intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài " Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế đối với Việt Nam "

Chia sẻ: Đỗ Thị Hương Sen Sen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

1.915
lượt xem
540
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với mọi mặt của kinh tế thế giới. Khủng hoảng kinh tế đầu tiên phát ra từ nước Mỹ và đã lan rộng khắp các nước, hầu hết các quốc gia đều ít nhiều bị ảnh hưởng, từ suy giảm tốc độ tăng trưởng cho đến nặng hơn là rơi vào cuộc khủng hoảng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài " Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế đối với Việt Nam "

  1. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen LỜI MỞ ĐẦU Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với mọi mặt của kinh tế thế giới. Khủng hoảng kinh tế đầu tiên phát ra từ nước Mỹ và đã lan rộng khắp các nước, hầu hết các quốc gia đều ít nhiều bị ảnh hưởng, từ suy giảm tốc độ tăng trưởng cho đến nặng hơn là rơi vào cuộc khủng hoảng. Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang xây dựng cho mình nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, đã và đang hội nhập từng bước sâu hơn với kinh tế toàn cầu. Do đó, khủng hoảng kinh tế thế giới đã tác động đến kinh tế Việt Nam một cách rõ nét. Bên cạnh dó những khó khăn nội tại của nền kinh tế Việt Nam về tỷ giá, lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại … cũng đang là bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách trong việc đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong giai đoạn bất ổn như hiện nay. Vì vậy việc nghiên cứu về cuộc khủng hoảng kinh tế để tìm ra nguyên nhân và thực hiện các biện pháp, chính sách bình ổn nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng có vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế. Xuất phát từ những ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đến nền kinh tế các nước và Việt Nam nói riêng. Tôi chọn đ ề tài “ Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và tác động của nó đ ối với nền kinh tế Việt Nam”. Nội dung của đề tài được cấu trúc thành ba phần: Phần 1. Khái quát về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 Phần 2. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế đối với Việt Nam Phần 3. Một số giải pháp của Chính phủ đối với khủng hoảng kinh tế. 1 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  2. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen Phần 1: KHÁI QUÁT VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2008 Khái quát chung về cuộc khủng hoảng kinh tế I. 1. Bản chất khủng hoảng kinh tế Bản chất của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế hiện nay đó là sự đổ vở của sự mất cân bằng ở tất cả các thị trường hiện hữu từ thị trường tài chính, đến thị trường sản xuất kinh doanh, đến thị trường lao động. Như Kác Mác đã khẳng định nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là một nền kinh tế vô chính phủ (không có tính cân đối). Sự cân bằng trong sản xuất và tiêu dùng, sự cân bằng giữa cung và cầu chỉ là nhất thời. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại các nhà tư bản lớn, những nhà tư bản khôn ngoan đã tìm cách chuyển từ nhà tư bản sản xuất, sang làm nhà tư bản kinh doanh các công cụ tài chính. Vì rằng việc kinh doanh các công cụ tài chính vừa có khả năng làm giàu nhanh chóng, vừa có điều kiện phòng chống rủi ro cao hơn là làm nhà tư bản sản xuất. Kinh doanh các công cụ tài chính, mà như Kác Mác đó là kinh doanh tư bản giả, một loại tư bản không trực tiếp sản xuất ra giá trị hàng hóa – dịch vụ nhưng nó có khả năng tích trử giá trị của hàng hóa - dịch vụ sản xuất được của xã hội, nó có thể là đại diện cho khối tài sản đang chứa đựng trong các doanh nghiệp, nó có thể chuyển hóa thành tiền một cách nhanh chóng, và tất nhiên nó cũng có thể là không có giá trị gì, hoặc có giá trị rất thấp khi kinh tế suy thoái. Khi làng sóng đầu tư vào các thị trường tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là làng sóng tăng lên của các thị trường phi sản xuất, như thị trường tài chính, thị trường địa ốc, thị trường ngoại tệ, …. tính ảo của thị trường sẽ xuất hiện. Nghĩa là người mua ở đây không còn là người “tiêu thụ” sản phẩm mà chủ yếu là những nhà đầu cơ, kể cả trong thị trường sản xuất cũng mang nặng tính đầu cơ. Quá trình này đã làm cho các thị trường bành trướng mau lẹ, GDP tăng lên nhanh chóng, cho đến lúc sự mất cân bằng tăng lên đ ỉnh điểm và thị trường không thể tiếp tục chứa đựng những hàng hóa - dịch vụ mà nó phải chứa đựng, cũng như sự mất cân đối đã đạt mức quá sức chịu đựng của thị trường và phải đi đến sự sụp đổ. 2 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  3. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen 2. Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 Năm 2008 nước Mỹ đã rung chuyển trong cuộc đại suy thoái kinh tế chưa có hồi kết khiến cho toàn thế giới phải một phen chao đảo. Không ai có thể ngờ một tượng đài, một đầu tầu kinh tế thế giới lại có thể suy sụp nhanh đến như vậy. Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế ngay trong nội bộ nước Mỹ thì cuộc khủng hoảng này có nguyên nhân sâu xa từ chính cơ cấu và động lực tăng trưởng bất hợp lý của nước Mỹ trong thời gian qua nhưng nó đã được bỏ qua bởi các nhà hoạch định chính sách tự mãn và sự lạc quan thái quá của người dân Mỹ. 2.1- Nền kinh tế mất cân bằng Trong khi hầu hết các quốc gia trên thế giới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu thì nước Mỹ đã chọn cho mình một con đường riêng để duy trì đà tăng trưởng kinh tế đó là khuyến khích và đẩy mạnh tiêu dùng nội địa. Trong nhưng năm qua tiêu dùng của người dân luôn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP của nước này và hiện đang tỷ trọng lớn đến 70% GDP. Chiến lược này trong một thời gian đã tỏ ra rất hiệu quả khi lòng tin của người tiêu dùng vào triển vọng của nền kinh tế đang ở mức cao nhưng nó đã tạo nên một lỗ hổng to lớn trong nền kinh tế đó chính là làm cho nền kinh tế trở nên mất cân bằng. Tiêu dùng của người dân Mỹ đã dần dần trở nên quá mức bởi tư tưởng lạc quan thái và được khuyến khích bởi sự dễ dãi của các tổ chức tín dụng trong cho vay tiêu dùng. Chính điều đó đã tạo khoản thâm hụt thương mại cực lớn và có dấu hiệu ngày càng tăng, đồng thời hệ thống kinh tế tr ở nên dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết bởi các mối quan hệ vay nợ dễ dãi và chồng chéo. 2.2- Chứng khoán hoá Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp khác nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm đảm bảo để phát hành các trái phiếu (gọi chung là trái phiếu đảm bảo bằng tài sản). Tiền từ người mua các chứng khoán này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài chính cho vay thế chấp để các tổ chức này cho người đem thế chấp tài sản vay tiền. Chứng khoán hóa chính là quá trình đưa các tài sản thế chấp sang thị trường thứ cấp nơi mà chúng có thể trao đi 3 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  4. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen đổi lại. Nó đã biến các tài sản kém thanh khoản thành những chứng khoán thanh khoản cao. Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự là một phát minh lớn về công cụ tài chính. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh tế liên quan đến chứng khoán hóa (thay vi 2 loại chủ thế kinh tế là người thế chấp - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay - nhận thế chấp như giao dịch tín dụng truyền thống), vì sự xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng (CDS), vì sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc biệt (SPV) và những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý. Trong khi đó, mô hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các rủi ro này. Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đối với bong bóng thị trường tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn. Thực tế, thị trường nhà ở bắt đầu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà đất giảm và chất lượng tài sản đảm bảo cho các MBS và các CDO giảm theo. Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS và CDO cũng như một số tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và CDO sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007 khi đến lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả những tổ chức tài chính khổng lồ như Lehman Brothers sụp đổ. 2.3 Nới lỏng quy định tài chính 4 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  5. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng là những yêu cầu của pháp luật về sự minh bạch hoá và năng lực kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước đã không bắt kịp với những biến đổi sâu rộng của thị trường. Không một cơ quan Nhà nước, đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài chính có đủ thông tin và khả năng nhìn xuyên qua lớp lớp các thao tác chứng khoán để có thể đánh giá chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản trên sổ sách của các công ty tài chính và ngân hàng. Thêm vào đó nhiều thao tác này lại được che đậy qua hoạt động đầu cơ của các quỹ đầu tư, một loại hình quỹ đầu tư nắm giữ tới gần 3000 tỉ USD giá trị tài sản nhưng không hề phải cáo bạch tài sản với công chúng và gần như không chịu sự giám sát của bất kỳ một cơ quan Nhà nước nào. Ngoài ra, những nới lỏng của pháp luật bắt đầu từ thập niên 1980, chẳng hạn như việc đạo luật Glass- Steagal vốn tách biệc ngân hàng thương mại chuyên thực hiện những hoạt động cho vay an toàn với ngân hàng đầu tư chuyển thực hiện những nghiệp vụ đầu tư rủi ro cao, đã góp phần khuyến khích những hoạt động đầu cơ và tạo điều kiện cho xung đột lợi ích phát triển. Chính môi trường thiếu minh bạc và thiếu giám sát này đã thổi bùng lên bong bóng đầu cơ bất động sản. Ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế đối với các nước trên thế II. giới. 1. Hệ thống ngân hàng Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu, cũng tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy, bóng bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ. Những nước châu Âu bị rối loạn tài chính nặng nhất là Anh, Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha. Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng đột biến rút tiền gửi và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Đột biến rút tiền gửi còn làm căng thẳng các ngân hàng khác của nước này. Sang năm 2008, đến lượt Bradford & Bingley plc của Anh phải chịu chia nhỏ thành 2 công ty riêng biệt. Các ngân hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao gồm Catholic 5 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  6. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen Building Society, Alliance & Leicester. London Scottish Bank và Dunfermline Building Society phải chịu sự giám sát đặc biệt của Chính phủ Anh. Ở Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Ngay quý I năm 2008, GDP của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1983 tới thời điểm này. Glitnir, Straumur Investment Bank, Reykjavík Savings Bank phải chịu quốc hữu hóa. Kaupthing, Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới sự quản lý của cơ quan giám sát tài chính quốc gia. Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị giảm, khiến cho giá cổ phiếu của ngân hàng này sụt ghê gớm, giá cổ phiếu tại thời điểm đầu tháng 3 Năm 2008 giảm tới 99% so với giá đỉnh cao vào năm 2007. Đầu năm 2009, Anglo Irish Bank bị quốc hữu hóa. Allied Irish Banks cũng phải chịu tình trạng cổ phiếu mất giá ghê gớm và phải chấp nhận cải cách đ ể nhận được khoản vay tái cơ cấu của Chính phủ. Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Dexia chịu khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ Bỉ cho vay để củng cố. Ở Hà Lan, để đảm bảo hệ số an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ Hà Lan cho vay. Ở Đức, ngày từ đầu năm 2008, người ta phát hiện ra rằng BayernLB đã chịu những khoản lỗ lớn do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ.[2] Sau đó, ngân hàng này đã phải cầu xin sự giúp đỡ của Chính phủ Liên bang Đức. 2. Thị trường chứng khoán Các thị trường chứng khoán lớn của thế giới ở New York, London, Paris, Frankfurt, Tokyo đều có thời điểm sụt giá lớn lịch sử. Ở châu Âu, chỉ số FTSE 100 từ mức 4789,79 xuống còn 4699,82. Chỉ số DAX hôm 2 tháng 3 năm 2009 chỉ còn 3666,4099 điểm so với 8067,3198 hôm 27 tháng 12 năm 2007.Chỉ số CAC 40 hôm 2 tháng 3 năm 2009 cũng xuống mức thấp kỷ lục 2534,45 điểm. Nhật Bản có một hệ thống tài chính tương đối vững vàng đã trải qua một thời kỳ tái cơ cấu sau khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác động tiêu 6 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  7. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen cực từ khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ vẫn khiến cho thị trường chứng khoán của nước này rối loạn. Chỉ số giá cổ phiếu bình quân Nikkei đã xuống mức thấp lịch sử vào các ngày 8 và 10 tháng 10 năm 2008. 3. Thị trường tiền tệ Hàn Quốc tháng 9 năm 2008, won Hàn Quốc bị mất giá mạnh, có lúc tới mức 1.500 won/đô la Mỹ Tình trạng tồi tệ của các tổ chức tài chính đã khiến cho tình trạng đói tín dụng xảy ra ở nhiều nước, ảnh hưởng nghiêm trọng tới khu vực sản xuất thực. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã dẫn tới suy thoái kinh tế ở nhiều nước. Phần 2: TÁC ĐỘNG CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐỐI VỚI VIỆT NAM I.Tác động khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam 1. Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta chậm lại. Kế hoạch đầu năm 2008, tăng trưởng GDP dự kiến từ 8,5 – 9%. Tháng 5 năm 2008 Quốc hội đã điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng GDP xuống 7%, nhưng đến tháng 10 năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế là 6,52%, dự kiến năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ từ 6,5 đến 6,7%. 2. Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng Mặc dù hiện tại hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam chưa chịu tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ vì hệ thống tài chính 7 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  8. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen ngân hàng Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của hội nhập; nhưng trước mắt sẽ có những hạn chế trên một số lĩnh vực như: - Mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị trường tài chính bên ngoài và với ngân hàng Mỹ sẽ gặp khó khăn; Trong ngắn hạn, do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính, lợi nhuận của nhiều ngân hàng có thể giảm, thậm chí một số ngân hàng nhỏ có thể thua lỗ; nợ xấu tăng lên; nên hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam có nguy cơ bị ảnh hưởng trong một vài năm; - Khả năng giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tế sẽ giảm, ảnh hưởng đến nợ vay ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp. 3. Đối với hoạt động xuất khẩu Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên đà giảm mạnh. Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của ViệtNam trong năm 2008 và cả năm 2009 (nếu nền kinh tế Mỹ chưa có dấu hiệu phục hồi). Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng còn tuỳ thuộc vào tính chất của từng mặt hàng. Khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt là EU và Nhật Bản – đây là hai thị tr ường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, các nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán do khó khăn về tài chính, theo đó nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sẽ có xu hướng giảm. Thực tế những tháng gần đây, với tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính, xuất khẩu của Việt nam đã bắt đầu có biểu hiện giảm sút, kim ngạch xuất khẩu tháng 11 đã tiếp tục giảm và xuống dưới ngưỡng 5 tỷ USD/tháng. Đây là tháng thứ ba kim ngạch xuất khẩu suy giảm. Tháng 11 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 4,8 tỷ USD giảm so với mức 5,044 tỷ USD của tháng 10. Trong đó: Dệt may giữ được kim ngạch ở mức 780 triệu USD, giày dép tăng nhẹ lên 400 triệu USD so với 396 triệu USD của tháng 10/2008. Một số mặt hàng khác cũng suy giảm trong đó đặc biệt là dầu thô giảm mạnh do 8 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  9. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen giá dầu đã giảm 60% so với mức tháng 7/2008. Dấu hiệu của suy giảm kinh tế đã bắt đầu xuất hiện. Khủng hoảng tài chính sẽ dẫn đến suy thoái kinh tế, nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam sẽ giảm giá và chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu. 4. Đối với vốn đầu tư của nước ngoài kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp Với tình hình khủng hoảng như hiện nay, chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị trường xuất khẩu có khả năng bị thu hẹp nên dòng vốn chảy vào ViệtNam có khả năng giảm sút. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính, các ngân hàng gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn không được ký kết hoặc không thể giải ngân được. Tuy nhiên, theo dự báo (tháng 11 năm 2008) Việt Nam vẫn thực hiện khoảng 10 tỷ USD vốn giải ngân, bằng 16,2% vốn đăng ký và tăng 44% so với cùng kỳ năm 2007. Qua xem xét luồng vốn FDI trong 11 tháng đầu năm nay, có thể nhận thấy hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài là từ châu Á (13% từ Nhật Bản và 67% từ các nước châu Á khác), trong đó các nhà đầu tư đến từ châu Âu và Mỹ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn khoảng 5% trong số vốn đăng ký, gần 60 tỷ USD. Do vậy, năm 2008 Việt Nam có cơ sở để tin tưởng việc triển khai thực hiện các dự án đăng ký trong năm 2008 sẽ không gặp nhiều khó khăn và trong năm 2009 hy vọng sẽ tăng lên hoặc có thể giữ ở mức như năm 2008. Tình hình chung do khủng hoảng tài chính với việc làm khó khăn, thu nhập giảm, tiêu dùng giảm lượng kiều hối có khả năng sụt giảm. Tuy nhiên, cho đến nay lượng kiều hối vẫn tăng ổn định, dự kiến năm nay đạt khoảng 8 tỷ USD tăng 60% so với năm 2007. Mặc dù vậy nếu khủng hoảng vẫn còn kéo dài, lượng kiều hối sút giảm là điều không thể tránh khỏi. 5. Hoạt động của thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ gặp khó khăn, bất lợi cho các nhà đầu tư - Khủng hoảng tài chính ngày càng ảnh hưởng rộng trên thị trường tài chính thế giới, theo đó các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn, hoặc họ sẽ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi các thị trường lớn của họ đang gặp khó khăn và việc họ cơ cấu lại chứng khoán Việt Nam là điều có thể xảy ra. 9 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  10. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen - Có thể có khả năng các nhà đầu tư ngoại rút vốn khỏi thị trường Việt Nam để ứng cứu cho công ty mẹ tại các thị trường lớn, nhưng khả năng này rất ít vì lượng vốn đầu tư của mỗi nhà đầu tư ở thị trường Việt Nam là không nhiều và hiện Việt Nam vẫn là địa điểm đầu tư an toàn có độ tin cậy cao. TTCK Việt Nam là một nơi có ưu thế đầu tư khi tình hình kinh tế vĩ mô ViệtNam đang có chiều hướng tốt dần… - Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ không tránh khỏi tác động xấu, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu, theo đó giá cổ phiếu có thể sụt giảm. - Khủng hoảng tài chính tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam, TTCK lập tức bị tác động xấu vì những lo ngại của các nhà đầu tư trong nước. Yếu tố tâm lý là khá quan trọng, vì vậy cần có những giải pháp, đặc biệt là thông tin, tuyên truyền đầy đủ để củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư; hạn chế những lo ngại thái quá làm ảnh hưởng xấu đến TTCK. 6. Đối với thị trường bất động sản (BĐS) Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam tiềm lực tài chính khá hạn hẹp mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài chủ yếu là vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đây là một khó khăn của doanh nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng hoảng tài chính hiện nay. Cuối năm 2007 tình trạng đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao so với giá trị thực. Thị trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm 2008 nền kinh tế Việt Nam gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng cao buộc người dân phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS đóng băng, giá BĐS đã giảm đến 40%, các doanh nghiệp kinh doanh BĐS rơi vào khó khăn, không bán được sản phẩm l ại phải chịu lãi suất cao do chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng cao. Đến nay thị trường cũng chưa có dấu hiệu phục hồi. Giá BĐS giảm sẽ kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại rơi vào tình thế bất lợi. Hiện nay khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa ốc tuy không làm ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở 10 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  11. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen Việt Nam nhưng nó sẽ ảnh hưởng gián tiếp qua các tác động đến thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán và các yếu tố tâm lý của người dân. Tuy nhiên theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì cho vay BĐS chiếm khoảng 9,5% tổng số dư nợ của các Ngân hàng và tổ chức tín dụng. Mặc dù vậy việc tác động gián tiếp đến thị trường BĐS Việt Nam như đã nói ở trên là có thể. 7. Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ Sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dung. Trong tình hình kinh tế thế giới đang suy thoái, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam mặc dầu đã được cải thiện nhưng nói chung vẫn còn nhiều khó khăn. Trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô do chi phí sản xuất tăng, đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Một số hoạt động dịch vụ sẽ bị thu hẹp, đặc biệt là lượng khách du lịch sẽ giảm so với năm 2007 II . Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong cuộc khủng hoảng 1. Những thách thức của nền kinh tế Việt nam do tác động của khủng Từ tình hình thực tế Việt nam trong hơn một năm qua cho thấy, Thứ nhất, nền kinh tế Việt nam dù mức độ tác động của khủng hoảng không kéo tốc độ tăng trưởng âm như nhiều nước, nhưng phải nhìn thực tế là từ tốc độ tăng trưởng 8,5% trước khủng hoảng xuống còn 3%-5% trong khủng hoảng là một khoảng cách tụt giảm quá lớn. Trong khi các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng âm, thì tốc độ tăng trưởng của họ trước khủng hoảng chỉ là từ 2% đến 5%. Nếu không có biện pháp thích ứng, nguy cơ sẽ đẩy Việt nam không dành lại vị thế ‘hổ châu Á’ về tốc độ tăng trưởng. Thứ hai, tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế Việt nam có hai nhân tố đóng góp quan trọng là xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Số liệu thực tế cho thấy trong giai đoạn khủng hoảng hai yếu tố này đều giảm. Nếu kim ngạch xuất khẩu trước khủng hoảng tăng từ 17% đến 24%, thì trong khủng hoảng giảm còn 2,4% (giảm gần 10 lần về tốc độ). Tốc độ kim ngạch xuất khẩu tăng là do tăng xuất khẩu vàng. Phần giảm chủ yếu là do các mặt hàng thuộc công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp dệt may, giày da là những ngành hàng chủ lực, thu hút nhiều lao động của Việt nam giảm. Dù tổng vốn đầu tư xã hội tăng 9% trong quí I, nhưng số này là thấp hơn tốc 11 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  12. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen độ tăng vốn bình quân của cả giai đoạn cải cách (16%/năm), trong đó tốc độ tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm đến 32% trong quí I/2009, vốn FDI đăng ký giảm trên 40%. Thứ ba, do hàng hóa sản xuất không tiêu thụ được hàng tồn kho tăng mạnh, trên 67% so với cùng kỳ cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và sẽ có nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản do không bán được hàng và sản xuất bị ngưng trệ. Thứ tư, cùng với co giảm về sản xuất, doanh nghiệp phá sản, một tỷ lệ không nhỏ (15%) lao động đang làm việc bị cắt giảm, góp phần tăng tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị và tăng tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn. Thứ năm, khi lao động thất nghiệp và thiếu việc làm gia tăng, đời sống của một bộ phận dân cư, người làm công ăn lương giảm. Một khi đời sống giảm sẽ tác động vào tiêu dùng giảm là một nhân tố làm cho tốc đ ộ tăng trưởng giảm, đồng thời sẽ làm gia tăng tệ nạn xã hội như lừa đảo, buôn lậu, cướp giật, nghiện ngập..... Thứ sáu, khi gia tăng lao động thất nghiệp sẽ làm tăng số người từ các tỉnh nhỏ đổ về các đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội kiếm việc làm làm gia tăng nạn kẹt xe, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông... 2. Các cơ hội cho nền kinh tế Việt nam Khủng hoảng kinh tế toàn cầu tạo cho nền kinh tế Việt nam không ít thách thức nêu trên, tuy nhiên, trong những thách thức chúng ta có thể tìm thấy những cơ hội cho phát triển. Các cơ hội có thể là. Thứ nhất, nhìn vào thực tế phát triển trong khủng hoảng ở những tháng qua cho thấy nền kinh tế Việt nam có những tia sáng như đầu tư nội địa gia tăng, một số ngành dịch vụ nội địa gia tăng gồm bưu chính viễn thông, vận tải hành khách. Như vậy, cơ hội ở đây là phát huy nguồn nội lực đầu tư trong nước khi mà tiềm năng nguồn vốn trong dân chưa khai thác hết. Đ ầu tư trong nước sẽ hướng vào những lĩnh vực đang có cơ hội phát triển như các ngành dịch vụ, xây dựng, sản xuất chế biến qui mô nhỏ linh hoạt về công nghệ. Thứ hai, khi mà việc làm bị eo hẹp do tác động của khủng hoảng thì người dân nghĩ đến việc phải đầu tư cho chính mình để có cơ hội tìm việc làm mới, đây chính là cơ hội cho phát triển các dịch vụ đào tạo, và những ngành dịch vụ khác liên quan kéo theo. 12 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  13. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen Thứ ba, khi mà xuất khẩu giảm mạnh do khủng hoảng cũng là cơ hội để cho chúng ta xem xét vấn đề đa dạng hóa thị trường, cơ cấu lại định hướng thị trường và các mặt hàng xuất khẩu. Thứ tư, khi có khủng hoảng đầu tư nước ngoài suy giảm cơ hội cho chúng ta xem lại các dự án thu hút đầu tư và hiệu quả của từng dự án. Khi các dự án nước ngoài vào chậm dần, tạo cơ hội cho chúng ta xem lại thủ tục qui trình lựa chọn các dự án đầu tư vừa phục vụ phát triển kinh tế nhưng phải đảm bảo điều kiện môi trường. Đồng thời, đây cũng là lúc không quá bận rộn với nhiều dự án, có thời gian để xem xét đánh giá lại quá trình cải cách thủ tục hành chính, vấn đề quy hoạch phát triển các khu vực, vùng.... Thứ năm, do tốc độ tăng trưởng chậm lại, các khoản chi hỗ trợ sản xuất và giãn thuế cho người dân sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách quốc gia, tăng chi. Vì vậy đây là cơ hội để Việt nam xem cơ cấu lại các khoản chi, chống lãng phí thất thoát. Thứ sáu, Việt nam là “người mới đên” trong cuôc chơi tự do hoa thương ́ ̣ ́ mại, lại đang trong quá trình hội nhập và chuyển đổi nền kinh tế. Vì vậy trong cuộc khủng hoảng này Việt nam có cơ hội để học cách ứng xử với khủng hoảng, rút ra được bài học về các nguyên nhân của khủng hoảng và biện pháp thích hợp để đối phó với khủng hoảng cũng như các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng, biện pháp ổn định nền kinh tế. III.Bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam Qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam đã rút ra một số bài học kinh nghiệm về việc duy trì tăng trưởng và phát triển bền vững của Việt Nam, bao gồm: Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế vừa qua đã cho thấy sự yếu kém của công tác giám sát, dự báo và cảnh báo về khả năng xảy ra khủng hoảng. Do vậy, cần tăng cường nguồn lực để làm tốt công tác này ở cấp quốc gia, khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Thứ hai, phải luôn coi trọng ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng. Có chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ phù hợp, vận hành theo cơ chế thị trường, 13 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  14. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen đi đôi với phát huy vai trò quản lý của nhà nước nhằm khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Thứ ba, mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, do đó các giải pháp đối phó với khủng hoảng, ngăn chặn suy giảm kinh tế phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng quốc gia. "Là một nước đang phát triển, với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, thị trường nội địa còn nhiều tiềm năng, cùng với các giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất khẩu, chúng tôi đã tập trung nguồn lực triển khai thực hiện các dự án hạ tầng, nhất là giao thông, năng lượng, thuỷ lợi, y tế, giáo dục... để sớm đưa vào sử dụng; chú trọng hơn việc phát triển thị trường nội địa, nhất là khu vực nông thôn", Thủ tướng nói. Theo Thủ tướng, Việt Nam đối phó với khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu trong bối cảnh tương đối khác so với nhiều nước trên thế giới, cụ thể là lạm phát và mặt bằng lãi suất cơ bản cùng ở mức cao. Do vậy, cùng với việc cắt giảm lãi suất đến mức hợp lý, Việt Nam đã thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng, miễn, giảm, giãn nhiều loại thuế cho từng lĩnh vực và đối tượng cụ thể. Bài học thứ tư, đó là các nước nghèo, người nghèo, khu vực nông thôn là những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của khủng hoảng, do vậy, cùng với các giải pháp kích thích kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô thì Việt Nam đã đặc biệt quan tâm tới bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, hỗ trợ cho khu vực nông nghiệp nông thôn. Thứ năm, khi đã xác định được mục tiêu và giải pháp đúng đắn thì phải chỉ đạo điều hành quyết liệt, đồng bộ, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền để tạo đồng thuận cao trong xã hội, phát huy được sức mạnh tổng hợp của đất nước. Ngày nay, tình hình có thể biến đổi rất nhanh, do đó cũng cần thường xuyên rà soát, cập nhật các đánh giá và phân tích đ ể điều chỉnh chính sách kịp thời. Thứ sáu, trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, việc đối phó với khủng hoảng đòi hỏi phải có sự nỗ lực của từng quốc gia, đồng thời phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tập trung nguồn lực và phối hợp 14 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  15. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen hành động chung trên phạm vi khu vực và toàn cầu, thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế. 15 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  16. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen Phần 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NƯỚC TA I. Một số giải pháp của chính phủ 1.Về hoạt động Ngân hàng Ngân hàng hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính chỉ đạo và yêu cầu các ngân hàng thương mại, các tập đoàn kinh tế rà soát ngay các khoản tiền gửi và đầu tư tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính nước ngoài cũng như các khoản vay của các tổ chức này. Từ đó thực hiện biện pháp cần thiết thích hợp để giảm thiểu nguy cơ mất vốn hoặc tăng chi phí, đồng thời, rà soát hoạt động đầu tư, kinh doanh của các ngân hàng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thủ tướng chỉ đạo, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần đảm bảo ổn định, an toàn của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có biện pháp giám sát chặt chẽ và chỉ đạo các ngân hàng thương mại rà soát lại các khoản cho vay đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro cao (bất động sản, chứng khoán, đầu tư đa ngành...), tăng cường hơn nữa kiểm soát và phòng ngừa rủi ro đối với hoạt động cho vay bất động sản. Nghiên cứu hoàn thiện quy chế mua bán nợ và thiết lập tổ chức mua bán, xử lý nợ khó đòi cho hệ thống ngân hàng thương mại. Sớm xây dựng trình Chính phủ ban hành quy định về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, phá sản những ngân hàng gặp vấn đề. Trên cơ sở đó để có căn cứ pháp lý thực hiện chủ trương về cơ cấu lại những ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng yếu kém, bảo đảm lành mạnh, an toàn của hệ thống. 2.Về hoạt động chứng khoán, hoạt động đầu tư nước ngoài Bộ Tài chính cần chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo dõi, giám sát chặt chẽ luồng vốn ra, vào của nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời, xử lý những vướng mắc về thủ tục hành chính trong hoạt động chứng khoán để đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư từ thị trường này và phát triển thị trường bền vững. Thực hiện rà soát ngay hoạt động của các tổ chức tài chính, các quỹ đầu tư tài chính để đánh giá và xác định tình trạng tài chính hiện nay c ủa từng quỹ và toàn bộ hệ thống; sửa đổi, bổ sung, xây dựng các tiêu chí, điều 16 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  17. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen kiện về cấp phép thành lập và hoạt động đối với các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm và công ty quản lý quỹ cho phù hợp với tình hình mới. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, cùng với Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo rà soát tình hình thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước để sớm đưa công trình vào sử dụng hoặc đình hoãn đối với những dự án, công trình xét thấy chưa thật cần thiết. Kiến nghị một số biện pháp cần có để đưa kinh tế Việt nam I. nhanh chóng vượt ra khủng hoảng Từ các nhận định nêu trên, để đối phó hạn chế những thách thức, nắm lấy cơ hội các biện pháp cần có để đưa nền kinh tế Việt nam nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng, đưa tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững có thể bao gồm: (1) Biện pháp thắt chặt chính sách tài khóa, giảm chi ngân sách. (2) Biện pháp cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiệu quả bao gồm cả điều chỉnh qui hoạch phát triển. (3) Cần có biện pháp phát huy nội lực kết hợp với hỗ trợ từ bên ngoài Chính sách khuyến khích đầu tư nội địa cũng đã được ban hành. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta chưa đánh giá tiềm năng thật sự của các nguồn vốn tiết kiệm trong nước, vì vậy những chính sách có thể chưa đủ độ để thu hút nguồn vốn trong dân qua phát triển an toàn các kênh huy động vốn bằng các biện pháp bảo hiểm rủi ro tiền gửi, tiền đầu tư của người dân. (4) Cần có biện pháp phát triển bền vững, tăng trưởng kết hợp với bảo vệ môi trường và công bằng xã hội. Chất lượng sống của người dân ngày càng thấp do môi trường không khí, môi trường sống ngày càng đi xuống. Nếu thu hút một dự án đầu tư để có tăng trưởng thêm một đ ồng nhưng thiệt hại về môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ lên hơn một đồng thì có cần một dự án đầu tư như vậy. (5) Biện pháp đầu tư cho giáo dục, khoa học nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục, đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. (6) Biện pháp đa dạng hóa thị trường cho hàng hóa Việt nam. (7) Biện pháp cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng đó là cần đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng tính minh bạch và tính chuyên nghiệp trong quan lý nhà nước. 17 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  18. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen KẾT LUẬN Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã làm biến đổi sắc thái kinh tế của nhiều nước đặt biệt nền kính tế nước Mỹ. Chính vì sự lay động nền kinh tế nước Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước khác. Vì sự tác động kép của cuộc khủng hoảng kinh tế, nên việc nghiên cứu những nguyên nhân và tìm ra biện pháp khác phục, bình ổn nền kinh tế các nước trên thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng là hết sức quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Để từng bước khôi phục bình ổn nền kinh tế, Chính phủ phải quan tâm thắt chặt hơn những chính sách tài chính tiền tệ, chứng khoán, nguồn vốn ra vào của Nhà đầu tư nước ngoài, v.v...Tuy vậy nhờ sự can thiệp kịp thời của chính phủ trong việc ban hành và thực thi một loạt các giải pháp chống lạm phát mà tình hình đã dần ổn định, cơ cấu kinh tế vĩ mô đã được đảm bảo, Việt Nam trước mắt đã thoát khỏi nguy cơ khủng hoảng. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2008 giảm xuống còn 6,31%, năm 2009 còn 5,32%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh về vốn đăng ký (từ 71,7 tỷ USD năm 2008 còn 21,5 tỷ USD năm 2009) và vốn thực hiện (từ 11,5 tỷ USD xuống 10 tỷ USD). Lượng khách quốc tế giảm từ trên 4,2 triệu lượt người xuống còn trên 3,7 triệu lượt người. Lượng kiều hối giảm từ 7,2 tỷ USD xuống còn gần 6,3 tỷ USD,vốn đầutư gián tiếp sụt giảm mạnh. Tốc độ tăng giá tiêu dùng cao trong năm 2007 (12,63%), bùng phát trong năm 2008 đã tăng tới 19,89% (tính bình quân năm đã tăng tới 22,97%). Giá USD nếu năm 2007 giảm nhẹ, thì năm 2008 tăng 6,31% và năm 2009 đã tăng 10,7%. Nhập siêu năm 2007 lên trên 14,2%, năm 2008 đã lên đến trên 18 tỷ USD và năm 2009 cũng gần 12,9 tỷ USD. Nhưng các biện pháp trên chưa thực sự được cho là hoàn hảo, nó đã để lại không ít những hậu quả và di chứng cho nền kinh tế. Đánh giá l ại v ề hiệu quả các biện pháp này là một việc làm đúng đắn để chúng ta có thể rút được bài học kinh nghiệm cho những năm tiếp sau. 18 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  19. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 vừa mang đến những thách thức cũng vừa là cơ hội trong việc công cuộc khôi phục và tăng trưởng kinh tế của các nước nói chung và cả Việt Nam. Chính vì vậy chúng ta cần phải mổ xẻ nhiều hơn nữa sự tác động của cuộc khủng hoảng và theo dõi bước tiến trình thoát khỏi khủng hoảng của các nước trên thế giới. Thời gian nghiên cứu đề tài không nhiều nên không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của Thầy cô và bạn đọc, để đề tài được giàu ý tưởng hơn. Xin chân thành càm ơn. 19 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
  20. Bµi tËp lín SVTH: §ç ThÞ H¬ng Sen TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ (2008), Báo cáo tại Kỳ họp Quốc hội tháng 11 năm 2008; 2. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Báo cáo nhanh. 3. Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin tổng hợp tháng 11/2008. 4. Trường BDCB tài chính (2008), Kết quả Hội thảo trực tuyến “Khủng hoảng tài chính phố Wall: Những biện pháp ứng phó đối với các nền kinh tế châu Á” do Trường BDCB tài chính phối hợp với Trung tâm Tài chính và Phát triển châu Á – Thái Bình Dương thuộc Bộ Tài chính Trung Quốc và Trung tâm Thông ; 5. Web VnEconomy.vn, Khủng hoảng kinh tế tài chính Hoa Kỳ 2007- 2009. 6. Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội kinh tế và kinh doanh. 20 Gi¶ng viªn : Phan ThÞ Thanh L©m Trang
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0