TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ ĐỀ TÀI:
Trọng tâm trong điều hành phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 của Chính phủ là:
- Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, - Bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao năm 2009 - Ngăn ngừa lạm phát cao trở lại.
Giảng viên: TS Nguyễn Văn Ngãi Học viên: Châu Hữu Hậu Lớp: Bồi dưỡng sau đại học Đồng Tháp
THÁNG 3/2010 TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH........................................... 1
PHẦN 1: ........................................................................................................ 3 PHẦN 2:........................................................................................................ 3 I/. Cơ sở lý luận: ........................................................................................... 3 1/. Tổng cung: ................................................................................................ 3 2/. Tổng cầu: .................................................................................................. 4 3/. Mô hình AS – AD: .................................................................................... 6 II/. Thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2009 và định hướng năm 2010: .... 7 1/. Thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2009..................................................... 7 2/. Chính sách phát triển kinh tế Việt Nam năm 2010 ............................... 8 Phần 3. ........................................................................................................ 11 Tài liệu tham khảo: .................................................................................... 12
tieuluanktvm_2010_1095.doc
2
PHẦN 1:
MỞ ĐẦU
Tư tưởng chỉ đạo trong điều hành phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 của Việt Nam là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó mà đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao hơn cả về số lượng và chất lượng đồng thời ngăn ngừa lạm phát cao trở lại. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2009 sẽ tạo thêm điều kiện và nguồn lực để ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội tốt hơn.
Để đánh giá tổng quát nền kinh tế, người ta thường theo dõi các chỉ tiêu vĩ mô như: tốc độ tăng tưởng tổng sản phẩm xã hội, tỷ lệ lạm phát, tình trạng thất nghiệp; ngoài ra, một số chỉ tiêu khác cũng rất đáng quan tâm như: cán cân thương mại, cán cân thanh toán, chất lượng tăng trưởng, thu chi ngân sách... Một số quốc gia, trong đó có Việt Nam, thường đặt ra các mục tiêu cho từng năm và thậm chí cho cả một giai đoạn phát triển. Ổn định kinh tế vĩ mô có nghĩa là tăng trưởng cao và ổn định; lạm phát thấp; cán cân thương mại, cán cân thanh toán, thu chi ngân sách... phải ở mức hợp lý.
PHẦN 2: LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH CHỨNG MINH VÀ GIẢI PHÁP
Sử dụng lý thuyết kinh tế vĩ mô, mô hình tổng cung – tổng cầu để phân tích I/. Cơ sở lý luận: và chứng minh:
1/. Tổng cung:
=> P = Pe(1+µ)F(u,z)
- Mức giá (P) : do những người định giá ấn định, bằng tiền công danh nghĩa
Từ công thức trên ta thấy mức giá là một hàm số của mức giá kỳ vọng và tỷ
Quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp, mức việc làm (mức thu dụng lao động) và sản
tieuluanktvm_2010_1095.doc
3
u = (L – N)/L = 1 – N/L ; Y=N P = Pe(1+µ)F(1-Y/L,z) Quan hệ tổng cung thể hiện những ảnh hưởng của sản lượng đối với mức giá. Quan hệ này được thành lập từ tình trạng cân bằng trên thị trường lao động được biểu hiện như sau: - Định lượng (WS): W = PeF(u,z) - Định giá (PS): W = P/(1+µ) - Tiền công danh nghĩa (W) : do những người định tiền công ấn định, phụ thuộc vào mức giá kỳ vọng (Pe), tỷ lệ thất nghiệp (u), và biến số thể hiện tất cả ảnh hưởng khác (z), đại diện tất cả yếu tố khác ảnh hưởng đến việc xác định tiền công. (W) nhân với 1 cộng với mức bù giá kỳ vọng(µ). lệ thất nghiệp. lượng : => Đẳng thức trên cần lưu ý 2 điều:
- Thứ hai: Gia tăng sản lượng dẫn đến gia tăng trong mức giá. Đây là kết quả
+ Gia tăng trong sản lượng dẫn đến gia tăng trong mức việc làm. + Gia tăng trong mức việc làm dẫn đến sụt giảm trong mức thất nghiệp, và
+ Tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn dẫn đến gia tăng trong tiền công danh nghĩa. + Gia tăng trong tiền công danh nghĩa dẫn đến gia tăng trong chi phí và điều
Quan hệ tổng cung giữa sản lượng và mức giá được biểu diễn bởi đường
AS’
P
A’
Pe1
AS
Pe
A
Yn
Y
- Là đường dốc lên: Đối với một giá trị cho trước của mức giá kỳ vọng, Pe,
- Thứ nhất: Mức giá kỳ vọng cao hơn dẫn đến mức giá thực tế cao hơn, theo tỷ lệ 1:1. Thí dụ, nếu mức giá kỳ vọng tăng gấp đôi thì mức giá cũng sẽ tăng gấp đôi. Ảnh hưởng này có tác dụng thông qua tiền công. Nếu những người định tiền công kỳ vọng giá cao hơn, họ định tiền công danh nghĩa cao hơn. Điều này lại làm cho các công ty định giá cao hơn. của bốn bước nền tảng sụt giảm trong tỷ lệ thất nghiệp. này khiến cho các công ty gia tăng giá. tổng cung AS. Đường tổng cung này có hai đăc điểm: giá tăng trong sản lượng dẫn đến gia tăng trong mức giá. + Đi qua điểm A ở đó Y=Yn và P=Pe. Nếu sản lượng bằng mức sản lượng tự
+ Gia tăng trong mức giá kỳ vọng chuyển dịch đường tổng cung lên trên.
đến Pe1, đường tổng cung dịch chuyển
- Nếu mức giá kỳ vọng gia tăng từ Pe nhiên, Yn, thì mức giá bằng mức giá kỳ vọng: P=Pe
+ Khi sản lượng cao hơn mức sản lượng tự nhiên, mức giá cao hơn mức giá
kỳ vọng: P>Pe. Ngược lại: mức giá thấp hơn mức giá kỳ vọng P 2/. Tổng cầu: tieuluanktvm_2010_1095.doc 4 - Quan hệ tổng cầu thể hiện ảnh hưởng của mức giá đối với sản lượng. Được
thành lập từ tình trạng cân bằng trên thị trường hàng hoá và các thị trường tài chính.
- Cân bằng trên thị trường hàng hoá đòi hỏi cung hàng hoá bằng cầu hàng
hoá (tổng của tiêu dùng, đầu tư và chi tiêu của Chính phủ). Đây là quan hệ IS IS: Y = C(Y – T) + I(Y,i) + G - Cân bằng trên thị trường tài chính đòi hỏi cung tiền bằng cầu tiền , đây là Ms/P = Md(Y,i) i LM0(P0) i0 LM1(P1) i1 IS Y0 Y1 Y P P0 - Quan hệ giữa sản lượng và mức giá là quan hệ nghịch biến, đường AD sẽ P1 AD Y0 Y1 Y quan hệ LM :
- Khi mức giá gia tăng cầu tiền danh nghĩa gia tăng. Vì cung tiền danh nghĩa
cố định nên lãi suất phải gia tăng để thúc đẩy người ta giảm cầu tiền của họ và tái
lập tình trạng cân bằng. Sự gia tăng lãi suất dẫn đến sụt giảm cầu đối với hàng hoá
và sụt giảm sản lượng.
dốc xuống. - Giá tăng: có 2 ảnh hưởng: * Ảnh hưởng đến giá trị tài sản: khi giá tăng làm giảm giá trị tài sản, từ đó sẽ giảm tiêu dùng, làm giảm cầu. * Ảnh hưởng thay thế hàng ngoại: Giá tăng có nghĩa là giá hàng nội tăng,
(hàng nội đắt hơn hàng nhập), từ đó sẽ làm giảm cầu hàng nội và tăng cầu hàng
ngoại, làm cho AD giảm. - Các yếu tố làm dịch chuyển tổng cầu:
+ Chính sách ngân sách hoặc tiền tệ: * Khi tăng chi tiêu của Chính phủ, hoặc giảm thuế thì đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải. * Khi tăng cung tiền, sẽ làm giảm lãi suất, tăng cầu, đường tổng cầu sẽ tieuluanktvm_2010_1095.doc 5 + Tài sản: khi tiêu dùng tăng thì đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
+ Thu nhập của nước ngoài: Khi xuất khẩu tăng ,(NX) tăng, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
dịch chuyển sang phải. + Khi tỷ giá hối đoái tăng: Thì xuất khẩu sẽ tăng và đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải. 3/. Mô hình AS – AD: AD: IS: Y = C(Y – T) + I(Y,i + G) (thị trường hàng hoá)
LM: Ms/P = Md(Y,i) (thị trường tiền tệ)
AS: P = Pe(1+µ)F(1-Y/L,z) (thị trường lao động) i AS P AD Y Y - Biến nội sinh Y,i và P
- Biến ngoại sinh: G, T, Ms, Pe, µ và z tieuluanktvm_2010_1095.doc 6 - Mô hình tổng cung và tổng cầu mô tả những thay đổi trong sản lượng và
giá khi chúng ta tính đến tình trạng cân bằng trên các thị trường hàng hoá, tài chính
và lao động.
- Quan hệ tổng cung thể hiện các tác động của sản lượng đối với mức giá. Nó
được rút ra từ tình trạng cân bằng trên thị trường lao động. Nó là quan hệ giữa mức
giá, mức giá kỳ vọng và mức sản lượng. Một sự gia tăng trong sản lượng làm giảm
mức thất nghiệp, làm tăng tiền công và tiền công tăng lại làm tăng mức giá. Mức
giá kỳ vọng cao hơn dẫn đến giá tăng cao hơn trong mức giá thực tế theo tỷ lệ 1/1.
- Quan hệ tổng cầu thể hiện các tác động của mức giá đối với sản lượng. Nó
được rút ra từ tình trạng cân bằng trên các thị trường hàng hoá và tài chính. Một sự
gia tăng trong mức giá làm giảm tổng lượng tiền thực, làm tăng lãi suất và làm giảm
sản lượng.
- Trong ngắn hạn, những thay đổi trong sản lượng xuất phát từ những dịch
chuyển trong tổng cầu hoặc tổng cung. Trong trung hạn, sản lượng trở về mức sản
lượng tự nhiên, vốn được xác định bởi tình trạng cân bằng trên thị trường lao động.
- Trong ngắn hạn, chính sách tiền tệ mở rộng dẫn đến sự gia tăng trong tổng
lượng tiền thực, sự sụt giảm trong lãi suất và sự gia tăng trong sản lượng. Qua thời
gian, mức giá gia tăng, dẫn đến một sự sụt giảm trong tổng lượng tiền thực cho đến
khi sản lượng trở về mức sản lượng tự nhiên. Trong trung hạn, tiền tệ có đặc điểm
trung tính: Nó không ảnh hưởng đến sản lượng, và những thay đổi trong tiền tệ
được phản ảnh trong những gia tăng cân xứng trong mức giá.
- Trong ngắn hạn, sự sụt giảm thâm hụt ngân sách dẫn đến sự sụt giảm cầu
đối với hàng hoá và như thể dẫn đến sụt giảm sản lượng. Qua thời gian, mức giá sụt giảm dẫn đến gia tăng tổng lượng tiền thực và sự sụt giảm lãi suất. Trong trung hạn,
sản lượng trở về mức sản lượng tự nhiên, nhưng lãi suất thấp hơn, đầu tư cao hơn. - Những khác biệt giữa các tác động ngắn hạn và trung hạn của các chính
sách là một trong những lý do chính khiến cho các nhà kinh tế học bất đồng trong
các đề xuất chính sách của họ. Một số nhà kinh tế học tin rằng nền kinh tế điều
chỉnh một cách nhanh chóng đến tình trạng cân bằng trong trung hạn của nó, nhấn
mạnh đến những ảnh hưởng trong trung hạn của chính sách. Những người khác tin
rằng cơ chế điều chỉnh qua đó sản lượng trở về mức sản lượng tự nhiên tốt lắm là
một cơ chế điều chỉnh chậm, và nhấn mạnh nhiều hơn đến các tác động ngắn hạn.
II/. Thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2009 và định hướng năm 2010: 1/. Thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2009 Năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Khủng hoảng tài chính và suy thoái linh tế từ Mỹ trong năm 2008 đã lan rộng trên
phạm vi toàn thế giới, tác động nghiêm trọng đến hầu hết các nền kinh tế và tác
động rất tiêu cực đến nước ta, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường
vốn, thị trường lao động và nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Trong
nước, thiên tai dịch bệnh, mất mùa xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây
ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư. Tuy nhiên bằng sự năng động trong chỉ đạo, điều hành nhạy bén, kịp thời,
tập trung và quyết liệt của Chính phủ; sự nỗ lực và chủ động khắc phục khó khăn,
sáng tạo của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất và của toàn dân nên nước ta đã ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế, về
cuối năm tốc độ tăng trưởng càng được nâng cao. Theo số liệu 11 tháng và ước tính
tháng 12, Tổng cục Thống kê khái quát kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội năm 2009 của cả nước trên ba mặt: (1) Ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy
trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; (2) Giữ ổn định kinh tế vĩ mô, chủ
động phòng ngừa lạm phát cao trở lại; (3) Bảo đảm an sinh xã hội, phát triển sự
nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong
nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, (quý có tốc độ tăng thấp nhất trong nhiều năm gần
đây); quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%. Tính chung cả năm 2009, tổng
sản phẩm trong nước tăng 5,32%. Đầu tư phát triển: Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực
tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8%
GDP, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 245 nghìn tỷ đồng, chiếm 34,8% tổng vốn và
tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước 278 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% và tăng
13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm
25,7% và giảm 5,8%. tieuluanktvm_2010_1095.doc 7 Cân đối thu, chi ngân sách Nhà nước: Tổng thu ngân sách Nhà nước từ
đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt xấp xỉ dự toán năm, trong đó các khoản thu
nội địa bằng 102,5%; thu từ dầu thô bằng 86,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt
động xuất, nhập khẩu bằng 101,6%. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt 96,2% dự toán năm. Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009
ước tính bằng 7% GDP, thực hiện được mức bội chi Quốc hội đề ra. Cân đối thương mại :
Xuất khẩu hàng hoá: Do sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới thu
hẹp, giá cả của nhiều loại hàng hoá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu
năm 2009 chỉ đạt gần 41,4 tỷ USD, giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Những
tháng cuối năm tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
tháng 11 đạt gần 4,7 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 12 đạt
mức cao nhất trong năm với 5,25 tỷ USD, tăng 12% so với tháng trước và tăng 12,5%
so với tháng 12 năm trước.Nhờ xuất khẩu quý IV tăng cao nên kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá năm 2009 ước tính đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008. Nhập khẩu hàng hoá: Tương tự như xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu hàng
hoá 8 tháng đầu năm chỉ đạt gần 41,8 tỷ USD, giảm 29% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, những tháng cuối năm kinh tế thế giới có sự phục hồi nên một số mặt
hàng đã tăng giá; mặt khác, kinh tế trong nước đạt tốc độ tăng trưởng khá, nhu cầu
hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống cũng tăng lên nên kim ngạch nhập khẩu
hàng hoá tháng 9, tháng 10, tháng 11 và tháng 12 liên tục tăng so với cùng kỳ năm
trước với tốc độ tăng lần lượt là: 13,9%, 14,5%, 44,5% và 15,7%. Do vậy, tính
chung cả năm 2009, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá ước tính đạt 68,8 tỷ USD, giảm
14,7% so với năm 2008. Kết quả phòng ngừa lạm phát cao: Do ngay từ đầu năm Chính phủ và các
cấp, các ngành đã triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động
phòng ngừa tái lạm phát cao trở lại, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh,
nhất là tập trung phát triển thị trường trong nước; chỉ đạo, điều hành tài chính, tiền
tệ linh hoạt nên mức lạm phát năm 2009 không cao. Dân số, lao động, việc làm: Theo kết quả sơ bộ của cuộc Tổng điều tra dân
số và nhà ở năm 2009, dân số cả nước tại thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009
là 85,789 triệu người, dân số trong độ tuổi lao động là 55 triệu người, trong đó 45,2
triệu người thuộc lực lượng lao động trong độ tuổi, chiếm 82,2% tổng dân số trong
độ tuổi lao động. Số lao động trong độ tuổi đang làm việc là 43,9 triệu người, chiếm
51,1% tổng dân số, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất nghiệp, tỷ lệ thất
nghiệp là 2,9% (cao hơn mức 2,38% của năm 2008). Mức sống dân cư: Thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ
đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai quyết liệt các chương trình, chính
sách xoá đói giảm nghèo như: Chương trình 134; Chương trình 135; Chương trình
30a và nhiều Chương trình quốc gia khác hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các xã
đặc biệt khó khăn; đồng thời đẩy mạnh việc cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế, miễn
giảm phí khám chữa bệnh, tiến hành nhiều hoạt động khác hỗ trợ các gia đình chính
sách và người nghèo.Tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2009 ước tính 12,3%,
thấp hơn mức 14,8% của năm 2007 và mức 13,4% của năm 2008. 2/. Chính sách phát triển kinh tế Việt Nam năm 2010 tieuluanktvm_2010_1095.doc 8 Theo Nhóm Tư vấn chính sách của Bộ Tài chính, sau khi chạm đáy vào cuối
quý I/2009, kinh tế thế giới và trong nước bắt đầu hồi phục và triển vọng này sẽ trở
nên rõ ràng, sáng sủa hơn trong năm 2010. Cụ thể, sản xuất công nghiệp đang tăng
nhanh trở lại, thương mại đã lấy lại đà tăng trưởng, các thị trường tài chính đang
dần ổn định trở lại như thời kỳ trước suy thoái. Nền kinh tế Việt Nam, tốc độ tăng trưởng đã tăng dần theo các quý trong
năm 2009. GDP cả năm 2009 đạt 5,32%. Các định chế tài chính quốc tế đánh giá,
nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua được khó khăn, phát triển ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu khả quan đã nổi lên một số vấn đề ảnh
hưởng tới tính bền vững của sự phục hồi kinh tế trong năm 2010, đó là nguy cơ tái
lạm phát, sức ép giảm giá đồng Việt Nam (VND), tình trạng thâm hụt cán cân thanh
toán và ngân sách. Ông Phạm Văn Hà thuộc Nhóm Tư vấn chính sách cho rằng, ngay trong
tháng 1/2010, thị trường tiền tệ đã có dấu hiệu căng thẳng khi mà có nhiều doanh
nghiệp đã phải vay VND ở ngân hàng với lãi suất gần 19%/năm, trong khi theo quy
định, ngân hàng không được phép cho vay quá 150% lãi suất cơ bản (hiện áp dụng
ở mức 8%/năm) là 12%/năm. Ông Hà cho rằng, đây chính là một trong những dấu
hiệu cho thấy lạm phát có nguy cơ trở lại. Bên cạnh đó, những tín hiệu hồi phục của nền kinh tế thế giới đẩy giá nhiều
loại hàng hóa tăng trở lại đã tạo sức ép không nhỏ lên tốc độ tăng CPI; tốc độ nhập
siêu tăng nhanh cùng với việc VND đang bị định giá cao hơn USD đã khiến cán cân
tài khoản vãng lai bị thâm hụt… Vì thế, theo chuyên gia kinh tế Vũ Thành Tự Anh,
Giám đốc Nghiên cứu kinh tế Chương trình giảng dạy Fulbright của Đại học
Harvard, những sức ép này nếu không có giải pháp giải quyết kịp thời sẽ gây ảnh
hưởng đến kinh tế vĩ mô. a) Ổn định kinh tế vĩ mô Tại Hội thảo “Hoạch định chính sách tài chính thời kỳ hậu khủng hoảng” do
Bộ Tài chính tổ chức ngày 26/1, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng đối với Việt
Nam, ưu tiên chính sách trong năm 2010 là tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, vì đây là
cơ sở để ổn định các cán cân khác trong nền kinh tế. Các đại biểu cho rằng, ưu tiên của chính sách trong năm 2010 là phải ổn định
kinh tế vĩ mô. Vì ổn định kinh tế vĩ mô sẽ là cơ sở để ổn định các cán cân khác
trong nền kinh tế. chuyên gia kinh tế Vũ Thành Tự Anh đưa ra ý kiến:“Nếu nền
kinh tế chỉ chạy theo tốc độ tăng trưởng ngắn hạn, mà không chú ý đến các cán cân
khác thì nhiều khả năng sẽ phải đánh đổi bằng sự bất ổn, thiếu bền vững và tăng
trưởng chậm trong trung và dài hạn”. Theo các chuyên gia, để ngăn lạm phát quay trở lại, Ngân hàng Nhà nước
cần thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng nhằm kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín
dụng và cung tiền. Quyết định chấm dứt hỗ trợ lãi suất 4% cho các khoản vay ngắn
hạn đã giúp hạn chế tín dụng và khuyến khích doanh nghiệp đang nắm giữ USD
chuyển một phần ngoại tệ sang VND để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động, từ đó giảm
áp lực cho thị trường ngoại hối. tieuluanktvm_2010_1095.doc 9 Chuyên gia kinh tế cấp cao của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Martin
Rama cho rằng, mặc dù kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển biến nhưng nhìn
chung vẫn là một nền kinh tế có vốn “mỏng”. Vì thế, để đảm bảo phát triển bền
vững trong năm 2010, chính sách tài chính cần tập trung vào 3 ưu tiên chính là giảm
biến động từ cán cân thanh toán bằng cách đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; tiếp tục
phát triển thị trường vốn nhằm giúp ổn định giá tài sản; trao đổi thông tin nhiều
chiều để xây dựng chính sách một cách kịp thời và phù hợp. Về chính sách tài khóa, ông Phạm Văn Hà đề xuất, trọng tâm chính sách năm
2010 cần chuyển từ khu vực phi thương mại sang hỗ trợ xuất khẩu, đồng thời chính
sách tài khóa cần tiếp tục nới lỏng nhưng phải hạn chế thâm hụt ngân sách. Một giải pháp mà các chuyên gia cũng nhấn mạnh đến là tiếp tục nâng cao
hiệu lực của hệ thống giám sát tài chính- tiền tệ (như kiểm soát chặt chẽ các luồng
vốn, dòng vốn, khoản vay, trả nợ…) bởi nó sẽ giúp Chính phủ kiểm soát hiệu quả
tình hình tài chính quốc gia. b) Tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2009 Cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy phục hồi tăng trưởng
Nhóm giải pháp thứ nhất mà Chính phủ yêu cầu triển khai là phục hồi kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Năm 2010, phấn đấu đạt
mức cao hơn năm 2009. Để đạt mục tiêu này, Chính phủ yêu cầu tập trung cải thiện
môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thứ hai là nhóm giải pháp điều hành chính sách tiền tài chính, tiền tệ linh
hoạt, thận trọng để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát nhập siêu và ngăn
chặn lạm phát cao trở lại; phấn đấu tăng thu, triệt để tiết kiệm và nâng cao hiệu quả
chi NSNN, giảm bội chi NSNN năm 2010 xuống dưới 6,2% và giảm dần trong các
năm sau. Nhóm giải pháp thứ ba là đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng GD-
ĐT, KH-CN. theo đó, đổi mới và nâng cao chất lượng GD-ĐT ở tất cả các cấp học,
đặc biệt là đào tạo nghề và giáo dục đại học. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế, nhất là lao động kỹ thuật công nghệ có tay
nghề cao. Triển khai thực hiện có hiệu quả đề án dạy nghề cho lao động nông thôn. c) Kiềm chế lạm phát cao trở lại - Theo chuyên gia Bùi Kiến Thành, ưu tiên hàng đầu hiện nay là một chính
sách tiền tệ ổn định, bền vững, nơi mà doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất an
toàn, không gây ra lạm phát. - Theo phân tích của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nền kinh tế Việt Nam cơ
bản đã vượt qua thời điểm khó khăn nhất trong khi những vấn đề phát sinh đang gây
ra rất nhiều khó khăn cho chính sách tiền tệ trong việc duy trì, bảo đảm ổn định cân
đối vĩ mô của nền kinh tế, nhất là cán cân cung cầu tiền tệ, ổn định lãi suất và tỷ giá.
Do đó, theo chuyên gia Bùi Kiến Thành, ưu tiên hàng đầu hiện nay là một chính
sách tiền tệ ổn định, bền vững, nơi mà doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất an
toàn, không gây ra lạm phát. Và trong cuộc trao đổi với phóng viên, ông cũng “phác
thảo” một kịch bản kinh tế Việt Nam trong năm 2010: Giảm nhập siêu
- Lĩnh vực xuất, nhập khẩu là giảm nhập siêu. Và giải pháp đầu tiên là cần
nghiên cứu ưu thế tương đối của các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam. Phát huy các
lĩnh vực có ưu thế bằng các chính sách như: cho vay lãi suất thấp để làm hàng xuất
khẩu, có thế chấp bằng hợp đồng xuất khẩu, giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) hoặc
thuế nhập khẩu trên nguyên liệu cấu thành sản phẩm, giảm thuế lợi tức doanh
nghiệp trênkết quả kinh doanh...Bằng mọi phương thức cóthể, giảm chi phí đầu vào.
- Đối với lĩnh vực nhập khẩu cần hạn chế đến mức thấp nhất các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc “bán phá giá” để xâm chiếm thị trường nội địa. tieuluanktvm_2010_1095.doc 10 - Mặt khác, để hỗ trợ các hoạt động phát triển thị trường nội địa thì điều quan
trọng nhất là nghiên cứu các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu; nghiên cứu các chủng loại hàng có khả năng phát triển mạnh trên thị trường nội địa; khuyến khích
xí nghiệp chuyển đổi công suất và chủng loại hàng xuất khẩu để thích ứng với nhu
cầu thị trường nội địa; áp dụng những chính sách khuyến khích đầu tư thích hợp. Chủ động nguồn vốn
- Cần xem lại cách nhìn và chiến lược đối với đầu tư nước ngoài. Thay vì
thúc đẩy kêu gọi đầu tư trực tiếp, cần nhanh chóng tổ chức hệ thống các quỹ đầu tư
gián tiếp, tại các trung tâm tài chính quốc tế lớn, huy động vốn với số lượng lớn, có
thể là 10 đến 20 tỷ USD mỗi năm, để đưa về đầu tư phát triển những dự án tốt mà
do ta quản lý. Theo ước tính của nhiều chuyên gia, trong 10 năm tới Việt Nam cần từ 500
tỷ USD và hơn thế nữa để phát triển. Thực tế, trong tổng số vốn đầu tư cho một dự
án khoảng 70 - 80% là vốn vay, phần vốn tự có thường chỉ chiếm từ 20 - 30%. Nếu
Việt Nam tự huy động được 100 tỷ USD vốn tự có, tự xây dựng và phát triển dự án,
thì tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ giảm xuống đến một mức tương đối
an toàn. Như vậy, Việt Nam không nhất thiết phải phát triển theo mô hình kêu gọi
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) như hiện nay. - Mặt khác, Việt Nam có chủ quyền tiền tệ, NHNN có chức năng phát hành
tiền tệ và tín dụng. Trong phạm vi đồng nội tệ, NHNN có khả năng chiết khấu và tái
cấp vốn cho hệ thống ngân hàng thương mại để ngân hàng thương mại cung ứng
đầy đủ tín dụng cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững. NHNN có nhiệm vụ
theo dõi lưu lượng tín dụng, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng tư nhân,
không để xảy ra lạm phát, hay thiểu phát. NHNN cần phải có được một cơ chế hoạt
động phù hợp để phát huy đầy đủ chức năng và nhiệm vụ của mình. - Bên cạnh những giải pháp nhằm chủ động nguồn vốn, phải giám sát chặt
chẽ hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, thực hiện đúng quy định của
“Luật Các tổ chức tín dụng và Quy chế cho vay”. Khách hàng phải có dự án đầu tư,
phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu
tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật. Tất
cả mọi đối tượng doanh nghiệp sẽ được đối xử bình đẳng. Việc cho vay vốn dựa
trên các tiêu chí khách quan của từng dự án. Ngắn hạn hay dài hạn tùy theo lịch
trình phát triển kinh doanh. Xóa bỏ cơ chế “xin cho” và những tiêu chí phức tạp làm
nảy sinh tiêu cực. Làm sao để cho không một dự án nào khả thi mà lại bị thiếu vốn
phát triển. Hiện nay, trong nhiều lĩnh vực, nhiều cấp bậc, từ Trung ương đến địa
phương, không ít dự án sáng tạo, khả thi, được giám định là có tiềm năng và có thị
trường, nhưng không được cung cấp vốn để phát triển. Đây là một sự bất cập, mất
mát lớn, lãng phí tư duy sáng tạo của nhân dân. - Cuối cùng, một yếu tố khác trong kịch bản kinh tế Việt Nam 2010, là vấn
đề tái cấu trúc doanh nghiệp. Trong mọi môi trường hoạt động kinh doanh, tự vượt
lên là nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp. Do đó, tái cấu trúc doanh nghiệp phải được
đặt lên ưu tiên hàng đầu. Mỗi doanh nghiệp phải xem lại bản thân, các điểm yếu
cũng như các điểm mạnh, từ nhân sự đến sản phẩm, thị trường. Việc chuyển đổi cơ
cấu kinh tế cần hướng đến giai đoạn phát triển cao hơn, trong đó tăng trưởng phải
dựa vào nâng cao năng suất, chất lượng. tieuluanktvm_2010_1095.doc 11 Qua những số liệu và phân tích trên cơ sở tham khảo tư liệu, ý kiến phân tích
của những chuyên gia kinh tế thông qua giáo trình giảng dạy môn học kinh tế vĩ
mô, cũng như những tài liệu được cập nhật từ Internet, nhiệm vụ quản lý điều hành
phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, trên cơ sở
đó mà bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao hơn cả về số lượng và chất lượng đồng thời
ngăn ngừa lạm phát cao trở lại. Và phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm
2009 sẽ tạo thêm điều kiện và nguồn lực để ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh
xã hội tốt hơn là cực kỳ khó khăn đòi hỏi Chính phủ phải huy động được mọi nguồn
lực trong xã hội, sự lựa chọn đúng lúc giữa cân bằng ổn định và tăng trưởng cũng
như sự quyết đoán công bằng trong thực hiện./. Tài liệu tham khảo:
- Oliver Blanchard, Macroeconomics, người dịch: Thu Trinh, Người hiệu đính: Xinh Xinh. - Trần Nhật, 2010, Ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bình ổn giá cả thị trường,www.giaoducthoidai.vn - 03-03-2010 21:40 - Thùy Linh, 2008, 5 giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô ,VnEconomy 08:15 (GMT+7) -3/3/2010. - THÔNG CÁO BÁO CHÍ VỀ SỐ LIỆU THỐNG KÊ KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2009, www.gso.gov.vn (09:19 31/12/2009). tieuluanktvm_2010_1095.doc 12 - TS Trần Du Lịch, 2010, Ðồng bộ các công cụ điều tiết thị trường sẽ thực
hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô năm 2010,www.tinkinhte.com,14/03/2010,
20:20 - Tài liệu giảng dạy môn kinh tế vĩ mô, 2009,TS Nguyễn Văn Ngãi Khoa Kinh tế Trường ĐH Nông lâm TPHCM. - Vũ Thành Tự Anh,2010, Nền kinh tế phải “chịu trận”, www.thanhnien.com.vn, 11/03/2010 22:55Phần 3.
KẾT LUẬN