi là tất cả những người làm vi ệc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang. Trong quan niệm hành chính được coi là những người có mức lương từ bậc cán sự trở lên, để phân biệt với những nhân viên có mức lương dưới cán sự. Theo sách “Từ điển tiếng Việt”, Cán bộ có 2 nghĩa: “1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước. 2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ”3. Nội hàm của định nghĩa này với nghĩa thứ nhất: Cán bộ không ch ỉ bao gồm những người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước mà trong cả hệ thống chính trị có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên mới gọi là cán bộ và được hình thành thông qua đào t ạo t ại tr ường. Số cán bộ có trình độ thấp hơn (trung cấp, sơ cấp) gọi là nhân viên. V ới nghĩa thứ 2: Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, m ột tổ 3 Hoàng Phê (chủ biên): “Từ điển tiếng Việt”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988, tr 125 - 126. 10
- chức kể cả cán bộ trong hệ thống chính trị thông qua con đường bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm... Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình c ủa dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, đ ể đ ặt chính sách cho đúng”4. Điều 4, khoản 1 của Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy đ ịnh: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, b ổ nhi ệm gi ữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên ch ế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. 1.1.2. Quan niệm về cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý. Với tư cách là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Huyện uỷ Quốc Oai lãnh đạo mọi mặt hoạt động của các tổ chức trong h ệ thống chính trị theo nguyên tắc: lãnh đạo tập thể, phân công cá nhân ph ụ trách. Nghĩa là, toàn bộ các hoạt động ở huy ện đặt dưới sự lãnh đ ạo c ủa Huy ện uỷ, nhưng lãnh đạo bằng việc định ra chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ công tác của hệ thống chính trị; bằng công tác tư t ưởng, công tác t ổ chức và công tác kiểm tra của Đảng. Trên cơ sở đó, Huy ện u ỷ ra quy ết định lãnh đạo, phân công cho cá nhân các đồng chí huyện uỷ viên tổ ch ức thực hiện quyết định lãnh đạo của Huyện uỷ. Trên cơ sở nguyên tắc lãnh đạo này, hầu hết các đồng chí Huy ện uỷ viên đều được phân công hoặc giới thiệu ứng cử vào các chức vụ chủ chốt, trọng yếu trong các cơ quan nhà nước, mặt trận và các tổ ch ức chính 4 Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 269. 11
- trị - xã hội ở huyện theo luật định. Những cán bộ này, trên c ương v ị huy ện uỷ viên, họ là thành viên ban lãnh đạo của đảng b ộ, th ực hi ện s ự lãnh đ ạo chính trị ở huyện. Nhưng trên cương vị người quản lý hay phụ trách một cơ quan, đoàn thể quần chúng, họ phải hoạt động tuân theo pháp lu ật, đi ều lệ của tổ chức quy định rõ chức trách, nhiệm vụ được giao. Khi nói t ới cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai quản lý là nói trước hết tới các đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt hoạt động trong hệ th ống chính trị ở huyện. Những cán bộ này thường là người đứng đầu, hoặc giữ vị trí chủ chốt trong các tổ chức, các cơ quan, có vai trò là người định hướng, chi phối và quyết định sự phát triển của tổ ch ức, cũng như kh ả năng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của tổ chức đó. Cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai quản lý bao gồm chức danh sau: Ủy viên thường vụ, Trưởng ban, Phó trưởng ban Đảng , Ủy viên Ủy ban kiểm tra; Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện; Chủ tịch, Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, cấp trưởng, cấp phó các đoàn thể chính trị - xã hội huyện; Giám đốc, phó giám đốc các trung tâm; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quận huy ện; Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng các trường trực thuộc huyện. Hiện nay số lượng cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Quốc Oai quản lý gần 700 đồng chí. 1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về tự phê bình và phê bình Tự phê bình và phê bình trong Đảng, một nguyên tắc xây dựng Đảng quan trọng, quy luật phát triển Đảng đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nghiên cứu và luận giải trên nhiều nội dung quan trọng. C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng, tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho hoạt động và phát triển bình thường của Đảng Cộng sản. Ăngghen nhấn mạnh: Việc đảng phê bình hoạt động đã qua của mình là vi ệc làm tuyệt đối cần thiết và bằng cách đó, đảng học cách hoạt động tốt hơn. 12
- V.I.Lênin coi tự phê bình và phê bình là quy luật phát tri ển c ủa đ ảng cách mạng. Tự cao, tự đại, không thấy những sai lầm, khuy ết điểm của mình, giấu giếm những sai lầm, khuyết điểm ấy là một trong những nguyên nhân làm giảm sút sức chiến đấu của đảng. Thái độ c ủa một chính đảng đối với những sai lầm, khuyết điểm của mình là một tiêu chu ẩn ch ắc chắn nhất để xem đảng ấy có nghiêm túc không, có th ực sự làm tròn nghĩa vụ với giai cấp mình và với quần chúng lao động không. V.I.Leenin viết: “tự phê bình và phê bình là một việc tuyệt đối cần thiết cho h ết th ảy m ọi chính đảng sống và đầy sức sống. Không gì tầm thường bằng chủ nghĩa lạc quan tự mãn”5 và “tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình và sợ sệt, không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của chúng ta và những nhược điểm đó, chúng ta s ẽ học được cách khắc phục”6. V.I.Lê-nin cũng khẳng định: “Sai lầm cũng dạy chúng ta nhiều bài học. Trong lĩnh vực này cũng như trong các lĩnh v ực khác, chúng ta nói rằng chúng ta sẽ học tập bằng tự phê bình”7. 1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tự phê bình và phê bình 1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình Kế thừa, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới, Hồ Chí Minh cho rằng: “Tự phê bình và phê bình” vừa là quy luật phát triển Đảng, vừa là nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng. Trong các tác phẩm, bài viết của mình, vấn đề này được Người thể hiện hai quan điểm: - Người nhấn mạnh tự phê bình và phê bình, xem đây nh ư vũ khí sắc bén để Đảng thường xuyên trở nên trong sạch, vững mạnh. 5 V.I.Lênin Toàn tập, tập 10, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1979, tr 395 - 396. 6 V.I.Lênin Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1978, tr 141. 7 V.I.Lênin Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1978, tr 205 - 206. 13
- - Có khi, Người đặt “phê bình” trước “tự phê bình”, nhiều h ơn c ả là “tự phê bình” trước “phê bình” - đây không phải là ngẫu nhiên, mà có d ụng ý. Dụng ý thể hiện trước hết cần coi trọng tự phê bình, mu ốn phê bình người khác thì phải tự phê bình mình trước. Điểm xuất phát của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình là dân chủ và nhân đạo. Bản chất của nó là xây dựng, vươn tới sự hoàn m ỹ, thúc đẩy tiến bộ, là cách mạng và khoa học, là vì nhân dân, vì s ự đoàn k ết nh ất trí trong toàn Đảng. Do đó, bản chất của tự phê bình và phê bình là hướng tới cái đẹp, cái tốt. Sự cần thiết phải thực hiện tự phê bình và phê bình vì con người ai cũng có khuyết điểm, thiếu sót, chỉ khác nhau ở mức độ nặng hay nhẹ, ở trạng thái biểu hiện mà thôi, “người đời không phải là th ần thánh, không ai tránh khỏi khuyết điểm”8. “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy n ở nh ư hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng” 9. “Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình” 10, nếu không thực hiện điều này thì cũng như người có bệnh nếu giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mạng. Hồ Chí Minh hiểu rõ Đảng bao gồm đủ các giai tầng trong xã hội và có tính cách mạng rất cao như: trung thành, rất kiên quy ết, hy sinh và r ất vĩ đại... Song Đảng là một phận của xã hội, cũng không tránh kh ỏi nh ững t ập tục, tính nết, khuyết điểm, thói xấu của xã h ội lây ng ấm và “không ph ải là người người đều tốt, việc việc đều hay”. Do vậy, trong Đ ảng c ần th ường xuyên tự phê bình và phê bình như con người luôn cần không khí để sống. Mục đích tự phê bình và phê bình theo Hồ Chí Minh không đồng nghĩa với trừng trị, phê phán. Với Người, phê bình ch ỉ là sự m ổ x ẻ m ột căn 8 Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 166. 9 Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Sđd, tr 558. 10 Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Sđd, tr 262. 14
- bệnh mang ý nghĩa như một sự khởi nguồn của một quá trình để ch ữa lành con bệnh, làm cho con người tồn tại, phát triển kho ẻ m ạnh. Vì v ậy, s ự “mổ xẻ” chỉ có ý nghĩa khi nó đạt tới cái thiện và cái đẹp. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa ch ữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”11 để hành động đúng hơn, làm việc hiệu quả và chất lượng cao hơn. Do đó, mỗi cán bộ đảng viên hàng ngày ph ải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như rửa mặt mỗi ngày. Được nh ư thế, trong Đảng sẽ luôn khẻo mạnh, không có bệnh tật gì. Đối tượng trực tiếp của tự phê bình và phê bình, theo Ng ười là vi ệc chứ không phải người. Phê bình việc làm sai, không những không đem lại lợi ích cho dân cho nước, mà còn có hại cho cách mạng, cho nhân dân. Quan điểm “phê bình việc chứ không phê bình người” làm cho con người không bị rơi vào cái “tôi” vị kỷ, thấp hèn, thù h ận, tranh giành đ ược thua, ghen ghét giữa con người với nhau. Phê bình việc là sự gột rửa “cái bên ngoài” con người, không cho nó ngấm vào bên trong trở thành bản chất, làm “ô nhiễm” con người. Tự phê bình và phê bình theo Hồ Chí Minh nh ư dùng khăn, xà phòng để gột rửa cái nhơ bẩn bám con người, ch ứ không ph ải c ắt bỏ thân thể con người. Tự phê bình và phê bình như uống thuốc trị bệnh, uống rồi l ại ph ải bồi bổ cho khoẻ mạnh. Tầm cao trí tuệ của Người thể hiện ở nâng cao con người, là phát huy tính tích cực, chủ động của con người trong công việc và cuộc sống. Người nói: cần tự phê bình là chính, phải phê bình mình trước, phê bình người sau, chỉ có tự phê bình mình thì người m ới dám phê bình mình, đặc biệt đối với cán bộ lãnh đạo. Tự phê bình và phê bình là đ ể giúp cho mỗi người tự hoàn thiện mình, để cho con người vươn tới chân, thi ện, mỹ. 11 Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Sđd, tr 232. 15
- Tự phê bình và phê bình liên quan trực tiếp đến đoàn kết trong nội bộ Đảng. Mục đích của tự phê bình và phê bình là nh ằm tăng cường s ức mạnh đoàn kết trong Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ là phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, đ ể đi đến càng đoàn kết. Đoàn kết, phê bình, tự phê bình th ật thà đ ể đi đ ến đoàn kết hơn nữa”12. Thái độ đối với tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh là: “lý lẽ phân minh, nghĩa tình đầy đủ”, phải xuất phát từ “tình đồng chí yêu th ương lẫn nhau”, thấm đượm “lòng nhân ái”, phải thành khẩn, kiên quy ết và có văn hoá. Tự phê bình và phê bình “phải ráo riết”, “triệt để, th ật thà, không nể nang, không thêm bớt”. Phê bình không phải là cơ hội để soi mói nhau, nhằm “lật đổ nhau”, hay làm mất mặt nhau trước tập thể. Phê bình ph ải thực hiện công khai, như vậy mới tránh được thái độ “bưng mắt bắt chim”, thái độ “giấu bệnh sợ thuốc”… Kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật tự giác, nên sự thành khẩn trong tự phê bình và phê bình là đòi hỏi tiên quyết trong công tác xây d ựng Đ ảng. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh quan điểm: nếu không kiên quy ết th ực hi ện tự phê bình và phê bình thì giống như con người có bệnh nhưng không uống thuốc. Tình yêu thương là yêu cầu quan trọng trong phê bình để tiếp cận và thực hành chân lý, làm cho con người tự nguyện đón nhận tự phê bình và phê bình như tiếp nhận một chất kích thích để sinh trưởng, chứ không phải coi nó như một cái gì đó rất đáng ghê sợ, cần đề phòng. Càng không thể coi đó là âm mưu, thủ đoạn để đối xử, kèn cựa giữa những người đồng chí với nhau. Tự phê bình và phê bình chỉ thực sự có kết quả khi có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của cấp trên, đồng thời được cấp dưới và đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ, hưởng ứng một cách chân thành với tinh thần xây 12 Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 387. 16
- dựng. Làm được như vậy, tránh được việc kẻ xấu “tô vẽ thêm để phá hoại Đảng”, tránh được “thái độ của đảng viên và cán bộ thoái hoá l ợi dụng đ ể đạt mục đích tự tư, tự lợi của họ” và khắc ph ục được thái đ ộ ươn hèn, yếu ớt “ba phải”, thủ tiêu đấu tranh, “sao cũng mặc”, “sao cũng được”, “sao cho xong chuyện thì thôi”; tránh được căn bệnh chủ quan hay thái độ “đối với những người mắc sai lầm, khuyết điểm nh ư đối với h ổ mang, thuồng luồng”. Để tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả cao cần phải có sự chỉ đạo, lãnh đạo tập trung thống nhất của cấp trên và s ự tham gia tích cực của cấp dưới, của quần chúng nhân dân. Tự phê bình và phê bình phải có “tính chất xây dựng”, “không mỉa mai, nói xấu”, không trù dập người phê bình. Đối với người phê bình ph ải chỉ ra được cụ thể những ưu, nhược điểm của đồng chí từ đó tìm cách giúp đỡ họ, đồng thời phải luôn chịu trách nhiệm về những lời nói của mình. Trong phê bình phải chú ý tới thái độ dân chủ, ph ải để cho ng ười khác được phát biểu, được nêu lên những sai trái của mình trong nh ận thức cũng như hành động. Nhiều người phát biểu sẽ chỉ ra được đầy đủ những ưu, nhược điểm của mình, vấn đề sẽ được xem xét một cách đầy đủ và toàn diện, từ đó mỗi người tự hoàn thiện mình thông qua s ự giúp đ ỡ của ng ười khác và nỗ lực của bản thân. Trong phê bình phải bình tĩnh, không nôn nóng, không hình th ức, “... có gì cứ bình tĩnh bảo nhau, bàn với nhau. Càng cáu càng khó nghe. Muốn dân chủ tốt, kỷ luật cao, cán bộ phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Ví dụ: Bác và các chú khai hội với nhau, Bác tự phê bình trước thì các chú mới dám phê bình. Các chú có khuyết điểm, Bác phê bình l ại. M ục đích t ự phê bình và phê bình là để học cái hay, tránh cái d ở, ch ứ không ph ải đ ể nói xấu nhau”13. Phê bình “những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng ph ải giúp h ọ ti ến bộ b ằng cách làm 13 Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 446 - 447. 17
- cho cái thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”14. Thực hành tự phê bình và phê bình cần công khai, th ật s ự dũng c ảm Phê bình phải từ cấp dưới lên và cấp trên phải nêu gương tự phê bình để cấp dưới noi theo. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các đồng chí của mình: tôi làm điều xấu, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “n ể” c ụ không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người. Về Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh cho rằng: một Đảng mà dấu diếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan nh ận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách đ ể s ửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, m ạnh d ạn, ch ắc chắn, chân chính. Từ những quan điểm của Hồ Chí Minh, có thể khái quát bốn thái độ của cán bộ đảng viên trong tự phê bình và phê bình như sau: Một là, đối với những đồng chí có giác ngộ chính trị cao thì t ự mình phê bình rất thật thà, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm. Khi phê bình người khác các đồng chí ấy luôn thành khẩn, nhiệt tình, đối với những người mắc khuyết điểm dù nặng hay nhẹ mà không chịu sửa ch ữa thì các đồng chí ấy đấu tranh kiên quyết, không nể nang. Đối với thái độ này, theo Hồ Chí Minh “chúng ta phải học tập tinh thần và tác phong của các đồng chí ấy”, đồng thời phải tuyên truyền rộng rãi để mọi người đều biết và noi theo. Hai là, có một số người bị phê bình, giáo dục nhiều lần mà không chịu sửa đổi, vẫn “cứ ỳ ra”. Theo Người, đối với h ạng người này, chúng ta phải có thái độ nghiêm khắc, phải mời họ ra kh ỏi Đảng, để tránh “con sâu 14 Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, tr 558. 18
- làm rầu nồi canh”, không cho họ có cơ hội làm mất đoàn kết, làm tha hoá Đảng, không để nó trở thành một nguy cơ đối với Đảng cầm quyền. Ba là, có một bộ phận không nhỏ, đối với người khác thì luôn có thái độ phê bình đúng đắn, nghiêm túc, rất “Macxit”, nh ưng trong t ự phê bình mình thì quá yếu. Các đồng chí ấy không dám m ạnh dạn công khai t ự phê bình, không vui lòng tiếp thu sự phê bình của người khác, không kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm của mình, thường vin vào những “lý do khách quan” để tự biện hộ, né tránh. Các đồng chí ấy mắc vào chủ nghĩa tự do, mang “một ba lô chủ nghĩa cá nhân”, sợ mất thể diện, uy tín. Hiện tượng này thường xảy ra với những cán bộ, đảng viên làm công tác lãnh đạo, phụ trách những công việc quan trọng trong Đảng, Nhà nước. Với thái độ này, Đảng cần có hướng giáo dục, giúp đỡ họ trở nên tốt h ơn, đ ể h ọ có quan điểm đúng đắn về tự phê bình, dám chịu trách nhiệm đối với nh ững công việc, hành động của mình trước đồng chí, trước Đảng và nhân dân. Mục đích cuối cùng là phải giúp họ hoàn thiện mình, đ ể h ọ th ực s ự tr ở thành những người hữu ích, có thể cống hiến được nhiều hơn cho cách mạng, cho nhân dân. Bốn là, có một số đồng chí lợi dụng phê bình để nói xấu, làm mất uy tín, danh dự người khác, hay phê bình “lung tung, không ch ịu trách nhiệm”, vì lợi ích bản thân mình, do bởi tham quy ền lực, đ ịa vị và danh tiếng. Một số đồng chí vì nể nang, lo sợ không dám phê bình người khác, rơi vào “chủ nghĩa ba phải”. Đối với các đồng chí này, Đảng cần có biện pháp giáo dục họ, nếu không cần kiên quyết đưa họ ra khỏi Đảng, nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng viên, trong sạch nội bộ Đảng. 1.3.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tự phê bình và phê bình Công cuộc đổi mới đất nước trong 26 năm qua đã giành được nhiều thành tựu to lớn, đã và đang tạo ra th ế và lực m ới cho đ ất n ước. Đ ể có những thành tựu to lớn đó trước hết là sự lãnh đạo c ủa Đ ảng, nh ưng Đ ảng 19
- muốn lãnh đạo được thì bản thân phải trong sạch, vững m ạnh, luôn đ ổi mới, chỉnh đốn ngang tầm với nhiệm vụ và đòi hỏi mới c ủa l ịch s ử. Nh ận thức được điều này, tại các Đại hội VI, VII, Đảng ta luôn có sự quan tâm lớn đến công tác xây dựng Đảng, đặc biệt từ Đại hội VIII đ ến nay, nhi ệm vụ xây dựng Đảng, trong đó thực hiện tự phê bình và phê bình đ ược xem là nhiệm vụ then chốt bên cạnh xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, 5, 6 (lần 2) khoá VIII, đều đề cập sâu sắc, toàn diện vấn đề này. Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII ra nghị quyết về một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, mở rộng và đ ẩy m ạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, trong đó Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt chú ý thực hiện cuộc vận động tự phê bình và phê bình trong Đảng nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ sự chỉ đạo kịp thời, sâu sát của Ban Chấp hành trung ương, các cấp uỷ, tổ chức cơ sở Đảng đã tích cực đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, đặc biệt thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng. Qua quá trình triển khai thực hiện, tuy chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, nhưng đã đạt được nhiều thành quả lớn và kinh nghiệm quan trọng, đó là: - Nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của t ự phê bình và phê bình trong Đảng. Tự phê bình và phê bình thực sự trở thành nền nếp, phong cách sinh hoạt hàng ngày của toàn Đảng, mỗi đảng viên. - Góp phần phát hiện, ngăn ngừa kịp thời nhiều việc làm sai trái, tăng cường đoàn kết nội bộ. Đã xử lý kỷ luật Đảng, Nhà n ước đ ối v ới không ít cán bộ đảng viên sai phạm, kể cả cán bộ cấp cao, nh ững bi ện pháp này vừa có tác dụng răn đe và giáo dục cán bộ đảng viên đồng th ời được nhân dân đồng tình ủng hộ. - Bằng nhiều biện pháp khác nhau, Đảng đã cố gắng và bước đầu đưa nguyên tắc tự phê bình và phê bình vào cuộc s ống hàng ngày, vào trong 20
- mọi cơ quan, tổ chức Đảng và trong mỗi cán cán bộ đảng viên, bi ến nó thành một nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng thường xuyên, liên tục. - Góp phần làm trong sạch, nâng cao sức chiến đấu của các t ổ ch ức Đảng, mỗi cán bộ đảng viên. Phần lớn đảng viên đã tích cực, tự giác tự phê bình và phê bình góp phần nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Để thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, qua đó góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo th ực hiện th ắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần th ực hiện tốt những nội dung sau: - Tiến hành nghiêm túc và thường xuyên tự phê bình và phê bình theo đúng điều lệ Đảng và tinh thần ch ỉ th ị của Đảng, đ ặc bi ệt là Ngh ị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, tránh lối làm việc hình thức, chiếu lệ cho xong việc. Yêu cầu của tự phê bình và phê bình phải đạt được: nói th ật, nói hết những sai lầm, khuyết điểm đã mắc phải trước tổ chức Đảng và công khai trước nhân dân. Việc xử lý những sai lầm, khuy ết đi ểm ph ải đ ược tiến hành công minh và theo phương châm “trị bệnh cứu người”. Dần làm cho mọi người thấy rõ kết quả tự phê bình và phê bình ngoài vi ệc tr ị b ệnh cứu người, còn có tác dụng “tôi luyện” thêm phẩm chất, năng lực lãnh đ ạo và tổ chức thực hiện chủ trương đường lối của Đảng cho đội ngũ cán bộ đảng viên. Đồng thời qua đó giúp Đảng lựa chọn được những cán bộ đủ đức, đủ tài để gánh vác nhiệm vụ cách mạng. - Tự phê bình và phê bình phải nói đầy đủ hai mặt: ưu và khuy ết điểm về thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, tổ chức th ực hiện ch ủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước; về quan điểm, lập trường, tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống và tác phong công tác của cán bộ đảng viên. Đối với khuyết điểm phải nói hết, nói đúng, không né tránh, không nể nang, không đổ lỗi cho khách quan hoặc cho người khác. Cần trình bày rõ 21
- nguyên nhân đưa đến sai lầm, khuyết điểm. Khi đã được t ập th ể Đ ảng, quần chúng góp ý phê bình phải báo cáo đầy đủ, trung th ực lên c ấp trên đ ể tùy theo mức độ mà xử lý theo quy định điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cần có những hình thức khen thưởng kịp thời những cán bộ, đảng viên, tập thể có thành tích, giúp họ kịp thời phát huy hơn nữa nh ững thành tích trong công tác. - Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính, coi trọng giáo dục, nâng cao nhận thức để phát huy ưu điểm, ngăn ngừa sai ph ạm. Qua tự phê bình và phê bình, từng cán bộ đảng viên ở các cấp cần tự xem xét mình có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, tư cách là cán bộ đảng viên của Đảng nữa hay không; nếu không thì phải tự nguyện rút khỏi vị trí đương nhiệm, chịu hình thức kỷ luật tương xứng, hoặc xin ra khỏi Đảng để đảm bảo tổ chức Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. - Việc thi hành kỷ luật đối với những cán bộ đảng viên cần thông báo công khai trước tổ chức đảng và nhân dân. Việc làm này hết sức cần thiết để quần chúng nhân dân thấy rõ sự nghiêm minh của Đảng và sự tôn trọng của Đảng đối với quần chúng; biết lắng nghe ý kiến đúng đắn của nhân dân từ đó góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó máu th ịt gi ữa Đảng với dân. - Phát động phong trào rộng rãi, sâu sắc, liên tục trong nhân dân bằng tất cả các phương tiện thông tin đại chúng để nêu gương người tốt, việc tốt, lên án những khuyết điểm, lỗi lầm của những người vi ph ạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bất cứ ai, ở cương vị nào cũng phải tuân theo pháp luật. Công khai, minh bạch là cách làm tốt nh ất đ ể ti ến hành tự phê bình và phê bình. Cán bộ đảng viên đặc biệt là những người có ch ức có quyền phải thực sự là tấm gương sáng trong tự phê bình và phê bình. - Làm theo phương pháp Hồ Chí Minh: làm trong sạch từ trong nội bộ Đảng và trong các cơ quan Nhà nước, bắt đầu từ trên đ ể ki ểm tra, lãnh đạo dưới, để nhân dân tin và tham gia phê bình cán bộ đ ảng viên. Lo ại b ỏ, 22
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài " Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh "
29 p | 394 | 170
-
Đề tài: Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHTMCP Phương Đông Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHTMCP Phương Đông
114 p | 302 | 120
-
Đê tài: Nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp xây dựng
27 p | 188 | 45
-
Đề tài: Nâng cao chất lượng nguốn nhân lực vùng kinh tế trọng điểm miền trung
6 p | 231 | 39
-
Đề tài: Nâng cao chất lượng và giáo dục đạo đức học sinh bằng việc tích hợp kỹ năng sống vào môn học Giáo dục công dân ở bậc THCS
21 p | 178 | 27
-
Đề tài: Nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm hợp tác trong giải toán có lời văn ở lớp 5
31 p | 206 | 23
-
Luận văn đề tài: Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH Dịch vụ tư vấn và đại lý thuế Trương Gia
79 p | 52 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
146 p | 24 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty TNHH Dịch vụ số Digilife Việt Nam
120 p | 16 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại trường Cao đẳng VMU
110 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Vietinbank chi nhánh Sa Đéc
80 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty cổ phần tư vấn công nghệ NGS
93 p | 14 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Cường Thịnh
112 p | 12 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng điều dưỡng viên tại Công ty cổ phần Vacxin Việt Nam
112 p | 9 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Nâng cao chất lượng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội
125 p | 4 | 2
-
Luận án Tiến sĩ: Nâng cao chất lượng giảng viên các trường cao đẳng nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội
217 p | 6 | 2
-
Tóm tắt Đề án Thạc sĩ Quản lý công: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở Học viện An ninh nhân dân, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn 2024 -2030
24 p | 4 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng cán bộ công chức tại Chi cục Thuế huyện Phú Quốc, Kiên Giang
94 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn